Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Quan điểm của khổng tử về phương pháp giáo dục và ý nghĩa của nó đối với quá trình đổi mới phương pháp dạy học ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (741.04 KB, 78 trang )

1

ĐẠI HỌC ĐÀ NĂNG
ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ĐÀ NẴNG
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
QUAN ĐIỂM CỦA KHỔNG TỬ VỀ PHƢƠNG PHÁP GIÁO
DỤC VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI
PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC Ở NƢỚC TA HIỆN

Giáo viên hƣớng dẫn: Th.s Dƣơng Đình Tùng
Sinh viên thực hiện : Lê Thị Diểm
Lớp

: 10 SGC

Đà nẵng tháng 5 năm 2014


2

LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành khóa luận tốt nghiệp này, em xin bày tỏ
lòng biết ơn sâu sắc đến quý thầy cơ khoa Giáo dục Chính trị,
các thầy cơ trong trường ĐHSP Đà Nẵng cùng các thầy cô
giáo khoa Lý luận chính trị - trường Đại học Kinh tế Đà
Nẵng đã tận tình dạy dỗ, chỉ bảo em trong suốt 4 năm học
vừa qua.
Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến


thầy Dương Đình Tùng, người đã tận tình giúp đỡ, hướng
dẫn, chỉ bảo và động viên em trong suốt thời gian thực hiện
khóa luận này.
Đây là lần đầu tiên em làm quen với nghiên cứu khoa
học, mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng do những hạn chế về
điều kiện, thời gian và trình độ nên khơng tránh khỏi thiếu
sót. Vì vậy, em mong nhận được sự góp ý của thầy cơ và các
bạn để đề tài được hoàn thiện hơn.
Đà Nẵng, ngày 20 tháng 5 năm 2014
Sinh viên thực hiện

Lê Thị Diểm


3

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài: ............................................................................... 5
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài: ............................................... 6
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài: ............................................... 6
4. Phương pháp nghiên cứu:.............................................................................. 7
5. Bố cục đề tài: ................................................................................................. 7
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu:...................................................................... 7
NỘI DUNG....................................................................................................... 9
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUAN ĐIỂM GIÁO DỤC CỦA
KHỔNG TỬ ..................................................................................................... 9
1.1. Cơ sở hình thành quan điểm giáo dục của Khổng Tử .......................... 9
1.1.1. Hoàn cảnh kinh tế - xã hội Trung Quốc .................................................. 9
1.1.2. Cuộc đời và sự nghiệp của Khổng Tử .................................................. 14

1.1.3. Quan niệm về bản tính con người – cơ sở hình thành nội dung giáo dục
......................................................................................................................... 15
1.2. Nội dung quan điểm giáo dục của Khổng Tử ...................................... 18
1.2.1. Mục đích và đối tượng giáo dục ........................................................... 18
1.2.2. Nội dung giáo dục trong quan điểm của Khổng Tử.............................. 23
1.2.3. Quan điểm của Khổng Tử về phương pháp giáo dục ........................... 30
CHƢƠNG 2. PHƢƠNG PHÁP GIÁO DỤC CỦA KHỔNG TỬ VÀ Ý
NGHĨA CỦA NĨ ĐỐI VỚI Q TRÌNH ĐỔI MỚI PHƢƠNG PHÁP
DẠY HỌC Ở NƢỚC TA HIỆN NAY. ........................................................ 39
2.1. Phƣơng pháp dạy học và vai trò của phƣơng pháp dạy học trong
hoạt động của giáo dục ................................................................................. 39
2.1.1. Khái luận về phương pháp dạy học: ..................................................... 39


4

2.1.2. Phương pháp dạy học – nhân tố quyết định đến sự thành cơng của q
trình đổi mới giáo dục ..................................................................................... 45
2.2. Thực trạng giáo dục nƣớc ta trải qua các giai đoạn ........................... 54
2.2.1. Giáo dục nước ta trong giai đoạn 1945-1975 ....................................... 54
2.2.2. Giáo dục nước ta trong giai đoạn 1975 - 2006 ..................................... 57
2.2.3. Giáo dục Việt Nam trong giai đoạn 2006 đến nay ............................... 59
2.3. Ý nghĩa của phƣơng pháp giáo dục của Khổng Tử đối với quá trình
đổi mới phƣơng pháp dạy học ở nƣớc ta hiện nay..................................... 63
2.3.1. Ý nghĩa của cá nhân hóa người học trong dạy học ............................... 64
2.3.2. Xem trọng giáo dục đạo đức trong đào tạo con người.......................... 66
2.3.3. Thân giáo trong giáo dục Việt Nam hiện nay ....................................... 68
2.3.4. Đề cao tính tích cực, sáng tạo của người học, học phải đi đôi với hành
......................................................................................................................... 69
KẾT LUẬN .................................................................................................... 74

TÀI LIỆU THAM KHẢO


5

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Trong xã hội hiện đại, giáo dục là vấn đề quan trọng mang tính quyết
định đến sự phát triển của các quốc gia trên thế giới. Đảng và Nhà nước ta
luôn khẳng định: “Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là
quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước”.[2, tr 94-95]. Từ nhận thức đó, trong những năm gần đây,
vấn đề đổi mới giáo dục nói chung và phương pháp dạy học nói riêng đang là
một trong những điểm nóng của các diễn đàn giáo dục. Xây dựng một triết lý
riêng cho giáo dục Việt Nam là điều cần thiết, đó là triết lý kết hợp được
truyền thống và hiện đại, phù hợp với văn hóa, tâm lý và trình độ năng lực
của người Việt Nam. Trong quá trình đó, chúng ta khơng được phép bỏ qn
những giá trị của quá khứ, đặc biệt những giá trị đã đi vào tâm thức người
Việt, trở thành bộ phận cấu thành văn hóa của Việt Nam, và Nho giáo là một
ví dụ điển hình.
Tư tưởng Khổng Tử nói chung và tư tưởng giáo dục của ơng nói riêng đã
có sự ảnh hưởng mạnh mẽ trong đời sống xã hội phong kiến Việt Nam, và tư
tưởng đó, ngày nay vẫn cịn hiện diện (tuy không đầy đủ) trong đời sống xã
hội. Việc nghiên cứu và khai thác những giá trị hợp lý của Nho giáo vào đời
sống xã hội hiện đại là cần thiết, thơng qua sự nghiên cứu đó, một phần ta
nhận diện rõ hơn đời sống phong kiến của xã hội Việt Nam, phần nữa ta có
thêm những chất liệu để xây dựng xã hội hiện đại. Từ quan điểm lịch sử,
Khổng Tử có nhiều tư tưởng tiến bộ về giáo dục, đặc biệt là phương pháp
giáo dục, có thể nói những tư tưởng về phương pháp giáo dục ông đưa ra bên
cạnh những nhân tố bất hợp lý, những mâu thuẫn về giai cấp thì vẫn cịn đó

những giá trị vượt thời đại.


6

Đổi mới phương pháp giáo dục phải trở thành một trong những mặt trận
hàng đầu trong tiến trình đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục Việt Nam
hiện nay. Nhận thức về phương pháp giáo dục của Khổng Tử, lẫy ra những
giá trị của nội dung ấy để vận dụng vào quá trình đổi mới phương pháp dạy
học hiện nay có giá trị cả về lý luận và thực tiễn.
Từ nhận thức trên, với tư cách là sinh viên sư phạm ngành Giáo dục
chính trị, chúng tơi mạnh dạn chọn vấn đề: “Quan điểm của Khổng Tử về
phương pháp giáo dục và ý nghĩa của nó đối với quá trình đổi mới phương
pháp dạy học ở nước ta hiện nay” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài:
Mục tiêu của đề tài:
Lãm rõ ý nghĩa phương pháp giáo dục của Khổng Tử đối với quá trình
đổi mới phương pháp dạy học ở Việt Nam hiện nay
Nhiệm vụ của đề tài:
- Phân tích tư tưởng của Khổng Tử về giáo dục và phương pháp giáo dục
- Làm rõ những giá trị về mặt tư tưởng của Khổng Tử về phương pháp
giáo dục đối với quá trình đổi mới phương pháp dạy học ở nước ta hiện nay
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài
- Phương pháp giáo dục của Khổng Tử và vấn đề đổi mới phương pháp
dạy học ở Việt Nam
Phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Tư tưởng giáo dục của Khổng Tử được trình bày trong Luận Ngữ.
- Ý nghĩa của tư tưởng giáo dục của Khổng Tử đối với giáo dục Việt
Nam hiện nay



7

4. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Vận dụng các nguyên tác của phép biện chứng duy vật, kết hợp với
những phương pháp nghiên cứu cụ thể như: So sánh, phân tích và tổng hợp tài
liệu, trừu tượng hóa và khái quát hóa, logic và lịch sử.
5. Bố cục đề tài:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung của đề tài gồm 2 chương (6 tiết)
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu:
Khổng Tử là một nhà giáo dục của nhân loại, tư tưởng của ơng có sự ảnh
hưởng mạnh mẽ đến nền giáo dục của các nước phương Đông, cụ thể là
những nước Hán hóa. Vì vậy, những cơng trình nghiên cứu về tư tưởng của
ơng có thể nói là vơ cùng phong phú và đa dạng trên nhiều bình diện khác
nhau. Trong giới hạn một đề tài khóa luận, chúng tơi bước đầu khảo sát những
tài liệu nghiên cứu có ảnh hưởng trực tiếp đến đề tài như sau:
Những cơng trình có tính chất định hướng cho việc nghiên cứu quan
điểm của Khổng Tử về phương pháp giáo dục và ý nghĩa của nó đối với q
trình đổi mới phương pháp dạy học ở nước ta hiện nay như: "Khổng Tử" của
Nguyễn Hiến Lê, [19] đã có sự phân tích chi tiết về cuộc đời và sự nghiệp của
Khổng Tử, đặc biệt làm rõ một số vấn đề về con người và xã hội, về đạo làm
người, về giáo dục trong tư tưởng của Không Tử. "Lịch sử triết học phương
Đông" của Nguyễn Đăng Thục, [30] trong đó nêu rõ quan điểm của Khổng
Tử về giáo dục nói chung và phương pháp giáo dục nói riêng, tất cả đều được
trích dẫn trong cuốn Luận ngữ, Nguyễn Đăng Thục đã có những đánh giá về
điểm tích cực cũng như hạn chế trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử, ông
đã cho ta cách nhìn đa diện hơn tư tưởng của Khổng Tử trong sự so sánh với
những triết thuyết cùng thời như: Lão Trang, Mặc Gia. Tư tưởng giáo dục của
Khổng Tử và ảnh hưởng của nó đối với giáo dục con người ở nước ta hiện

nay, [26] đi vào phân tích những nội dung căn bản trong tư tưởng giáo của
Khổng Tử, bên cạnh đó, tác giả cịn chỉ ra những ảnh hưởng tích cực và tiêu


8

cực của tư tưởng ấy trong giáo dục con người Việt Nam hiện nay, đặc biệt là
giáo dục đạo đức. Nguyễn Hiến Lê trong Nhà giáo họ Khổng, [20] và Luận
ngữ, [21] bằng sự phân tích so sánh, ơng đã cho ta một sự hiểu biết hơn về
quan điểm giáo dục của Khổng Tử, đặc biệt, Nguyễn Hiến Lê đã cung cấp
cho độc giả một cách hiểu về vấn đề thân giáo, và vị trí của Khổng Tử trong
tư tưởng giáo dục của nho giáo nói riêng và các nước Hán hóa nói chung.
Phạm Minh Hạc, Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI, [12],
đã cho chúng ta một bức tranh chung về thực trạng giáo dục Việt Nam, bên
cạnh đó, ơng cịn chỉ ra những thách thức mà giáo dục Việt Nam sẽ đối mặt
trong thế Kỷ XXI, giáo dục có hồn thành được sứ mệnh đối với xã hội hay
khơng phụ thuộc vào q trình đổi mới của cả hệ thống. Nguyễn Văn Sơn, Tri
thức giáo dục Đại học Việt Nam thời trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa [29], đã phân tích về giáo dục đại học Việt Nam trong giai
đoạn nay, đặt ra những vấn đề mà giáo dục phải quyết trong việc tự hiện đại
hóa cũng như thay đổi để phù hợp với q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
Bên cạnh đó, bàn về giáo dục của Khổng Tử và vấn đề đổi mới phương
pháp day học ở Việt Nam cịn có những cơng trình khác như: Quan niệm của
Nho Giáo về giáo dục [16], Suy nghĩa về cách dùng khẩu hiệu "Tiên học lễ,
hậu học văn” [17] Cách mạng về phương pháp sẽ đem lại bộ mặt mới, sức
sống mới cho giáo dục thời đại mới [27], Đổi mới phương pháp dạy học [28]
và những tài liệu (xem thêm tài liệu tham khảo)
Tuy những cơng trình trên chưa trực tiếp làm rõ ý nghĩa phương pháp
giáo dục của Khổng Tử đối với quá trình đổi mới phương pháp dạy học ở Việt

Nam hiện nay nhưng đã gợi mở cho chúng tơi rất nhiều trong q trình thực
hiện đề tài.


9

NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUAN ĐIỂM GIÁO DỤC
CỦA KHỔNG TỬ
1.1. Cơ sở hình thành quan điểm giáo dục của Khổng Tử
1.1.1. Hoàn cảnh kinh tế - xã hội Trung Quốc
Trung Quốc là một trong những quốc gia lớn của thời kì cổ đại, sự phát
triển của nó diễn ra trên nhiều bình diện: kinh tế, văn hóa, tư tưởng và khoa
học, nên có thể nói, Trung Quốc là một trong những nôi văn minh của nhân
loại. Sự phát triển về kinh tế dẫn đến nhu cầu về mặt tư tưởng, Trung Hoa cổ
đại chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của các trào lưu tư tưởng, có thể nói,
trên thế giới ít có quốc gia nào mà phòng trào nở rộ tư tưởng diễn ra mạnh mẽ
như ở đây. Khác với truyền thống phương Tây, những trào lưu triết học
thường có xu hướng bài trừ, phê phán lẫn nhau, Trung Hoa cổ đại xét đến
cùng những trào lưu cũng đi theo hai khuynh hướng cơ bản là duy vật và duy
tâm, tuy nhiên sự phát triển của các trào lưu thường song hành, hoặc giả sự
phát triển của một dịng tư tưởng thường có sự kế thừa, ít có sự phê phán, bài
trừ. Nghiên cứu về lịch sử tư tưởng sẽ cho ta một bức tranh về xã hội đương
thời, tuy nhiên để hiểu và đánh giá được giá trị cũng như những hạn chế của
một trào lưu/ hệ tư tưởng cần phải căn cứ trên tính lịch sử cụ thể của nó, tức
phải thấy được cơ sở hình thành của tư tưởng hay tiền đề vật chất cho sự ra
đời của nó. Và trên nguyên tắc cụ thể, nghiên cứu về điều kiện kinh tế xã hội
là một yêu cầu tất yếu để nghiên cứu về lịch sử tư tưởng, và nghiên cứu về
Nho giáo nói chung cũng như tư tưởng giáo dục của Khổng Tử nói riêng cũng
khơng đi ngồi quy luật đó.

Khổng Tử sống trong thời kỳ Xuân Thu – chiến quốc (770-221 TCN),
thời kỳ xã hội Trung Quốc đang có những chuyển biến hết sức căn bản. Chế


10

độ chiếm hữu nô lệ theo kiểu phương Đông và đỉnh cao là chế độ “Tông
Pháp” nhà Chu đang suy tàn, chế độ phong kiến sơ kỳ đang hình thành. Thời
kỳ Xuân Thu được đánh dấu bằng sự kiện Chu Bình Vương dời đơ về phía
Đơng đến Lạc Ấp (năm 771 TCN).
Về kinh tế, đến thời Xuân Thu nền kinh tế Trung Quốc phát triển mạnh
mẽ về thủ công nghiệp và thương nghiệp. Vào khoảng thế kỷ XI – V (TCN),
ở Trung Quốc đã xuất hiện những trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa lớn, và
đây cũng là thời kỳ nền sản xuất Trung Quốc đang chuyển từ thời kỳ đồ đồng
sang thời kỳ đồ sắt. Sự ra đời của đồ sắt như một cuộc cách mạng trong công
cụ sản xuất, tạo ra động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế Trung Quốc phát triển
nhanh chóng trên nhiều lĩnh vực. Trong đó nơng nghiệp là một ngành kinh tế
có truyền thống lâu đời và giữ vai trò hết sức quan trọng ở Trung Quốc đã có
những phát triển vượt bậc. Công xã giao hẳn đất công cho từng gia đình nơng
nơ gieo cấy trong thời hạn lâu dài. Vì vậy, nơng dân có thể sủ dụng phương
pháp ln canh hay lưu canh để tăng năng suất cây trồng. Mặt khác, nhờ công
cụ sản xuất bằng sắt giúp phát triển thủy lợi mở mang ruộng đất do nông nô
khai hoang biến thành ruộng tư ngày càng nhiều, đồng thời quý tộc phong
kiến có quyền thế cũng chiếm dần ruộng đất công xã làm ruộng tư. Chế độ
“tĩnh điền” dần tan rã. Do việc sử dụng công cụ bằng sắt trở nên phổ biến
cùng việc mở rộng quan hệ trao đổi sản phẩm lao động, sự phân công sản xuất
trong sản xuất thủ công nghiệp đã tiến thêm những bước mới, thúc đẩy một
loạt các ngành nghề thủ công nghiệp phát triển như: luyện sắt, đúc đồng, nghề
rèn, nghề mộc, nghề làm gốm…giai đoạn này cũng chứng kiến sự phát triển
mạnh về lượng của thợ thuyền, tuy nhiên do trình độ còn thấp nên sự ảnh

hưởng họ trong xã hội còn ít.
Cùng với nông nghiệp và thủ công nghiệp, đồ sắt ra đời và trở nên phổ
biến còn tạo cơ sở cho thương nghiệp phát triển hơn trước, hoạt động giao lưu
buôn bán diễn ra sôi động. Tiền tệ đã xuất hiện, xã hội hình thành lớp thương


11

nhân giàu có và ngày càng có thế lực, tuy nhiên, do tình trạng xã hội đang rối
ren, phương tiện giao thông thô sơ, lãnh thổ chia năm xẻ bảy do nạn cát cứ, đi
lại khó khăn nên việc kinh doanh địi hỏi những người có đầu óc tháo vát và
lịng dũng cảm đảm đương. Hơn thế nữa nghề bn bán ở Trung Quốc thời
bấy giờ bị coi là nghề rẻ mạt nên cũng chưa thực sự phát triển. Sự hình thành
của thương nghiệp, bn bán đã tạo ra cơ cấu giai cấp xã hội một tầng lớp
mới, tầng lớp này dần dần xuất hiện một loại quý tộc mới với thế lực ngày
càng mạnh tìm cách tranh giành quyền lực với tầng lớp quý tộc cũ, đây là một
trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến hỗn loạn trong đời sống chính
trị xã hội.
Những biến đổi về mặt kinh tế tất yếu dẫn đến những biến đổi về mặt
chính trị trong thời xuân thu. Nếu như trong thời Tây Chu chế độ tơng pháp,
“phong hầu, kiến địa” vừa có ý nghĩa về mặt kinh tế, vừa có ý nghĩa về mặt
chính trị, rằng buộc về huyết thống, có tác dụng tích cực làm cho nhà Chu giữ
được sự hưng thịnh trong một thời gian dài, thì đến thời Xuân thu, chế độ
tơng pháp nhà Chu khơng cịn được tơn trọng, đầu mối các quan hệ kinh tế,
chính trị, quân sự giữa thiên tử và các nước chư hầu trở nên lỏng lẻo, huyết
thống ngày càng xa, trật tự lễ nghĩa nhà Chu khơng cịn được duy trì như
trước. Thiên tử nhà Chu hầu như khơng cịn quyền uy gì đối với các nước chư
hầu. Thiên tử khơng cịn xét xử được những cuộc tranh chấp giữa các nước
chư hầu. Các lãnh chúa nhỏ và vừa trước vẫn dựa vào quyền uy của Thiên tử
thì giờ đây đã trở nên thất vọng, khơng cịn muốn phụ thuộc vào Thiên tử.

Nhiều nước chư hầu mượn tiếng khôi phục lại địa vị tông chủ của nhà Chu đã
đưa ra khẩu hiệu “tôn vương bài di”, nhưng thực chất là mưu cầu lợi ích cá
nhân, mở rộng thế lực và đất đai, thôn tính các nước nhỏ, tranh giành địa vị bá
chủ thiên hạ đã đua nhau xuất binh đánh nhau suốt mấy trăm năm. Thời Xuân
thu có khoảng 242 năm nhưng đã xảy ra tới 483 cuộc chiến tranh lớn nhỏ.
Đầu thời Tây Chu có hàng ngàn nước, đến cuối thời Xuân thu chỉ còn hơn


12

một trăm nước. Trong đó có những nước hùng mạnh nhất thời bấy giờ thay
nhau làm bá chủ thiên hạ như nước Tề, Tấn, Sở, Tống, Ngô, Việt, Tần. Để tập
trung tất cả tài lực và vật lực cho các cuộc chiến tranh, các quốc gia này đều
thi hành chính sách “bá đạo” dựa trên sức mạnh và ra sức bóc lột nhân dân
các nước khác, điều này hồn tồn khác với chính sách nhân nghĩa “vương
đạo” của thánh nhân xưa. Chính sách “bá đạo” đã làm cho đời sống nhân dân
hết sức khổ cực. Người dân phải phải tham gia vào quân đội thực hiện các
cuộc chinh phạt của các tập đoàn quý tộc, đồng thời phải chịu sưu cao thuế
nặng, phu phen, lao dịch nặng nề. Thiên tai thường xun xảy ra, nạn cướp
bóc lại hồnh hành khắp nơi. Đồng ruộng bỏ hoang, cuộc sống nhân dân trăm
bề khốn khổ. Cùng với các cuộc thơn tính lẫn nhau của các quốc gia thì ngay
bên trong mỗi quốc gia cũng nổ ra khơng ít các cuộc tranh giành quyền lực và
đất đai giữa quý tộc với nhau. Điển hình là nước Tấn, năm 403 (T.CN) có ba
dịng họ lớn là Hàn, Nguỵ, Triệu đã nổi lên phế bỏ vua Tấn, dựng lên ba nước
Hàn, Nguỵ, Triệu. Hậu quả của những cuộc tranh giành, thơn tính, chinh phạt
lẫn nhau của tầng lớp quý tộc đã dẫn tới sự diệt vong của hàng loạt các nước
chư hầu nhỏ, đạo đức xã hội bị suy đồi, các tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng,
mâu thuẫn giai cấp trong xã hội trở nên sâu sắc, kể cả mâu thuẫn giữa giai cấp
thống trị và nhân dân cũng như giữa giai cấp thống trị với nhau, làm cho xã
hội ngày càng thêm rối loạn. Lễ nghĩa nhà Chu bị phá hoại, đặc biệt những

nghi lễ chặt chẽ, tôn nghiêm trước đây đã từng góp phần bảo vệ và làm hưng
thịnh chế độ tơng pháp nhà Chu, thì đến nay cũng bị xem thường. Hậu quả tất
yếu là một vài nơi đã nổi lên các cuộc khởi nghĩa nông dân và nô lệ, đẩy mâu
thuẫn xã hội thời Xuân thu lên đến đỉnh cao, đưa chế độ chiếm hữu nô lệ
Trung Quốc đi nhanh đến suy tàn. Thời Chiến quốc, với sự phát triển của đồ
sắt và thương nghiệp đã làm cho kinh tế phát triển, nhưng xét về chính trị,
chiến tranh vẫn xảy ra liên miên, với quy mô lớn hơn và tàn khốc hơn. Mạnh
Tử viết: “đánh nhau tranh thành, giết người thây chết đầy thành; đánh nhau


13

giành đất, giết người thây chết đầy đồng”. Sự phát triển của kinh tế hàng hoá
và chiến tranh liên miên làm cho chế độ cơng xã nơng thơn nhanh chóng tan
rã. Chế độ chiếm hữu tư nhân về ruộng đất dần dần trở thành quan hệ thống
trị. Việc mua bán ruộng đất được tự do và sự phổ biến của chế độ tư hữu đã
mở đường cho sự tập trung ruộng đất một số ít lãnh chúa, cịn đa số nông dân
nghèo mất hết ruộng đất phải đi làm tá điền. Chế độ bóc lột bằng phát canh
thu tơ xuất hiện. Trong lòng xã hội đã xuất hiện những yếu tố của quan hệ sản
xuất mới đó là chế độ phong kiến quận huyện. Mâu thuẫn giai cấp đã ngày
càng gay gắt hơn, đẩy xã hội tới nguy cơ tan rã nghiêm trọng, đưa chế độ tông
pháp nhà Chu và chế độ chiếm hữu nô lệ Trung Quốc đi nhanh vào hồi kết.
Với việc Tần Thuỷ Hoàng thống nhất Trung Quốc đã đặt dấu chấm hết cho sự
tồn tại của nhà Chu và chế độ chiếm hữu nô lệ, và mở ra một chế độ mới ở
Trung Quốc - chế độ phong kiến. Chính trong thời đại lịch sử đầy biến động
của thời kỳ Xuân thu - Chiến quốc đã đặt ra cho các nhà tư tưởng những dấu
hỏi lớn về mặt triết học, chính trị, luân lý đạo đức, pháp luật, quân sự,… đòi
hỏi các nhà tư tưởng phải có những tìm hiểu, nghiên cứu để đưa ra những câu
trả lời, đưa ra những giải pháp giải quyết những vấn đề thực tiễn xã hội lúc
bấy giờ. Vì vậy, trong thời kỳ này đã xuất hiện hàng loạt các nhà tư tưởng lớn

và học thuyết lớn. Có thể nói, đây là thời kỳ phát triển rực rỡ của triết học
Trung Quốc, nhiều nhà nghiên cứu gọi đây là thời kỳ “bách hoa đề phóng,
bách gia tranh minh” (trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng). Đó cũng là lý do
làm xuất hiện hàng loạt các học thuyết chính trị khác nhau: Nho gia, Đạo gia,
Pháp gia, Mặc gia… các học thuyết này ra đời đều nhằm một mục đích chung
đó là cải biến một xã hội từ “loạn” thành “trị” mong thiết lập lại trật tự xã hội,
đem lại sự bình n cho mn dân và sự phồn vinh cho đất nước. Nho giáo ra
đời cũng vì mục đích đó. Khổng tử đã hệ thống hóa những tư tưởng và tri
thức trước đây thành học thuyết nho giáo. Về sau 2 môn đệ của Khổng Tử là
Mạnh Tử và Tuân Tử kế thừa và phát triển những tư tưởng và tri thức của


14

Khổng Tử để Nho giáo trở thành một học thuyết bề thế và chặt chẽ hơn, đặt
biệt là các tư tưởng của Khổng Tử - Người sáng lập ra học thuyết ngày càng
có giá trị và phổ quát hơn trong xã hội.
Có thể nói, thời đại của Khổng Tử xét về chính trị xã hội là thời kì
“Vương đạo suy vi”, “Bá đạo” nổi lên nắm quyền, mọi lễ nghĩa thời nhà chu
đều bị xâm hại, vì vậy mục đích của ông cũng như những triết gia đương thời
là mong tìm kiếm một con đường để xã hội trở về con đường thịnh trị, mọi sự
và vật đều trở lại với đúng vị trí vốn có của nó.
1.1.2. Cuộc đời và sự nghiệp của Khổng Tử
Khổng Tử (551- 479 TCN) sinh tại ấp Trâu, làng Xương Bình, nước Lỗ
(nay là huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc) trong một gia đình quý
tộc tên là Khâu, tự là Trọng Ni. Cha mất khi lên 3 tuổi, Khổng Tử ở với mẹ
trong cảnh nghèo khổ, phải làm lụng vất vẩ hàng ngày nhưng lại rất chăm
học. Năm 19 tuổi lấy vợ và được bổ nhiệm chức quan coi kho sách. Năm 22
tuổi, Khổng Tử mở trường dạy học và trong suốt 20 năm từ năm 34 tuổi đến
năm 51 tuổi ông dẫn học trò đi khắp nơi để truyền bá tư tưởng và tìm người

sử dụng tử tưởng đó. Có nơi ông được trọng dụng tuy thời gian không dài,
nhưng có nơi không. Năm 51 tuổi ông quay về nước Lỗ được làm đến chức
Thượng Thư nhưng rồi lại từ quan vì bị dèm pha và lại phải ra đi một lần nữa.
Nhìn chung tư tưởng và đạo lý của ơng khơng phù hợp với các chế độ chính
trị đương thời. Năm 68 tuổi, Khổng Tử lại quay về quê hương nước Lỗ tiếp
tục dạy học và bắt tay vào soạn sách với lòng mong muốn học trò sẽ tiếp tục
thực hiện lý tưởng của mình.
Khổng tử đã mở một trường tư khá quy mơ, có chỗ giảng bài gọi là
“Đường” có chỗ cho học sinh ở gọi là “nội”. Trước sau số học trị của ơng có
hơn 3.000 người, thuộc các nước Lỗ, Tần, Tấn, Trịnh, Vệ, Tống, Trần, Ngô,
Sở. Về tuổi có người chỉ kém ơng có 9 tuổi nhưng có người kém ơng đến hơn
50 tuổi. Nhìn vào sự nghiệp của Khổng Tử trên lĩnh vực học thuật và đaọ lý,


15

ngoài việc “san dịch” các cuốn kinh thi, dịch, lễ, nhạc và viết cuốn biên niên
nước Lỗ gọi là kinh Xn Thu, cịn có nhiều câu nói ơng giảng giải cho các
môn đệ được các môn đệ ghi lại (sau khi ông mất) thành cuốn “Luận ngữ”.
Trải qua 40 năm “dạy người không biết mỏi” Khổng Tử thu nhận trên dưới
3000 mơn đệ, trong đó có 72 người được gọi là hiền, bao gồm cả những người
được gọi là “triết” hậu thể gọi là “Thất thập nhị hiền”. Khổng tử là nhà nho
giáo lớn được người Trung Hoa tôn chinh là “Chí thánh tiên sư”, “Vạn thế sư
biểu”, học thuyết chính trị, đạo đức của khổng tử được cơng nhận là học
thuyết chính thống ở Trung Hoa, Việt Nam, Triều Tiên trong thời đại phong
kiến. Nhà thờ và tượng Khổng Tử được xây dựng ở khắp nơi. Hiện nay là
huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đơng – Trung Quốc cịn gìn giữ mộ Khổng Tử và
có hàng chục nghìn người họ Khổng nhận mình là hậu duệ của Khổng Tử.
Có thể nói, tư tưởng của Khổng Tử có ảnh hưởng sâu đậm đến đời sống
xã hội phong kiến Trung Hoa, và xã hội phong kiến của những nước Hán hóa.

Những tư tưởng ấy từng bước khẳng định được vị thế của mình trong xã hội
phong kiến, và với những biến thể nhất định nó đã trở thành hệ tư tưởng chính
thống của giai cấp cầm quyền phong kiến. Một trong những tư tưởng tích cực
nhất của Khổng Tử là quan điểm về giáo dục, tuy có nhiều mâu thuẫn và
mang tính phân biệt giai cấp nhưng những tư tưởng ấy vẫn được đánh giá
khơng chỉ có giá trị về mặt lịch sử, mà cịn có những giá trị nhất định trong
giáo dục hiện đại ngày nay.
1.1.3. Quan niệm về bản tính con người – cơ sở hình thành nội dung giáo
dục
Cùng với hoàn cảnh kinh tế - xã hội lúc bấy giờ, một trong những cơ sở
không kém phần quan trọng làm nảy sinh, hình thành và phát triển tư tưởng
giáo dục của Khổng Tử, là quan niệm về bản tính con người. Vấn đề bản tính
con người là một vấn đề trung tâm và gây tranh cãi nhiều nhất trong triết học
Trung Quốc cổ đại nói chung cũng như Nho giáo và Khổng Tử nói riêng.


16

Mạnh Tử cho rằng bản tính con người là thiện, ông viết: “cái bản tính của
người ta vốn thiện, cũng như bản tính của nước là chảy xuống vậy. Khơng
một người nào sinh ra mà tự nhiên bất thiện; cũng như thế, không một thứ
nước nào mà không chảy xuống thấp” [5. Tr.144 - 145]. Ông cho rằng biểu
hiện của tính thiện ở con người trong xã hội là: nhân, lễ, nghĩa, trí. Ngược lại
với Mạnh Tử, Tuân Tử khẳng định bản tính con người là ác. Theo Tuân Tử,
cái tham lam, ích kỷ; cái gian ác, đố kỵ; cái dâm lọan là thuộc về bản năng
vốn có của con người. Ơng đề xuất phép trị nước là giáo hóa dân, kết hợp
giữa lễ giáo và hình phạt nhằm khắc chế tính ác, hướng thiện cho con người.
Khác với Mạnh Tử và Tuân Tử, Khổng Tử cho rằng: “cái tính tự nhiên của
con người chẳng phải thiện, cũng chẳng phải bất thiện” (tính vơ thiện, vơ bất
thiện giã) [5, tr.150]. Theo ơng, tính ban đầu ngun thủy của con người là

một cái gì đó thuần phác, mộc mạc, khơng phân biệt thiện với bất thiện. Cịn
theo Lão - Trang thì Đạo là bản nguyên của vạn vật, tất cả mọi vật đều từ đạo
mà ra và đề trở về với nguồn gốc là đạo. Do đó, Lão- Trang cho rằng tính của
vạn vật sinh ra đã có, là tính của tự nhiên. Mặc dù có nhiều điểm khác nhau
như trên nhưng khát quát lại chúng ta vẫn thấy có nhiều nét tương đồng,
giống nhau cơ bản. Thứ nhất, họ đều cho rằng bản tính con người là cái tính,
trời sinh ra đã vốn có ở tâm, mang tính “tiên thiên” chứ không do con người
tự lựa chọn. Khổng Tử đã nói: con người ta sinh ra, cái bản tính vốn ngay
thật, (nhân chi sinh giã trực); Mạnh Tử cũng viết: con người sinh ra vốn bản
tính là thiện, (nhân chi sơ tính bản thiện). Thứ hai là, họ đều quan niệm tính
gắn liền với tâm của con người. Theo Khổng - Mạnh, “Tâm” là thể, thì “Tính”
là lý của tâm, tâm là cái ẩn dấu ở bên trong, cịn tính là cái biểu hiện ra bên
ngồi qua các đức tính của con người như thiện, ác, nhân, nghĩa, lễ,… Nếu
đem “tâm” và “tính” ấy mà biểu lộ thành thái độ của con người đối với sự vật,
với người khác thì gọi là “tình”; “tình” gồm có: ái, ố, hỉ, nộ, lạc, bi, ai. Thứ ba
là, mặc dù đều xem bản tính con người là tiên thiên, là cái có sẵn, nhưng họ


17

cũng đều khẳng định bản tính con người có thể thay đổi được, “cải biến” được
và họ đều chủ trương giáo hóa con người theo nhiều cách khác nhau. Trong
số các nhà triết học quan tâm đến vấn đề bản tính con người, có thể nói,
Khổng Tử là người đầu tiên trong thời Xuân thu đề cập đến vấn đề này,
nhưng trong học thuyết ơng lại rất ít đề cập về vấn đề này. Khổng Tử còn cho
rằng: “người ta tất thảy đều giống nhau, vì ai nấy đều có bản tính ngay thật;
nhưng bởi nhiễm thói quen, nên họ thành ra khác nhau”. Do vậy, để mọi
người gần nhau và trở lại bản tính ban đầu, tức là bản tính vốn lành, ngay
thẳng, làm cho xã hội vơ đạo trở về với hữu đạo, Khổng Tử chủ trương giáo
hóa, mọi người phải học tập, tu dưỡng hướng tới những điều nhân nghĩa để

giữ bản tính thiện của mình, xa rời cái ác, cái bất nhân, hiểu được cái đạo và
trở về với đạo thì xã hội sẽ tốt đẹp hơn. Trong cách dạy của mình, Khổng Tử
chia người học ra làm hai loại: Hạng trí và hạng ngu, mỗi hạng lại có cách
dạy khác nhau. Sau này Mạnh Tử cũng chia người học ra làm hai hạng như
vậy.
Hạng trí thì có thể giảng cho điều cao xa, cịn hạng ngu thì chỉ có thể
khiến cho biết theo lẽ phải mà khơng cho biết ngun lí được. Tuy nhiên, đó
chỉ là nhận xét chung bởi trong thực tế Khổng Tử vẫn cơng nhận trong giới
bình dân vẫn có người học giỏi và có cảm tình với người đó. Đối với hạng
trung nhân trở lên mới giảng cho những điều cao, cịn đối với hạng trung nhân
trở xuống thì cốt gây cho họ những hồn cảnh tốt và tập tính tốt thì mới đem
lại cơng dụng.
Khổng Tử nói rằng: “Tính tương cận, cận tương viễn” ấy cũng là nêu lên
công dụng của việc giáo hóa hay như Tuân Tử nói: “Tập tục di chí” và Mạnh
Tử nói: “Sơn kính chi khê gian, giới nhiên dụng chi nhi thành lộ, vi giang bất
dụng mao tắc chi hĩ”. Lối đi giữa rừng, hễ dùng lâu thì thành đường, hễ bỏ lâu
thì cỏ lấp. Như thế để thấy được nhiệm vụ của nhà cầm quyền là tạo ra những
hoàn cảnh tốt và tập cho dân những đức tốt. Theo Khổng Tử cần dạy cho dân


18

những đức tốt là: Nhân – Trí – Dũng; đến Mạnh Tử là: Nhân – Nghĩa – Lễ –
Trí; đến đời Hán, Nho gia Đổng Trọng Thư thêm đức Tín trở thành ngũ
thường của Nho gia: Nhân – Nghĩa – Lễ – Trí – Tín.
Ơng cho rằng đã là con người thì dù thiện hay ác đều có thể bằng con
đường giáo dục mà cảm hóa được. Đây là điểm cốt lõi trong tư tưởng giáo
dục của ông, thể hiện tính nhân văn sâu sắc, ơng đã đặt niềm tin con đường
giáo dục có thể làm cho con người tốt hơn. Cuộc đời và kinh nghiệm dạy học
của Khổng Tử cho thấy, Ơng nhìn thấy rõ vai trị của giáo dục đối với cuộc

sống của xã hội nói chung và đối với hình thành nhân cách nối riêng. Với xã
hội, theo ơng giáo dục có thể ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực thi lẽ công
bằng, đến tôn ti trật tự, đến cuộc sống hồ hởi của cộng đồng. Nghĩa là ơng xác
định được vai trị của giáo dục trong mối quan hệ của nó với chính trị và đời
sống tinh thần. Đúng như ông đã nhận xét: bước chân vào một quốc gia có thể
biết nền giáo dục ở đó thế nào và nhìn vào nền giáo dục có thể biết quốc gia
ấy sẽ ra sao. Với cá nhân, Khổng Tử sớm nhận thấy nhân cách của con người
bị quyết định không chỉ đơn thuần tùy bởi điều kiện sống cho nên ông đã đến
với giáo dục trong niềm tin ở sức mạnh của nó đối với việc cảm hóa con
người. Từ đó ơng đưa ra quan điểm của mình về giáo dục với việc xác định
mục đích, đối tượng, nôi dung và phương pháp giáo dục một cách rõ ràng
mang tính phổ quát.
1.2. Nội dung quan điểm giáo dục của Khổng Tử
1.2.1. Mục đích và đối tượng giáo dục
* Mục đích giáo dục
Khổng Tử sống trong thời đại nhà Chu suy vong đến cực độ, luân
thường, đạo lí bị đảo lộn, kỷ cương phép nước bị lung lay đến tận gốc rễ. Do
đó Khổng Tử mơ ước lập lại trật tự xã hội theo mẫu hình nhà Tây Chu, biến
xã hội từ “vơ đạo” thành “hữu đạo”. Ơng mong muốn hướng dẫn con người
thực hiện đức nhân thông qua con đường giáo dục, chỉ có giáo dục con người


19

mới học và làm theo những điều thánh nhân đã dạy. Chính vậy, mục đích giáo
dục của Khổng Tử là đào tạo cho xã hội đương thời mẫu người “lý tưởng”.
Mục đích giáo dục của Khổng Tử khơng đơn thuần chỉ là đào tạo ra những
người có tri thức mà cao hơn nữa, ơng đào tạo ra người có đủ đức, đủ tài để
tham gia gánh vác công việc quốc gia, bình ổn xã hội. Đối với bậc dân
thường, Khổng Tử dạy cho họ đạo làm người như tam cương, ngũ thường,

nhân, lễ, hiếu, nghĩa,... với mục đích để họ hiểu được đạo lý, sống đúng với
đạo lý, từ đó biết nghe lời, phục tùng mệnh lệnh của nhà cầm quyền. Còn đối
với bậc quân tử, Khổng Tử giáo dục họ để họ biết cách cai trị và quản lý xã
hội. Trong những mục đích cụ thể đó, theo Khổng Tử, mục đích cao nhất của
giáo dục là học để làm chính trị. Do đó, mục đích chính của Khổng Tử là giáo
dục người quân tử. Tư tưởng học để làm chính sự, làm quan để biến xã hội từ
“loạn thành trị” của Khổng Tử được học trò rất thấm nhuần. Tử Lộ, một học
trị của ơng cho rằng: người có học, có tài đức mà khơng ra làm quan, không
hợp đạo nghĩa. Người quân tử ra làm quan để thi hành cái nghĩa lớn trung
quân ái quốc mà thôi, chứ không phải mưu cầu phú quý. Tử Hạ, một học trò
khác của Khổng Tử, cho rằng: học ra làm quan là một quá trình học đạo và
hành đạo bổ sung cho nhau. Người đã làm quan thì cũng cần phải học thêm,
cịn người học thì nên làm quan. Trong lúc xã hội rối ren không ra làm quan
không phải là người trí, khơng ra giúp đời khơng phải là người nhân. Vì vậy,
ơng thường nói “đời xưa vì mình mà học cịn đời nay vì người mà học” [5.
Tr.224]. Do quan niệm cho rằng học để làm quan trị vì thiên hạ nên Khổng
Tử khơng dạy làm ruộng, trồng trọt, bởi đó khơng phải là cơng việc của bậc
qn tử. Khi Phan Trì xin ơng dạy các trồng cây thì ơng trách rằng: “gã phan
Trì chí nhỏ hẹp lắm thay. Người bề trên chỉ cần học đủ lễ, nghĩa, tín thì dân
chúng bốn phương sẽ đem con đến phục dịch mình, cần chi phải học nghề cày
cấy”, cày cấy là nghề nghiệp tầm thường, của những bậc dưới. Ông cũng
thường giận dữ khi có người cùng bàn về binh đao chiến trận nghĩa là ông


20

cũng không dạy về binh đao chiến tranh. Xuất phát từ chổ phân chia vai trị,
vị trí xã hội của các hạng người quân tử và tiểu nhân mà mục đích giáo dục
của hai hạng người này theo Khổng Tử cũng khơng giống nhau, qn tử thì
giáo dục để quản lý xã hội cịn tiểu nhân thì để phục tùng xã hội, phục tùng

người quân tử. Khổng Tử viết “tiểu nhân cũng phải học, nhưng cái học của
tiểu nhân là để họ phục dịch và tuân lệnh kẻ cầm quyền [5. Tr.270].
Theo Khổng Tử học để làm người quân tử với chí khí của bậc đại trượng
phu-hình mẫu của con người trong xã hội phong kiến. Người quân tử trước
hết phải tu dưỡng đạo đức thì mới có thể làm việc lớn (tề gia, trị quốc, bình
thiên hạ). Khổng Tử quan niệm “người quân tử ăn không được đầy đủ, ở
không được yên vui, làm việc siêng năng và thận trọng với lời nói, tìm người
đạo đức để sửa mình; như vậy mới được coi là người ham học” [4, tr 33].
Khổng Tử dạy cho con người ta trở thành người nhân nghĩa, trung chính, hiểu
được cái đạo của người quân tử: “viên ngọc không dũa không thể thành đồ
dùng, người không học không thể biết đạo được”. Khổng Tử muốn rằng mỗi
ngày người ta một thêm mới mãi, nhờ có cái đúc sáng càng sáng thêm, người
ta càng ngày càng hơn, đến cõi chí thiện mới thơi. Theo ý ông, việc giáo dục
là nhiệm vụ rất quan trọng của nhà chính trị: Khi đi qua nước Vệ, thấy dân
đơng đúc ơng khen:
Dân đơng lắm thay!
Học trị ơng là Nhiễm Hữu hỏi
Dân đơng rồi thì nên làm gì?
Làm cho dân giàu (phú)
Dân đã giàu rồi thì nên làm gì nữa?
Phải dạy dân (giáo).
Có thể thấy, Khổng Tử khơng chỉ quan tâm đến việc ni dưỡng dân mà
cịn quan tâm đến việc giáo hóa dân. Ni dân, dưỡng dân là chăm lo về đời
sống vật chất, giáo hóa dân là lo cho dân về đời sống tinh thần. Với quan


21

điểm này, giáo dục góp phần làm nên bản chất xã hội của con người. Khổng
Tử đã thể hiện tư tưởng vượt thời đại, một xã hội muốn phát triển vững mạnh

phải có con người đủ đức, đủ tài, điều đó chỉ hiện thực hóa thơng qua con
đường giáo dục.
Có thể nói, mục đích giáo dục của Khổng Tử chịu ảnh hưởng từ điều
kiện chính trị xã hội đương thời. Trong lúc xã hội loạn lạc, mọi lễ nghĩa đều
bị mất thì xã hội phải cần những người có đức, có tài để tham gia trị vì, bình
ổn xã hội và đó cũng là mẫu người lý tưởng mà trong xã hội hiện thời đang
thiếu.
* Đối tượng giáo dục
Xuất phát từ quan điểm bản tính con người là giống nhau, do tập qn,
thói quen sống mà làm cho bản tính khác nhau, chỉ có thơng qua giáo dục mới
làm cho mọi người quay về với bản tính vốn có của mình, Khổng Tử đã đưa
ra tư tưởng hết sức tiến bộ, đó là: “Hữu giáo vơ loại”. Mỗi học giả đều giải
thích theo cách hiểu riêng của mình nhưng chung quy lại đều thống nhất thừa
nhận tư tưởng của Khổng Tử là: mọi người đều được giáo dục không phân
biệt giai cấp, thiện ác, và được giáo dục là quyền lợi của tất cả mọi người.
Đây là chủ trương tiến bộ trong bối cảnh lịch sử bấy giờ.
Khổng Tử là người đầu tiên làm một cuộc cách mạng thực sự trong tư
tưởng giáo dục cổ đại. Ông là người đã mở trường tư với quy mô lớn đầu tiên,
mở rộng cửa học đường để thu nhận tất cả các đối tượng, tầng lớp có nhu cầu
học tập, khơng hề phân biệt quý tộc hay bình dân, tiểu nhân hay quân tử,
người giàu sang hay kẻ nghèo hèn…Khổng Tử là người đầu tiên đã bình dân
hóa, tồn dân hóa giáo dục. Tư tưởng này được học trò Mạnh Tử kế thừa và
phát huy đường lối bình dân giáo dục của Khổng Tử trên phạm vi rộng lớn,
với nhiều hình thức. Khác với Khổng Tử, Mạnh Tử chủ trương hình thành
một mạng lưới trường công từ làng đến kinh đô, từ trường hương học đến
trường quốc học, đó là trường, tự, học, hiệu để giáo hóa dân chúng. Hệ thống


22


trường học mở rộng theo quan niệm của Mạnh Tử là điều kiện, là biện pháp
thiết thực để bình dân giáo dục. Nếu từ đô áp đến chỗ châu huyện đều đặt nhà
học, để cho từ con vua trở xuống đến con nhà sỹ và thứ dân đều đi học cả, thì
độ mười năm sau trên biết bảo dưới, dưới biết cách thờ trên. Đây là tư tưởng
tiến bộ của Nho gia nói chung và Khổng Tử nói riêng vì khơng chỉ biểu hiện
tư tưởng thân dân mà cịn làm cho dân đổi mới. Nhưng mặt khác ông lại chủ
trương đối với dân việc gì cần thiết thì sai khiến chứ khơng nên giảng giải vì
dân khơng có khả năng hiểu ý nghĩa cơng việc mình làm. Chủ trương giáo
dục này xuất phát từ quan điểm cho rằng nhân cách không phải bẩm sinh bởi
bản chất ban đầu của mọi người đều giống nhau, song do tác động của môi
trường, của điều kiên sống nên thói quen đem lại cho người tính lành, kẻ tính
ác. Chính vì vậy, hạng người nào đến xin học Khổng Tử đều nhận dạy. Ơng
nói: “Nếu có kẻ thơ bỉ đến hỏi ta, dầu là kẻ tối tăm mờ mịt tới đâu, ta cũng
đem hai bề từ đầu chí đi mà dẫn giải cho thật tường tận mới nghe”. (Hữu bỉ
phu vấn ư ngã, không không như giã, giã khấu kỳ lưỡng đoan, nhi kiệt yên)
[5, tr.134-135]. Thậm chí Khổng Tử cũng sẵn sàng dạy cho cả những người
ác, nghịch, khó dạy. Chương Thuật nhi - 28 của cuốn Luận ngữ có kể lại câu
chuyện: Ở làng Hồ Hương có anh thanh niên có tiếng ác nghịch, khó có thể
giảng dạy điều lành, lẽ phải cho được. Anh thanh niên ấy đến yết kiến Khổng
Tử để xin vào học, các mơn đồ của ơng có vẻ nghi kỵ anh ta. Khổng Tử bèn
dạy rằng: Người ta có lịng tinh khiết mà đến với mình, thì mình vì lịng tinh
khiết ấy mà thâu nhận người, chớ mình khơng bảo lãnh những việc đã qua của
người. Lại nữa, ngày nay người ta đến với mình thì mình thâu nhận, chớ mình
chẳng bảo đảm người khi người thơi ra. Chỉ có thế thơi, cần gì phải nghiêm
khắc thái quá?. - Nhơn khiết kỷ dĩ tấn, dữ kỳ khiết dã, bất bảo kỳ vãng dã; dữ
kỳ tấn dã, bất dữ kỳ thối dã. Dã hà thậm [5, tr.112-113]. Giáo dục có thể cải
hóa tất cả, trừ những người gọi là thượng trí và những kẻ hạ ngu (luận ngữ,
thái bá,3). Như vậy, về đối tượng giáo dục Khổng Tử rất tiến bộ, bình đẳng và



23

khơng có sự phân chia đẳng cấp. Điều này cũng xuất phát từ niềm tin sức
mạnh của giáo dục có thể cảm hóa được con người và niềm tin vào con người
có thể được giáo dục tốt hơn. Chính vì vậy, mà học trị của ơng rất đơng có
đến hơn ba ngàn người.
Tuy nhiên, trong quan niệm về đối tượng giáo dục, Khổng tử thể hiện
những mâu thuẫn, một mặt ông hướng đến “hữu giáo vô loài”, mặt khác ông
lại có chủ trương phân chia người đến xin học thành các hạng khác nhau,
trong đó có những hạng ơng khơng dạy là kẻ hạ trí và phụ nữ, theo ơng những
đối tượng này có dạy cũng khơng biết mà cần hướng dẫn và chỉ cho họ làm.
1.2.2. Nội dung giáo dục trong quan điểm của Khổng Tử
Nội dung giáo dục của Khổng Tử là làm cho con người có đạo, hiểu đạo
và làm theo đạo. Đạo mà Khổng tử hướng tới là nhân, lễ và danh định phận,
bên cạnh đó ông còn dạy về lục nghệ: xoay quanh 6 nghề. lễ, nhạc, xạ, ngự,
thư, số.
 Nhân: Nhân là tính bản thể của con người, các tổng quan của chữ
nhân là phải yêu thương con người và làm cho người khác có lợi, tập trung ở
nội dung sau:
Cái gì mình khơng muốn thì đừng làm cho người;
Cái gì mình muốn lập thì lập cho người;
Cái gì mình muốn đạt thì đạt cho người.
Nhân là phạm trù quan trọng trong quan điểm về chính trị xã hội và đạo
làm người của Nho giáo, nên có thể nói, mọi quan điểm ơng đều lấy nhân làm
trung tâm. Nhân trong tư tưởng của Khổng Tử là yêu người, nhưng bên cạnh
đó người có đức nhân cũng phải biết ghét người. Khổng Tử yêu cầu, con
người cần có trí, biết phân biệt các hạng/ loại người trong xã hội để có thái độ
thích hợp, kẻ nào không phân biệt hay nhận biết được đâu là người cần kính/
u và đâu là người ghét thì kẻ đó khơng được gọi là người trí. Có thể nói khi
quan niệm về đạo nhân, Khổng Tử cũng được thể hiện là, nếu mình muốn lập



24

thân thì cũng giúp lập thân là một tư tưởng giá trị, thể hiện quan điểm yêu
người rất rõ dàng, và cái gì mình muốn thì người cũng muốn. Bên cạnh đó,
Nhân trong tư tưởng của Khổng tử cịn được thể hiện qua năm đức hạnh:
Cung (trang phục nghiêm chỉnh), khoan (lịng rộng lượng), tín (có đức tín
thật), huệ (siêng năng), mẫn (thi ân bố đức). Người nào có năm đức tính này
tức người đó có nhân. Người có nhân phải là người có hiếu đễ, Khổng rất đề
cao chữ hiếu, có thể nói nó là gốc của mọi đức tính, người khơng có hiếu thể
thì khơng thể gọi là nhân, nên hiếu đễ là đức hạnh quan trọng và mang tính
quyết định đến việc người đó có nhân hay khơng.
Những phân tích trên mới dừng lại ở những nội dung chính trong quan
niệm về nhân của Khổng Tử, bởi trong tư tưởng của ơng, nhân cịn mang
nhiều nghĩa khác. Khi có người hỏi về nhân, tùy theo trình độ mà ơng lại có
sự luận giải khác nhau, tuy nhiên tựu chung lại nhân là yêu người và xoay
quanh những đức hạnh trên.
 Lễ: Lễ là phạm trù có tầm quan trọng trong tư tưởng của Khổng Tử,
mục đích giáo dục của ông cũng đưa con người, xã hội trở về với cái lễ của
nhà Chu, xã hội khơng có lễ là loạn. Theo tinh thần lễ nhà Chu, Khổng Tử
chủ trương dạy học trị mình bốn nội dung cơ bản: Tế lễ, pháp điền phong
kiến, phong tục với tập quan và kỷ luật tinh thần. Đây là những nội dung cơ
bản duy trì trật tự xã hội nhà Chu nên Khổng Tử chủ trương phải khôi phục
lại cái lễ ấy, dùng lễ như phương tiện để con người điều chỉnh hành vi của
mình, có vậy xã hội mới trở về với khuôn khổ, trật tự.
Một nội dung quan trọng nữa trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử là
tư tưởng “Chính danh định phận”. Nhiều học giả cho rằng, trong tư tưởng
chính trị của Khổng Tử thì thuyết Chính danh là một nguyên tắc chính và
cũng là một phát kiến của ông. Sở dĩ Khổng Tử đưa ra thuyết Chính danh vì

ơng cho rằng, ngun nhân của xã hội loạn lạc là do nhà cầm quyền sống sa
đoạ, sống khơng có nhân và khơng đúng với danh phận của mình. Vì vậy, để


25

lập lại trật tự xã hội thì phải thực hành thuyết Chính danh. Theo Khổng Tử,
chính danh là mỗi người, mỗi sự vật đều có một địa vị, một bổn phận nhất
định và tương ứng với nó là một danh nhất định, mỗi người phải làm đúng với
chức phận của mình. Người nào, sự vật nào mang danh nào thì phải thực hiện
cho đúng danh đó. Khổng Tử dạy rằng, danh và thực phải hợp nhau. Nếu
người nào, vật nào có danh mà khơng làm đúng với danh đó thì phải gọi sang
danh khác. Cũng như cái bình rượu có cạnh góc, đời trước gọi là cái “cơ”, đến
đời sau này người ta biến đổi nó, bỏ cạnh góc đi thì khơng gọi là cái “cơ”
được nữa. Muốn gọi nó là cái “cơ” thì phải giữ những cạnh góc của nó như
trước, nếu muốn bỏ cạnh góc đi thì phải đặt cho nó một cái tên khác [19,
tr.132]. Do đó, danh và thực phải luôn phù hợp với nhau, nếu danh và thực
khơng hợp nhau thì hậu quả sẽ khơn lường, xã hội sẽ loạn: “Nếu danh mà
chẳng chính, chẳng hợp nghĩa thì lời nói chẳng thuận; lời nói chẳng thuận thì
cơng việc chẳng thành; cơng việc chẳng thành thì lễ tiết và âm nhạc chẳng
chẳng thạnh vượng, tức là chẳng có sự kính trọng và niềm hồ khí; nếu lễ tiết
và âm nhạc chẳng thạnh vượng, tức là người trong nước chẳng biết kính trọng
nhau và chẳng có niềm hồ khí, thì sự hình phạt chẳng đúng phép; nếu sự
hình phạt chẳng đúng phép, thì dân biết chỗ nào mà đặt tay chơn” (Danh bất
chính, tắc ngơn bất thuận; ngôn bất thuận, tắc sự bất thành; sự bất thành, tắc lễ
nhạc bất hưng; lễ nhạc bất hưng, tắc hình phạt bất trúng; hình phạt bất trúng,
tắc dân vơ sở thố thủ túc) [5, tr.198-199], nếu dân khơng có chỗ nhờ cậy thì
dân sẽ khơng tin vào nhà cầm quyền, “dân mà khơng tin vào nhà cầm quyền
thì chính phủ phải đổ” [5, tr.184-185], tức xã hội sẽ loạn. Vì thế khi Tử Lộ hỏi
Khổng Tử về việc nếu vua nước Vệ mời ơng tham gia chính sự thì ơng sẽ làm

gì trước tiên, Khổng Tử đã trả lời: “Ắt ta sẽ làm cho ra chính danh chính
phận” (Tất dã chính danh hồ) [5, tr.196-197]. Điều này cho thấy Chính danh
có vai trị quan trọng như thế nào trong tư tưởng chính trị của Khổng Tử.
Theo Khổng Tử, xã hội chính danh là “Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử.”


×