Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Những đặc điểm cơ bản quan hệ mỹ trung giai đoạn 2005 2008 công trình dự thi giải thưởng sinh viên nghiên cứu khoa học năm 2009

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.49 MB, 92 trang )

CƠNG TRÌNH DỰ THI
GIẢI THƯỞNG “SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC”
NĂM 2009

Tên cơng trình:

NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN QUAN HỆ MỸ-TRUNG
GIAI ĐOẠN 2005-2008

Thuộc nhóm ngành: XH2b


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU.........................................................................................................1
CHƯƠNG 1 : BỐI CẢNH THẾ GIỚI VÀ TÌNH HÌNH KHU VỰC HAI
NƯỚC TRUNG QUỐC VÀ MỸ....................................................................5
1.1: BỐI CẢNH CHUNG: ..........................................................................5
1.2: SỰ TRỖI DẬY CỦA TRUNG QUỐC................................................9
1.3: SỰ SUY YẾU CỦA MỸ ....................................................................17
1.4: CHÍNH SÁCH CỦA HAI NƯỚC:....................................................21
CHƯƠNG 2 : QUAN HỆ MỸ-TRUNG GIAI ĐOẠN 2005-2008............26
2.1: QUAN HỆ CHÍNH TRỊ NGOẠI GIAO ...........................................26
2.2: QUAN HỆ KINH TẾ - THƯƠNG MẠI:..........................................29
2.3: QUAN HỆ VĂN HÓA, GIÁO DỤC, KHOA HỌC KỸ THUẬT ....31
2.4:. QUAN HỆ AN NINH – QUỐC PHÒNG:........................................35
CHƯƠNG 3 : ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ TỒN TẠI
TRONG QUAN HỆ MỸ-TRUNG GIAI ĐOẠN 2005-2008 .......................39
3.1: ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN TRONG QUAN HỆ MỸ-TRUNG GIAI
ĐOẠN 2005-2008 ......................................................................................39
3.2: NHỮNG VẤN ĐỀ TỒN TẠI TRONG QUAN HỆ MỸ-TRUNG


GIAI ĐOẠN 2005-2008 ............................................................................57
KẾT LUẬN...................................................................................................70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .....................................................77
PHỤ LỤC .....................................................................................................82


MỞ ĐẦU

1.

Lý do chọn đề tài:

Trong giai đoạn hiện nay, có thể nói khu vực Châu Á – Thái Bình
Dương là khu vực năng động nhất, đang là trung tâm phát triển của thế giới.
Trong khu vực này là những “con rồng”, “con hổ” như Nhật, Hàn Quốc...
và cả những “người khổng lồ” như Mỹ, Trung Quốc, Nga. Trong thế kỉ
mới, Mỹ - một siêu cường duy nhất trên thế giới, và Trung Quốc - một
trung tâm quyền lực mới đang lên với một sự “trỗi dậy” mạnh mẽ thì cặp
quan hệ được cho là quan trọng nhất chính là cặp quan hệ Mỹ - Trung.
Chính sách đối ngoại của hai nước này luôn là mối quan tâm đặc biệt của
các nước khác. Quan hệ Mỹ - Trung luôn thu hút sự quan tâm của các học
giả, các nhà chính trị gia của các nước trên thế giới. Quan hệ Mỹ - Trung
trở thành một trục chính trong quan hệ giữa các nước lớn và có tác động
trực tiếp đến những vấn đề an ninh khu vực như các vấn đề Đài Loan, Triều
Tiên, tranh chấp biển Đơng…Vì vậy, tìm hiểu mối quan hệ giữa hai nước là
một phần không thể thiếu trong nghiên cứu quan hệ quốc tế và chính trị thế
giới đương đại.
Bên cạnh đó, cả hai quốc gia này đều có mối quan hệ lịch sử lâu đời
với Việt Nam và hiện là những đối tác chiến lược lớn với ta. Chúng ta đang
thực hiện chính sách đối ngoại mở cửa, đa phương hóa, đa dạng hóa các

quan hệ quốc tế với phương châm “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các
nước trên thế giới”. Cho nên việc nghiên cứu mối quan hệ Mỹ - Trung, đặc
biệt trong giai đoạn 2005-2008, là vô cùng quan trọng, góp phần định
huớng chính sách đối ngoại Việt Nam trong thời gian tới.
2.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài

Như tên của đề tài, đối tượng nghiên cứu của đề tài là những đặc điểm
cơ bản của quan hệ Mỹ - Trung thơng qua nghiên cứu chính sách hai nước;
quan hệ giữa hai nước trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa

1


học kỹ thuật và an ninh quốc phòng; và cả những vấn đề còn tồn tại trong
quan hệ hai nước.
Về mặt thời gian, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu giai đoạn 2005-2008.
Quan hệ Mỹ - Trung có những biến chuyển rõ rệt và mới nhất từ nhiệm kì
hai của Tổng Thống Mỹ George.W.Bush bắt đầu từ năm 2005. Do đó,
nghiên cứu quan hệ Mỹ - Trung trong giai đoạn này sẽ cho thấy cái nhìn
trọn vẹn và xuyên suốt về những đặc điểm cơ bản mới nhất của mối quan
hệ của cặp quan hệ quan trọng nhất trên thế giới hiện nay.
3.

Lịch sử nghiên cứu vấn đề và tài liệu nghiên cứu:

Đã có nhiều cơng trình, bài viết khoa học nghiên cứu về quan hệ
Trung – Mỹ cũng như những đặc điểm cơ bản của mối quan hệ này từ sau
Chiến tranh Lạnh đến nay. Song, vẫn chưa có một tài liệu nào nghiên cứu

chuyên sâu về những đặc điểm cơ bản quan hệ Mỹ - Trung trong giai đoạn
gần đây nhất, 2005-2008. Do đó, vấn đề tìm tài liệu trong q trình làm bài
của nhóm cũng gặp khơng ít khó khăn, và tài liệu tìm được chủ yếu là từ tạp
chí và những bài báo trên mạng Internet.
Các tạp chí mang đến nhiều tư liệu hữu ích gồm có Tạp chí Nghiên
cứu Trung Quốc, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, Nghiên cứu Đơng Bắc Á…
Trong đó có một số bài viết liên quan đến vấn đề và được nhóm lựa chọn
làm tài liệu tham khảo:
1.

Chính sách đối ngoại của Mỹ đối với Trung Quốc sau sự kiện 11-

9 của tác giả TS. Lê Khương Thùy - Viện Nghiên Cứu Châu Mỹ, Tạp Chí
Nghiên Cứu Trung Quốc Số 5 (84-2008).
2.

Những Động Thái Mới Của Quan Hệ Trung – Mỹ của tác giả

PGS. Nguyễn Huy Quý, Tạp Chí Nghiên Cứu Trung Quốc , Số 3( 67-2006).
3.

Chính Quyền Bush Và Những Thách Thức Từ Đông Bắc Á của

tác giả TS. Nguyễn Thị Thanh Thúy, Tạp Chí Nghiên Cứu Quốc Tế, Số 69.

2


Một Số Đặc Điểm Nổi Bật Trong Quan Hệ Mỹ - Trung từ Sau


4.

Chiến Tranh Lạnh của tác giả TS. Tạ Minh Tuấn, Nghiên Cứu Trung Quốc,
Số 3,( 82- 2008)
Quan Hệ Trung – Mỹ Sau Đại Hội XVI Đảng Cộng Sản Trung

5.

Quốc của tác giả TS. Lê Văn Mỹ, Nghiên Cứu Trung Quốc Số 5 (75) –
2007.
Cạnh Tranh Mỹ - Trung Quốc Nhìn Từ Hai Phía của tác giả TS.

6.

Tạ Minh Tuấn, Những Vấn Đề Kinh Tế Và Chính Trị Thế Giới Số 5 -2008.
Sức Mạnh Mềm Của Trung Quốc ở Châu Á của tác giả Nguyễn

7.

Đức Tuyến, Nghiên Cứu Quốc Tế Số 72
Bàn về sức mạnh của Trung Quốc của tác giả Ngơ Xn Bình,

8.

Nghiên cứu Đơng Bắc Á, số 1/2008.
Một số sách tham khảo có dành một phần nhỏ để nói về đặc điểm quan
hệ Mỹ - Trung như quyển Quan hệ Mỹ - Trung có gì mới, quyển Quan hệ
của Mỹ với các nước lớn ở Châu Á – Thái Bình Dương… Ngoải ra cịn một
số trang web cung cấp nhiều thơng tin hữu ích như Báo Tuổi trẻ Online,
Báo điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam, các trang Web Sở Ngoại Vụ các

tỉnh, Báo Công An nhân dân Online…. Tuy nhiên chưa thấy có tài liệu nào
nghiên cứu đặc điểm cơ bản quan hệ Mỹ - Trung giai đoạn 2005-2008 một
cách có hệ thống.
4.

Phương pháp nghiên cứu:

Trong q trình làm bài, chúng tơi sử dụng tổng hòa các phương pháp
nghiên cứu quan hệ quốc tế nhưng đặt trọng tâm vào phương pháp lịch sử,
duy vật biện chứng và phương pháp logic. Bên cạnh đó chúng tơi cũng sử
dụng các phương pháp nghiên cứu liên ngảnh như phương pháp thống kê,
so sánh, đối chiếu, tổng hợp… Tất cả các phương pháp trên được thực hiện
trên nền tảng cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, trong đó tư tưởng Hồ Chí Minh đóng vai trị nền tảng
lý luận hàng đầu.

3


5.

Bố cục và nội dung cơ bản của đề tài:

Đề tài ngoài phần Mở đầu ( 4 trang) và phần Kết luận (6 trang), nội
dung chính của đề tài bao gồm 3 chương.
Chương 1: Khát quát bối cảnh thế giới và tình hình hai nước Trung
Quốc và Mỹ, trong đó chia thành 4 phần nhỏ: 1- Bối cảnh chung của thế
giới, 2- Sự trỗi dậy của Trung Quốc, 3- Sự suy yếu của Mỹ, 4- Chính sách
đối ngoại của hai nước đối với nhau.
Chương 2: Quan hệ Mỹ - Trung giai đoạn 2005-2008. Trong chương

này đề tài tập trung phân tích những mảng quan hệ của hai nước như Chính
trị - ngoại giao, Kinh tế - thương mại, Văn hóa - giáo dục - khoa học kỹ
thuật, và An ninh - quốc phịng để cho cái nhìn khái qt về tình hình quan
hệ hai nước trong giai đoạn nghiên cứu 2005-2008.
Chương 3: Đặc điểm cơ bản và những vấn đề tồn tại trong quan hệ
Trung – Mỹ giai đoạn 2005-2008. Đây là phần chính của đề tài. Chương 3
tập trung nghiên cứu và rút ra bốn đặc điểm cơ bản của mối quan hệ từ
những cơ sở đã nêu ở chương 1 và chương 2, đồng thời cũng đưa ra những
mặt tồn tại trong mối quan hệ như vấn đề Đài Loan, dân chủ, nhân quyền,
tơn giáo, kinh tế…
6.

Những đóng góp của đề tài:

Đề tài là một trong những cơng trình nghiên cứu về đặc điểm cơ bản
của quan hệ Mỹ - Trung giai đoạn 2005-2008, phù hợp với chuyên ngành
đào tạo Quan hệ quốc tế. Đề tài sẽ góp phần làm phong phú thêm tài liệu
tham khảo cho sinh viên trong ngành cũng như những ai quan tâm đến lĩnh
vực nghiên cứu này.

4


CHƯƠNG 1 : BỐI CẢNH THẾ GIỚI VÀ TÌNH HÌNH KHU VỰC
HAI NƯỚC TRUNG QUỐC VÀ MỸ

1.1: BỐI CẢNH CHUNG:
1.1.1: Tình hình thế giới:
Tình hình thế giới trong giai đoạn 2005-2008 có nhiều biến chuyển, đặc
biệt trong quan hệ giữa các nước lớn. Tình hình thế giới cũng biến động khơng

ngừng với những xu thế mới. Dịng chảy tồn cầu hoá đã và đang tác động
mạnh mẽ đến các quốc gia trên thế giới. Các quốc gia ngày càng phụ thuộc
nhau hơn, đẩy mạnh hợp tác trên nhiều lĩnh vực, mà thể hiện rõ nhất ở lĩnh vực
kinh tế. Bên cạnh xu hướng đối thoại hợp tác, tồn tại hòa bình, những mâu
thuẫn, vẫn cịn nhiều căng thẳng chưa được giải quyết. Cuộc chiến tại Iraq,
Afghanistan vẫn chưa thực sự có một hồi kết. Trong khi Mỹ đang muốn dần rút
khỏi khu vực thì Trung Quốc lại nhảy vào như một người tốt, giúp đỡ những
đất nước này và tìm cách hất chân ảnh hưởng của Mỹ. Tình hình này khiến cho
sự cạnh tranh giữa Mỹ và Trung Quốc tăng lên. Về vấn đề hạt nhân ở Iran,
trong khi Mỹ đang nằm trong tình thế “tiến thối lưỡng nan”, thì quan hệ Trung
Quốc - Iran ngày càng trở nên than thiết hơn. Liên Hiệp Quốc hi vọng Trung
Quốc sử dụng ảnh hưởng của mình để giúp giải quyết vấn đề này nhưng Trung
Quốc lo ngại nó có thể ảnh hưởng đến lợi ích của mình.
Trong khi đó, chủ nghĩa khủng bố ngày càng phát triển và lan rộng bất
chấp nỗ lực của Mỹ và đồng minh trong cuộc chiến khủng bố. Giờ đây thế giới
đang phải đương đầu với “thế hệ thứ hai” của chủ nghĩa khủng bố. Họ là thế hệ
thứ hai của người Hồi giáo đã nhập cư vào phương Tây. Có nhiều lí do để họ
tham gia phong trào khủng bố nhưng điều đáng nói là cuộc chiến này sẽ càng
phức tạp và khó khăn hơn. Bên cạnh đó, xu hướng xung đột sắc tộc và ly khai
cũng nổi lên ngày càng nhiều như ở Cruzia, Georgia,…
Quan hệ giữa các nước lớn nổi bật với cặp quan hệ Nga - Mỹ và Nga Trung. Quan hệ Nga - Mỹ nhìn bề ngồi thì có vẻ “ấm áp” nhưng thực chất mối

5


quan hệ này vẫn tồn tại nhiều bất đồng gay gắt. Trên thực tế, mối quan hệ này
chỉ mới dừng lại ở mức độ “Mỹ không phải kẻ thù chiến lược của Nga”1. Ngoài
những vấn đề đã xuất hiện từ lâu như vấn đề Iran, Iraq, hiện tại, mối quan hệ
Nga - Mỹ lại xuất hiện thêm một số rạn nứt mới bởi một số sự kiện gần đây
như cuộc chiến tại Gruzia, Georgia… và nổi bật nhất là lá chắn tên lửa của Mỹ

đặt tại Ba Lan. Với tình trạng cả điện Kremlin và Nhà Trắng đều có những ông
chủ mới, thế giới đang trông chờ có sự chuyển biến trong mối quan hệ của hai
ông lớn này. Thế giới trông chờ sự hợp tác Nga - Mỹ để vực dậy nền kinh tế
bất ổn hơn là sự đối đầu không khoan nhượng.
Cuối cùng là cặp quan hệ Nga - Trung. Mối quan hệ giữa hai nước láng
giềng này ngày càng thân thiết hơn trong những năm 2005-20082. Không
những thúc đẩy hợp tác trên lĩnh vực kinh tế, an ninh, năng lượng, cả hai nước
đã và đang cùng nhau thúc đẩy quá trình cải tổ Liên Hiệp Quốc, đảm bảo vị thế
tối cao của định chế này trong việc giải quyết các vấn đề an ninh, phản đối các
hành động lạm dụng lệnh trừng phạt kinh tế trong việc giải quyết các cuộc
khủng hoảng quốc tế, ngăn cản chủ nghĩa đơn phương, nỗ lực vì một khơng
gian khơng có vũ khí ''Chiến tranh giữa các vì sao''... Mối quan hệ ngày càng
thân thiết của hai nước láng giềng này đang khiến cho Washington phải lo ngại.
1.1.2: Tình hình khu vực:
1.1.2.1: An ninh, chính trị, kinh tế:
Hiện nay, dân số ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương chiếm khoảng 1/2
dân số thế giới, là khu vực có trữ lượng dầu mỏ, khí đốt rất lớn và tập trung sự
trỗi dậy kinh tế của nhiều nước, qua đó Mỹ có thể dựa vào trào lưu kinh tế tồn
cầu hóa để mở rộng quan hệ mậu dịch ở khu vực đang rất hấp dẫn đối với Mỹ.
Vì vậy, vơ hình chung, khu vực Châu Á - Thái Bình Dương đã trở thành trọng
điểm thực thi chiến lược toàn cầu của Mỹ trong thế kỷ XXI. Trong đó, Mỹ chủ

1

Dẫn theo ngày 6/6/2007

2

Dẫn theo />
6



yếu thực thi chính sách “can dự tồn diện”, đặc biệt với Trung Quốc, Mỹ đẩy
mạnh hợp tác với mục đích kiềm chế ảnh hưởng của Trung Quốc ở khu vực.
Trung Quốc, với vai trò là một cường quốc đang nổi lên trong khu vực,
cũng ra sức tạo ảnh hưởng của mình với các nước trong khu vực. Nỗ lực đàm
phán sáu bên mà Trung Quốc đã làm nước chủ nhà năm lần, ra sức đưa ra các
giải pháp nhằm thúc đẩy vấn đề hạt nhân của Triều Tiên; các diển đàn như
ASEAN + 1 hay ASEAN +3 được Trung Quốc quan tâm.
Xu hướng hợp tác trong khu vực cũng được đẩy mạnh. Diễn đàn Hợp tác
kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương ( APEC ) được tổ chức thường niên nhằm
mục đích thúc đẩy tự do hóa thương mại và giao lưu, hợp tác giữa các nước
trong khu vực.3
Chi phí về qn sự ở Đơng Á hiện nay tương đương với tồn bộ chi phí
qn sự của các nước thành viên NATO ở châu Âu. Ba trong số năm lực lượng
quân sự lớn nhất thế giới, Trung Quốc, Ấn Độ và Hàn Quốc, đều nằm ở châu
Á. Hai nước cịn lại là Mỹ và Nga đều có những lực lượng quân sự rất lớn nằm
ở Thái Bình Dương.
Hợp tác an ninh Châu Á- Thái Bình Dương cũng được coi trọng. Nhìn
chung mối quan hệ giữa các nước lớn trong khu vực là cân bằng và có sự biến
đổi từ sau chiến tranh lạnh.
Về mặt chính trị, khu vực Châu Á - Thái Bình Dương là khu vực có nền
chính trị khá phức tạp. Đây là nơi có sự hiện diện của một nước dân chủ nhất
thế giới đồng thời với một nước có nhiều người theo đạo Hồi nhất thế giới.
Những nguy cơ hồi sinh của chủ nghĩa quân phiệt, chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa
nước lớn, vấn đề tranh chấp lãnh thổ, lãnh hải tại các vùng biển Đơng Bắc Á,
kể cả những mâu thuẫn có từ q khứ lịch sử và trở ngại về “lòng tự hào và sự
tổn thương dân tộc” luôn là những vấn đề nổi cộm mà các bên phải quan tâm
giải quyết hòng duy trì quan hệ ổn định để cùng phát triển. Sự hợp tác kinh tế


3

Dẫn theo />
7


sẽ hóa giải những vấn đề an ninh chính trị giữa các nước Châu Á - Thái Bình
Dương.
1.1.2.2: Các điểm nóng trong khu vực:
1.1.2.2.1: Tình hình hạt nhân bán đảo Triều Tiên:
Cùng với Iran, CHDCND Triều Tiên cũng được liệt vào trục ma quỷ.4
Cuộc đàm phán về vấn đề hạt nhân Triều Tiên đã có nhiều tiến bộ khi các bên
đồng ý đàm phán sáu bên, Triều Tiên đồng ý đóng cửa lị phản ứng hạt nhân
Yongbyong.. Nhưng cuộc mặc cả vẫn còn kéo dài, leo thang dồn dập, nhất là
trong tình trạng kinh tế Mỹ đang bị suy thối như hiện nay và mâu thuẫn giữa
các bên còn tồn tại.
1.1.2.2.2: Tranh chấp biển Đông
Biển Đông chủ yếu là cuộc tranh chấp giữa Trung Quốc và các nước ở
khu vực Đông Nam Á. Sự chênh lệch về sức mạnh kinh tế và quân sự, kèm
theo các phản ứng rất chừng mực và đơn lẻ, từ các đối thủ ASEAN đã khiến
Trung Quốc tùy ý vận dụng chiến lược diều hâu trên Biển Đông. Cho đến lúc
này cuộc tranh chấp vẫn chưa đi đến hồi kết. Nhưng xét trên bình diện chung
thì Trung Quốc đang có lợi thế trong cuộc cạnh tranh này.
Tuy nhiên, nói đến cuộc tranh chấp ở Biển Đơng ta cịn phải nói đến một
thế lực khác, đó là Mỹ. Có hai lý do để Mỹ tham gia vào khu vực này. Thứ
nhất đó là lợi ích trực tiếp của Mỹ. Biển Đơng là khu vực có nhiều dầu mỏ, là
nơi có vị trí chiến lược được tranh giành từ xưa đến nay. Thứ hai, đặt chân vào
biển Đông cũng là một cách để Mỹ kiềm hãm sự bành trướng của Trung Quốc.
Do đó Mỹ đang tìm cách để có một chân đứng chắc chắn ở khu vực này. Từ đó,
có thể nhận ra rằng tình hình của khu vực biển Đông chưa thể thực sự yên ổn

trong thời gian tới.
1.1.2.2.3: Đảo Đài Loan
Đảo Đài Loan là một trong các điểm nóng phức tạp nhất của khu vực
Châu Á - Thái Bình Dương. Có thể nói đảo Đài Loan là ngòi nổ tiềm tàng

4

Dẫn theo />
8


trong mối quan hệ Trung - Mỹ. Đối với Washington, hiện trạng của đảo Đài
Loan hiện nay là chấp nhận được và họ cũng hy vọng tình trạng này có thể
được duy trì trong thời gian sắp tới. Mặt khác, Washington lại không muốn đối
đầu trực tiếp với Trung Quốc. Do đó, họ cần một chính sách cẩn thận để giữ
cho tình hình hai bên eo biển Đài Loan được cân bằng.
Trung Quốc trên quan điểm vẫn luôn cho rằng Đài Loan là một phần của
đất nước mình và khơng chấp nhận Đài Loan tồn tại như một quốc gia độc lập.
Một mặt Trung Quốc không đồng ý với việc Mỹ giúp đỡ cho Đài Loan, mà tiêu
biểu là việc Mỹ đã bán vũ khí cho Đài Loan. Mặt khác, Trung Quốc lại muốn
mượn mối quan hệ thân cận của Mỹ và Đài Loan để ngăn cản các nỗ lực “ra
riêng” của Đài Loan. Có thể thấy rõ động thái này của Trung Quốc khi họ yêu
cầu Mỹ ngăn cản cuộc trưng cầu dân ý về tư cách của Đài Loan tại Liên Hiệp
Quốc tháng 12/ 2007. Hiện tại, vấn đề đảo Đài Loan vẫn còn là một con bài để
ngỏ trong mối quan hệ giữa Trung Quốc - Mỹ.
1.2: SỰ TRỖI DẬY CỦA TRUNG QUỐC
1.2.1: Sức mạnh cứng
1.2.1.1: Sức mạnh kinh tế.
Nếu như trước thập niên 70 của thế kỷ XX, nền kinh tế Trung Quốc chậm
phát triển thì chỉ sau hơn hai thập niên, Trung Quốc đã vượt lên thứ hạng nền

kinh tế lớn thứ ba thế giới, chỉ sau Mỹ và Nhật Bản khiến cho Trung Quốc đã
trở thành “con rồng mới”, “ hiện tượng thần kỳ mới” ở Đông Á trong những
năm đầu thế kỷ XXI . Cùng với Nhật Bản, Trung Quốc đã và đang góp phần
quan trọng làm cho cán cân kinh tế tồn cầu nghiêng dần về phía châu Á,
khơng chỉ trong lĩnh vực sản xuất, mà cả trong hầu hết các lĩnh vực khác nhau
của nền kinh tế thế giới như thương mại, dịch vụ, du lịch... Những con số dưới
đây là bằng chứng khẳng định điều đó.
Từ sau khi cải cách và mở cửa, Trung Quốc đã theo đuổi một chính sách
mở cửa chào đón thương mại và đầu tư nước ngồi và thu được nhiều thành
cơng rực rỡ. Hiện nay, Trung Quốc là nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất thế

9


giới. Trung Quốc duy trì tốc độ phát triển trung bình 10% năm từ 1978 đến
nay và đạt kỉ lục 11.7% năm 2007.5. Về ngoại thương, năm 2006 Trung Quốc
trở thành nước lớn thứ ba thế giới về kim ngạch ngoại thương và chiếm 24,6%
tổng kim ngạch thương mại toàn cầu.6 Trung Quốc là thị trường lớn nhất của
thế giới. Với việc chiếm 8% xuất khẩu thế giới thì xuất khẩu tới Trung Quốc là
một trong những nhân tố quyết định thúc đẩy tăng trưởng của nhiều quốc gia,
từ Mỹ cho tới Đức, Nhật. Đối với các nước đang phát triển, Trung Quốc là một
đối tác thương mại không thể thiếu. Trung Quốc trở thành “ công xưởng “ của
thế giới với đủ các loại mặt hàng từ sản phẩm công nghệ thấp như đồ chơi, dệt
may đến sản phẩm cộng nghệ cao như máy tính. Trung Quốc hiện đang là nhà
sản xuất hàng đầu thế giới về than, thép và xi măng nhà tiêu thụ năng lượng lớn
thứ hai thế giới và là nhà nhập khẩu dầu mỏ lớn thứ ba thế giới. Ngày càng có
nhiều hơn các sản phẩm mang nhãn hiệu “Made in China” xuất đi khắp thế
giới, đã khiến cho các “đại gia” nổi tiếng về nhiều thương hiệu sản phẩm của
Mỹ, Nhật Bản, Đức, Ý, Anh, Pháp... mặc dù đã có bề dầy từ nhiều chục năm
qua, thậm chí hàng trăm năm nay vẫn phải kinh ngạc và khâm phục.

Về thu hút đầu tư nước ngồi thì Trung Quốc đứng hàng thứ hai thế giới,
cịn dự trữ ngoại tệ tính đến tháng 5 năm 2008 là 1760 tỷ USD, lớn nhất thế
giới 7.
Bên cạnh đó, Trung Quốc đã trở thành một trong những đòn bẩy quan
trọng cho sự tăng trưởng kinh tế tồn cầu, đóng góp khoảng 10% tăng trưởng
tồn cầu và là nước mua chủ yếu các khoảng nợ của Mỹ. Mới đây, do ảnh
hưởng của khủng hoảng tài chính tồn cầu, nền kinh tế Trung Quốc cũng gặp
nhiều khó khăn. Nhưng các chuyên gia kinh tế cho rằng nếu Trung Quốc cứ
tiếp tục tăng trưởng tốt thì đây sẽ là sự đóng góp hữu ích bởi vì Trung Quốc sẽ
giữ cho tình hình đừng trở nên tệ hại hơn nữa.

5

TS. Tạ Minh Tuấn, Cạnh Tranh Mỹ -Trung Quốc Nhìn Từ Hai Phía, Những Vấn Đề Kinh Tế Và
Chính Trị Thế Giới Số 5 -2008, tr3.
6
Dẫn theo />7
Nguyễn Hạnh, Dự trữ ngoại tệ trung quốc tăng mức kỉ lục, thời báo kinh tế Việt Nam,ngày 28/3,


10


1.2.1.2: Tiềm lực quốc phịng
Khơng chỉ là một “hiện tượng thần kì” về kinh tế, hiện tại, Trung Quốc
cịn được coi là một cường quốc về lĩnh vực khoa học công nghệ và quân sự,
đặc biệt là quân sự. Trong “ Báo cáo sức mạnh quân sự Trung Quốc” của Mỹ
đã công bố năm 2006 cho thấy rằng Mỹ coi “Trung Quốc là đối thủ lớn nhất”
về tiềm lực quân sự, kể cả sức mạnh hải, lục, không quân về số quân đông,
thực lực mạnh cả về kỹ chiến thuật tác chiến và vũ khí trang bị đều hiện đại, tối

tân.
Lực lượng quân sự Trung Quốc ngày nay là một quân đội có con số nhân
sự khổng lồ nhất thế giới. Vừa Quân đội chính qui cộng với cảnh sát vũ trang,
lực lượng quân đội Trung Quốc hiện đang ở khoảng trên 2.3 triệu người.8 Để
tăng cường sức mạnh quân sự, Trung quốc thực hiện 5 mục tiêu: 1) hiện đại
hóa và chun mơn hóa, 2) giảm qn số nhưng làm cho quân đội mạnh hơn,
3) tận dụng khoa học và kỹ thuật để gia tăng sức mạnh quân đội, 4) gia tăng
khả năng cơ động và củng cố hệ thống huy động sức mạnh "nhân dân", 5) mỗi
năm mỗi tăng ngân sách quốc phòng.
Một tiềm lực kinh tế lớn mạnh đã giúp Trung Quốc tăng cường sức mạnh
quốc phòng. Chi phí quốc phịng của Trung Quốc đã liên tục tăng trên 10% kể
từ năm 1997. Theo cơng bố chính thức của Bắc Kinh, ngân sách dành cho lĩnh
vực này tăng 17,6% lên 58,8 tỷ USD năm 2008.9 Nhưng giới quan sát cho rằng,
con số này trên thực tế có thể cao hơn nhiều, dao động trong khoảng từ 97 139 tỷ USD do những năm gần đây Trung Quốc đồng loạt triển khai các
chương trình về khơng gian vũ trụ, về tên lửa và đầu đạn hạt nhân. Các nhà
phân tích ước tính tổng chi phí quân sự của Trung Quốc có thể lên tới 200 tỷ
USD.10
Một điều quan trọng nữa là Trung Quốc đã là một trong số khơng nhiều
quốc gia đã có vũ khí hạt nhân và có ngành khoa học vũ trụ phát triển mạnh
8

Dẫn theo />Sức mạnh của Trung Quốc, Báo Điện Tử Đảng Cộng Sản Việt Nam . Cập nhật
ngày 28/10/2008. Cập nhật lúc 22h 6'.
10
TS. Tạ Minh Tuấn, Cạnh Tranh Mỹ -Trung Quốc Nhìn Từ Hai Phía, Những Vấn Đề Kinh Tế Và
Chính Trị Thế Giới Số 5 -2008, tr 4.
9

11



không thua kém nhiều so với Mỹ - hiện đang là cường quốc số 1 về các lĩnh
vực này. Theo số liệu thống kê công bố năm 2005, Trung Quốc có 46 tên lửa
đạn đạo xuyên lục địa, 35 tên lửa đạo đạo tầm trung và 725 tên lửa đạn đạo tầm
ngắn11.
Từ lâu các nhà chiến lược quân sự Trung Quốc đã cho rằng vũ khí chống
vệ tinh, ASAT, là điều thiết yếu cho an ninh Trung Quốc. Tháng 1/2007, Trung
Quốc đã thử thành công hệ thống ASAT bắn hạ vệ tinh. Trung Quốc còn là
nước thứ 3 trên thế giới đưa người lên vũ trụ. Tháng 10/2007, Trung Quốc
phóng thành công vệ tinh lên chụp ảnh Mặt Trăng. Trung Quốc hiện có kế
hoạch sẽ thiết lập một trạm khơng gian riêng của nước này trong năm 2020 và
cũng sẽ đưa người lên khám phá mặt trăng. Điều này cho thấy Trung Quốc sở
hữu những công nghệ hàng không vũ trụ rất cao, không những phục vụ cho các
ngành khoa học dân sự mà cịn phục vụ cho quốc phịng.
Ngồi ra, Trung Quốc cịn hiện đại hóa kĩ thuật viễn thông, ưu tiên khả
năng tấn công điện tử cho phép khống chế thông tin trong các cuộc xung đột
tương lai. Trung Quốc cũng đầu tư nhiều vào vũ khí năng lượng như vũ khí viba, laser…
Những con số đầy ấn tượng trên cho thấy sự nổi lên của Trung Quốc
không cịn là dự báo nữa mà đó là một thực tế. Dù cho Trung Quốc có vượt qua
Mỹ hay khơng, thì nước này vẫn là lực lượng mới đầy sức mạnh trên vũ đài thế
giới.
1.2.2: Sức mạnh mềm.
Cùng với sự trỗi dậy về kinh tế, quân sự, sức mạnh mềm của Trung Quốc
cũng đang được mở rộng và khuếch trương. Sức mạnh mềm theo Joseph S. Nye
là khả năng đạt được những điều mình muốn thơng qua thuyết phục chứ khơng
phải sự cưỡng bức. Và Trung Quốc đang tìm cách tăng cường sức mạnh mềm
trên nhiều các phương diện khác nhau.

11


Ngơ Xn Bình, Bàn về sức mạnh của Trung Quốc, nghiên cứu Đông Bắc Á số 1/2008,tr6.

12


Thứ nhất là sự ổn định của chế độ chính trị - xã hội. Trong những năm
qua, Trung Quốc đã duy trì được sự ổn định về chính trị - xã hội và giải quyết
các vấn đề tiến bộ và công bằng xã hội ngày càng tốt hơn mặc dù Trung Quốc
là một quốc gia “khổng lồ” cả về dân số và diện tích lãnh thổ, đồng thời tồn tại
hai mơ hình chính trị - xã hội khác nhau là Trung Quốc XHCN đại lục và Hồng
Kông. Theo Báo cáo của Liên Hợp Quốc và Ngân hàng Phát triển Châu Á
mang tên “ Những mục tiêu thiên niên kỷ: Tiến bộ ở Châu Á – Thái Bình
Dương năm 2007” (MDG 2007): Trung Quốc đang là nước dẫn đầu về thành
tích giảm đói nghèo trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Hơn 350 triệu
dân Trung Quốc đã thốt khỏi đói nghèo. Ngồi ra, hàng năm có thêm khoảng
15 triệu người được hưởng lợi trực tiếp từ các chương trình phát triển đô thị12.
Theo MDG 2007, Trung Quốc cũng đã đạt được những chỉ số tích cực trong
việc thúc đẩy quá trình bình đẳng giới và gia tăng quyền lực cho phụ nữ, cải
thiện sức khoẻ giới tính, giảm tình trạng suy dinh dưỡng và mù chữ ở trẻ em...
Một chế độ xã hội ổn định là điều kiện quan trọng giúp Trung Quốc phát triển
nhanh chóng và xây dựng đất nước Trung Quốc ngày càng giàu đẹp.
Thứ hai, trên lĩnh vực ngoại giao Trung Quốc xây dựng hình ảnh một
nước Trung Quốc đầy thiện chí và có trách nhiệm làm thay đổi cách nhìn của
thế giới đối với Trung Quốc. Hiện nay, Trung Quốc thay đổi chính sách từ thế
“tọa quan sơn hổ đấu” , “người đi nhờ xe” sang chủ động can dự tích cực vào
cơng việc quốc tế .13 Trung Quốc muốn trở thành thành viên tích cực hơn đối
với các vấn đề quốc tế và khu vực. Điều này thể hiện giới lãnh đạo Trung Quốc
đã tự tin với sức mạnh và ảnh hưởng của mình trên trường quốc tế - là một
thành viên thường trực hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc với uy tín và ảnh
hưởng ngày càng cao, nếu khơng có sự tham gia của Trung Quốc, nhiều vấn đề

lớn trên thế giới sẽ không được tiến triển tốt đẹp.
Trung Quốc từng bước nâng cao địa vị trên trường quốc tế, bằng cách lôi
kéo các nước khác thông qua hợp tác, đầu tư, cho vay ưu đãi, và những hình
12

Sức mạnh của Trung Quốc, Báo Điện Tử Đảng Cộng Sản Việt Nam, . Cập
nhật Ngày 28/10/2008. Cập nhật lúc 22h 6'.
13
TS. Tạ Minh Tuấn, Cạnh Tranh Mỹ -Trung Quốc Nhìn Từ Hai Phía, đd, tr4.

13


thức viện trợ khác. Hiện nay, Trung Quốc cung cấp viện trợ cho hơn 110 nước
và tổ chức khu vực với trên 2000 hạng mục viện trợ; đã giảm hoặc xóa 198
khoản nợ trị giá 16,6 tỷ nhân dân tệ cho 44 nước nghèo và đang phát triển
khác.14
Bằng cách này Trung Quốc đã nhanh chóng thu được lợi ích và tăng
cường ảnh hưởng của mình trên thế giới. Tại Châu Á, trước đây, quan hệ của
Trung Quốc với hầu hết láng giềng châu Á khá thù địch và thiếu xây dựng.
Ngược lại, hiện nay Trung Quốc đã đựoc nhìn nhận với một góc độ khác.
Trung Quốc đã can dự sâu vào khu vực này bằng cách tăng cường đầu tư, hợp
tác tham gia các diễn đàn song phương và đa phương, tăng cường viện trợ. Khu
vực Đông Nam Á, Trung Quốc đã chủ động kí hiệp định khung về hợp tác toàn
diện với ASEAN, tham gia cơ chế Asean +3, đưa ra một loạt sáng kiến như:
xây dựng khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc vào năm 2010 và ủng
hộ tiến trình hợp tác Đơng Á, chủ động quy hoạch nhều dự án mang tính đại
kinh tế bao trùm lên tồn bộ ASEAN , vv… Tại Đơng Bắc Á, Trung Quốc còn
cải thiện quan hệ với Nhật Bản, tăng cường ảnh hưởng đối với bán đảo Triều
Tiên, đặc biệt là đối với Hàn Quốc – đồng minh thân cận của Mỹ. Với những

nỗ lực này, Trung Quốc từng bước thay Mỹ trở thành đối tác thương mại chính
của các nước châu Á. Hơn nữa các nước Đơng Á đang dần dần nhìn nhận
Trung Quốc là một cơ hội nhiều hơn là một mối đe dọa an ninh trong khu vực.
Ngoại giao của Trung Quốc đã vươn ra xa, tìm tới những khu vực mà
trước đây hầu như khơng có sự hiện diện của Trung Quốc như Châu Phi, Mỹ
La Tinh… Tại Châu Phi, trong thời gian qua lãnh đạo cao cấp Trung Quốc liên
tiếp thăm Châu Phi. Cuối năm 2006 chủ tịch Hồ Cẩm Đào thăm 8 nước Châu
Phi làm dấy lên “ cơn lốc Châu Phi” trong dư luận Trung Quốc và đưa quan hệ
Trung Quốc -Châu Phi lên giai đọan mới. Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng là đối
tác thương mại hàng đầu của nhiều nước châu Phi. Trung Quốc trở thành nhà
đầu tư lớn thứ ba ở Châu Phi sau Mỹ và Pháp.

14

Dẫn theo ngày 06/11/2008

14


Tại khu vực Mỹ La Tinh – sân sau của Mỹ, Trung Quốc thành lập diễn
đàn hợp tác Trung Quốc - Mỹ La Tinh, thúc đẩy quan hệ với khu vực này.
Trung Quốc cũng không quên phát triển quan hệ với Châu Âu - đồng minh
truyền thống của Mỹ. Kết quả rõ nhất là EU tháo bỏ lệnh cấm vận vũ khí đối
với Trung Quốc từ hơn 16 năm nay trước sự phản đối của Mỹ.
Bên cạnh đó, Trung Quốc đã tích cực tham gia vào các tổ chức quốc tế
liên chính phủ (bao gồm cả Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế); các hiệp
ước đa phương,15 trong đó có hiệp ước khơng phổ biến vũ khí hạt nhân; tích
cực tham gia hợp tác quốc tế chống khủng bố, duy trì hịa bình, kiểm sốt mơi
trường, phịng chống các bệnh dịch…
Bằng nhiều cách khác nhau, ngoại giao của Trung Quốc đã vươn xa, vị

thế Trung Quốc trên trường quốc tế khơng ngừng mở rộng và nâng cao, xóa bỏ
sự lo ngại về “ mối đe dọa từ Trung Quốc”.
Thứ ba là sức mạnh của nền văn hóa Trung Quốc. Với lịch sử văn hóa
5000 năm, văn hóa Trung Quốc từng bước mở rộng ảnh hưởng đối với văn hoá
của nhiều quốc gia xung quanh như Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản… Ngày
nay sự thành công của công cuộc cải cách và mở cửa đã tạo điều kiện cho văn
hóa Trung Quốc phát triển hơn nữa vươn tới tầm thế giới. Người Trung Quốc
coi nền văn hóa của mình là nền là văn hóa của thế giới. Trung Quốc đang tích
cực tun truyền văn hóa, ngơn ngữ, ẩm thực, xiếc, múa truyền thống, phim
ảnh và thảo dược… ra thế giới.
Học viện Khổng giáo - một mơ hình truyền bá văn hóa Trung Quốc đã
được thành lập ở nhiều nơi trên thế giới. Trung Quốc đã xây dựng được 128
Viện Khổng giáo (46 ở Châu Á, 46 ở Châu Âu, 26 ở Bắc Mỹ, 6 ở Châu phi và
4 ở Châu Đại dương) và có kế hoạch xây thêm hàng trăm Viện Khổng giáo nữa
nhằm truyền bá văn hóa và ngơn ngữ Trung Quốc. 16Hàng năm Trung Quốc chi
ra khoản ngân sách lớn lên tới 200 triệu USD để thúc đẩy việc học tiếng Trung
trên toàn thế giới và đặt ra mục tiêu tăng số lượng người học tiếng Trung lên
15
16

Dẫn theo , ngày 06.11.2008
Trung quốc và cuộc khuếch trương sức mạnh mềm, , ngày 15/09/2008.

15


100 triệu người vào năm 2010. Phong trào học tiếng Trung đang rất thịnh hành
ở các nước khu vực Đông Á.
Phim truyền hình là một trong những cơng cụ hữu hiệu truyền bá văn hóa
Trung Quốc. Ngày nay những bộ phim cổ trang hay phim lịch sử của các triều

đại phong kiến Trung Hoa… dường như có một sức mạnh vơ hình thu hút sự
quan tâm đến văn hố Trung Hoa, đến đất nước, con người Trung Quốc của
hàng triệu khán giả trên thế giới này.
Tiếp theo, Cộng đồng người Hoa là một nhân tố quan trọng giúp sức
mạnh mềm của Trung Quốc ngày càng tăng. Theo thống kê hiện đang có hơn
35 triệu người Hoa, gốc Hoa và hàng triệu người sống rải rác khắp thế giới đã
có quan hệ huyết thống với người Hoa. Họ hiện diện ở mỗi quốc gia trên thế
giới, kể cả những nước như Bắc Triều Tiên, nơi mà không dễ dàng thâm nhập
với các dân tộc khác. Câu nói nhận xét rằng người Trung Quốc “khơng bao giờ
ngủ” chính là chỉ sự có mặt của người Hoa trên khắp mọi nơi của trái đất. Ở
các nước đều có những khu vực cư trú riêng của người Hoa và gốc Hoa vẫn gọi
là “Chinatown” - phố người Hoa. Người Hoa đi đến đâu cũng mang theo truyền
thống văn hóa, phong tục tập quán của họ truyền bá rộng rãi. Sự mở rộng ngày
càng lớn của cộng đồng người Hoa là một trong những nhân tố giúp Trung
Quốc truyền bá sức mạnh mềm của mình.
Bên cạnh đó sự phát triển của ngành giáo dục, du lịch và thể thao cũng là
một nhân tốt giúp quảng bá hình ảnh Trung Quốc ra cộng đồng thế giới. Ngành
du lịch Trung Quốc ngày càng phát triển, lượng khách du lịch ngày càng tăng
lên cả người nước ngoài tới Trung Quốc cũng như người Trung Quốc ra nước
ngoài. Thể thao Trung Quốc cũng phát triển không kém khi Trung Quốc đã
giành được rất nhiều huy chương vàng trong các kỳ thi đấu thể thao không chỉ
trong khu vực mà còn ở cấp độ thế giới. Năm 2008, Bắc Kinh trở thành chủ
nhà của Olympic, được đánh giá là sự kiện quan trọng. Đó khơng chỉ đơn giản
là một sự kiện thể thao mà còn là một cơ hội để Trung Quốc phơ diễn quyền
lực mềm của mình. Khơng chỉ có Mỹ nhìn Trung Quốc như một đối thủ tiềm

16


tàng, mà cả thế giới cũng phải nhìn Trung Quốc một siêu cường đang định

hình.
Có thể thấy, Trung Quốc đã rất khôn ngoan và cân bằng hơn khi kết hợp
hài hịa sức mạnh cứng và sức mạnh mềm của mình để tạo nên một Trung
Quốc “trỗi dậy hịa bình”, đầy thiện chí trong con mắt cộng đồng quốc tế và
đóng vai trị quan trọng trong nền chính trị thế giới.
1.3: SỰ SUY YẾU CỦA MỸ
1.3.1: Khủng hoảng kinh tế mỹ.
1.3.1.1 Khủng hoảng tài chính Mỹ.
Năm 2008 chứng kiến sự chao đảo chưa từng thấy trong thị trường tài
chính Mỹ khi hàng loạt các ngân hàng và cơng ty tài chính Mỹ phá sản. Tuy
nhiên điều đáng nói là cuộc khủng hoảng này bắt đầu từ khi nào và tại sao với
một nền kinh tế lớn như Mỹ lại để xảy ra tình trạng nghiêm trọng như vậy
trong một phần quan trọng bậc nhất của kinh tế: tài chính? Như đã biết nhiều
dấu hiệu cho thấy kinh tế Mỹ đi vào suy thoái đã xuất hiện khá rõ ràng từ đầu
năm 2007. Ví dụ đầu tiên là việc cơng ty tài chính Bear and Sterns coi như phá
sản, giá có lúc lên tới 6 tỷ đã được JP Morgan cứu vớt, mua với giá 270 triệu và
với bảo đảm của FED về việc trả nợ. Rõ ràng khi nhà nước Mỹ ra tay cứu như
thế này thì tình hình tài chính rất trầm trọng. Giá các chứng khoán đã giảm trên
một ngàn tỷ và lúc đó đang có 900 ngàn các căn hộ phá sản vì mất khả năng chi
trả, bằng 10% số nhà cửa ở Mỹ. Không những thế con số này vẫn tiếp tục tăng
theo thời gian. Và đến giữa năm 2008 việc thiếu tiền thanh khoản, sự xuống giá
liên tục của thí trường bất động sản, và khủng hoảng thiếu tiền của các ngân
hàng đã gây ra một loạt tác động xấu tới tài chính Mỹ. 17
Trước hết phải xét đến việc nền kinh tế Mỹ thiếu tiền thanh khoản. Do các
ngân hàng phải tiến hành thu hồi các khoản vay, dẫn đến sự thiếu thanh khoản
của thị trường. Tình trạng này khơng chỉ xảy ra với ngân hàng mà các cịn với
các cơng ty tài chính. Tiếp theo phải kể đến sự bất ổn của thị trường bất động

17


Dẫn theo />
17


sản: giá nhà đất liên tục xuống giá kéo theo một lọat các ảnh hưởng tới ngành
tài chính. Chính phủ Mỹ phải tuyên bố thu mua hai “ông trùm” cho vay mua
nhà trả góp Fannie Mae và Freddie Mac ( hai công ty nắm giữ phân nửa thị
trường vay nợ mua nhà của Mỹ) trong nỗ lự giải cứu hai công ty này khỏi phá
sản với hy vọng vực dậy thị trường địa ốc. 18
Khủng hoảng thiếu tiền do cho vay nợ quá cao đã khiến cho hàng loạt
ngân hàng Mỹ phải tuyên bố phá sản. Mở đầu là sự kiện vào đầu tháng 7/2008
khi chính phủ Mỹ phải tiếp quản ngân hàng bất động sản IndyMac sau khi ngân
hàng mất khả năng thanh tốn tiền gửi do khơng địi được các khoản cho vay
nhà đất. Mặc dù đã nỗ lực đưa ra một số biện pháp để giải cứu nền tài chính
nhưng tất cả đều khơng ngăn chặn được sự sụp đổ của một loạt cơng ty tín
dụng và ngân hàng, đẩy cuộc khủng hoảng tài chính trên tồn thế giới hết sức
trầm trọng.
1.3.1.2: Suy thoái kinh tế ở tất cả các lĩnh vực.
Từ năm 2005 GDP Mỹ liên tục giảm và giảm nhiều nhất vào năm 2007
khi chỉ đạt mức 2,2%. Đặc biệt là 3 tháng cuối năm 2007, mức tăng này chỉ đạt
0,6%. Nguyên nhân chủ yếu khiến GDP của Mỹ trong quý 4/2007 tăng chậm là
do lượng tiền chi tiêu và đầu tư vào lĩnh vực mua bán và xây dựng nhà mới
giảm mạnh, khối lượng hàng hóa của các nhà máy, xí nghiệp cũng bị giảm do
ảnh hưởng của những nhân tố gây khủng hoảng tài chính.19
“Bão” tín dụng hồnh hành đã khiến hàng loạt ngân hàng lớn tại Mỹ buộc
phải thắt chặt tiêu chuẩn cho vay, làm cản trở các hoạt động đầu tư vào sản
xuất và đặc biệt là tiêu dùng, lĩnh vực chiếm tới 2/3 giá trị kinh tế Mỹ. Hoạt
động sản xuất ngừng trệ, nhu cầu tiêu dùng bị cắt giảm mạnh từ nhiều nguyên
nhân khiến cho nền kinh tế mỹ bị ảnh hưởng nặng nề: minh chứng rõ nhất là
GDP tính theo PPP (tính theo sức mua) của Mỹ giảm dần từ năm 2005 đến nay.

Mặc dù đã có nhiều hoạt động từ phía chính phủ Hoa Kỳ nhằm kích thích cầu
thị trường nhưng khơng đem lại nhiều kết quả khả quan. Một phần nguyên
18

Dẫn theo />19
Dẫn theo />
18


nhân đến từ tình hình thất nghiệp. Từ năm 2008 tỉ lệ thất nghiệp tăng dần theo
thời gian, đỉnh điểm vào cuối tháng 11 khi chỉ trong vòng 1 tháng nền kinh tế
Mỹ đã mất đi 533.000 công việc đẩy tỉ lệ thất nghiệp lên mức 6,7% (mức cao
nhất trong vịng 13 năm trở lại đây).

20

Tình trạng thất nghiệp lan tới hầu hết

các ngành nghề. Nền kinh tế sản xuất rơi vào vịng luẩn quẩn chưa tìm ra lối
thốt.
Một lĩnh vực quan trọng khác của nền kinh tế Mỹ cũng giảm đáng kể là
đầu tư nước ngoài. Sự kiện khủng hoảng kinh tế Mỹ có nguồn gốc từ tiêu nhiều
hơn có, kéo dài từ ít nhất từ 1990 đến nay. Vì tiêu nhiều, nhập ngày càng cao
hơn xuất, thiếu hụt đã lên tới gần 6% GDP (800 tỷ một năm) và để tiếp tục chi
tiêu, Mỹ cần thu hút nguồn tài chính nước ngồi, điều này từ từ làm mất giá trị
đồng đơ la, và do đó khi khủng hoảng xảy ra, các đồng ngoại tệ khác bỏ chạy,
đồng đô lại càng mất giá. Thanh khoản lại càng thiếu hụt. Trước đây nước
ngồi mua nợ, khơng tính trái phiếu Bộ tài chính, đã là (243 tỷ), thì bây giờ họ
bán tống đi (44 tỷ). Cổ phiếu cũng vậy, họ bán cổ phiếu Mỹ thay vì mua vào.
1.3.2: Suy yếu vai trò trên thế giới.

Chiến tranh lạnh kết thúc với sự sụp đổ của Liên Xô đã khiến Mỹ trở
thành siêu cường duy nhất trên thế giới với sức mạnh to lớn cả về quân sự lẫn
kinh tế, cả thế giới đã nghĩ đến Mỹ với một trật tự mới, trật tự Pax-Americana.
Nhưng sự thật về sự tiến triển trong hai thập kỉ sau chiến tranh lạnh dường như
không theo mong muốn của người Mỹ khi hàng loạt các nền kinh tế mới nổi
trỗi dậy cộng với sự phục hồi của khối kinh tế Châu Âu ngày càng lớn mạnh
thách thức Mỹ trong vai trò bá chủ thế giới. Đặc biệt là sau sự kiện chấn động
11/9/2001, cái được gọi là siêu cường duy nhất bất khả xâm phạm của Mỹ
dường như khơng cịn nữa. Cùng với hành động trả đũa dưới chiêu bài chống
khủng bố càng làm Mỹ thêm sa lầy vào suy thoái và khủng hoảng dẫn đến sự
phân chia tầm ảnh hưởng trên thế giới với các quốc gia khác.

20

Dẫn theo />
19


1.3.2.1: Sự suy yếu của Mỹ tại khu vực trọng yếu:
Đầu tiên phải kể đến là khu vực Đông Nam Á, một khu vực trọng yếu có
tác động rất lớn tới con đường vận chuyển dầu mỏ của Mỹ (khoảng 60% lượng
dầu mỏ nhập khẩu vào Mỹ phải đi qua eo biển Malắcca của khu vực này. Từ
đầu thế kỉ XXI trở lại đây, Mỹ bắt đầu quay trở lại đây dưới những hình thức
hợp tác và trợ cấp kinh tế. Tuy nhiên Mỹ không thể nào lấy lại được vị thế như
trước đây. Mặc dù sức mạnh mềm mà Mỹ sử dụng ở khu vực này cũng rất lớn
khi đầu tư trực tiếp và ODA cho Đông Nam Á thuộc vào hàng ưu tiên của Mỹ.
Một phần do chính sách cân bằng quan hệ để tự bảo vệ mình của các nước
trong khu vực này mà quan hệ với Mỹ khơng cịn được gắn bó hay q xem
trọng như khoảng thời gian trước đây.
Một khu vực được coi là có quyết định ảnh hưởng rất lớn tới chính sách

đối ngoại (CSĐN) và nền kinh tế Mỹ: khu vực Trung Đông. Sau khi chiến
tranh lạnh kết thúc, khu vực này là trọng tâm CSĐN của Mỹ. Nguyên nhân đến
từ nhiều phía nhưng chủ yếu do sự phát triển vượt trội khiến cho Mỹ phụ thuộc
rất lớn vào nguồn năng lượng tại khu vực này. Hai cuộc chiến tranh vùng vịnh,
vai trị “người hồ giải hồ bình” cho xung đột Israel - Arập, đồng minh thân
cận với Arập Xêút giúp Mỹ gần như đã nắm được cả khu vực Trung Đông.
Nhưng chính sách ngày càng thiên vị cho Israel, làm cho thái độ của người
Palestine (khối cộng đồng người Hồi giáo) với Mỹ thay đổi đẩy tiến trình hồ
bình Trung Đơng vào thế bế tắc, xung đột Israel - Arập không ngừng leo thang.
Đồng thời sự kiện 11/9/2001 xảy ra làm thay đổi CSĐN của Mỹ với khu vực.
Dưới danh nghĩa chống khủng bố Mỹ đã tiến hành hai cuộc chiến tranh tại
Trung Đông. Nhưng sau cuộc chiến tranh thứ hai tại Iraq, uy tín và ảnh hưởng
của Mỹ đã xuống mức thấp nhất. Dư luận thế giới, kể cả những người ủng hộ
cuộc chiến, đều đặt câu hỏi không hiểu khối đồng minh do Mỹ đứng đầu có
khả năng giúp Iraq xây dựng một chế độ chính trị mới hay không. Việc người
Mỹ ở lại Iraq quá lâu cũng là một dấu hỏi nghi ngờ cho cộng đồng thế giới về
mục đích và ý đồ của Mỹ khi tiến hành chiến tranh tại đây. Vấn đề xung đột
Mỹ Iran cũng là nguyên nhân khiến Mỹ mất đi tầm ảnh hưởng quan trọng tại

20


đây. Với Mỹ thì Iran là con bài chiến lược quan trọng để kiểm sốt Trung Đơng
đồng thời kiềm toả con đường năng lượng vào Trung Quốc thông qua khu vực
này. Tuy nhiên những hoạt động mà Mỹ đã thực hiện với Iran không mang lại
được những hiệu quả mong muốn. Dường như Mỹ đang dần mất đi sự kiềm toả
và tầm ảnh hưởng của mình với khu vực này.
1.3.2.2: Suy yếu vai trò của Mỹ trong các khối đồng minh:
Xu hướng cân bằng quyền lực và sức mạnh cả về kinh tế lẫn chính trị với
các nước và khu vực phát triển trên thế giới đã không cho Mỹ được quyền áp

đặt mọi mong muốn trong cả kinh tế và quân sự như trước kia nữa. Sự phát
triển lấy lại được vị thế của Nga, cơn lốc phát triển Trung Quốc khiến cho Mỹ
phải cân bằng lại chính sách và hoạt động của mình trên thế giới. Giờ đây, lực
lượng và sức mạnh trên thế giới ngày càng trở nên cân bằng hơn với trật tự đa
cường, không một nước nào có thể áp đặt được chính sách và hành động của
mình được nữa.
1.4: CHÍNH SÁCH CỦA HAI NƯỚC:
1.4.1: Chính sách của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc :
Có thể thấy rằng thay đổi lớn nhất trong chính sách đối với châu Á của
chính quyền Bush đầu thế kỷ XXI là sự chuyển hướng tập trung từ quốc gia
này sang quốc gia khác. Trong một thập kỷ vừa qua, Bắc Kinh đã chiếm vị trí
trọng yếu trong chính sách của Washington. Từ khi lên nắm chính quyền, tổng
thống Bush áp dụng một chính sách cứng rắn lẫn mềm dẻo đối với Trung
Quốc. Quan điểm của chính quyền mới: Trung Quốc không phải là đối tác
chiến lược, cũng không phải là một kẻ thù tất yếu mà Trung Quốc là một đối
thủ cạnh tranh tiềm tàng trong khu vực và là một đối tác thương mại có thiện
chí hợp tác trong nhiều khu vực.
Chính sách này khơng chỉ quyết định bởi lợi ích quốc gia của Mỹ, lợi ích
chung của hai nước, mà còn được quyết định bởi sự cạnh tranh giữa các nước
lớn trên thế giới hiện nay. Hợp tác Trung - Mỹ trong vấn đề an ninh toàn cầu và
khu vực tiếp tục được thúc đẩy, Trung Quốc vẫn chiếm một vị trí quan trọng

21


trong chiến lược toàn cầu chống khủng bố của Mỹ. Tuy nhiên, bên cạnh tăng
cường hợp tác thì cạnh tranh chiến lược giữa Trung Quốc và Mỹ tăng lên trong
nhiệm kỳ hai của tổng thống Bush nhằm kiềm chế những ảnh hưởng và trỗi dậy
của Trung Quốc.
Trong quan hệ với Trung quốc trong giai đoạn 2005-2008, Hoa Kỳ có

năm lĩnh vực cần quan tâm trong chính sách đối với Trung Quốc. Thứ nhất là
sự hội nhập của Trung Quốc vào cộng đồng thế giới. Thứ hai là cùng nhau
ngăn chặn Bắc Hàn chế tạo vũ khí nguyên tử. Thứ ba là rút ngòi nổ ra khỏi lò
thuốc súng Đài Loan. Thứ tư là điều hòa mậu dịch giữa hai nước. Và sau cùng
là vấn đề dân chủ để tránh trường hợp tinh thần quốc gia cực đoan xuất hiện.
Trước hết, trong vấn đề hội nhập của Trung Quốc vào cộng đồng thế giới,
Hoa Kỳ có thể cùng với Nhật Bản, Ấn Độ và các nước khác vận dụng một
chính sách đối ngoại thích hợp để giúp Trung Quốc hội nhập vào cộng đồng thế
giới xứng đáng với vai trò cường quốc của Trung Quốc. Mặt khác, hiện nay
Trung quốc đang hợp tác với Hoa Kỳ chống khủng bố và quan trọng nhất là
hợp tác kềm chế sự phát triển vũ khí nguyên tử của Bắc Hàn. Trường hợp Đài
Loan, chính quyền Bush đã linh hoạt hơn trong vấn đề của Đài Loan, tăng
cường sức ép về vấn đề nhân quyền, nhân quyền sau một thời gian tương đối
mềm mỏng đối với Trung Quốc nhằm đổi lại sự hợp tác trong cuộc chiến
khủng bố và việc giải quyết vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên. Về vấn đề
mậu dịch, thị trường khổng lồ của Trung Quốc cũng cung cấp cho Mỹ một cơ
hội buôn bán to lớn vô hạn. Bởi vậy, Hoa Kỳ tiếp xúc với Trung Quốc tiếp tục
khuyến khích Trung Quốc thay đổi theo chiều hướng có lợi cho Mỹ, dùng
phương thức hồ bình để đưa Trung Quốc vào quỹ đạo hệ thống quốc tế do Tây
phương lãnh đạo. Sau cùng là tình trạng dân chủ và nhân quyền của Trung
quốc. Hiện nay Trung Quốc cởi mở kinh tế nhiều hơn cởi mở chính trị, mặc dù
chính trị được cởi mở hơn nhiều so với 10 năm trước đây. Hoa Kỳ có chính
sách thuyết phục Trung quốc đi vào con đường dân chủ như xây dựng một tầng
lớp trung lưu, áp dụng một chế độ pháp trị và giảm thiểu ảnh hưởng của chính
quyền trên sinh hoạt xã hội. Chính sách này giúp cho Trung Quốc một khi chủ

22


nghĩa xã hội bị kinh tế thị trường đẩy ra một bên lề lịch sử một chế độ pháp trị

sẽ xuất hiện thay vì một chủ nghĩa quốc gia cực đoan.
Thơng qua những mục tiêu trên, có thể thấy Trung Quốc có vai trị quan
trọng và độc đáo trong việc điều chỉnh chính sách đối ngoại của Mỹ. Xuất phát
từ lợi ích an ninh của bản thân, Hoa Kỳ hy vọng "thay đổi" Trung Quốc và ít
nhất là làm cho Trung Quốc không trở thành mối đe dọa của nước Mỹ trong
tương lai. Mặt khác, Hoa Kỳ vẫn coi Trung Quốc là đối thủ tiềm tàng, một
nước đe dọa chiến lược. Xét về lâu dài, mục tiêu của Hoa Kỳ là phải ngăn chặn
Trung Quốc trở thành một Liên Xô thứ hai, thách thức toàn diện quyền lực của
Hoa Kỳ hiện nay trên thế giới. Xét trong tương lai gần, Hoa Kỳ vẫn muốn
Trung Quốc tiếp tục giữ đà phát triển như hiện nay, vì đang phục vụ tốt cho các
mục tiêu của Mỹ. Nhưng trong thực tế, Mỹ lại muốn tránh đối kháng chiến
lược công khai với Trung Quốc. Đó cũng là nguyên nhân khiến Hoa Kỳ từ
nhiều năm qua phải sử dụng cả hai biện pháp cùng một lúc là "tiếp xúc" và
"kiềm chế". Khi mới lên cầm quyền, Tổng Thống Bush ngả nhiều về biện pháp
"kiềm chế", bằng cách chú trọng biện pháp bên ngoài (trách nhiệm quốc tế,
chia xẻ trong vai trò quốc gia phát triển) để ràng buộc Trung Quốc hơn là dùng
những áp lực chính trị bên trong của Trung Quốc (nhân quyền, dân chủ) để
kiềm chế.
1.4.2: Chính sách của Trung Quốc đối với Hoa Kỳ :
Tại Đại hội Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã xác định quan hệ với các
nước lớn trong đó có Mỹ là ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại. Trong
thời gian qua Trung Quốc rất chú trọng phát triển quan hệ với Mỹ, đặc biệt là
giai đoạn 2005-2008, chủ động tìm cách nối lại quan hệ khi có căng thẳng.
Trong giai đoạn này, tuy Trung Quốc ý thức được rằng Bush sẽ thi hành những
chính sách cứng rắn đối với Trung Quốc, nhưng do yêu cầu về mặt chiến lược
và thực lực chưa cho phép, Trung Quốc lựa chọn những vấn đề và thời điểm để
đấu tranh với Mỹ trong khn khổ chung là duy trì quan hệ tốt đẹp với Mỹ.
Thực chất, tuy Trung Quốc tiến hành chính sách ngoại giao, với một mặt
mong muốn cải thiện quan hệ Trung - Mỹ, nhưng mặt khác lại muốn làm suy


23


×