Tải bản đầy đủ (.pdf) (150 trang)

Mối quan hệ giữa đảng và chính quyền trong hệ thống chính trị thời kỳ đổi mới ở quận bình thạnh tp hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.23 MB, 150 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


NGUYỄN THỊ KIM DUNG

MỐI QUAN HỆ
GIỮA ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN
TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
THỜI KỲ ĐỔI MỚI Ở
QUẬN BÌNH THẠNH - TP.HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

TP.HỒ CHÍ MINH – 2011


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


NGUYỄN THỊ KIM DUNG

MỐI QUAN HỆ
GIỮA ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN
TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
THỜI KỲ ĐỔI MỚI Ở
QUẬN BÌNH THẠNH - TP.HỒ CHÍ MINH

Chuyên ngành: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC


Mã số: 60.22.85

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. LÊ TRỌNG ÂN

TP.HỒ CHÍ MINH - 2011


LỜI CÁM ƠN
……..

Để hoàn thành luận văn thạc sỹ, tác giả xin chân thành cám ơn
PGS.TS.Lê Trọng Ân là người đã trực tiếp hướng dẫn khoa học cho tác giả.
Tác giả cũng xin chân thành cám ơn các thầy cô trong khoa Triết, cùng
tập thể lớp Cao học Chủ nghĩa Xã hội khoa học khóa 2008 - 2011 đã truyền

đạt kinh nghiệm và đóng góp ý kiến để tác giả có thể hồn thành luận văn.
Trong q trình nghiên cứu, do có những hạn chế nhất định nên khơng
tránh khỏi những thiếu sót, vì thế tác giả rất mong được tiếp tục đóng góp ý
kiến từ q thầy cơ và các bạn để luận văn được hồn chỉnh hơn.

Tp.Hồ Chí Minh năm 2011
Tác giả

Nguyễn Thị Kim Dung


MỤC LỤC


Trang
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1

Chương 1: QUAN ĐIỂM MÁCXÍT VỀ ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN TRONG
HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ - CƠ SỞ LÝ LUẬN XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ
CHÍNH QUYỀN TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ QUẬN BÌNH THẠNH,
TP.HỒ CHÍ MINH
1.1. QUAN ĐIỂM MÁCXÍT VỀ ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN TRONG HỆ THỐNG
CHÍNH TRỊ .............................................................................................................. 8

1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về Đảng và chính quyền trong hệ
thống chính trị ......................................................................................................... 8
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng và chính quyền trong hệ thống chính trị .....24
1.1.3. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Đảng và chính quyền trong hệ
thống chính trị ........................................................................................................33
1.2. CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN TRONG HỆ THỐNG
CHÍNH TRỊ QUẬN BÌNH THẠNH THỜI KỲ ĐỔI MỚI ............................................40

1.2.1. Khái quát về địa lý, lịch sử hình thành và truyền thống văn hóa của quận
Bình Thạnh .................................................................................................... 40
1.2.2. Cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, chức năng của Đảng và chính quyền trong hệ
thống chính trị quận Bình Thạnh thời kỳ đổi mới ...................................................47
1.2.3. Thực chất của mối quan hệ giữa Đảng và chính quyền trong hệ thống chính
trị quận Bình Thạnh thời kỳ đổi mới.......................................................................67


Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY SỨC MẠNH CỦA
MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN TRONG HỆ THỐNG
CHÍNH TRỊ QUẬN BÌNH THẠNH THỜI KỲ ĐỔI MỚI

2.1. NHIỆM VỤ CƠ BẢN CỦA MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN
TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ QUẬN BÌNH THẠNH THỜI KỲ ĐỔI MỚI............. 73

2.1.1. Lãnh đạo và tổ chức thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - nhiệm vụ
trọng tâm của mối quan hệ giữa Đảng và chính quyền quận Bình Thạnh trong
thời kỳ đổi mới .............................................................................................. 73
2.1.2. Xây dựng Đảng và ổn định chính trị - nhiệm vụ then chốt của mối quan hệ
giữa Đảng và chính quyền, nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp xây dựng và phát
triển của quận Bình Thạnh......................................................................................79
2.1.3. Phát triển kinh tế, xây dựng Đảng và ổn định chính trị gắn liền với các mục
tiêu phát triển văn hóa, giáo dục – đào tạo, an sinh xã hội.......................................98
2.1.4. Những hạn chế và bài học kinh nghiệm của mối quan hệ giữa Đảng và chính
quyền trong hệ thống chính trị quận Bình Thạnh trong việc lãnh đạo, tổ chức thực
hiện các mục tiêu phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội.............................103
2.2. PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY SỨC MẠNH CỦA
MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
QUẬN BÌNH THẠNH THỜI KỲ ĐỔI MỚI VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ .....................112

2.2.1. Phương hướng, nhiệm vụ của mối quan hệ giữa Đảng và chính quyền trong
hệ thống chính trị quận Bình Thạnh thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế..............112
2.2.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy sức mạnh của mối quan hệ giữa
Đảng và chính quyền trong hệ thống chính trị quận Bình Thạnh hiện nay ............114

KẾT LUẬN.........................................................................................................130
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...........................................................135


1

PHẦN MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài
Hơn 80 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân
dân ta đã giành được nhiều thắng lợi to lớn trong tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội, mang lại một vị thế mới trên trường quốc tế. Những thắng lợi đó
đã chứng minh và khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam – Đảng do chủ tịch
Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và giáo dục là lực lượng chính trị duy nhất có
sứ mạng tổ chức, lãnh đạo nhân dân Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng
lợi khác trong thời kì cách mạng giải phóng dân tộc trước đây cũng như thời
kỳ xây dựng và phát triển đất nước hiện nay.
Với nhiệm vụ trọng tâm là đưa ra đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn,
hiệu quả và kịp thời cho từng giai đoạn phát triển của đất nước, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã từng bước củng cố và khẳng định vai trò quan trọng của mình trong hệ
thống chính trị của quốc gia, đại diện cho ý chí và lợi ích chính đáng của giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc.
Trong các thiết chế đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị,
ngồi Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội thành viên, Nhà nước là cơ
quan đảm nhận việc thể chế hóa, tổ chức và quản lý việc thực hiện đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng trong thực tiễn. Nhận thức được tầm quan trọng của
phương châm “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân lao động làm chủ”,
trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã khơng ngừng hồn thiện và đổi mới,
khắc phục những yếu kém và hạn chế để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Trong văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa
IX đã nêu rõ: “Tập trung nghiên cứu một cách hệ thống, cơ bản và đồng bộ về
sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị và tồn xã hội trong điều kiện
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.


2


Xây dựng và hoàn thiện các quy chế về sự lãnh đạo của Đảng trên các lĩnh vực
nhằm vừa nâng cao chất lượng và hiệu quả lãnh đạo của Đảng, vừa phát huy quyền
lực và hiệu lực quản lý nhà nước của các cơ quan chính quyền” [40,213]. Như vậy,
việc nghiên cứu và làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về đảng cầm quyền,
nhà nước quản lý và mối liên hệ giữa hai thành tố đó trong hệ thống chính trị là
nhiệm vụ vơ cùng quan trọng, mang ý nghĩa khoa học và thực tiễn cấp bách đối với
cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Trên thực tế, so với việc nghiên cứu hoạt động của chính quyền Nhà nước,
Đảng Cộng sản và hệ thống chính trị cấp Trung ương thì việc nghiên cứu chính
quyền, Đảng bộ và hệ thống chính trị cấp địa phương ở chừng mực nhất định, cịn
khơng ít khó khăn và hạn chế. Bởi vì, trước thời kỳ đổi mới, hệ thống chính trị cấp
địa phương chủ yếu phụ thuộc vào mơ hình tổ chức và hoạt động của cấp Trung
ương. Bước sang thế kỷ XXI, trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập quốc tế thì việc nghiên cứu những vấn đề về Đảng, chính quyền
trong hệ thống chính trị ở cấp địa phương càng trở nên cấp thiết và mang tính trọng
điểm. Điều kiện tiên quyết để có thể giải quyết những vấn đề trong phạm vi địa
phương, cơ sở là phải phát huy hiệu quả vai trị của Đảng và chính quyền trong hệ
thống chính trị, tạo được mối liên hệ khăng khít giữa Đảng và chính quyền, củng cố
hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở nhằm hồn thành tốt những nhiệm vụ do
Trung ương giao phó, cùng cả nước thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Việt Nam hiện có 64 tỉnh thành với 24 đơn vị hành chính, trong đó, thành phố
Hồ Chí Minh được xem là trung tâm kinh tế, văn hóa, du lịch, dịch vụ và giao lưu
quốc tế lớn nhất của cả nước. Với 19 quận và 5 huyện trực thuộc, thành phố Hồ Chí
Minh đang ngày càng thể hiện vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển chung
của quốc gia. Quận Bình Thạnh, một trong những quận tiêu biểu của thành phố có
tình hình kinh tế, chính trị - xã hội ổn định, đã và đang từng bước hồn thiện mọi
mặt nhằm đưa địa phương mình ngày càng đi lên trong thời kỳ cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa.



3

Sau hơn 25 năm đổi mới và phát triển, Đảng bộ cùng chính quyền quận Bình
Thạnh đã lãnh đạo và tổ chức thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước, xây dựng chính quyền “của dân, do dân, vì dân” ngày càng vững mạnh,
từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Đồng thời với
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa cũng như trong điều kiện hội nhập quốc tế, việc làm thế nào để xây dựng hệ
thống chính trị mà các thành tố trong nó thực sự trong sạch, vững mạnh đang là một
trong những yêu cầu cấp thiết đối với Bình Thạnh nói riêng và cả nước nói chung
trong tình hình hiện nay. Trên tinh thần đó, tác giả chọn vấn đề “Mối quan hệ giữa
Đảng và chính quyền trong hệ thống chính trị thời kỳ đổi mới ở quận Bình
Thạnh – Thành phố Hồ Chí Minh” cho đề tài luận văn Thạc sĩ Chủ nghĩa Xã hội
khoa học của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Những vấn đề về Đảng và chính quyền trong hệ thống chính trị là mảng đề tài
lớn, chứa đựng nhiều nội dung phong phú và phức tạp, đã được nhiều nhà nghiên
cứu lý luận quan tâm từ nhiều khía cạnh khác nhau, trong đó, có thể kể đến một số
cơng trình tiêu biểu sau:
Tác phẩm “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong thời
kỳ mới” do GS.TS.Nguyễn Phú Trọng – PGS.TS.Tô Huy Rứa – PGS.TS.Trần Khắc
Việt (Đồng chủ biên), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, năm 2004. Trong tác phẩm
này, các tác giả đã trình bày và phân tích những nội dung cơ bản về tình hình đổi
mới, chỉnh đốn Đảng, đồng thời, đề ra phương hướng và những giải pháp chủ yếu
nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong thời kỳ mới.
Tác phẩm “Nhà nước và trách nhiệm của Nhà nước” của PGS.TS.Nguyễn
Đăng Dung, Nhà xuất bản Tư Pháp, năm 2006. Tác phẩm này là công trình nghiên
cứu về Nhà nước và các hoạt động của Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt

Nam, về tổ chức bộ máy Nhà nước của một số quốc gia trên thế giới. Từ đó, đúc kết
những kinh nghiệm mang tính thực tiễn đối với việc xây dựng Nhà nước và trách
nhiệm của Nhà nước tại Việt Nam.


4

Tác phẩm “Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong điều kiện
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân” của
GS.TS.Phạm Ngọc Quang và TS.Ngô Kim Ngân (Đồng chủ biên), Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, năm 2007. Điểm nổi bật trong tác phẩm này là đã nêu lên được
những giải pháp mang giá trị thực tiễn cao nhằm đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước.
Một số tác phẩm, cơng trình nghiên cứu khác đề cập đến những nội dung cơ
bản về Đảng, chính quyền nhà nước, về những giải pháp phát huy vai trò của Đảng
và chính quyền trong hệ thống chính trị cơ sở. Tiếp cận theo hướng này có những
tác giả, tập thể tác giả tiêu biểu như:
Tác giả Phan Xuân Biên với tác phẩm “Một số vấn đề đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cấp cơ sở”, Nhà xuất
bản Đại học quốc gia, năm 2005.
Tác giả Mạch Quang Thắng với tác phẩm “Đảng cộng sản Việt Nam. Những
vấn đề cơ bản về xây dựng Đảng”, Nhà xuất bản Lao động, năm 2007.
Tác phẩm “Cơ sở lý luận về hoạt động của hệ thống chính trị trong q trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” do PGS.TS.Lê Minh Thông chủ biên, Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2008.
Tác phẩm “Quan điểm và nguyên tắc đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam
giai đoạn 2005 – 2020” do PGS.TS.Trần Đình Hoan chủ biên, Nhà xuất bản Chính
trị quốc gia, Hà Nội, năm 2008.
Tác phẩm “Hệ thống chính trị nước ta trong thời kì đổi mới” do
GS.VS.Nguyễn Duy Quý chủ biên, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội,

năm 2008.
Ngoài ra, một số luận văn, luận án cũng bàn về những vấn đề liên quan đến đề
tài này như:
Luận án Tiến sĩ của Huỳnh Thành Lập với đề tài “Quan hệ biện chứng giữa
chính quyền với các thành tố trong hệ thống chính trị của Thành phố Hồ Chí Minh
thời kì đổi mới”, năm 2009. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án này thể hiện


5

ở chỗ: đã phân tích, đánh giá và khẳng định mối quan hệ gắn bó chặt chẽ giữa chính
quyền với Đảng bộ và các tổ chức chính trị - xã hội. Từ đó đề xuất những phương
hướng và giải pháp mang tính định hướng nhằm tiếp tục đổi mới tổ chức hoạt động
của chính quyền và hệ thống chính trị thành phố.
Luận văn Thạc sĩ khoa học Lịch sử của Phí Hiền Phương với đề tài “Đảng bộ
Quận Bình Thạnh lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội từ 1986 đến 2006”, năm 2009.
Trong đó, tác giả trình bày cụ thể quá trình lãnh đạo của Đảng bộ với việc phát triển
kinh tế quận Bình Thạnh qua từng giai đoạn cụ thể, nhấn mạnh tầm quan trọng của
Đảng bộ Bình Thạnh trong lĩnh vực kinh tế.
Bên cạnh đó cịn có một số bài viết đăng trên các báo, các tạp chí bàn đến
những khía cạnh khác nhau về những vấn đề liên quan đến đề tài như:
Trần Lưu Hải (Ủy viên Trung ương Đảng – Phó trưởng Ban Tổ chức Trung
Ương) với bài viết “Tiếp tục xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh”,
Tạp chí Xây dựng Đảng, 24/07/2010.
Nguyễn Văn Việt với bài viết “Xây dựng chính quyền địa phương cơ sở của
dân, do dân, vì dân trong điều kiện mới”, Báo điện tử Đảng Cộng Sản, 08/09/2010.
Tất cả những tác phẩm, cơng trình nghiên cứu trên là nguồn tư liệu quí để tác
giả tham khảo, phục vụ cho việc thực hiện đề tài. Tuy nhiên, cho đến nay việc
nghiên cứu về vai trò của Đảng và chính quyền cấp cơ sở và trên cơ sở vẫn còn khá
hạn chế, nhiều vấn đề mới nảy sinh, từ thực tiễn nhất là trong điều kiện kinh tế thị

trường và hội nhập quốc tế và tồn cầu hóa, vừa có thời cơ, thuận lợi, vừa tiềm ẩn
những nguy cơ khó lường. Bởi vậy, cần tập trung nghiên cứu lý luận và tổng kết
thực tiễn nói chung, nghiên cứu lý luận và thực tiễn của mối quan hệ giữa Đảng và
chính quyền cấp cơ sở và cấp trên cơ sở (cấp quận – huyện) càng trở nên cấp bách,
phù hợp với chủ trương đổi mới công tác lý luận của Đảng ta hiện nay. Trên tinh
thần đó, tác giả lựa chọn nghiên cứu vấn đề này trên địa bàn quận Bình Thạnh
(Thành phố Hồ Chí Minh) nhằm góp phần xây dựng Đảng, chính quyền và hệ thống
chính trị ở địa phương.


6

3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Mục đích của luận văn là phân tích và làm rõ quan điểm mácxít về Đảng,
chính quyền, và mối quan hệ giữa Đảng, chính quyền trong hệ thống chính trị cấp
cơ sở và cấp trên cơ sở trên địa bàn quận Bình Thạnh, trên cơ sở phân tích thực
trạng của mối quan hệ giữa Đảng và chính quyền; từ đó kiến nghị một số giải pháp
nhằm phát huy vai trị của Đảng, chính quyền trong hệ thống chính trị quận Bình
Thạnh trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để thực hiện mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ chủ
yếu sau:
Thứ nhất, khái quát về cơ cấu tổ chức của Đảng và chính quyền trong hệ thống
chính trị quận Bình Thạnh.
Thứ hai, phân tích và luận giải thực trạng của mối quan hệ giữa Đảng và chính
quyền trong hệ thống chính trị quận Bình Thạnh trong việc thực hiện các mục tiêu
kinh tế - chính trị - xã hội của quận.
Thứ ba, kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của mối quan hệ
giữa Đảng và chính quyền trong hệ thống chính trị quận Bình Thạnh thời kỳ đổi

mới và hội nhập quốc tế.
3.3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung phân tích mối quan hệ giữa Đảng bộ và chính quyền trong
hệ thống chính trị trên địa bàn quận Bình Thạnh thơng qua việc lãnh đạo thực hiện
các mục tiêu kinh tế - chính trị - xã hội mà Nghị quyết các kỳ Đại hội của Ban Chấp
hành Đảng bộ Quận đã đề ra.
Về mặt thời gian, luận văn tập trung nghiên cứu mối quan hệ giữa Đảng và
chính quyền trong hệ thống chính trị quận Bình Thạnh từ khi đất nước bước vào
thời kì đổi mới, tức từ Đại hội Đảng lần VI (1986) đến nay.


7

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Để thực hiện được mục đích và nhiệm vụ đặt ra, tác giả dựa trên cơ sở thế giới
quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Đảng, chính quyền, mối quan hệ giữa
Đảng và chính quyền trong hệ thống chính trị. Đồng thời, tác giả kết hợp sử dụng
một số phương pháp nghiên cứu khác như: phương pháp, phân tích – tổng hợp, diễn
dịch – quy nạp, logic – lịch sử, so sánh - đối chiếu, v.v.. để thực hiện luận văn.
5. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
5.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần làm rõ quan điểm lý luận khoa học và cách mạng của Chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về Đảng và chính quyền, mối quan hệ giữa Đảng và chính quyền trong hệ
thống chính trị. Qua đó, góp phần nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của mối
quan hệ và việc phát huy mối quan hệ giữa Đảng và chính quyền trong hệ thống
chính trị trong tình hình mới.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cấp chính

quyền, các Đảng bộ và các tổ chức chính trị - xã hội cấp cơ sở ở quận Bình Thạnh;
hoặc có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ học tập và nghiên cứu của học
viên, sinh viên đang theo học các chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học, Chính
trị học, Hành chính học, Lịch sử đảng, v.v..
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chủ yếu
của luận văn được kết cấu gồm 2 chương 4 tiết.


8

Chương 1
QUAN ĐIỂM MÁCXÍT VỀ ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN TRONG HỆ THỐNG
CHÍNH TRỊ - CƠ SỞ LÝ LUẬN XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN TRONG
HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
QUẬN BÌNH THẠNH, TP.HỒ CHÍ MINH

1.1. QUAN ĐIỂM MÁCXÍT VỀ ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN TRONG HỆ
THỐNG CHÍNH TRỊ

1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về Đảng cầm quyền và chính
quyền trong hệ thống chính trị
Đối với lịch sử phát triển tư tưởng của nhân loại, chủ nghĩa Mác – Lênin được
đánh giá là một hệ thống lý luận mang tính khoa học và cách mạng về những quy
luật chung nhất của sự vận động và phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. Trong
suốt quá trình hình thành và phát triển của mình, chủ nghĩa Mác – Lênin đã cống
hiến cho kho tàng lý luận mácxít những quan điểm, tư tưởng có giá trị thực tiễn trên
nhiều lĩnh vực như chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, v.v.. Xuyên suốt nội dung của
chủ nghĩa Mác – Lênin là những luận điểm về giai cấp, đấu tranh giai cấp, về việc
tổ chức một chính đảng cách mạng của giai cấp cơng nhân, về chun chính vơ sản

và việc hồn thành sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong từng giai đoạn
cách mạng cụ thể. Một trong những vấn đề được C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin
đặc biệt quan tâm đó chính là vấn đề chính đảng của giai cấp và chính quyền nhà
nước trong hệ thống chính trị. Đây là nội dung cốt lõi trở thành lý luận soi đường
cho cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản và nhân dân lao động trên toàn thế
giới chống lại mọi sự áp bức, bóc lột, thiết lập nên chính quyền nhà nước do Đảng
của giai cấp cơng nhân lãnh đạo. Với những giá trị khoa học và cách mạng, chủ
nghĩa Mác – Lênin đã trở thành nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam trong toàn bộ
hoạt động của Đảng và nhà nước Việt Nam ta từ khi có chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn
dắt, lãnh đạo.
Hệ thống chính trị mà cốt lõi của nó là hai thành tố “đảng” và “chính quyền”
ln là những vấn đề trọng tâm của chủ nghĩa Mác. Đề tìm hiểu sâu sắc những quan


9

điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về đảng và chính quyền thì trước tiên cần tìm hiểu
về vấn đề “hệ thống chính trị”.
Trong các tác phẩm của mình, mặc dù không đưa ra một định nghĩa đầy đủ
hay thuật ngữ “hệ thống chính trị” cụ thể nhưng các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác – Lênin đã đề cập đến vấn đề hệ thống chính trị thơng qua một số thuật ngữ
như “hình thức chính trị”, “cơ cấu chính trị”, “cơ cấu chính quyền”, v.v.. Cùng với
việc nghiên cứu những quy luật vận động của xã hội tư sản và dựa vào khuynh
hướng phát triển của xã hội lúc bấy giờ, C.Mác và Ăngghen đã chỉ ra một số nét
chính trong việc hình thành hệ thống chính trị vơ sản trong tương lai. Theo C.Mác,
“Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến
cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá
độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy khơng thể là cái gì khác hơn là nền chun
chính cách mạng của giai cấp vơ sản” [87,47]. Thơng qua tình hình thực tiễn của
cách mạng, trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, hai ông cũng khẳng định: “Sự

sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu như nhau”
[85,613]. Các ông nhấn mạnh, giai cấp vô sản với địa vị kinh tế - xã hội của mình,
là sản phẩm của nền đại cơng nghiệp tư bản chủ nghĩa sẽ không bị tiêu vong như
các giai cấp khác mà lớn lên cùng với sự phát triển của nền công nghiệp, và cũng là
giai cấp mang sứ mệnh lịch sử, làm cách mạng lật đổ chủ nghĩa tư bản và xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Khi cách mạng thành cơng thì giai cấp vơ sản phải thiết lập nền
chun chính vơ sản và sử dụng quyền lực chính trị ấy để cải tạo xã hội cũ, xây
dựng xã hội mới.
Với cơ sở thực tiễn của Công xã Pari – nhà nước chun chính vơ sản đầu tiên
trên thế giới, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra những nguyên tắc cần thiết để hình
thành hệ thống chính trị vơ sản: thứ nhất, hệ thống chính trị vơ sản phải đảm bảo
quyền thống trị của giai cấp vô sản, nghĩa là phải đặt dưới sự lãnh đạo của tổ chức
đảng; thứ hai, hệ thống chính trị đó phải lấy nhà nước chun chính vơ sản làm
nịng cốt để bảo đảm quyền làm chủ thực sự cho nhân dân. Hệ thống chính trị đó
được xây dựng dựa trên cơ sở khối liên minh rộng rãi của giai cấp công nhân với


10

đông đảo quần chúng nhân dân lao động, dưới sự quản lý của một nhà nước đại biểu
cho lợi ích của đa số tầng lớp trong xã hội. Đồng thời, hệ thống chính trị đó phải tạo
điều kiện cho sự giải phóng giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động về kinh tế.
C.Mác, Ph.Ăngghen cho rằng chun chính vơ sản là sự lãnh đạo của nhân
dân đối với nhà nước và tồn xã hội. Trong đó, giai cấp cơng nhân giành lấy dân
chủ bằng bạo lực cách mạng và đưa nhân dân lao động lên nắm chính quyền, tạo
điều kiện cho nhân dân thực sự trở thành người chủ của đất nước và toàn xã hội.
Nhiệm vụ quan trọng nhất của chun chính vơ sản, đó là xây dựng xã hội về mọi
mặt, trước hết là xây dựng về kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất cho sự giải phóng
tồn xã hội thốt khỏi áp bức, bất cơng. Và để xây dựng xã hội mới, giai cấp vô sản
sử dụng cơng cụ của mình là nhà nước chun chính vơ sản vì nhà nước vơ sản

chính là trung tâm của hệ thống chính trị vơ sản. C.Mác và Ph.Ăngghen cũng nhấn
mạnh, nhà nước chun chính vơ sản có thể có nhiều hình thức khác nhau, phù hợp
với điều kiện của từng dân tộc, nhưng dù dưới hình thức nào thì về thực chất vẫn
phải là chun chính của giai cấp vô sản.
Những quan điểm và tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen sau này đã được
V.I.Lênin kế thừa và phát triển thành công dựa trên thực tiễn cách mạng và xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô. Theo V.I.Lênin, hệ thống chính trị của nền
chun chính vơ sản bao gồm: tổ chức tiên tiến nhất đó là Đảng Cộng sản sẽ giữ vai
trị lãnh đạo, chính quyền nhà nước là yếu tố cơ bản giữ vai trò quản lý xã hội và
các tổ chức quần chúng sẽ giữ vai trị làm nền tảng cho hệ thống chính trị. Từ thực
tiễn cách mạng Nga, V.I.Lênin khẳng định: “Nguyên tắc cao nhất của chun chính
là duy trì khối liên minh giữa giai cấp vô sản và nông dân để giai cấp vơ sản có thể
giữ được vai trị lãnh đạo và chính quyền nhà nước”[83,57]. Luận giải về chun
chính vơ sản, Lênin cho rằng: “Chun chính vơ sản là một hình thức đặc biệt của
liên minh giai cấp giữa giai cấp vô sản, đội tiên phong của những người lao động,
với đông đảo những tầng lớp lao động không phải vơ sản (tiểu tư sản, tiểu chủ, nơng
dân, trí thức, v.v..) hoặc với phần lớn những tầng lớp đó, liên minh nhằm chống lai
tư bản, liên minh nhằm lật đổ hoàn toàn tư bản, tiêu diệt hoàn toàn sự chống cự của


11

giai cấp tư sản và những mưu toan khôi phục của giai cấp ấy, nhằm thiết lập và
củng cố vĩnh viễn chủ nghĩa xã hội”[81,452]
Như vậy, xét một cách tổng quát thì quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về
“hệ thống chính trị” là quan điểm về chuyên chính vơ sản, về hệ thống chính trị vơ
sản, mà thực chất là về hệ thống chun chính vơ sản, thể hiện thơng qua hai thành
tố chính đó là Đảng cộng sản và nhà nước chun chính vơ sản.
Trong hai thành tố quan trọng nhất của hệ thống chính trị - “đảng” và “chính
quyền” thì trước tiên cần tìm hiểu về thành tố “chính quyền”, bởi vì, xét về lịch sử

hình thành thì có thể nói phạm trù “chính quyền” liên quan đến vấn đề “quyền lực”
– một vấn đề đã được nghiên cứu từ khá lâu, trước khi có sự xuất hiện phạm trù
“đảng cầm quyền”.
Đề cập đến vấn đề “chính quyền” trong quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin,
đầu tiên cần phải xác định, đối với chủ nghĩa mácxít thì vấn đề “chính quyền” chính
là vấn đề “quyền lực chính trị”, chun chính giai cấp; hay nói cách khác đó là vấn
đề về giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước của một giai cấp nhằm mang lại lợi
ích cho giai cấp đó. Chính vì vậy, vấn đề “chính quyền” ln đi đơi với vấn đề “nhà
nước”, nếu khơng có nhà nước thì khơng có chính quyền và ngược lại, nếu khơng
có chính quyền thì việc thực hiện cơng cụ chun chính của nhà nước là khơng thể,
chính quyền và nhà nước ln thống nhất với nhau để cùng tồn tại.
Dựa trên quan điểm quy vật biện chứng và duy vật lịch sử, chủ nghĩa Mác –
Lênin đã đưa ra những dẫn chứng khoa học về nguồn gốc hình thành nên nhà nước
và bản chất, chức năng của nhà nước, từ đó làm sáng tỏ những vấn đề liên quan đến
yếu tố “quyền lực”. Chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng nhà nước không phải là một
hiện tượng xã hội bất biến, mà ngược lại nó ln thay đổi, do đó mà “chính quyền”
và quyền lực chính trị” cũng thay đổi không ngừng qua từng giai đoạn cụ thể của
lịch sử phát triển nhân loại. Với những cơng trình nghiên cứu khoa học, các ơng
khẳng định “nhà nước” không xuất hiện cùng với sự xuất hiện của lồi người, chỉ
khi nào con người đạt đến trình độ phát triển nhất định, “nhà nước” mới bắt đầu


12

hình thành. Nhà nước cũng sẽ tiêu vong khi những điều kiện khách quan cho sự tồn
tại của nhà nước khơng cịn nữa.
Đúc kết thành quả của các nhà khoa học đi trước, trong tác phẩm “Nguồn gốc
của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước”, Ph.Ăngghen đã đưa ra những
quan điểm có giá trị về nguồn gốc của “nhà nước”. Theo đó, chúng ta biết được chế
độ cộng sản nguyên thủy – hình thái kinh tế, xã hội đầu tiên trong lịch sử nhân loại,

là xã hội chưa có giai cấp và cũng chưa có sự tồn tại của nhà nước. Tuy nhiên,
những nguyên nhân dẫn đến sự hình thành nhà nước lại nảy sinh từ chính xã hội đó,
và từ xã hội đó, yếu tố “quyền lực” đã được hình thành dưới những hình thức đơn
giản nhất, chính từ những chất liệu đó, chủ nghĩa Mác đã hình thành nên những
quan điểm cơ bản về xã hội xã hội chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Cơ sở kinh tế của xã hội cộng sản nguyên thủy là chế độ sở hữu chung về tư
liệu sản xuất và sản phẩm lao động. Do trình độ sản xuất thấp kém, công cụ lao
động thô sơ, con người chưa có nhận thức đúng đắn về bản thân và tự nhiên xung
quanh, họ ln trong tình trạng sợ hãi và bị khuất phục trước những hiện tượng bất
thường của tự nhiên. Trong điều kiện đó, con người không thể sống tách biệt theo
cá nhân mà phải sống theo cộng đồng, theo tập thể, dựa trên nguyên tắc “bình
quân”, nghĩa là mọi người bình đẳng trong lao động và trong hưởng thụ, khơng ai
có tài sản riêng, khơng có kẻ giàu người nghèo, do đó mà cũng khơng có tình trạng
chiếm đoạt tài sản trong cộng đồng, chưa có phân chia giai cấp và cũng khơng có
đấu tranh giai cấp.
Thiết chế trong xã hội cộng sản nguyên thủy là “thị tộc” – một tổ chức lao
động sản xuất, một bộ máy kinh tế - xã hội đầu tiên trong lịch sử loài người. Thị tộc
được tổ chức dựa trên huyết thống, ở giai đoạn đầu do những điều kiện về kinh tế,
xã hội và hôn nhân, thị tộc được tổ chức theo chế độ mẫu hệ. Khi sự phát triển của
kinh tế xã hội lên đến mức độ cao hơn thì quan hệ trong hơn nhân cũng thay đổi, địa
vị của người phụ nữ trong thị tộc giảm dần, nhường chỗ cho vai trị của người đàn
ơng ngày càng được khẳng định cho đến khi chế độ mẫu hệ chuyển thành chế độ
phụ hệ.


13

Trong chế độ cộng sản nguyên thủy, “quyền lực” chưa tách khỏi xã hội mà gắn
liền với xã hội. Dựa trên những nghiên cứu về xã hội cổ đại, Ph.Ăngghen đã đưa ra
quan điểm như sau: thị tộc bầu ra tù trưởng (người cầm đầu trong thời bình) và

người thủ lĩnh (chỉ huy quân sự); người tù trưởng được chọn ngay trong những
thành viên của thị tộc; chức vụ tù trưởng mang tính kế thừa, cịn riêng với chức
người thủ lĩnh thì có thể chọn những người ngồi thị tộc. Quyền lực của người tù
trưởng trong thị tộc là quyền lực gia trưởng, nhưng chủ yếu là về đạo đức và quan
trọng là tù trưởng khơng có bất kì phương tiện cưỡng bách nào trong tay. Người tù
trưởng được bầu ra từ một cuộc bầu cử thông qua “hội đồng thị tộc” – tức đại hội
dân chủ của toàn thể các thành viên thị tộc, tất cả đàn ông cũng như đàn bà đều có
quyền tham gia bầu cử và quyền bãi miễn chức vụ ấy. Hội đồng thị tộc có quyền
quyết định tất cả những cơng việc quan trọng như: tổ chức phân công lao động sản
xuất, tiến hành chiến tranh, tổ chức các nghi lễ tôn giáo, giải quyết tranh chấp nội
bộ, thu nạp thành viên, v.v.. Những quyết định của hội đồng thể hiện ý chí chung
của cộng đồng và có tính bắt buộc chung với mọi thành viên thị tộc. Có thể nói hội
đồng là cơ quan quyền lực cao nhất của thị tộc và mang tính dân chủ.
Cùng với sự phát triển của xã hội, do nhiều yếu tố khác nhau tác động, trong
đó có sự tác động của chế độ hôn nhân ngoại tộc đòi hỏi các thị tộc phải mở rộng
các quan hệ với các thị tộc khác, dẫn đến sự xuất hiện các bào tộc và bộ lạc. Bào
tộc là một liên minh bao gồm nhiều thị tộc hợp lại. Tổ chức quyền lực của bào tộc
chủ yếu vẫn dựa trên những nguyên tắc tổ chức của thị tộc, nhưng đã thể hiện sự tập
trung quyền lực cao hơn. Bộ lạc bao gồm nhiều bào tộc hợp lại, và tổ chức quyền
lực cũng dựa trên cơ sở giống bào tộc. Tuy nhiên, quyền lực vẫn là quyền lực xã
hội, mang tính cộng đồng, chưa mang tính giai cấp.
Trong q trình lao động sản xuất, hoạt động của con người ngày càng phong
phú, chủ động và tự giác hơn trước. Con người ngày càng có nhận thức đúng đắn về
những hiện tượng tự nhiên, biết tích lũy những kinh nghiệm trong lao động sản
xuất, không ngừng cải tiến công cụ lao động, nhờ đó mà năng suất lao động ngày
càng tăng. Việc con người thuần dưỡng được động vật đã mở ra một kỷ nguyên mới


14


trong sự phát triển của xã hội lồi người, chính những đàn gia súc được thuần
dưỡng đã trở thành những nguồn tài sản tích lũy ban đầu, là mầm mống hình thành
chế độ tư hữu. Khi chăn ni phát triển và tách dần khỏi trồng trọt, phân công lao
động cũng dần dần chuyển sang một hình thái mới cao hơn, con người tạo ra số
lượng của cải nhiều hơn nhu cầu cần thiết cho cá nhân, sản phẩm thừa xuất hiện và
những mâu thuẫn xã hội cũng bắt đầu nảy sinh. Q trình phân cơng lao động xã
hội thay đổi làm xuất hiện thêm một số ngành nghề, đồng thời sự phân biệt giữa
người có của và người khơng có của, giữa chủ nô và nô lệ cũng ngày càng sâu sắc,
mâu thuẫn giữa các tầng lớp trong xã hội ngày càng tăng cao. Ph.Ăngghen nhận
định: “Mưu toan đầu tiên để thành lập nhà nước là ở chỗ đập tan những liên hệ thị
tộc, bằng các phân chia những thành viên của mỗi thị tộc thành hạng người có đặc
quyền và hạng người khơng có đặc quyền, rồi lại phân chia hạng người nói sau
thành hai giai cấp tùy theo nghề nghiệp của họ, do đó mà đối lập giai cấp này với
giai cấp kia. Sự thống trị của quý tộc ngày càng tăng […] Phương tiện chủ yếu để
đàn áp quyền tự do của nhân dân là tiền và tệ cho vay nặng lãi”[88,167]. Đến lúc
này, xã hội phân chia thành những giai cấp đối lập nhau, luôn luôn mâu thuẫn và
đấu tranh gay gắt với nhau để bảo vệ lợi ích của giai cấp mình, tổ chức thị tộc
khơng thể giúp các thành viên điều hịa các mâu thuẫn, xã hội thị tộc cần một tổ
chức mới có đủ sức dẹp tan hay điều hòa các cuộc xung đột giai cấp. Tổ chức đó
chính là Nhà nước. Ph.Ăngghen viết: “Nhà nước là sản phẩm của một xã hội đã
phát triển tới một giai đoạn nhất định, nó là sự thú nhận rằng xã hội đó bị lúng
túng trong một mối mâu thuẫn với bản thân mà không sao giải quyết được, rằng xã
hội đó bị phân thành những mặt đối lập khơng thể điều hịa mà xã hội đó bất lực
khơng sao loại bỏ được.”[88,252]
Về bản chất của nhà nước, theo Ph.Ăngghen, nhà nước mang tính giai cấp:
“…Nhà nước là nhà nước của giai cấp có thế lực nhất, của cái giai cấp thống trị về
mặt kinh tế và nhờ có nhà nước mà cũng trở thành giai cấp thống trị về mặt chính trị
và do đó có thêm được những phương tiện mới để đàn áp và bóc lột giai cấp bị
áp bức”[88,255]. Về đặc trưng của nhà nước, theo Ph.Ăngghen, nhà nước có



15

hai đặc trưng cơ bản đó là: sự phân chia quản lý dân cư theo lãnh thổ và thiết
lập quyền lực công cộng. Nếu như trước kia xã hội cộng sản nguyên thủy tồn
tại một thứ “quyền lực công cộng” mang tính xã hội, thuộc về mọi thành viên
trong cộng đồng, khơng mang tính chính trị và giai cấp thì giờ đây, khi nhà
nước ra đời, “quyền lực công cộng” chỉ thuộc về một giai cấp, đó là giai cấp
thống trị. Theo Ph.Ăngghen: “Quyền lực cơng cộng đó đều tồn tại trong mỗi
nhà nước. Nó khơng phải chỉ gồm những người được vũ trang mà cịn gồm
những cơng cụ vật chất phụ thêm nữa, như nhà tù và đủ các loại cơ quan cưỡng
bức mà tổ chức xã hội không hề biết đến […]. Để duy trì quyền lực cơng cộng
đó, cần phải có sự đóng góp của cơng dân, đó là thuế má” [88,254].
V.I.Lênin từng nhận xét: “Nhà nước, tức là giai cấp vô sản được tổ chức thành
một giai cấp thống trị - lý luận ấy của Mác gắn liền mật thiết với tồn bộ học thuyết
của ơng về vai trị cách mạng của giai cấp vơ sản trong lịch sử, đỉnh cao của vai trò
ấy là chuyên chính vơ sản, là sự thống trị về chính trị của giai cấp vô sản” [78,33].
Kế thừa những tư tưởng có giá trị của chủ nghĩa Mác, đến thời đại của mình, thời
đại của chun chính vơ sản, của cách mạng Nga, V.I.Lênin đã phát triển những
quan điểm về “chính quyền nhà nước” một cách xuất sắc.
Trong tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”, V.I.Lênin đã khẳng định lại một
lần nữa những quan điểm của Ph.Ăngghen trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình,
của chế độ tư hữu và của nhà nước” về nguồn gốc hình thành nhà nước. Từ đó,
Người đã đưa ra định nghĩa tồn diện về nhà nước với nội dung như sau: Nhà nước
là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được,
là một cơ quan thống trị giai cấp, là cơ quan áp bức của một giai cấp này đối với
một giai cấp khác, là một bộ máy cho phép một giai cấp này được áp bức một giai
cấp khác. Xét từ góc độ lịch sử, Nhà nước tư sản là công cụ của giai cấp tư sản
dùng để trấn áp giai cấp vô sản, tuy nhiên, trong thời đại của Lênin, một mơ hình
chính quyền nhà nước mới ra đời, đó là “nhà nước chun chính vơ sản”. Nhà nước

vô sản công khai tuyên bố: nhiệm vụ thứ nhất của nó là trấn áp sự phản kháng của
giai cấp bóc lột cho đến khi triệt để tiêu diệt chúng. V.I.Lênin khẳng định: “Giai cấp


16

vơ sản cần có chính quyền nhà nước, cần có tổ chức sức mạnh tập trung, cần có tổ
chức bạo lực để trấn áp sự phản kháng của bọn bóc lột và lãnh đạo quảng đại quần
chúng nhân dân – nông dân, tiểu tư sản nửa vô sản trong công cuộc tổ chức nền
kinh tế xã hội chủ nghĩa”[78,32]. V.I.Lênin chỉ ra rằng, cần phải dùng bạo lực cách
mạng vô sản để xóa bỏ nhà nước của giai cấp tư sản chứ khơng thể để nó “tự tiêu
vong”, cịn đối với nhà nước vơ sản thì cần phải làm cho nó “tự tiêu vong” mà
khơng dùng đến bạo lực, đó là điểm mấu chốt của toàn bộ học thuyết Mác – Lênin
về nhà nước.
Thời đại của V.I.Lênin – thời đại của các cuộc cách mạng vô sản, của cao trào
các cuộc đấu tranh giai cấp, đã mở ra thực tiễn cho những vấn đề mà V.I.Lênin ln
quan tâm, đó chính là “chính quyền, nhà nước chun chính vơ sản”. Trước đó,
ngay từ năm 1848, trong “Tun ngơn của Đảng Cộng sản”, C.Mác và Ph.Ăngghen
đã quan tâm sâu sắc đến vấn đề chun chính vơ sản và hình thành nhà nước
chun chính vơ sản: “Giai cấp vơ sản sẽ dùng sự thống trị chính trị của mình để
từng bước một tước đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản, để tập trung tất
cả những công cụ sản xuất vào trong tay nhà nước, tức là trong tay giai cấp vô sản
đã được tổ chức thành giai cấp thống trị, và để tăng thật nhanh số lượng những lực
lượng sản xuất”[85,626]. Trong đó, C.Mác cũng khẳng định: “Quyền lực chính trị là
bạo lực có tổ chức của một giai cấp để trấn áp một giai cấp khác”[85,628], và quyền
lực chính trị của giai cấp vơ sản chỉ có thể được xác lập khi giai cấp vô sản dùng
bạo lực cách mạng đập tan bộ máy nhà nước của giai cấp tư sản, từ đó, giai cấp vơ
sản thực hiện chun chính vơ sản thơng qua việc xây dựng một nhà nước mới –
nhà nước chun chính vơ sản.
Đến lượt mình, V.I.Lênin cho rằng, yếu tố quyết định đối với vấn đề xây dựng

nền chuyên chính của giai cấp vơ sản là sự thống trị về chính trị, sự lãnh đạo tuyệt
đối của giai cấp vô sản đối với toàn xã hội. Bộ máy nhà nước kiểu mới dựa vào lực
lượng chuyên chính của nhân dân để đập tan mọi sự phản kháng của giai cấp tư sản,
đồng thời, cùng với đội tiền phong của mình là Đảng cộng sản, nhà nước vô sản
lãnh đạo quần chúng xây dựng xã hội mới, xã hội cộng sản chủ nghĩa. V.I.Lênin


17

viết: “Học thuyết đấu tranh giai cấp mà Mác vận dụng vào vấn đề nhà nước và vấn
đề cách mạng xã hội chủ nghĩa, tất nhiên phải đưa đến chỗ thừa nhận sự thống trị về
chính trị của giai cấp vơ sản, chun chính của giai cấp đó, tức là một chính quyền
khơng bị chia sẻ với ai hết, và trực tiếp dựa vào lực lượng vũ trang của quần chúng.
Giai cấp tư sản chỉ có thể bị lật đổ khi nào giai cấp vô sản trở thành giai cấp thống
trị đủ sức trấn áp sự phản kháng không thể tránh khỏi, sự tuyệt vọng của giai cấp tư
sản, và đủ sức tổ chức hết thảy quần chúng lao động và bị bóc lột để xây dựng một
chế độ kinh tế mới”[78,32]. Trong q trình thực hiện chun chính, giai cấp vơ sản
thể hiện lợi ích của mình thống nhất với lợi ích của tồn thể quần chúng bị áp bức,
bóc lột, vùng lên giành lấy quyền lãnh đạo làm điều kiện giải phóng cho giai cấp
mình, đồng thời giải phóng tồn thể giai cấp và các tầng lớp bị bóc lột khác trong xã
hội. Nguyên tắc tổ chức chuyên chính vơ sản là chế độ tập trung dân chủ, nhà nước
chun chính vơ sản là nhà nước của dân, do dân, vì dân, trong đó, “dân chủ nghĩa
là bình đẳng”[78,122].
V.I.Lênin cũng nhấn mạnh những vấn đề cụ thể cần thực hiện trong thực tiễn
để xây dựng một nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Thứ nhất, quyền bầu cử phải được
thực hiện và dần dần được mở rộng trong xã hội, bầu cử phải theo ngun tắc phổ
thơng, bình đẳng, trực tiếp, bỏ phiếu kín – hình thức tiến bộ của dân chủ hiện đại.
Qua đó, những người lao động tự lựa chọn ngưởi có đủ tài năng và nhân cách để
thay mặt mình giải quyết và quản lý nhà nước cũng như xã hội. V.I.Lênin cho rằng:
“Thực hành chế độ tuyển cử toàn diện, chế độ bãi miễn bất cứ lúc nào, đối với hết

thảy mọi viên chức không trừ một ai, rút số lương của họ xuống ngang mức “tiền
lương của cơng nhân” thơng thường, những hình thức dân chủ đơn giản và “tất
nhiên” ấy khiến cho lợi ích của đa số nơng dân hồn tồn kết hợp được với nhau,
đồng thời cũng dùng làm cái cầu dẫn từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội”[78,54]. Thứ hai, là quyền tham gia quản lý nhà nước của mọi công dân, không
trừ một ai, thể hiện vai trị làm chủ và sự đóng góp tối đa cơng sức của mỗi cá nhân
cho xã hội, “… mặt khác chế độ dân chủ có nghĩa là chính thức thừa nhận quyền


18

bình đẳng giữa những cơng dân, thừa nhận cho mọi người được quyền ngang nhau
trong việc xác định cơ cấu nhà nước và quản lý nhà nước”[78,123].
Đối với hoạt động quản lý xã hội của bộ máy nhà nước, V.I.Lênin cho rằng,
“Chúng ta cần nghiên cứu những đặc điểm của đoạn đường mới vô cùng gay go
đang dẫn tới chủ nghĩa xã hội, không nên giấu giếm những sai lầm và nhược điểm
của chúng ta, mà phải cố gắng kịp thời làm nốt những cái chúng ta chưa làm
xong.”[79,219]. Để có thể điều hành tốt những cơng việc của bộ máy chính quyền
mới, chính quyền vơ sản dân chủ cần có một đội ngũ những nhà lãnh đạo thực sự có
tài tổ chức, những người có bộ óc thực sự sáng suốt, bản lĩnh và tháo vát trong thực
tiễn, vừa trung thành với chủ nghĩa xã hội lại vừa có năng lực tổ chức công tác
chung vững chắc và nhịp nhàng, cần thử thách họ từ những nhiệm vụ đơn giản nhất
đến những nhiệm vụ khó khăn nhất, muốn quản lý tốt thì phải có “nghệ thuật”, bất
kì cơng tác quản lý nào cũng địi hỏi phải có trình độ khoa học nhất định, mà nghệ
thuật quản lý không phải người ta bẩm sinh đã có mà phải trải qua kinh nghiệm mới
đạt được, phải rèn luyện, theo V.I.Lênin, những người như vậy mới xứng đáng được
đề bạt lên những chức vụ lãnh đạo quản lý trong chính quyền. “Chuyên chính vơ
sản” và “dân chủ vơ sản” là điều kiện tiên quyết quan trọng đối với sự thành công
của việc xây dựng chủ nghĩa xã hội, một chính quyền vững mạnh được lãnh đạo bởi
một bộ máy nhà nước hoạt động hiệu quả sẽ mang đến những tiến bộ vượt bậc trong

quản lý xã hội. V.I.Lênin khẳng định: “Chỉ có chun chính vơ sản mới có khả năng
giải phóng nhân loại khỏi ách tư bản, khỏi sự giả dối, bịp bợm, giả nhân giả nghĩa
của dân chủ tư sản, tức là dân chủ cho bọn nhà giàu, và thiết lập dân chủ cho người
nghèo, nghĩa là làm cho công nhân và nông dân nghèo nhất được thực sự hưởng
những phúc lợi của nền dân chủ…”[80,480 - 481]
Vấn đề “chính quyền nhà nước”, “chun chính vơ sản” là những vấn đề gắn
liền với sự nghiệp hoạt động của C.Mác, Ph.Ăngghen cũng như V.I.Lênin. Sự tiếp
nối, kế thừa và phát huy những giá trị nền tảng mà C.Mác đã xây dựng đã góp phần
cho thành cơng của những luận thuyết của V.I.Lênin về nhà nước kiểu mới, về
Đảng vơ sản và chính quyền vơ sản. Có thể nói, những quan điểm, tư tưởng của chủ


19

nghĩa Mác và sau này là V.I.Lênin đã trở thành cơ sở lý luận quan trọng trong
những giai đoạn phát triển của cách mạng vô sản thế giới. Bên cạnh việc khai thác
và nghiên cứu về vấn đề “chính quyền, nhà nước”, những nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác cũng lưu tâm rất nhiều đến vấn đề luôn song hành với nó, đó chính là
yếu tố “Đảng cầm quyền”, “Đảng của giai cấp vô sản” hay “Đảng cộng sản”.
Trong những năm 30 – 40 của thế kỉ XIX, tại những nước tư bản phát triển,
giai cấp vô sản đã tiến hành nhiều cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản, đòi hỏi thực
hiện những yêu sách mang lại quyền lợi cho giai cấp mình về kinh tế lẫn chính trị.
Sự lớn mạnh của phong trào đấu tranh của giai cấp vơ sản địi hỏi cần có một tổ
chức đủ sức đứng ra lãnh đạo phong trào đi đến giành thắng lợi cuối cùng, tổ chức
ấy khơng gì khác chính là một “chính đảng cách mạng” của giai cấp. Ý thức được
tầm quan trọng của việc thành lập một chính đảng, C.Mác và Ph.Ăngghen đã dành
rất nhiều thời gian và công sức để xây dựng nên hệ thống các quan điểm lý luận về
Đảng của giai cấp vô sản, của giai cấp công nhân ngay từ những giai đoạn đầu của
các cuộc cách mạng vô sản. Ph.Ăngghen viết: “… chừng nào giai cấp vơ sản càng
trưởng thành để có thể tự giải phóng mình thì họ sẽ tự tổ chức thành một đảng riêng

biệt, bầu ra những đại biểu của riêng mình chứ khơng phải những đại biểu của
những nhà tư bản…”[88,257]
Về tính chất của Đảng Cộng sản, theo C.Mác và Ph.Ăngghen, Đảng cộng sản
là lực lượng tiên phong của toàn bộ giai cấp, tiên phong cả về lý luận và thực tiễn,
“… những người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở
tất cả các nước, là bộ phận luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến lên về mặt lý luận, họ
hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình
và kết quả chung của phong trào vô sản”[85,614-615], hơn thế nữa, trong nội bộ
đảng, phải lấy “chân lý, chính nghĩa và đạo đức là cơ sở cho những quan hệ của họ
đối với nhau và đối với tất cả mọi người, không phân biệt màu da, tín ngưỡng hoặc
dân tộc”[86,25]
Vai trị tiên phong của Đảng đảm bảo cho Đảng tập hợp được giai cấp vơ sản,
bên cạnh đó, Đảng cũng là bộ phận đấu tranh cho quyền lợi của giai cấp, luôn đứng


20

trên lập trường và nguyện vọng của giai cấp, của nhân dân lao động, lợi ích của
Đảng thống nhất với lợi ích của giai cấp. “Những người cộng sản chiến đấu cho
những mục đích và những lợi ích trước mắt của giai cấp công nhân, nhưng đồng
thời trong phong trào hiện tại, họ cũng bảo vệ và đại biểu cho tương lai của phong
trào”[85,644], “Họ tuyệt nhiên khơng có một lợi ích nào tách khỏi lợi ích của tồn
thể giai cấp vô sản”[85,614].
Về nhiệm vụ của Đảng cộng sản: giai đoạn thứ nhất, tổ chức những người vô
sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản và giành lấy chính quyền
về tay giai cấp vơ sản; giai đoạn thứ hai, dùng sự thống trị chính trị của mình để
đoạt lấy tồn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản để tập trung tất cả những công cụ
sản xuất vào trong tay nhà nước, “Nhà nước tức là giai cấp vô sản được tổ chức
thành giai cấp thống trị”[85,614]. Trong thời kì đầu của các cuộc cách mạng vô sản,
qua những quan sát thực tiễn, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh, muốn cách

mạng đi đến thắng lợi cuối cùng thì Đảng cần xác định rõ quan điểm cách mạng của
mình, đó là: dùng bạo lực lật đổ tồn bộ trật tự xã hội hiện có, nêu cao khẩu hiệu:
“Vơ sản tất cả các nước đồn kết lại”[85,646].
Do điều kiện và hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ, khi các Đảng vô sản chưa phát
triển và phong trào cách mạng của giai cấp vô sản vẫn cịn non yếu, C.Mác và
Ph.Ăngghen chưa có điều kiện nghiên cứu và phát triển học thuyết về Đảng cầm
quyền một cách hoàn chỉnh. Tuy nhiên, những giá trị về xây dựng Đảng, về những
nguyên tắc cơ bản trong việc hình thành một chính đảng của chủ nghĩa Mác đã tạo
tiền đề vững chắc cho sự tiếp nối sau này của V.I.Lênin.
Khi lãnh đạo phong trào cách mạng ở nước Nga, V.I.Lênin đã xác định rõ tầm
quan trọng đặc biệt của Đảng đối với toàn bộ phong trào đấu tranh giành chính
quyền của giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động: Đảng chính là người đưa yếu
tố “tự giác” vào phong trào công nhân, là người kết hợp chủ nghĩa xã hội với phong
trào công nhân, “Cuộc đấu tranh tự phát của giai cấp vô sản sẽ không trở thành cuộc
“đấu tranh giai cấp” thực sự của giai cấp vô sản, chừng nào nó chưa được một tổ
chức mạnh mẽ gồm những người cách mạng lãnh đạo”[75,173], tổ chức đó


×