Tải bản đầy đủ (.pdf) (165 trang)

Mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.55 MB, 165 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
=========

TRẦN VĂN ĐÔNG

MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2017


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

..........................................................................................1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI ……... 5
1.1. Các công trình nghiên cứu về đảng chính trị và vai trò của đảng chính trị
đối với nhà nước…………………………………………………………………....5
1.2. Các công trình nghiên cứu về nhà nước và vai trò của nhà nước đối với
đảng chính trị ở Việt Nam .......................................................................................15
1.3. Các công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước ở
Việt Nam hiện nay .......................................................................................18
1.4. Khái quát kết quả nghiên cứu và những vấn đề đặt ra luận án cần tiếp
tục nghiên cứu.. ............................................................................................24
Chương 2: MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC - MỘT SỐ
VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ………………………....28


2.1. Đảng, nhà nước và sự tác động qua lại lẫn nhau .. ...............................28
2.2. C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I. Lênin bàn về mối quan hệ giữa đảng và nhà
nước . ..........................................................................................................36
2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm Đảng Cộng sản Việt Nam về mối
quan hệ giữa đảng và nhà nước .......................................................................44
2.4. Kinh nghiệm quốc tế trong việc giải quyết mối quan hệ đảng và nhà
nước...........................................................................................................52
2.5. Sự thống nhất giữa cái phổ biến và cái đặc thù trong mối quan hệ giữa
Đảng và Nhà nước ở Việt Nam hiện nay...............................................................57
Kết luận chương 2.........................................................................................64
Chương 3: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA VỀ MỐI
QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY……...65
3.1. Một số nội dung có tính nguyên tắc về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước ở Việt Nam hiện nay...........................................................................65
3.2. Thực trạng mối quan hệ trong việc cụ thể hóa đường lối của Đảng thành
chính sách, pháp luật của Nhà nước........................................................................70


3.3. Thực trạng mối quan hệ trong việc tổ chức bộ máy các cơ quan Đảng và
Nhà nước.......................................................................................................74
3.4. Thực trạng mối quan hệ giữa Đảng với Quốc hội, Chính phủ, cơ quan
Tư pháp và chế định Chủ tịch Nước.......................................................................81
3.5. Thực trạng mối quan hệ trong việc kiểm tra, giám sát hoạt động của
Đảng và Nhà nước theo Hiến pháp và pháp luật.....................………..………...99
3.6. Những vấn đề đặt ra cần giải quyết đối với mối quan hệ giữa Đảng và
Nhà nước ở Việt Nam hiện nay............................................................................102
Kết luận chương 3.......................................................................................111
Chương 4: MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI MỐI QUAN HỆ GIỮA
ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY…………………………112
4.1 Đổi mới nhận thức và bổ sung lý luận về mối quan hệ giữa Đảng và Nhà

nước ở Việt Nam.........................................................................................113
4.2. Kiện toàn, sắp xếp, tinh giản bộ máy của Đảng và Nhà nước………..119
4.3. Tiếp tục hoàn thiện thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước và
công tác đánh giá, bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo của Đảng và Nhà nước..................125
4.4. Nghiên cứu cơ chế luật hoá mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước…..132
4.5. Xây dựng Ban chấp hành Trung ương Đảng trí tuệ, dân chủ và đoàn kết
là nhân tố quan trọng trong mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước …………….138
4.6. Nghiên cứu cơ chế nhất thể hóa chức danh Tổng Bí thư và Chủ tịch
Nước..........................................................................................................142
Kết luận chương 4.......................................................................................149
KẾT LUẬN.......................................................................................150
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN LUẬN
ÁN CỦA TÁC GIẢ.......................................................................................154
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................155


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong cấu trúc của hệ thống chính trị thì đả ng và nhà nước là hai bộ phận
quan trọng trong kiến trúc thượng tầng. Tuy bị quy định bởi cơ sở hạ tầng, song nó
lại có vai trò tác động, định hướng trở lại đối với cơ sở hạ tầng, sự tác động trở lại
đó chủ yếu là định hướng về bản chất, mục đích, chủ thể quyền lực trong xã hội.
Mối quan hệ giữa đảng chính trị, cầm quyền và nhà nước (trong luận án này gọi tắt
là “đảng và nhà nước”) là một quan hệ phổ biến trong xã hội có giai cấp, và có
quan hệ biện chứng với sự phát triển của hệ thống chính trị, phản ánh trình độ dân
chủ xã hội.
Ở Việt Nam, mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước đang từng bước củng cố,
hoàn thiện để bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, vừa phát huy tính chủ động, sáng tạo
của Nhà nước. Trong quá trình lãnh đạo, chúng ta đang gặp những khó khăn như
nhận thức một số vấn đề lý luận về vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ chế

hoạt động của Đảng và Nhà nước vẫn chưa rõ ràng, đầy đủ. Mặt khác, ở thời kỳ
trước đổi mới, trong “cơ chế tập trung quan liêu - bao cấp”, hầu hết lãnh đạo Đảng
thường “lấn sân”, bao biện, làm thay, thậm chí choán quyền cán bộ, lãnh đạo Nhà
nước. Song từ khi đổi mới, vai trò của các cơ quan đảng, các lãnh đạo của Đảng có
biểu hiện ngày càng mờ nhạt, kém tác dụng thực tiễn so với vai trò các cấp cơ quan
nhà nước, cán bộ, lãnh đạo nhà nước.
Thực trạng này, vừa hạn chế, vừa gây phương hại đến vai trò, năng lực, uy
tín lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, vừa hạn chế vai trò, chức năng, hiệu
lực, uy tín quản lý của cơ quan nhà nước; vừa có những vi phạm các quyền công
dân, quyền dân chủ, quyền làm chủ và lợi ích chính đáng của nhân dân, ảnh hướng
đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Nằm chung trong tính quy luật của mối quan hệ đó, song vấn đề quan hệ
giữa Đảng và Nhà nước ở Việt Nam hiện nay trong điều kiện một Đảng duy nhất
cầm quyền, Đảng duy nhất lãnh đạo đã, đang là một trong những vấn đề lý luận và
thực tiễn phức tạp trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội nói chung và từng
bước xây dựng hoàn thiện “nền dân chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam” nói riêng.

1


Ngoài ra, đất nước cũng phải đối mặt với không ít thách thức như: nguy cơ
tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và thế giới; tình trạng suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí rất nghiêm trọng; những biểu
hiện xa rời mục tiêu của Đảng, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có phức
tạp…Điều đó cho thấy, để lãnh đạo được xã hội và Nhà nước, Đảng phải có đủ
năng lực, trí tuệ và phẩm chất, bản lĩnh để hoạch định đường lối đúng cho toàn xã
hội, có khả năng chỉ đạo Nhà nước để thể chế hóa đường lối và tổ chức thực hiện
đường lối đó. Khi cầm quyền, Đảng phải thường xuyên và tích cực chống nguy cơ
quan liêu, xa rời quần chúng, thoái hóa biến chất, rơi vào đặc quyền đặc lợi, cắt đứt

mối liên hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân - nguồn sức mạnh của Đảng.
Để có cơ sở cho việc khắc phục hạn chế trong thực tiễn về mối quan hệ đó,
việc tiếp tục nghiên cứu sâu sắc, toàn diện và đầy đủ cả về lý luận lẫn thực tiễn
quan hệ giữa Đảng và Nhà nước ở Việt Nam hiện nay là một việc có ý nghĩa vừa
cơ bản, vừa cấp thiết, góp phần xây dựng và hoàn thiện nhân tố có vai trò quyết
định hàng đầu cho quá trình chỉnh đốn, xây dựng Đảng và cải cách Nhà nước theo
hướng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cho quá trình đổi mới hệ thống
chính trị, xây dựng, hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa của Việt Nam. Đồng
thời, xác định rõ thẩm quyền và trách nhiệm giữa Đảng và Nhà nước, thể chế hóa
vai trò lãnh đạo và vị trí cầm quyền của Đảng, tránh chồng chéo giữa chức năng
lãnh đạo của Đảng với chức năng quản lý của Nhà nước.
Như vậy, việc nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện, cả về lý luận và thực
tiễn mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước ở Việt Nam trên cơ sở tổng kết những
thành công, chỉ rõ những hạn chế, mâu thuẫn đang cản trở để rút ra những bài học
và đề xuất những giải pháp nhằm giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng và Nhà
nước là công việc hết sức cấp thiết. Từ những lý do trên, tác giả mong góp thêm
chút công sức của mình cho quá trình tiếp tục phát huy những thành tựu, đồng thời
hạn chế những sai sót, khó khăn, thách thức của nước ta trong quá trình tiếp tục đổi
mới, hoàn thiện hệ thống chính trị. Vì vậy, tác giả chọn đề tài “Mối quan hệ giữa
Đảng và Nhà nước ở Việt Nam hiện nay” làm luận án Tiến sĩ Triết học, chuyên
ngành Chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để nghiên cứu.

2


2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài tập trung làm rõ thêm một số vấn đề lý luận, thực tiễn về mối quan hệ
giữa đảng và nhà nước; nghiên cứu thực trạng mối quan hệ Đảng và Nhà nước ở
Việt Nam hiện nay; từ đó đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục đổi mới,

hoàn thiện mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước ở Việt Nam trong thời gian tới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án.
- Trình bày một cách có hệ thống các khái niệm công cụ tập trung trong việc
giải quyết mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
- Phân tích thực trạng về mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước ở Việt Nam
hiện nay và chỉ ra một số vấn đề đặt ra trong việc giải quyết tốt mối quan hệ này.
- Đề xuất, kiến nghị một số giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục khắc phục những
hạn chế, sai lệch, trên cơ sở đó phát huy những thành tựu của mối quan hệ giữa
Đảng và Nhà nước ở Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận án là “mối quan hệ Đảng và Nhà nước
ở Việt Nam” hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Không gian nghiên cứu: Luận án nghiên cứu mối quan hệ giữa Đảng Cộng
sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ở cấp Trung ương.
Thời gian nghiên cứu: Luận án giới hạn thời gian nghiên cứu bắt đầu từ Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ X (năm 2006) đến nay.
4. Cơ sở và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Luận án nghiên cứu lấy chủ nghĩa duy vật biệt chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử làm cơ sở xuyên suốt cho toàn bộ những luận giải của luận
án. Đồng thời, luận án chủ yếu dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về mối quan hệ
giữa Đảng và Nhà nước ở Việt Nam.

3



- Cơ sở thực tiễn: Luận án dựa trên thực trạng mối quan hệ giữa Đảng và
Nhà nước ở Việt Nam hiện nay để nghiên cứu, phân tích, đánh giá và đề xuất giải
pháp đổi mới mối quan hệ.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả luận án sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, phương pháp hệ thống để xác định vị trí và mối
tương quan giữa các chủ thể trong mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước.
Trên cơ sở phương pháp luận chung đó, tác giả luận án còn sử dụng các
phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp lịch sử - logic; phương pháp
phân tích - tổng hợp, phương pháp phỏng vấn sâu; phương pháp so sánh…
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Một là, luận án khiêm tốn góp phần hoàn thiện các nội dung về những cái
phổ biến và những cái đặc thù trong mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước ở Việt
Nam hiện nay, gắn với nền dân chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang từng bước
được xây dựng và hoàn thiện.
Hai là, góp phần làm rõ thêm thực trạng xử lý mối quan hệ giữa Đảng và
Nhà nước ở Việt Nam hiện nay. Đồng thời, góp phần luận cứ để chứng minh sự cần
thiết phải thực hiện các giải pháp đổi mới, hoàn thiện mối quan hệ giữa Đảng và
Nhà nước hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Luận án có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ việc nghiên cứu và giảng dạy
các vấn đề về triết học, chính trị học về Đảng, Nhà nước ở Việt Nam; là tài liệu
tham khảo phục vụ cán bộ, công chức làm công tác tổ chức, xây dựng Đảng và cơ
quan quản lý Nhà nước...
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
án gồm 4 chương và 21 tiết.

4



Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

Vấn đề về đảng và nhà nước, đặc biệt về mối quan hệ giữa đảng và nhà nước
là đối tượng nghiên cứu của khá nhiều nhà khoa học ở các lĩnh vực khác nhau như:
chính trị học, triết học, luật học, hành chính học, xã hội học… Trong “tổng quan
tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án”, tác giả luận án khái quát cơ bản
những công trình khoa học đã công bố có giá trị liên quan trực tiếp đến đề tài luận
án theo mã số chuyên ngành, mà cụ thể là:
1.1. Các công trình nghiên cứu về đảng chính trị và vai trò của đảng
chính trị đối với nhà nước
1.1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu trong nước
Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền, ở mỗi giai đoạn lại có những
điều kiện và đặc điểm khác nhau, theo đó tình hình nghiên cứu cũng có những bước
phát triển khác nhau. Trong số các công trình đó phải kể đến các công trình tiêu
biểu sau:
Trong cuốn: “Về Đảng Cộng sản Việt Nam” [108 và 109], các tác giả đã tập
hợp tất cả các bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh về Đảng và xây dựng
Đảng, trong đó có nói đến mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước, Đảng với vai trò
cầm quyền và Nhà nước (cụ thể là Chính phủ) trong vai trò điều hành trực tiếp đời
sống kinh tế - xã hội của đất nước. Hồ Chí Minh đã đặc biệt nhấn mạnh lý luận về
Đảng cầm quyền (Hồ Chí Minh hay dùng từ “cầm quyền” để nói về Đảng hơn là từ
“lãnh đạo”). Hồ Chí Minh quan tâm đến công tác cán bộ, sự gương mẫu của các
cán bộ, đảng viên sẽ là điều kiện quan trọng để tạo nên sự vững mạnh của Đảng và
Nhà nước (Chính phủ).
Trong cuốn: “Mấy vấn đề về Đảng cầm quyền” của Tổng Bí thư Lê Duẩn
[16], tác giả cho rằng: nhiệm vụ của Đảng khi chưa có chính quyền là giác ngộ, tổ
chức quần chúng đấu tranh lật đổ ách thống trị của giai cấp bóc lột để giành lấy

chính quyền. Khi đã có chính quyền thì nhiệm vụ của Đảng là xây dựng và giữ
vững chính quyền, triệt để sử dụng và phát huy quyền lực của chính quyền để cải

5


tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, trấn áp các lực lượng chống đối. Như vậy,
trước và sau khi có chính quyền, Đảng luôn giữ vai trò lãnh đạo.
Trong cuốn: “Hệ thống chính trị ở các nước tư bản phát triển hiện nay” của
GS. Hồ Văn Thông [147], tác giả đã khái quát và phân tích một cách khá đầy đủ về
hệ thống chính trị ở một số nước tư bản phát triển như: Mỹ, Anh, Pháp, Đức,…nói
chung và mối quan hệ giữa đảng chính trị và nhà nước ở các quốc gia này nói
riêng. Qua đó, tác giả cũng chỉ ra những điểm mạnh, yếu trong cơ chế thực hiện
mối quan hệ giữa đảng chính trị, đảng cầm quyền đối với nhà nước ở các quốc gia
này. Đây là những bài học và kinh nghiệm cho Việt Nam trong quá trình xử lý mối
quan hệ giữa Đảng và Nhà nước.
GS.TS. Nguyễn Văn Huyên với cuốn sách: “Hệ thống chính trị Anh, Pháp,
Mỹ (mô hình tổ chức và hoạt động)” [58], đã phân tích hệ thống chính trị được hợp
thành từ ba tiểu hệ thống chính là đảng phái chính trị, nhà nước và các nhóm lợi ích
của xã hội công dân. Song, đó không phải là ba bộ phận riêng rẽ, độc lập mà chúng
có mối liên hệ mật thiết, tác động qua lại lẫn nhau tạo nên sự vận hành suôn sẻ của
toàn bộ hệ thống chính trị. Tìm hiểu bản chất của hệ thống chính trị, các mối quan
hệ chính trị trong trạng thái vận động, đan xen nhiều chiều, nhiều tầng ý nghĩa cũng
chính là xuất phát điểm nghiên cứu của tác giả cuốn sách này.
Từ năm 1986 đến nay, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành nhiều
nghị quyết, đã có một số báo cáo tổng kết về phương thức Đảng lãnh đạo Nhà
nước, về mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước: Nghị quyết TW3, khóa VII: “Về
một số nhiệm vụ đổi mới và chính đốn Đảng” (1992); Nghị quyết TW8, khóa VII:
“Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
trọng tâm là cải cách một bước nền hành chính” (1995); Nghị quyết TW6, khóa

VIII: “Về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện
nay” (1999); Nghị quyết TW5, khóa IX (2002) về: “Đổi mới và nâng cao chất
lượng hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn”; Nghị quyết
TW5, khóa X (2007) về: “Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
hoạt động của hệ thống chính trị”; Nghị quyết TW4, khóa XI về: “Một số vấn đề
cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”; Nghị quyết TW4, khóa XII về “tăng cường
xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị,

6


đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội
bộ”...Tất cả các nghị quyết có chung một đặc điểm là đều xác định những phương
hướng để đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước (gắn với cả hệ
thống chính trị) trong đó xác định công tác cán bộ là nhiệm vụ quan trọng.
Trong cuốn: “Một số vấn đề xây dựng Đảng trong văn kiện Đại hội X” do
PGS.TS Lê Minh Thông chủ biên [145], các tác giả cuốn sách cho rằng, trong điều
kiện chính trị, xã hội thế giới đầy biến động trước xu thế toàn cầu hóa về kinh tế
hiện nay, Đảng ta vẫn đang kiên định con đường đã chọn, lãnh đạo cách mạng Việt
Nam, giành được nhiều thắng lợi trong công cuộc đổi mới, tiến hành sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh. Với bản chất khoa học và cách mạng, qua mỗi kỳ đại hội, Đảng
ta vẫn luôn tự trau dồi, rèn luyện đạo đức, phong cách, luôn đề ra nhiệm vụ xây
dựng và chỉnh đốn Đảng. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đang ngày một
bảo đảm các điều kiện cho sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Tuy nhiên, trong
quá trình hội nhập, đòi hỏi Đảng ta phải vững mạnh, đủ tầm, đủ bản lĩnh, trí tuệ để
đưa đất nước phát triển bền vững cả về chính trị và kinh tế trong thời đại toàn cầu
hóa, phát huy được uy tín và ảnh hưởng của Đảng trong xã hội.
Trong cuốn: “Đảng Cộng sản cầm quyền - Nội dung và phương thức cầm
quyền của Đảng” do GS.TS.Nguyễn Văn Huyên chủ biên [56], các tác giả khẳng

định: trong thế giới hiện đại, hoạt động của các đảng chính trị nói chung và các
đảng cầm quyền nói riêng có một ảnh hưởng đặc biệt quan trọng đối với đời sống
chính trị của mỗi đảng và hiệu quả lãnh đạo chính trị của đảng đó. Các tác giả
thẳng thắn thừa nhận rằng, chúng ta còn lúng túng về mặt lý luận, lúng túng trong
nhận thức về vai trò lãnh đạo của Đảng, chưa xác định được một cách rõ ràng mối
quan hệ giữa quyền lãnh đạo xã hội (cầm quyền lãnh đạo xã hội) của Đảng, quyền
lực công của Nhà nước và quyền lực của nhân dân. Nội dung cầm quyền của Đảng
là gì? Phương thức cầm quyền như thế nào? Phạm vi quyền lực đến đâu để không
trái với nguyên tắc pháp quyền và không đi ngược lại với quyền tự do, dân chủ của
nhân dân? Đây vẫn là những câu hỏi còn nhiều tranh luận giữa các nhà nghiên cứu
cũng như các nhà hoạt động chính trị. Trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân ở nước ta hiện nay thì yêu cầu

7


đổi mới về nội dung và phương thức cầm quyền của Đảng ngày càng trở nên cấp
thiết. Cuốn sách là tài liệu tham khảo bổ ích, có giá trị cho các nhà nghiên cứu
chính trị học, định hướng và gợi mở cho các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước trong
việc đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và các
tổ chức chính trị - xã hội trong điều kiện hiện nay.
PGS.TS. Nguyễn Văn Hoà trong cuốn: “Nâng cao tầm tư tưởng và trí tuệ
của Đảng đáp ứng yêu cầu lãnh đạo trong giai đoạn mới” [46], đã phân tích trí tuệ
của Đảng qua các giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng Tám đến nay; nêu lên những
yêu cầu đối với sự lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn mới; đưa ra một số giải pháp
nhằm nâng cao tầm tư tưởng và trí tuệ của Đảng đáp ứng yêu cầu lãnh đạo trong
giai đoạn hiện nay.
Bài viết: “Để nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng trong điều kiện hiện
nay” của TS. Nguyễn Đình Hòa [47], khẳng định ở Việt Nam, Đảng Cộng sản là
đảng duy nhất cầm quyền, để hoàn thành sứ mệnh lãnh đạo sự nghiệp cách mạng,

việc đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng Cộng
sản Việt Nam có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Nhiệm vụ nâng cao năng lực cầm
quyền của Đảng bao gồm nhiều nội dung, trong đó cần tập trung vào 3 nội dung cốt
lõi: cầm quyền một cách khoa học, cầm quyền một cách dân chủ và cầm quyền
theo pháp luật. Có thể nói, đó là những đặc trưng cần có, là yếu tố bảo đảm sự
thành công của Đảng Cộng sản Việt Nam với tư cách Đảng cầm quyền.
TS. Đặng Đình Tân trong cuốn: “Thể chế cầm quyền: một số vấn đề lý luận
và thực tiễn” [132], cho rằng: Đảng cầm quyền là vấn đề quan trọng của hệ thống
chính trị của tất cả các quốc gia. Vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản với nhà nước
là một nguyên tắc hoạt động cơ bản, là trụ cột của cơ chế vận hành của cả hệ thống
chính trị. Hệ thống thể chế đảng lãnh đạo nhà nước đã đạt được những kết quả nhất
định và nhờ đó đã góp phần quan trọng vào thành công của công cuộc đổi mới. Tuy
nhiên, hệ thống các thể chế Đảng lãnh đạo Nhà nước còn chưa hoàn chỉnh, có tình
trạng phân định chức năng lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước chưa rõ
ràng, chồng chéo, làm ảnh hưởng nhất định đến vai trò lãnh đạo của Đảng cũng
như vai trò quản lý của Nhà nước. Từ những nội dung đó, tác giả cuốn sách đề xuất
việc hoàn thiện thể chế Đảng lãnh đạo Nhà nước ở nước ta hiện nay là một nội

8


dung quan trọng trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, đổi mới mối quan
hệ Đảng với Nhà nước trong điều kiện mới.
Trong “Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi
mới 1986 - 2016” của Ban Chỉ đạo tổng kết lý luận - thực tiễn của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam [2], đã trình bày khái quát các quan điểm
mới của Đảng về sự phát triển của đất nước và thực trạng thực hiện các quan điểm
đó. Báo cáo cho rằng, cần phải tiếp tục đổi mới tư duy về sự phát triển đất nước;
nâng cao trình độ trí tuệ và năng lực lãnh đạo chính trị, năng lực cầm quyền; cần
đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng; phát huy dân chủ, giữ vững kỷ

luật, tăng cường đoàn kết thống nhất; làm trong sạch và nâng cao chất lượng đội
ngũ đảng viên; khắc phục có hiệu quả các hiện tượng tiêu cực, đặc biệt là tệ quan
liêu, tham nhũng; khôi phục và nâng cao lòng tin của nhân dân đối với đảng; chấn
chỉnh tổ chức bộ máy, biên chế, cán bộ.
PGS.TS Phạm Văn Đức trong bài viết: “Nâng cao năng lực lãnh đạo của
Đảng trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước” [34], đã luận giải để làm rõ
tầm quan trọng cũng như tính cấp thiết của nhiệm vụ nâng cao năng lực lãnh đạo
của Đảng nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước. Theo tác giả, để
nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, cần chú ý một số yêu cầu trong nội dung
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước như sau: Đảng phải xây dựng được đường lối
lãnh đạo đúng đắn, phù hợp; thường xuyên chăm lo công tác xây dựng và bồi
dưỡng cán bộ; coi trọng những nguyên tắc tổ chức và phương thức hoạt động của
Đảng; chú ý tổng kết kinh nghiệm và vận dụng kinh nghiệm đó để lãnh đạo nhân
dân thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới. Đồng thời, tác giả cũng đưa ra một số
kiến nghị, như xây dựng cương lĩnh mới trên cơ sở kế thừa và phát triển Cương
lĩnh năm 1991, xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, tiếp tục
đổi mới công tác cán bộ, phát huy dân chủ trong Đảng và trong xã hội... nhằm nâng
cao năng lực lãnh đạo của Đảng đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước.
GS.TS.Phạm Ngọc Quang trong: “Đổi mới, hoàn thiện phương thức lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam” [118], cho rằng: Đảng đã lãnh đạo cách mạng
Việt Nam giành những thắng lợi vẻ vang, mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc là kỷ
nguyên độc lập và tiến lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã lãnh đạo sự nghiệp đổi mới

9


đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Thắng lợi đó khẳng định tính
đúng đắn của đường lối đổi mới mà Đảng đã đưa ra. Tuy nhiên, không phải mọi
vấn đề liên quan tới phương thức lãnh đạo của Đảng đã có bước tiến tương xứng
với yêu cầu của quá trình đổi mới. Để góp phần khắc phục hạn chế đó và có nhận

thức đúng đắn hơn về phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới, thì cần
nghiên cứu sâu sắc hơn nữa vấn đề phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản cầm
quyền trong điều kiện đổi mới hiện nay. Đây là công trình nghiên cứu bàn khá sâu
về phương thức lãnh đạo, tác giả đã phân tích thực trạng mối quan hệ giữa Đảng
với các chế định của Nhà nước, từ đó đề xuất một số giải pháp đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, trong đó có Nhà nước.
Cuốn sách: “Vị trí cầm quyền và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong điều kiện mới” do GS.TS Đỗ Hoài Nam chủ biên [110], đây là sự chắt
lọc những kết quả nghiên cứu của đề tài khoa học cấp nhà nước KX.10.04 “Vị trí
cầm quyền và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong điều kiện kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền của dân, do dân,
vì dân và hội nhập kinh tế quốc tế”. Kế thừa nhiều luận điểm cơ bản về vị trí cầm
quyền và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam được đề cập ở nhiều công
trình nghiên cứu trước đây, qua phân tích, đánh giá về đảng cầm quyền trong hệ
thống chính trị ở một số nước tư bản chủ nghĩa; sự cầm quyền của Đảng Cộng sản
Trung Quốc trong điều kiện cải cách, mở cửa, xây dựng chủ nghĩa xã hội mang đặc
sắc Trung Quốc; vị trí cầm quyền và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
trước và đặc biệt là trong 20 năm đổi mới; các tác giả đưa ra một số quan điểm, nội
dung và giải pháp cơ bản nhằm củng cố và nâng cao vị trí cầm quyền và vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020.
Lần đầu tiên, cuốn sách luận giải kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và xã hội dân sự là “ba trụ cột cơ bản” và
được đặt trong một thể thống nhất hữu cơ, tạo ra nhiều điều kiện mới chưa có tiền
lệ trong lịch sử tác động đến sự cầm quyền và lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam; nhấn mạnh tính cạnh tranh của kinh tế thị trường, tính pháp quyền của Nhà
nước và tính dân sự của xã hội. Tuy nhiên, đó mới là nhận thức và đề xuất riêng

10



của các tác giả công trình này (hiện nay chưa vận dụng vào thực tiễn Việt Nam vấn
đề “xã hội dân sự”).
PGS.TS.Trần Đình Huỳnh trong cuốn: “Phương thức Đảng lãnh đạo Nhà
nước” [59], đã trình bày một cách khái lược quan điểm tư tưởng của chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước, về đảng cầm quyền. Trên cơ sở
đó, tác giả đã làm rõ khái niệm phương thức lãnh đạo và quá trình hình thành
phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử. Tác
giả đưa ra một số quan điểm chung về phương thức Đảng lãnh đạo Nhà nước trong
tình hình hiện nay. Đây là công trình bàn sâu về mối quan hệ giữa Đảng và Nhà
nước, tuy nhiên chỉ nhấn mạnh đến góc độ tác động của Đảng với Nhà nước chứ
chưa đưa ra góc độ nhìn toàn diện về mối quan hệ đó.
Cuốn sách: “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng” do Trần Đình
Nghiêm chủ biên [112], được hình thành trên cơ sở đề tài khoa học cấp nhà nước:
“Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trên một số lĩnh vực trọng yếu của đời
sống xã hội”, mã số KHXH 05.04. Trong cuốn sách, các tác giả trình bày cơ sở lý
luận, nội dung, khái niệm phương thức lãnh đạo của Đảng, quá trình lịch sử hình
thành phương thức lãnh đạo của Đảng, vấn đề đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng trong hệ thống chính trị và trên một số lĩnh vực như kinh tế, chính trị, tư
tưởng, văn hóa, tổ chức cán bộ….
GS.TS Nguyễn Trọng Chuẩn trong bài viết: “Đảng phải thường xuyên tự đổi
mới để đưa đất nước tiến nhanh hơn” [13], trên cơ sở làm rõ thực trạng công tác
xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong công cuộc đổi mới đất nước, tác giả đã đi đến
kết luận: tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng, xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững
mạnh để đảm bảo cho sự thành công của công cuộc đổi mới và phát triển đất nước,
Đảng cần phải quan tâm đặc biệt đến hai khâu then chốt nhưng lại đang khá bức
xúc cần tự đổi mới và chỉnh đốn sớm để làm chỗ dựa cho các khâu khác là công tác
nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Trên nền tảng hai khâu then chốt đó cần thực hiện đồng bộ các mặt khác như công
tác tư tưởng, rèn luyện phẩm chất, đạo đức cách mạng, phòng chống tham nhũng,
lãng phí, công tác tổ chức, bộ máy của Đảng và của hệ thống chính trị, công tác cán

bộ, công tác kiểm tra, giám sát, công tác quần chúng. Tất cả các nội dung này có

11


quan hệ chặt chẽ với nhau và đều cực kỳ quan trọng trong việc làm cho Đảng ngày
một vững mạnh hơn.
Trong cuốn: “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng, củng cố nhà
nước (1986 - 1996)” [55], TS. Đoàn Minh Huấn đã hệ thống quá trình đổi mới tư
duy nhận thức của Đảng về vấn đề Nhà nước. Tác giả phân tích từ phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, từ nguyên lý tổ chức và hoạt động, cơ chế
vận hành, xây dựng các cơ sở kinh tế - xã hội của Nhà nước...cũng như quá trình tổ
chức chỉ đạo thực tiễn với tính phong phú, sinh động. Đặc biệt, qua nghiên cứu lịch
sử, tác giả đã bước đầu tổng kết những thành tựu, hạn chế và rút ra một số kinh
nghiệm cho hiện tại, trong đó, một trong những bài học quan trọng là đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Trong cuốn “Đảng Cộng sản Việt Nam với việc cải cách nền hành chính nhà
nước” của TS Trần Đình Thắng [143], tác giả phân tích, luận giải có căn cứ khoa
học trên cả phương diện lý luận và thực tiễn để làm rõ yêu cầu tất yếu khách quan
của Đảng lãnh đạo cải cách, xây dựng nền hành chính Nhà nước trong công cuộc
đổi mới đất nước; phân tích, khái quát và hệ thống hóa các quan điểm, chủ trương
và quá trình lãnh đạo thực hiện chủ trương của Đảng về cải cách, xây dựng nền
hành chính Nhà nước trong sự nghiệp đổi mới đất nước; đánh giá khách quan, có
cơ sở khoa học về kết quả lãnh đạo và rút ra một số kinh nghiệm chủ yếu. Qua đó,
khẳng định sự phát triển về tư duy lý luận và năng lực lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn
của Đảng đối với việc xây dựng nền hành chính nhà nước dân chủ, hiện đại trong
công cuộc đổi mới đất nước là nhiệm vụ trọng tâm trong xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
PGS.TS Nguyễn Ngọc Hà trong bài “Về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước trong hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay” [40], cho rằng: trong hệ

thống chính trị, các thành tố cơ bản đầu tiên là Đảng và Nhà nước. Đảng là tổ chức
chính trị do các cá nhân tự nguyện gia nhập theo một điều lệ chung; còn Nhà nước
là bộ máy quản lý xã hội bằng pháp luật. Tuỳ theo đặc điểm, pháp luật của mỗi
nước mà một nước có thể có nhiều đảng hoặc chỉ có một đảng. Hình thức biểu hiện
của mối quan hệ giữa đảng và nhà nước khá phong phú; nhưng nhà nước nào cũng
đều do một đảng hoặc vài đảng lãnh đạo. Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng cách thông

12


qua các đảng viên trong bộ máy Nhà nước để biến những quyết định áp dụng cho
các đảng viên thành những quyết định áp dụng cho mọi công dân. Sự lãnh đạo
đúng đắn hay không đúng đắn của Đảng đối với Nhà nước sẽ dẫn đến sự thành
công hay không thành công trong hoạt động quản lý của Nhà nước.
Trong cuốn sách: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng
trong thời kỳ đổi mới” do GS.TS.Nguyễn Phú Trọng, PGS.TS.Tô Huy Rứa,
PGS.TS.Trần Khắc Việt chủ biên [158], các tác giả đề cập những vấn đề cơ bản về
Đảng cầm quyền, tình hình chỉnh đốn Đảng, giải pháp cấp bách để nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến của Đảng trong tình hình mới. Cuốn sách “Một số vấn đề
đổi mới tổ chức bộ máy Đảng Cộng sản Việt Nam” do PGS.TS.Nguyễn Hữu Tri,
TS.Nguyễn Thị Phương Hồng chủ biên [133], đã phân tích những vấn đề hạn chế,
yếu kém trong tổ chức bộ máy của Đảng hiện nay và đưa ra một số giải pháp nhằm
đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong tình hình mới.
Như vậy, các công trình nghiên cứu trong nước đã đi sâu nghiên cứu về
Đảng, trong đó trọng tâm nhất là việc đổi mới phương thức và nội dung lãnh đạo
của Đảng; khả năng tự đổi mới và chỉnh đốn Đảng; nghiên cứu mô hình tổ chức và
bài học của mô hình chính trị các nước có thể tham khảo đối với chính trị Việt
Nam; nghiên cứu sâu về sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước…Đây là những
công trình nghiên cứu khoa học quan trọng để tác giả tham khảo cho đề tài luận án
của mình trong quá trình triển khai.

1.1.2. Các công trình nghiên cứu nước ngoài
Hai công trình “Con người chính trị - căn bản xã hội của chính trị” (1960)
của Seymour Martin Lipset và “Các nhân tố trong một hệ thống hai đảng và đa
đảng” (1972) của Maurice Duverger, được coi là hai công trình khoa học đi tiên
phong ở các nước phương Tây. Theo các ông, đảng chính trị là yếu tố quan trọng
trong đời sống chính trị hiện đại, đảng chính trị cạnh tranh nhau thông qua các cuộc
bầu cử để trở thành đảng cầm quyền. Các bài viết: “Khoa học chính trị - một sự
giới thiệu” của Michaheal Roskin, Robert Cord, James Medeiroi, Walter Jones
(1991) và “Chính trị” của Andrew Heywood (2002), các tác giả cho rằng, đảng
chính trị khi trở thành đảng cầm quyền sẽ “luật hóa” các ưu tiên trong chính sách
của mình nhờ kiểm soát quá trình lập pháp ở nghị viện. Nói cách khác, thể chế hóa

13


các mục tiêu của mình thành các đạo luật của nhà nước chính là cách thức căn bản
để các đảng ở các nước phương Tây kiểm soát được quá trình chính trị.
Hai cuốn sách “Chính trị so sánh ngày nay - một cách nhìn toàn cảnh” của
Garbriel Almond và Bingham Powell (1988); “Các quốc gia và các chính phủ:
chính trị so sánh trong viễn cảnh khu vực” của Thomas Magstadt (1994), đã nghiên
cứu về các hệ thống đảng phái ở các nước khác nhau, ở các khu vực có các thế chế
chính trị, hoặc trình độ kinh tế, văn hóa của mỗi nước khác nhau. Điểm thống nhất
trong các tác phẩm này là quan điểm: dù nhiều quốc gia cùng tồn tại thể chế đa
đảng, vai trò cầm quyền và lãnh đạo nhà nước ở mỗi quốc gia có những đặc điểm
riêng và không giống nhau.
Còn rất nhiều công trình nghiên cứu khác nữa, tuy nhiên nhìn chung, trong
các nghiên cứu của các học giả phương Tây, dù tiếp cận từ góc độ nào, thì nội dung
lãnh đạo của đảng cầm quyền cũng được thực hiện thông qua cơ chế cạnh tranh
giữa các đảng phái trong các nền dân chủ đa nguyên thông qua các cuộc bầu cử.
Mối quan hệ giữa đảng và nhà nước chủ yếu thông qua các đạo luật, trên cơ sở hình

thành từ các cương lĩnh và chính sách ưu tiên của đảng cầm quyền. Điều này đã
giúp cho chúng ta có được những cách tiếp cận mới trong quá trình nghiên cứu về
đảng cầm quyền và nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
Đối với các nhà nghiên cứu Trung Quốc cũng quan tâm nhiều đến vấn đề
cầm quyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong lãnh đạo Nhà nước xây dựng chế
độ xã hội chủ nghĩa, những tác phẩm tiêu biểu cần kể đến như: “Tổng thuật những
nghiên cứu về tăng cường xây dựng năng lực cầm quyền của Đảng” của Triệu Kim
Bằng (2004); “Tăng cường xây dựng tác phong của Đảng cầm quyền” của Vương
Mậu Lâm (2001); “Cầm quyền mang tính khoa học và dân chủ, cầm quyền theo
pháp luật: yêu cầu thời đại về tính hợp pháp của Đảng cầm quyền” của Dương
Tiểu Cường, Tào Tuyết Phong (2005)… Theo các tác giả, tác phong của Đảng trực
tiếp quyết định và ảnh hưởng đến phong cách chính trị và tập tục xã hội. Đồng thời,
các tác giả phân tính mối quan hệ giữa phương thức cầm quyền và tính hợp pháp
của đảng cầm quyền và đặt ra những yêu cầu mới đối với Đảng Cộng sản Trung
Quốc là cầm quyền phải mang tính khoa học, tính dân chủ và cầm quyền phải theo
pháp luật. Ngoài ra, tác giả còn phân tích mối quan hệ giữa Đảng và pháp luật.

14


Trong các tác phẩm: “Nghiên cứu quy luật cầm quyền của Đảng Cộng sản
Trung Quốc” của Lưu Tôn Hồng (2004), “Bàn về công tác xây dựng năng lực cầm
quyền của Đảng” của Lưu Chấn Hoa (2010), các tác giả đã có những nghiên cứu
sâu sắc về vấn đề năng lực và phương thức cầm quyền của Đảng Cộng sản Trung
Quốc. Theo đó, Đảng phải hoạt động theo nguyên tắc dân chủ trong cạnh tranh
chính trị, công khai trong vận hành chính trị để tránh lạm quyền, tuân theo một
trình tự đã được thể chế hóa từ việc tuyển chọn, hiệp thương, thảo luận, giám sát,
bãi miễn và pháp chế. Đây là những cuốn sách có giá trị về kinh nghiệm, lý luận và
gợi ý quan trọng cho Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong cuốn “Quá trình hình thành và phát triển lý luận về sự cầm quyền của

Đảng Cộng sản Trung Quốc” của GS.TS Dương Phú Hiệp [51], tác giả đã đi sâu
phân tích quan điểm của Mác - Ăngghen và Lênin về xây dựng đảng và về sự cầm
quyền của đảng cộng sản. Đồng thời, tác giả đã khái quát quá trình hình thành và
phát triển lý luận về sự cầm quyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc trước và sau
thời kỳ cải cách mở cửa đến nay. Cuốn sách đã chỉ ra được một số bài học về lý
luận cầm quyền của Trung Quốc đối với Việt Nam.
1.2. Các công trình nghiên cứu về nhà nước và vai trò của nhà nước đối
với đảng chính trị ở Việt Nam
Cuốn sách: “Về quyền lực trong cơ quan Nhà nước hiện nay” của PGS. TS
Lê Minh Quân và ThS. Bùi Việt Hương chủ biên [127], cho rằng, hiện nay thế giới
đang thay đổi nhanh chóng do sự phát triển của khoa học và công nghệ hiện đại,
toàn cầu hóa và kinh tế tri thức, v.v.. Những cách tiếp cận và quan niệm về quyền
lực và tổ chức thực hiện quyền lực (quyền lực công, quyền lực chính trị và quyền
lực nhà nước) trong phát triển kinh tế - xã hội cũng đang thay đổi và thu hút sự chú
ý của giới nghiên cứu và hoạt động thực tiễn ở trong và ngoài nước. Các cách tiếp
cận và quan niệm về độc lập, chủ quyền và chiến lược phát triển quốc gia hay
quyền lực quốc gia; về hệ thống thể chế, cơ chế và phương thức tổ chức, hoạt động
của nhà nước; về các thể chế, cơ chế quyền lực phi nhà nước; về quản trị toàn cầu,
v.v. do ảnh hưởng của sự phát triển khoa học - công nghệ, toàn cầu hóa và kinh tế
tri thức... mang lại là những vấn đề đang được nghiên cứu và lý giải. Theo tập thể
tác giả, việc nhận thức đúng nhiều vấn đề căn bản của chính trị như quyền lực,

15


quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước là gì, cần tổ chức và vận hành như thế
nào để nâng cao năng lực cầm quyền của đảng, năng lực quản lý của nhà nước
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, bảo
đảm phát huy quyền làm chủ của nhân dân luôn tính thời sự về lý luận và thực tiễn
cấp bách ở nước ta hiện nay.

TS. Trịnh Thị Xuyến trong “Kiểm soát quyền lực Nhà nước: Một số vấn đề
lý luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay” [172], đã tập trung phân tích vấn đề
quyền lực, phân công và kiểm soát quyền lực Nhà nước thông qua việc xây dựng
hệ thống giám sát xã hội đối với quyền lực Nhà nước; phân tích cơ sở lý luận và
thực tiễn vấn đề kiểm soát quyền lực Nhà nước ở Việt Nam và gợi mở những
hướng tiếp cận để kiểm soát quyền lực Nhà nước thông qua báo chí, dư luận xã hội,
trưng cầu dân ý…
Trong cuốn: “Nhà nước trong hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay” do
PGS.TS Lê Minh Quân chủ biên [126], ở chương thứ 3 (cuốn sách gồm 05
chương), tác giả bàn rất cụ thể về mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước ở Việt Nam
qua các giai đoạn lịch sử. Các tác giả nhận định, trước đổi mới nước ta theo cơ chế
tập trung và bao cấp thì Đảng cũng tập trung và bao cấp đối với Nhà nước và xã
hội. Khi cả nước bước vào thời kỳ đổi mới, cơ chế lãnh đạo và quản lý cũ không
còn phù hợp, những hạn chế và yếu kém trong lãnh đạo và quản lý của Đảng và
Nhà nước đã bộc lộ ngày càng rõ ràng và quyết liệt. Từ năm 1986 đến nay, mối
quan hệ giữa Đảng và Nhà nước đã có sự thay đổi, đổi mới trong toàn bộ hệ thống
chính trị từ nhận thức về chức năng, vị trí và vai trò của Nhà nước ngày càng đúng
đắn và rõ ràng hơn; phân định rõ chức năng quản lý của Nhà nước và chức năng
lãnh đạo của Đảng; Nhà nước thực hiện đúng chức năng và nhiệm vụ là cơ quan
quản lý đối với xã hội; vị trí, vai trò là trụ cột của Nhà nước trong hệ thống chính
trị được xác định rõ ràng hơn và được củng cố vững chắc hơn. Từ đó, tác giả khẳng
định Đảng và Nhà nước Việt Nam đã chủ trương đổi mới và hoàn thiện mối quan
hệ giữa Đảng và Nhà nước đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa; yêu cầu dân chủ hóa, xây dựng Nhà nước pháp quyền và
xã hội công dân; đáp ứng yêu cầu hội nhập…

16


Trong cuốn: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

trong thời kỳ đổi mới” do Nguyễn Văn Yểu, Lê Hữu Nghĩa đồng chủ biên [169],
các tác giả đã xuất phát từ bối cảnh mới của tình hình quốc tế và xu thế toàn cầu
hóa đang đặt ra những nhiệm vụ hết sức nặng nề, đòi hỏi phải có sự đổi mới mạnh
mẽ, sâu sắc và toàn diện hơn đối với hệ thống chính trị ở nước ta, trong đó chủ yếu
bàn về Đảng và Nhà nước. Trước hết, cần phải cải cách, hoàn thiện tổ chức và hoạt
động, nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước. Đây là một công trình
nghiên cứu khá toàn diện về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam trong thời kỳ đổi mới.
Các tác giả Phạm Ngọc Quang và Ngô Kim Ngân trong cuốn sách: “Phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong điều kiện xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do vân, vì dân” [120], đã phân tích phương
thức đổi mới lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và sự cần thiết tiếp tục đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong giai đoạn hiện nay. Trong
quá trình nghiên cứu, tìm tòi hình thức nhà nước cho thích hợp, các tác giả đã nhận
thức rằng nhà nước pháp quyền là mô hình nhà nước chứa đựng nhiều giá trị phổ
biến, là hình thức nhà nước có khả năng thực hiện tốt nhất dân chủ. Nhận thức điều
đó, Đảng đã chủ trương đổi mới Nhà nước theo hướng xây dựng Nhà nước pháp
quyền. Có thể khẳng định, đó là một bước đột phá trong đổi mới tư duy chính trị
của Đảng, đồng thời cũng đánh một dấu mốc quan trọng trong quá trình đổi mới
Nhà nước ở nước ta. Như vậy, các tác giả đã tiếp cận một vấn đề trong mối quan hệ
giữa Đảng cầm quyền và Nhà nước pháp quyền cần giải quyết ở nước ta hiện nay,
là cơ sở khoa học để tác giả luận án đi sâu nghiên cứu vấn đề này.
Cuốn sách: “Đảng lãnh đạo Nhà nước trong điều kiện xây dựng Nhà nước
pháp quyền ở Việt Nam hiện nay” do PGS.TS Nguyễn Văn Vĩnh chủ biên [168], đã
nêu lên cơ sở luận giải về lý luận và thực tiễn Đảng lãnh đạo Nhà nước trong điều
kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền, từ đó phân tích thực trạng Đảng lãnh đạo
Nhà nước ở nước ta, đồng thời đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu
nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong điều kiện xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đặc biệt, tác giả đã chỉ


17


ra một số nội dung liên quan đến “Đảng cầm quyền” và “Nhà nước pháp quyền” ở
Việt Nam hiện nay.
Trong bài viết “Về một số nét đặc thù của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam” của PGS.TS Phạm Văn Đức [35], tác giả cho rằng, ngoài các
đặc trưng chung, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây
dựng còn có một số đặc thù riêng, cụ thể như sau: thứ nhất, đối với Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
công và phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp; thứ hai, tính chất xã hội chủ nghĩa của Nhà nước Việt Nam do tính định
hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế quy định; thứ ba, Nhà nước Việt Nam được
đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; thứ tư, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là nhà nước của dân, do dân, vì dân. Như vậy, có thể khẳng định
rằng, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là sự thống nhất giữa cái
phổ biến và cái đặc thù.
Tóm lại, các công trình nghiên cứu về Nhà nước và vai trò của Nhà nước đối
với Đảng Cộng sản Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu, khai
thác dưới nhiều góc độ khác nhau và có những điểm chung là muốn nâng cao hiệu
quả quản lý của Nhà nước thì vai trò đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của
Đảng là đặc biệt quan trọng. Đồng thời, cần chú ý đến mối quan hệ giữa Nhà nước
pháp quyền với Đảng cầm quyền, trên cơ sở đảm bảo tính thượng tôn pháp luật của
nhà nước, đảm bảo tính định hướng của Đảng.
1.3. Các công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước
ở Việt Nam hiện nay
Trong cuốn: “Về các mối quan hệ lớn cần được giải quyết tốt trong quá trình
đổi mới đi lên Chủ nghĩa xã hội ở nước ta” do GS.TS Nguyễn Phú Trọng chủ biên
[156], các tác giả đã chỉ ra 8 mối quan hệ cần được giải quyết, trong đó có mối
quan hệ thứ tám là: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Đây là

mối quan hệ mà theo các tác giả là cần được tiếp tục nghiên cứu và làm rõ những
vấn đề về lý luận và thực tiễn để thay đổi nhận thức phù hợp với đặc điểm của thời
kỳ mới ở nước ta. Trong đó, nhân dân làm chủ là yếu tố trung tâm của mối quan hệ
này, bởi vì mọi hoạt động của Đảng và Nhà nước đều từ nhân dân và vì nhân dân,

18


đây đồng thời cũng là nguyên tắc của việc xây dựng và đổi mới mối quan hệ giữa
Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
Theo tác giả Nguyễn Khánh viết cuốn sách nhan đề: “Mối quan hệ Đảng Nhà nước - Dân trong cuộc sống” [61], đã nhấn mạnh rằng: để tiếp tục đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ đổi mới, nhất thiết phải hiểu rõ và
giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước
quản lý. Mối quan hệ đó phản ánh thực chất của hệ thống chính trị ở nước ta hiện
nay. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng nước ta hiện nay là đòi hỏi khách
quan, là yêu cầu cấp thiết của sự nghiệp đổi mới, đồng thời là trách nhiệm của
Đảng và Nhà nước. Cuốn sách còn tập hợp các ví dụ thực tiễn trong quá trình công
tác của tác giả để minh chứng cụ thể cho việc cần thiết phải đổi mới mối quan hệ
giữa Đảng và Nhà nước. Cuốn sách này góp phần làm sáng tỏ và cụ thể hóa đường
lối đổi mới toàn diện đất nước của Đảng ta trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội, an ninh quốc phòng và đối ngoại; những vấn đề xây dựng tư tưởng, đạo
đức, lối sống và đời sống văn hóa lành mạnh trong xã hội, trước hết là nêu cao vai
trò lãnh đạo và gương mẫu của tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên trong giai đoạn
cách mạng hiện nay; vai trò quản lý của nhà nước trong các lĩnh vực của đời sống
kinh tế - xã hội.
Cuốn sách: “Đổi mới quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính
trị- xã hội trong hệ thống chính trị ở Việt Nam” do GS.TS Lê Hữu Nghĩa, GS.TS
Hoàng Chí Bảo, PGS.TS Bùi Đình Bôn đồng chủ biên [111], đã tập trung trình bày,
phân tích những điểm trọng yếu cần nắm vững, những nguyên tắc hàng đầu và
những nội dung cốt lõi của việc đổi mới quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ

chức chính trị - xã hội ở nước ta hiện nay. Để làm rõ được những vấn đề này, các
tác giả đã xem xét những nhân tố lý luận và thực tiễn tác động và yêu cầu đổi mới
quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội; đồng thời chỉ rõ
những ưu điểm và các mặt còn hạn chế trong quan hệ này trong các giai đoạn trước
và sau đổi mới. Từ đó, tập thể tác giả nghiên cứu, lập luận về những nguyên nhân
dẫn đến tình trạng trên, đúc rút thành các bài học kinh nghiệm và đưa ra kiến giải
nhằm đổi mới những mối quan hệ này. Trên tinh thần giữ vững, tăng cường vai trò
lãnh đạo của Đảng, đồng thời phát huy tính chủ động, sáng tạo của Nhà nước, bảo

19


đảm quyền làm chủ của nhân dân trong việc thực hiện đường lối phát triển đất nước
do Đảng đề ra, công trình này đã đi sâu nghiên cứu mối quan hệ giữa Đảng đối với
Nhà nước trên nhiều bình diện, qua các giai đoạn lịch sử…Đây thực sự là tài liệu
quan trọng cho tác giả tham khảo trong quá trình triển khai đề tài luận án.
Trong bài viết: “Tiếp tục thể chế hoá, hiện thực hoá cơ chế Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” [20] GS.TS Đinh Xuân Dũng cho rằng: cần
phải hiểu cho đúng, hiểu một cách biện chứng mối quan hệ giữa ba nhân tố (Đảng,
Nhà nước, nhân dân) trong cơ chế đã nêu ở trên. Lâu nay, có khuynh hướng hoặc là
nhìn nhận quan điểm trên chỉ như là khẩu hiệu chính trị, hoặc là đánh đồng ngang
nhau cả ba nhân tố, lý giải có phần lúng túng quan hệ hiện thực giữa Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý với nhân dân làm chủ. Thậm chí có khuynh hướng chỉ nhấn
mạnh một chiều vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, coi đó như là
điều kiện tất dẫn tới nhân dân làm chủ. Từ đó, những cơ chế, chính sách, điều kiện
đảm bảo cho “quyền lực thuộc về nhân dân” không được quan tâm đúng mức. Như
vậy, khi áp dụng quan điểm này, tác giả đã có cách nhìn nhận khi đánh giá vai trò,
vị trí của Đảng và Nhà nước trong mối quan hệ.
Tiếp tục khẳng định quan điểm này, trong bài viết “Giải quyết hài hòa mối
quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý”, PGS.TS Lê Duy Chương [15], đã

nhấn mạnh: việc nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và năng lực, hiệu lực quản
lý của Nhà nước có quan hệ rất chặt chẽ với nhau, là một trong những mục tiêu,
yêu cầu và nội dung của đổi mới và hoàn thiện mối quan hệ giữa Đảng và Nhà
nước ta hiện nay. Quá trình đổi mới và hoàn thiện mối quan hệ này phải phòng
ngừa mọi biểu hiện nhận thức lệch lạc, bảo thủ, trì trệ, rập khuôn, cứng nhắc hoặc
nôn nóng, chủ quan, duy ý chí, xa rời nguyên tắc và định hướng chính trị dẫn đến
làm xơ cứng mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước, làm suy giảm vai trò lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước mà đất nước đã kế thừa và kiên định xây dựng từ thành
quả của Cách mạng tháng Tám đến nay.
Tiếp cận từ góc độ Điều lệ của Đảng và Hiếp pháp của Nhà nước, tác giả
Bùi Đức Lại trong bài: “Hiến pháp và Điều lệ Đảng, mấy điều suy nghĩ” [67], đã
nhận định: Hiến pháp và Điều lệ Đảng cùng khẳng định Đảng hoạt động trong
khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Điều đó cũng có nghĩa là Đảng phải chịu sự

20


điều chỉnh của Hiến pháp và pháp luật, Điều lệ Đảng phải phù hợp với tinh thần
của Hiến pháp và pháp luật. Theo tác giả bài viết, dù là chính Đảng duy nhất lãnh
đạo Nhà nước và xã hội, tính chất "nội bộ" vẫn quán xuyến toàn bộ Điều lệ Đảng,
vì vậy mà Điều lệ không thể thay thế Hiến pháp và pháp luật để điều chỉnh các mối
quan hệ giữa Đảng và các tổ chức Nhà nước, chính trị, kinh tế, xã hội. Trong Điều
lệ Đảng Cộng sản Việt Nam hiện hành có đề cập nhiều vấn đề liên quan đến mối
quan hệ của Đảng với Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức khác.
Phần lớn các vấn đề này không chỉ được nêu ra trong Điều lệ Đảng mà còn đồng
thời được đề cập trong Hiến pháp. Do vậy, việc thống nhất Điều lệ Đảng và Hiến
pháp hoặc Hiến pháp phải cụ thể hoá Điều lệ Đảng để phù hợp trong thực tiễn là
một vấn đề đặt ra cần được quan tâm trong mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước ở
Việt Nam hiện nay.
Trong bài viết của mình với tiêu đề: “Giải quyết mối quan hệ giữa Đảng và

Nhà nước” [21], TS.Nguyễn Sĩ Dũng đã đưa ra ví dụ một số mô hình tổ chức nhà
nước trên thế giới dưới sự thắng cử của các chính đảng. Theo tác giả, trong mô
hình nhà nước hiện đại, đảng có đa số trong quốc hội có vai trò lãnh đạo, vấn đề chỉ
là tổ chức sự lãnh đạo đó như thế nào, hiệu quả ra sao. Tác giả phân tích theo
nguyên tắc của mô hình đại nghị, toàn bộ ban lãnh đạo đảng (ví dụ như Công đảng
ở nước Anh) tạo thành nội các và nằm trong Quốc hội, tất cả các đảng viên trong
Quốc hội tạo thành Đảng đoàn Quốc hội. Việc tranh luận và hoạch định đường lối,
chính sách của đảng xảy ra ngay trong đảng đoàn quốc hội. Theo cách làm này,
đảng và nhà nước (cả quốc hội lẫn chính phủ) gắn kết hữu cơ với nhau, quy trình
hoạch định đường lối chính sách chỉ là một cho cả đảng và cả nhà nước. Như vậy
thì không thể xảy ra chuyện chồng chéo chức năng và xung đột chính kiến. Bài viết
đã chỉ ra những kinh nghiệm hay ở các chính đảng đối với Việt Nam, nhất là việc
nghiên cứu để đi đến việc hợp nhất một số cơ quan Đảng và Nhà nước hoặc hợp
nhất các chức danh lãnh đạo đứng đầu Đảng và Nhà nước ở Việt Nam.
PGS.TS Nguyễn Thế Kiệt trong bài viết “Mối quan hệ giữa Đảng và Nhà
nước trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay”
[65], tiếp cận vấn đề thông qua thực tiễn của 20 năm đổi mới ở nước ta cho thấy,
việc giải quyết mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước là vấn đề có tầm quan trọng

21


đặc biệt trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Để giải
quyết đúng đắn mối quan hệ này, cần phải tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước; cần phân định rõ chức năng giữa Đảng và Nhà nước, từng bước
xác định rõ nội dung, phạm vi, mức độ quan hệ giữa sự lãnh đạo của Đảng và sự
quản lý của Nhà nước; đồng thời, tiếp tục đổi mới quá trình thể chế hoá chủ trương,
đường lối của Đảng thành hoạt động của Nhà nước và nâng cao hiệu quả quản lý
của Nhà nước trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội.
Trong bài viết “Giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước

quản lý, nhân dân làm chủ” [148], PGS.TS Nguyễn Viết Thông chỉ ra những thành
tựu, hạn chế của mối quan hệ Đảng, Nhà nước và nhân dân, đồng thời đề ra những
giải pháp khắc phục. Tác giả khẳng định, cần tiếp tục thể chế hóa, cụ thể hóa mối
quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Cơ chế chỉ có thể
vận hành và đưa lại kết quả thiết thực khi các quan hệ giữa Đảng và Nhà nước được
phân biệt rành mạch về quyền và trách nhiệm của mỗi chủ thể thông qua một hệ
thống thể chế xác định. Điều này đòi hỏi phải thể chế hóa vai trò, trách nhiệm lãnh
đạo của Đảng và vai trò, trách nhiệm quản lý của Nhà nước bằng một hệ thống các
văn bản pháp luật, các quy chế quan hệ cụ thể.
GS.TS Nguyễn Hữu Khiển trong bài viết: “Về mối quan hệ giữa Đảng và
Nhà nước trong giai đoạn hiện nay” [62], đã làm rõ rằng: một đảng cầm quyền, ở
bất cứ đâu cũng phải thâu tóm quyền lực công, đó là mục đích cơ bản mà sinh ra
đảng chính trị, nếu không sẽ chỉ dừng lại như một tổ chức phi nhà nước bình
thường khác mà thôi. Tác giả khẳng định, mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước
thực chất là quan hệ đảng cầm quyền và bộ máy công quyền. Đi vào phân tích mối
quan hệ này tại Việt Nam, tác giả chỉ ra thực trạng của mối quan hệ là chưa có sự
phân định rõ, minh bạch trong mối quan hệ, dẫn đến chưa khoa học về thể chế,
chưa minh định được chức năng của mỗi chủ thể dẫn đến tình trạng chồng chéo và
gây hậu quả về kinh tế, chính trị, xã hội, quốc tế… Theo tác giả, Đảng cầm quyền
thực chất là Đảng đã hoạt động bằng Nhà nước để lãnh đạo xã hội. Nhà nước là tổ
chức công quyền duy nhất trong hệ thống chính trị, đảm bảo quyền lực của nhân
dân, khác căn bản với xã hội phong kiến khi quyền lực công trong tay một người.
Vì vậy quyền lực công ở nước ta chính là quyền của nhân dân. Bộ máy công quyền

22


×