Tải bản đầy đủ (.pdf) (207 trang)

Lời dẫn và câu hỏi của người dẫn chương trình truyền hình (khảo sát trên các chương trình tọa đàm của đài truyền hình tp hcm)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.54 MB, 207 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------ ‫ ههه‬------

LÊ THỊ NHƯ QUỲNH

LỜI DẪN VÀ CÂU HỎI
CỦA NGƯỜI DẪN CHƯƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH
(Khảo sát trên các chương trình tọa đàm của Đài Truyền hình TP.HCM)

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUN NGÀNH: NGƠN NGỮ HỌC
MÃ SỐ: 60 22 01

Người hướng dẫn: TS. Huỳnh Thị Hồng Hạnh

TP. HỒ CHÍ MINH – 2011


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn quý Giáo sư, Phó Giáo sư, Tiến sĩ phụ trách các
chuyên đề, đã ln tận tình truyền đạt kiến thức lẫn kinh nghiệm nghiên cứu khoa
học cho tôi trong suốt thời gian học Cao học Ngơn ngữ khóa 2008 – 2011 tại
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thuộc Đại học Quốc gia Thành phố
Hồ Chí Minh, để tơi có được nền tảng kiến thức về ngơn ngữ học, làm tiền đề thực
hiện tốt luận văn này.
Tôi cũng chân thành cảm ơn Phòng Sau Đại học, Khoa Văn học và Ngôn
ngữ đã luôn tạo điều kiện tốt nhất cho tôi học tập và nghiên cứu.
Đặc biệt, tôi xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Huỳnh Thị
Hồng Hạnh, người đã tận tâm hướng dẫn tôi thực hiện đề tài này. Đồng thời, tôi
cũng xin chân thành cảm ơn GS.TS. Bùi Khánh Thế, người ln có những lời


khun bổ ích giúp tơi thực hiện luận văn một cách tốt nhất.
Tôi cũng xin được cảm ơn quý anh chị biên tập viên của Đài Truyền hình
Thành phố Hồ Chí Minh đã nhiệt tình hỗ trợ và cung cấp cho tôi nguồn ngữ liệu
quý giá để thực hiện luận văn.
Cuối cùng, tôi xin được chân thành cảm ơn sự chăm sóc, cổ vũ, khích lệ của
những người thân trong gia đình, đồng nghiệp và bạn bè gần xa, tất cả đã là nguồn
động viên rất lớn, tạo điều kiện thuận lợi cho tơi trong suốt q trình học tập và
nghiên cứu.
Một lần nữa, tôi xin chân thành gửi đến tồn thể q thầy cơ, gia đình, bạn
bè ngàn lời cảm ơn và vạn tình yêu thương.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 05 năm 2011
Tác giả luận văn

Lê Thị Như Quỳnh


MỤC LỤC
DẪN NHẬP .................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề.......................................................................................................... 1
3. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu ................................................................ 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................... 6
5. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................................... 6
6. Ý nghĩa của việc nghiên cứu.................................................................................... 8
7. Cấu trúc của luận văn .............................................................................................. 9
Chương 1 CƠ SỞ LÝ THUYẾT ............................................................................... 10
1.1. Thể loại truyền hình và chương trình truyền hình .............................................. 10
1.2. Thể loại phỏng vấn, tọa đàm truyền hình và đặc điểm của các chương trình tọa
đàm trên Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh ................................................. 10
1.2.1. Thể loại phỏng vấn và tọa đàm truyền hình ................................................... 10

1.2.2. Đặc điểm của các chương trình tọa đàm trên Đài Truyền hình Thành phố
Hồ Chí Minh ..................................................................................................... 15
1.3. Ngơn ngữ truyền hình ......................................................................................... 17
1.4. Người dẫn chương trình truyền hình và ngơn ngữ của người dẫn chương trình
truyền hình ................................................................................................................. 18
1.4.1. Người dẫn chương trình truyền hình .............................................................. 18
1.4.2. Ngơn ngữ của người dẫn chương trình truyền hình ....................................... 21
1.5. Lời dẫn của người dẫn chương trình .................................................................. 22
1.5.1. Khái niệm lời dẫn ............................................................................................. 22
1.5.2. Phân biệt lượt lời dẫn và diễn ngơn lời dẫn.................................................... 23
1.5.3. Vai trị của lời dẫn trong chương trình ........................................................... 24
1.5.4. Về cấu trúc của lời dẫn .................................................................................... 24
1.5.5. Về mặt sử dụng ................................................................................................ 26
1.6. Câu hỏi và lời hỏi................................................................................................ 27
1.6.1. Khái niệm câu hỏi và lời hỏi ........................................................................... 27
1.6.2. Câu hỏi và câu hỏi báo chí .............................................................................. 28
1.6.3. Cấu trúc của câu hỏi và câu hỏi báo chí ......................................................... 28
1.6.4. Vai trị của lời hỏi trong chương trình tọa đàm.............................................. 34
1.6.5. Đặc điểm sử dụng của câu hỏi và câu hỏi báo chí ......................................... 35
1.7. Tiểu kết ............................................................................................................... 37


Chương 2 LỜI DẪN CỦA NGƯỜI DẪN CHƯƠNG TRÌNH TỌA ĐÀM
TRUYỀN HÌNH ...................................................................................... 38
2.1. Đặc điểm cấu trúc lời dẫn ................................................................................... 38
2.1.1. Các dạng lời nói thường xuất hiện trong lời dẫn ........................................... 38
2.1.2. Cấu trúc của diễn ngôn lời dẫn (lời dẫn tổng thể).......................................... 53
2.2. Đặc điểm sử dụng lời dẫn ................................................................................... 72
2.2.1. Hành động lời nói và biểu cảm trong lời dẫn ................................................. 73
2.2.2. Đặc điểm phong cách của lời dẫn ................................................................... 75

2.2.3. Đặc điểm giao tiếp hội thoại của lời dẫn ........................................................ 84
2.2.4. Phép lịch sự trong lời dẫn ................................................................................ 90
2.2.5. Lập luận trong lời dẫn...................................................................................... 98
2.3. Tiểu kết ............................................................................................................. 100
Chương 3 CÂU HỎI CỦA NGƯỜI DẪN CHƯƠNG TRÌNH TỌA ĐÀM
TRUYỀN HÌNH .................................................................................... 102
3.1. Đặc điểm cấu trúc của lời hỏi ........................................................................... 102
3.1.1. Lời hỏi có tiền đề và lời hỏi khơng có tiền đề .............................................. 104
3.1.2. Lời hỏi có thêm phần phụ chú ....................................................................... 107
3.1.3. Lời hỏi có thành phần lịch sự và định hướng hỏi ........................................ 108
3.1.4. Lời hỏi đơn và lời hỏi phức ........................................................................... 108
3.2. Đặc điểm về mặt sử dụng của lời hỏi ............................................................... 111
3.2.1. Đặc điểm sử dụng của năm loại câu hỏi trong lời hỏi ................................. 111
3.2.2. Đặc điểm sử dụng của các loại cấu trúc lời hỏi ........................................... 117
3.2.3. Lập luận của lời hỏi ....................................................................................... 120
3.2.4. Đặc điểm về nội dung và cách khai thác vấn đề qua các lời hỏi................. 128
3.3. Tiểu kết .............................................................................................................. 135
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 136
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................... 140
PHỤ LỤC ................................................................................................................. 143
Phụ lục 1: Lời dẫn mở đầu....................................................................................... 143
Phụ lục 2: Lời dẫn chuyển tiếp ................................................................................ 160
Phụ lục 3: Lời dẫn kết thúc...................................................................................... 194


QUY ƯỚC TRÌNH BÀY
1. Ký hiệu
1.1. Số thứ tự của các ví dụ
Số thứ tự của ví dụ là số thứ tự của các đơn vị ngữ liệu khảo sát được sắp xếp
theo thứ tự từ 1 đến 338, trình bày trong phần Phụ lục.

Số thứ tự của các ví dụ trong luận văn được đặt phía trước ví dụ và trong
ngoặc đơn, như (1), (2), (3),… (338).
1.2. Dấu ngoặc vng
Dấu ngoặc vng dùng để đóng khung các cơng thức, biểu thức ngơn ngữ,
mơ hình và đóng khung chú thích trong dịng ngữ liệu. Ví dụ:
[TIỀN ĐỀ (LUẬN CỨ) - CÂU HỎI (KẾT LUẬN)]
[TIỀN ĐỀ], [KẾT LUẬN]
2. Viết tắt
- HTV: Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh
- MC: người dẫn chương trình, đọc là “em-xi”
- Tên các chương trình được viết tắt như sau:
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.
11.
12.
13.
14.
15.
16.
17.

Ẩm thực Việt Nam

Hương vị sống
Kết nối đến tuơng lai
Kiến thức cuộc sống
Kiến thức kinh tế
Kiến thức tiêu dùng
Muôn mặt chuyện nghề
Ngôi nhà mơ ước
Người Việt - hàng Việt
Phổ biến kiến thức về thuế
Sức khỏe cộng đồng
Sức sống mới
Trò chuyện cuối tuần
Thế giới mẹ và bé
Thường thức gia đình
Vì cuộc sống cộng đồng
Yêu thương cuộc sống

ATVN
HVS
KNĐTL
KTCS
KTKT
KTTD
MMCN
NNMU
NVHV
PBKTVT
SKCĐ
SSM
TCCT

TGM&B
TTGĐ
VCSCĐ
YTCS


1

DẪN NHẬP
1. Lý do chọn đề tài
Trong các thể loại báo chí truyền hình, phỏng vấn là một loại hình báo chí
được sử dụng phổ biến. Đây là thể loại có hình thức là cuộc thoại giữa một hoặc
nhiều nhà báo với một hoặc nhiều người nhằm khai thác thông tin hoặc tranh luận,
bàn bạc, phản ánh, bộc lộ chính kiến, dự báo một vấn đề, phân tích một sự kiện. So
với phỏng vấn ở các thể loại báo chí khác, phỏng vấn truyền hình có được ưu thế
vượt trội vì thơng tin đến với khán giả sống động, với hình ảnh và âm thanh thật.
Tác động của thơng tin là trực diện và có tính thuyết phục cao hơn nhiều.
Phỏng vấn là một trong những kỹ năng quan trọng để khai thác thơng tin.
Trong chương trình học của khoa Báo chí các trường đại học đều có dạy kỹ năng
này, nhưng không chuyên sâu, cho nên khi ra trường, kỹ năng này gần như thuộc về
năng khiếu của cá nhân hơn là kỹ năng chuyên môn nghề báo.
Từ thực trạng nêu trên, chúng tôi quyết định chọn: Lời dẫn và câu hỏi của
người dẫn chương trình truyền hình mà cứ liệu khảo sát chủ yếu dựa trên các
chương trình tọa đàm của Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh (HTV) làm đề
tài luận văn của mình.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Về lời dẫn
Ngôn ngữ của người dẫn chương trình thường thu hút sự quan tâm đánh giá
nhiều chiều từ người xem và giới nghiên cứu, nhưng cho đến nay vẫn chưa có một
cơng trình nào đặt vấn đề nghiên cứu một cách hệ thống về cấu trúc lời dẫn và câu

hỏi của người dẫn chương trình truyền hình.
Những nhận định có liên quan đến ngơn ngữ của MC truyền hình đều khơng
xuất phát từ những nghiên cứu chính thức mà hầu hết chỉ là những ý kiến đi kèm
với một đề tài liên quan đến truyền hình, trong đó có điểm qua lời dẫn và câu hỏi
của MC.
Ngồi ra, hiện nay, có một số lớp dạy về cách dẫn chương trình ở Nhà văn
hóa thanh niên Thành phố Hồ Chí Minh hoặc chuyên đề về phương pháp dẫn
chương trình ở một số trường đại học, nhưng cũng chỉ dừng lại ở mức độ truyền đạt


2

kinh nghiệm chứ chưa phải là cơng trình nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này.
2.2. Về câu hỏi
Nghiên cứu lời dẫn của người dẫn chương trình tọa đàm truyền hình khơng
thể bỏ qua câu hỏi trong lời dẫn. “Hỏi” chính là một hành động bằng lời nói, được
xem xét trên hai phương diện: phương diện ngôn ngữ học và phương diện báo chí.
2.2.1. Trên phương diện ngơn ngữ
Trong các nghiên cứu về ngữ pháp và ngữ dụng, các nhà ngôn ngữ học đều
đề cập đến câu hỏi.
Hiện nay, việc nghiên cứu câu hỏi đã triển khai trên ba bình diện: cấu trúc
câu hỏi, ngữ nghĩa của câu hỏi (tức nghĩa tình thái của câu hỏi, hay thái độ cảm xúc
thông qua câu hỏi), ngữ dụng của câu hỏi (tức hành động hỏi, trong đó có hành
động gián tiếp của lời hỏi, mượn lời hỏi để thực hiện một hành động khác).
Kết quả nghiên cứu về câu hỏi theo quan điểm ngữ pháp truyền thống có sự
thống nhất với nhau giữa các tác giả từ giai đoạn đầu cho đến giai đoạn phát triển
sau đó. Tiêu biểu như các tác giả: Trần Trọng Kim, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Kim
Thản, Diệp Quang Ban, ... đều chỉ ra được cách thức, phương tiện thành lập câu hỏi
và phân biệt các kiểu nội dung hỏi.
Trong cuốn “Ngữ pháp tiếng Việt” của Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam

(1983), các tác giả đã dựa vào nội dung hỏi để chỉ ra các cách thức thể hiện và chia
câu “nghi vấn” thành các loại sau [52; 202-205]:
a) Câu nghi vấn có lựa chọn, gồm hai tiểu loại:
- Hình thức liên hợp từ hay liên hợp ngữ (dùng liên từ hay)
- Hình thức dùng phụ từ có ... khơng; đã ... chưa
b) Câu nghi vấn khơng có lựa chọn (loại câu này dùng các đại từ nghi vấn:
ai, gì, đâu, sao, bao giờ, ... hay những từ ngữ tương đương: người nào, cái nào, chỗ
nào, ...)
c) Câu nghi vấn giả thiết, gồm có năm tiểu loại:
- Dùng các phụ từ có khơng, có phải khơng, có đúng khơng, ...
- Dùng các trợ từ như à, ư, hả, chăng, phỏng, nhỉ, ...
- Dùng các phụ từ phải chăng (là)
- Dùng hình thức là nghi vấn, nhưng nội dung là khẳng định
- Dùng hình thức nghi vấn liên kết với hình thức phủ định để khẳng định


3

Ngoài ra trong cuốn “Ngữ pháp tiếng Việt”, Diệp Quang Ban (2005) đã xuất
phát từ phương thức thành lập câu hỏi, rồi mới chỉ ra các kiểu nội dung hỏi là gì.
Trong đó, tác giả đã chỉ ra bốn phương thức thành lập câu hỏi như sau [6; 213-227]:
- Câu nghi vấn dùng đại từ nghi vấn: ai, gì, sao, đâu, ...
- Câu nghi vấn dùng phó từ: có ... không, đã ... chưa, xong ... chưa
- Câu nghi vấn dùng quan hệ từ lựa chọn hay
- Câu nghi vấn dùng tiểu từ chuyên dụng: à, ư, a, ạ, hả, hử, hở, chứ, ...
Nhìn chung, các tác giả ngữ pháp truyền thống xác định được các đặc điểm
về hình thức và các kiểu nội dung của câu hỏi, nhưng về giá trị của cấu trúc hỏi (câu
hỏi) trong hoạt động giao tiếp thì chỉ mới dừng lại ở mức độ phát hiện một số chức
năng của câu hỏi như: hỏi để khẳng định, hỏi để phản bác, hỏi để cảm thán, ... chứ
chưa đi vào lý giải giá trị sử dụng của các dạng câu hỏi khác nhau, cũng như chưa

phân tích câu hỏi được sử dụng trong ngữ cảnh, tình huống giao tiếp khác nhau.
Các tác giả nghiên cứu câu hỏi theo quan điểm ngữ pháp chức năng, logic
ngôn ngữ, ngữ dụng học đã bổ sung những khiếm khuyết của ngôn ngữ học truyền
thống. Điều này được thể hiện rõ qua nhiều cơng trình nghiên cứu của các tác giả
tiêu biểu như: Cao Xuân Hạo, Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Đức Dân, Nguyễn Văn Hiệp,
Lê Đông, Đào Thanh Lan, Nguyễn Thị Lương, ...
Trong cuốn “Tiếng Việt - Sơ thảo ngữ pháp chức năng”, trên quan điểm cho
rằng câu hỏi có chức năng thể hiện một hành động giao tế (hành động ngôn trung),
tác giả Cao Xuân Hạo đã chỉ rõ cơ sở của câu hỏi chính danh (câu hỏi trực tiếp), đó
chính là “tiền giả định hay tiền ước (presumption) của câu hỏi” [4; 391], và ơng
cũng đã phân tích giá trị năm dạng câu hỏi phi chính danh (câu hỏi gián tiếp) sau:
- Câu hỏi có giá trị cầu khiến.
- Câu hỏi có giá trị khẳng định.
- Câu hỏi có giá trị phủ định.
- Câu hỏi có giá trị phỏng đốn hay ngờ vực, ngần ngại.
- Câu hỏi có giá trị cảm thán. [4; 319-412]
Những nhận định của Cao Xuân Hạo tạo ra những cơ sở lý luận khái quát đã
giúp cho nhiều người kế thừa định hướng nghiên cứu về câu hỏi trong tiếng Việt.
Bên cạnh đó, Nguyễn Đức Dân, tác giả của các chuyên luận, các bài viết về
logic ngôn ngữ, hội thoại, lập luận, ngôn ngữ báo chí, ... cũng đã phát hiện, lý giải


4

nhiều đặc điểm dụng học của câu hỏi. Điều này đã mang lại những gợi ý quý báu
cho chúng tôi cũng như nhiều người nghiên cứu ngôn ngữ học hiện nay.
Gần đây có nhiều người quan tâm nghiên cứu về câu hỏi ở cả ba phương
diện: ngữ pháp, ngữ nghĩa và ngữ dụng. Đồng thời, cũng có nhiều cơng trình nghiên
cứu đối chiếu câu hỏi của tiếng Việt với các ngôn ngữ khác giúp cho việc dịch
thuật, dạy học ngoại ngữ. Chẳng hạn, Lý Thị Kim Thanh, tác giả luận văn “Phương

thức biểu thị tình thái trong câu hỏi và câu trả lời tiếng Việt (so sánh với tiếng
Anh)” [26], đã tổng kết tương đối hệ thống về câu hỏi trong tiếng Việt để nghiên
cứu và đối chiếu với tiếng Anh. Đặc biệt, từ việc kế thừa kết quả khảo sát về vị từ
hành động tiếng Việt của tác giả Nguyễn Thị Quy (2002) [40], tác giả Lý Thị Kim
Thanh đã có nhiều phát hiện mới trong dạng câu hỏi “có/khơng” mà tác giả gọi tên
là “câu hỏi chính phản” và có sự phân tích phù hợp với thực tế của tiếng Việt.
Đào Thanh Lan (2010) trong chuyên luận “Ngữ pháp, ngữ nghĩa của lời cầu
khiến tiếng Việt” đã dành đến 24 trang [8; 175-198] để phân tích câu hỏi có giá trị
cầu khiến.
2.2.2. Trên phương diện báo chí
Từ báo in đến báo nói (phát thanh, truyền hình) đều quan tâm đến câu hỏi vì
đây là một nhân tố quan trọng trong thủ pháp thu thập thông tin. Các công trình
nghiên cứu thuộc lĩnh vực báo chí về vấn đề này của các tác giả: Trần Bảo Khánh,
Nguyễn Quang Hào, Công Khanh, Trần Hữu Quang, … đã phân câu hỏi ra thành
một số dạng điển hình và thơng dụng như: câu hỏi đóng – câu hỏi mở, câu hỏi một ý
– câu hỏi nhiều ý, … Nhưng các tài liệu về câu hỏi cũng chỉ dừng lại ở mức độ khái
quát chứ chưa nghiên cứu sâu về câu hỏi trong các chương trình tọa đàm truyền
hình.
Phần lớn tài liệu về nghề báo, về truyền hình được dịch, hoặc biên dịch từ
sách nước ngoài. Cho nên, các thao tác lấy tin, viết bài, … thuộc về kỹ năng ngôn
ngữ trong các tài liệu đó vẫn là của tiếng nước ngồi, rất ít khi ứng dụng được cho
tiếng Việt.
Tóm lại, hiện nay thực sự vẫn chưa có một tài liệu tiếng Việt chuyên sâu về
phỏng vấn – tọa đàm truyền hình. Những người làm chương trình phỏng vấn – tọa
đàm truyền hình bằng tiếng Việt, chủ yếu học hỏi kinh nghiệm của nhau.
Riêng về câu hỏi tiếng Việt được sử dụng trong phỏng vấn – tọa đàm trên


5


truyền hình vẫn chưa được ai nghiên cứu.
2.3. Về hành động lời nói
Theo lý thuyết hành động lời nói, thì nói là hành động. Đây là một khía cạnh
quan trọng để nghiên cứu lời dẫn. Bởi vì lời dẫn chính là lời nói của người dẫn
chương trình dùng để thực hiện hành động điều khiển, dẫn dắt chương trình.
Hành động lời nói là đối tượng chính của Ngữ dụng học. Ngồi hai nhà
nghiên cứu ngơn ngữ tiêu biểu là Nguyễn Đức Dân và Đỗ Hữu Châu, phải kể đến
Cao Xuân Hạo với những bài viết trên tạp chí chuyên ngành và cuốn “Sơ thảo ngữ
pháp chức năng tiếng Việt”. Ông đã lý giải thấu đáo về dụng học tiếng Việt, đặc
biệt giá trị hành động trực tiếp và gián tiếp của câu hỏi tiếng Việt (như đã giới thiệu
ở trên).
2.4. Về thể loại tọa đàm truyền hình và lý thuyết hội thoại
2.4.1. Tọa đàm truyền hình
Tọa đàm truyền hình là một cuộc thoại đặc biệt có ba bên: người dẫn chương
trình, khách mời (hoặc nhân vật) của chương trình và người quan sát (tức khán giả).
Từ trước đến nay, chưa có cơng trình nghiên cứu nào dành riêng cho cuộc hội thoại
dạng này, đặc biệt là cuộc hội thoại chuyên dành cho truyền hình hay cịn gọi là tọa
đàm truyền hình. Chỉ duy nhất có tác giả Nguyễn Đức Dân là có nhắc đến những
cuộc thoại gần giống với dạng này trong cuốn “Ngữ dụng học”, nhưng khơng phân
tích. Khi MC nói với khán giả, ơng xếp vào loại độc thoại: “Trong giao tiếp một
chiều, chỉ có một bên nói cịn bên kia tiếp nhận. Hình thức này gặp trong những
mệnh lệnh quân sự, trong những diễn văn, trong lời của xướng ngơn viên truyền
hình hoặc truyền thanh ... Đó là độc thoại” [33; 76], Khi MC phỏng vấn “tại hiện
trường”, ơng gọi là tam thoại: “Một phóng viên tới phỏng vấn một gia đình, một đội
thể thao cũng là những tình huống hội thoại nhiều bên” [33; 152].
2.4.2. Lý thuyết hội thoại
Mặc dù chưa ai nghiên cứu ngôn ngữ trong cuộc hội thoại như trên, nhưng
vấn đề hội thoại đã được nhiều nhà ngôn ngữ học trên thế giới và trong nước quan
tâm nghiên cứu. Sau nhiều năm, các nhà ngôn ngữ học đã xây dựng nên lý thuyết
hội thoại với hệ thống phương pháp, thuật ngữ đầy đủ để mô tả một cuộc thoại.

Kế thừa thành quả của những nhà ngôn ngữ học trên thế giới, Việt Nam cũng
có nhiều nhà ngơn ngữ học nghiên cứu và giảng dạy về Ngữ dụng học. Nguyễn Đức


6

Dân và Đỗ Hữu Châu là các nhà nghiên cứu tiêu biểu trong lĩnh vực này.
Ngoài ra, các nghiên cứu sinh, học viên cao học trong những năm gần đây
như: Mai Thị Kiều Phượng, Phạm Thị Ly, Lý Thị Kim Thanh, Nguyễn Thúy
Oanh,… cũng có sự quan tâm rõ nét khi chọn đề tài liên quan đến lý thuyết hội
thoại.
Nhưng cho đến nay vẫn chưa có cơng trình nào nghiên cứu về ngơn ngữ
truyền hình.
3. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu
Thực hiện luận văn này chúng tôi mong muốn góp thêm một tài liệu về
phương diện ngơn ngữ học để cho người dẫn chương trình nói chung và người dẫn
chương trình tọa đàm truyền hình nói riêng có thêm những cơ sở khoa học trong
việc đặt lời dẫn mà đặc biệt là câu hỏi đúng và hay, tránh được những lỗi cơ bản
trong giao tiếp trên truyền hình, làm cho các chương trình tọa đàm của đài truyền
hình hấp dẫn hơn, thu hút được khán giả nhiều hơn.
Để đạt được mục đích trên, luận văn phải hồn thành các nhiệm vụ sau đây:
- Thu thập tất cả các kiểu dạng lời nói thường dùng trong lời dẫn và câu hỏi
của những người dẫn chương trình tọa đàm truyền hình của HTV.
- Phân tích, mơ tả về phương diện cấu trúc và phương diện sử dụng của lời
dẫn và câu hỏi.
- Chỉ ra giá trị sử dụng khác nhau về mặt cấu trúc của lời dẫn và câu hỏi.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng mà chúng tôi chọn nghiên cứu là những lời dẫn và câu hỏi của
người dẫn chương trình truyền hình trên các chương trình tọa đàm của HTV.
Vì các chương trình tọa đàm của truyền hình rất đa dạng, nên chúng tơi chỉ

tập trung khảo sát 17 chương trình phổ biến của HTV và chủ yếu sẽ khảo sát cụ thể
510 số phát sóng điển hình trong khoảng thời gian 2 năm (01/2009 – 12/2010).
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng hai phương pháp nghiên cứu chính là phân tích và mơ tả.
Sự phân tích, mơ tả gắn liền với các nhân tố chi phối hoạt động ngôn ngữ
như người phát ngôn, người thụ ngơn, nội dung giao tiếp, hồn cảnh giao tiếp, cách
thức giao tiếp, …
Ngữ liệu được sử dụng để phân tích, mơ tả hầu hết được chọn lọc từ các


7

chương trình tọa đàm của HTV (thu thập thêm một số chương truyền hình thực tế tọa đàm ngồi hiện trường, để bổ sung ngữ liệu hội thoại trên truyền hình và giúp
phân tích, so sánh làm rõ hơn thể loại tọa đàm truyền hình), gồm các chương trình
và người dẫn chương trình (MC) như sau:
STT
01

TÊN CHƯƠNG TRÌNH
Ẩm thực Việt Nam

TÊN MC
Mỹ Hạnh
Như Quỳnh

02

Hương vị sống

Mạnh Cường


03

Kết nối đến tuơng lai

Mỹ Hạnh

04

Kiến thức cuộc sống

Như Quỳnh

05

Kiến thức kinh tế

Phú Lộc
Phương Thảo

06

Kiến thức tiêu dùng

Ngọc Nga

07

Muôn mặt chuyện nghề


Vân Anh
Quỳnh Giang
Thanh Huyền
Tuyết Vinh

08

Ngôi nhà mơ ước

Đỗ Thụy

09

Người Việt - hàng Việt

Phú Lộc

10

Phổ biến kiến thức về thuế

Phú Lộc

11

Sức khỏe cộng đồng

Thu Hiền

12


Sức sống mới

Quỳnh Anh
Minh Cường
Khánh Huyền
Lê Khánh
Quyền Linh
Thanh Mai
Bình Minh

13

Trị chuyện cuối tuần

Quỳnh Hương
Tường Lam
Lệ Ngọc


8

Hồng Phượng
14

Thế giới mẹ và bé

Xuân Hiếu

15


Thường thức gia đình

Như Quỳnh

16

Vì cuộc sống cộng đồng

Thu Hiền

17

Yêu thương cuộc sống

Thanh Điền
Như Quỳnh

Trong 17 chương trình mà chúng tơi khảo sát thì mỗi loại chương trình
chúng tơi chọn 30 chương trình cụ thể (hay cịn được gọi là số phát sóng) để phân
tích. Như vậy, tổng số lượng chương trình thực sự được đưa vào khảo sát là 510
chương trình cụ thể đã phát sóng.
Tổng thời lượng chúng tơi dành để xem và nghe lại các chương trình đã phát
sóng để phân tích là 12.750 phút (mười hai ngàn bảy trăm năm mươi phút).
Chúng tơi đã quan sát, phân tích những lời dẫn và câu hỏi của MC trong các
chương trình trên với số lượng tương đương với 3.570 (ba ngàn năm trăm bảy
mươi) trang giấy A4 (cỡ chữ 13), đồng thời lần lượt ghi lại các đơn vị lời dẫn và câu
hỏi khác nhau về các kiểu dạng. Mỗi đơn vị là một lần nói, có thể là một lời hoặc
hoặc chuỗi lời nói.
Trong tổng số những chuỗi lời nói mà chúng tơi thu thập được, có 338 đơn vị

lời nói được chúng tơi trích lọc ra để làm mẫu cho các dạng lời dẫn và câu hỏi khác
nhau khi đưa vào phân tích cụ thể và làm ví dụ minh họa cho luận văn (chúng tơi có
tổng hợp trong phần phụ lục).
6. Ý nghĩa của việc nghiên cứu
Ý nghĩa khoa học: Cung cấp những đặc điểm riêng của lời dẫn và câu hỏi
được sử dụng trong lĩnh vực phỏng vấn - tọa đàm truyền hình, góp phần mơ tả các
bình diện của câu hỏi tiếng Việt.
Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn này có thể làm tài liệu tham khảo, cung cấp cho
các MC truyền hình những cơ sở lý thuyết về lời dẫn và câu hỏi, … giúp họ rèn
luyện kỹ năng đặt lời dẫn và câu hỏi hay, phù hợp với mục đích nói, góp phần nâng
cao chất lượng chương trình truyền hình.


9

7. Cấu trúc của luận văn
Luận văn gồm phần mở đầu, nội dung, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu
tham khảo. Trong đó nội dung chính của luận văn được trình bày trong ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý thuyết
Chương 2: Lời dẫn của người dẫn chương trình tọa đàm truyền hình
Chương 3: Câu hỏi của người dẫn chương trình tọa đàm truyền hình
Phần phụ lục gồm có 338 đơn vị ngữ liệu lời dẫn và câu hỏi của các MC
trong 17 loại chương trình tọa đàm trên HTV. Các đơn vị này gồm có ba loại:
1. Lời dẫn mở đầu
2. Lời dẫn chuyển tiếp
3. Lời dẫn kết thúc


10


Chương 1

CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. Thể loại truyền hình và chương trình truyền hình
Truyền hình (tức báo hình) kế thừa sự phát triển của báo viết nên cũng phân
thành nhiều thể loại khác nhau nhằm phục vụ nhu cầu thông tin của cộng đồng.
Theo Trần Bảo Khánh [46], thể loại truyền hình được phân thành 6 loại: Tin truyền
hình, Phóng sự truyền hình, Ký sự truyền hình, Phỏng vấn truyền hình, Tạp chí
truyền hình và Cầu truyền hình. Ngồi ra, hiện nay thể loại truyền hình cịn có thêm
các thể loại như: Truyền hình thực tế (Relity Show), Trị chơi truyền hình (TV
Game Show) và Tọa đàm truyền hình (Talk Show).
Cũng từ đó, trong từng thể loại truyền hình lại được chia ra làm nhiều nội
dung khác nhau: Thời sự - Chính luận, Khoa học - Giáo dục, Đối ngoại, Vui chơi Giải trí, ... và chia ra thành các dạng chương trình truyền hình như: Game show
(Siêu quậy Tí hon, Nào ta cùng hát, ... ); Truyền hình thực tế (Ngôi nhà mơ ước,
Yêu thương cuộc sống, ... ); Ký sự truyền hình (Hành trình theo chân Bác); ...
Trong đó, các chương trình thuộc thể loại Tọa đàm truyền hình hiện đang
được sản xuất rất phổ biến. Bởi khán giả luôn tin vào những điều mà họ trực tiếp
được nghe, được chứng kiến hơn là được phóng viên cung cấp gián tiếp. Tọa đàm
hay phỏng vấn có thể giải quyết được vấn đề này, những trao đổi của khách mời sẽ
làm tăng sự phong phú về thông tin và thuyết phục khán giả như chương trình: Bác
sĩ gia đình, Sức khỏe cộng đồng, Người Việt – hàng Việt, Trò chuyện cuối tuần,
Phổ biến kiến thức về thuế, Kiến thức tiêu dùng, Thế giới mẹ và bé, ...
1.2. Thể loại phỏng vấn, tọa đàm truyền hình và đặc điểm của các
chương trình tọa đàm trên Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh
1.2.1. Thể loại phỏng vấn và tọa đàm truyền hình
Phỏng vấn truyền hình và tọa đàm truyền hình là hai thể loại khác nhau,
nhưng đều dùng kỹ thuật phỏng vấn hay hỏi chuyện. Trên thực tế, có nhiều chương
trình vừa giống thể loại phỏng vấn truyền hình, vừa giống tọa đàm truyền hình. Vì
lý do này mà xuất hiện thuật ngữ “phỏng vấn - tọa đàm truyền hình”.



11

1.2.1.1. Khái niệm phỏng vấn và tọa đàm truyền hình
Phỏng vấn là sự trao đổi giữa một người với một hay một nhóm người để
làm rõ một vấn đề nào đó, chủ yếu là hỏi để lấy thơng tin.
Phỏng vấn được dùng nhiều trong lĩnh vực như xã hội học, báo chí, tuyển
dụng nhân viên, ... với những mục đích khác nhau.
Trong báo chí, phỏng vấn được hiểu theo hai nghĩa:
- Phỏng vấn là một phương pháp thu thập thông tin.
- Phỏng vấn là một thể loại báo chí.
Trong các phương pháp lấy tin, phỏng vấn là phương pháp quan trọng nhất,
phần lớn nhà báo dựa vào phương pháp này để thu thập tin tức.
Có nhiều cách hiểu khác nhau về thể loại phỏng vấn, nhưng nhìn chung đều
thống nhất ở các điểm sau:
- Phỏng vấn là một tác phẩm báo chí trình bày trực tiếp cuộc phỏng vấn hoặc
tường thuật lại cuộc phỏng vấn.
- Người được hỏi là người chứng kiến, người có thẩm quyền, người chịu sự
ảnh hưởng, ...
- Thơng tin có độ tin cậy cao, có nguồn gốc rõ ràng, nhất là trên báo hình.
Phỏng vấn khơng phải là một cuộc trò chuyện riêng tư mà là cuộc đối thoại
đại diện cho người khác (đại diện cho nhân dân, đại diện cho cơ quan báo chí, đại
diện cho một tổ chức, đoàn thể, ...). Nội dung cuộc phỏng vấn là điều xã hội quan
tâm, là vấn đề của xã hội, thông tin nhằm phục vụ đông đảo quần chúng nhân dân.
Cuộc phỏng vấn vừa mang tính khách quan (phong cách của nhà báo khi hỏi) vừa
mang tính chủ quan (phong cách của khách mời/nhân vật khi trả lời).
Theo Nguyễn Thanh Huyền, trong cuốn “Thể loại báo chí”, Phần 5 (Phỏng
vấn) [22; 170-174], căn cứ vào hai tiêu chí nội dung và đối tượng phỏng vấn để
phân loại thể loại phỏng vấn, có các dạng phỏng vấn sau:
Phỏng vấn về sự kiện: Đây là dạng phỏng vấn để thông tin cho công chúng

biết về một sự kiện sắp diễn ra.
Phỏng vấn về một vấn đề: Giải đáp những thông tin trong xã hội hoặc nhiều
câu hỏi của công chúng. Dạng phỏng vấn này yêu cầu người có trách nhiệm đứng ra
giải thích. Cách đặt câu hỏi sao cho vấn đề được lật đi lật lại, hoặc tăng mức độ gay
cấn. Loại câu hỏi thường dùng bắt đầu bằng “Tại sao…?”.


12

Phỏng vấn một nhân vật (phỏng vấn chân dung): Nội dung bao gồm các vấn
đề về cuộc sống sinh hoạt hàng ngày, động cơ làm việc, tâm tư suy nghĩ, triết lý,
thành bại, ... với nhiều câu hỏi tự do, phóng khống, kể cả câu hỏi có tính riêng tư.
Phỏng vấn những nhà lãnh đạo, quản lý: Thường sử dụng những câu hỏi
mang tính bao quát, tổng kết, gợi mở mục tiêu, phương hướng, … đi thẳng vào vấn
đề, không vịng vo, ít câu hỏi. Giọng điệu hỏi kính cẩn, nghiêm túc.
Phỏng vấn các chuyên gia về một lĩnh vực nhất định: Câu hỏi phải có sự
chuẩn bị chu đáo về nội dung, thể hiện sự am hiểu của MC. MC đóng vai trị là cầu
nối giữa khán giả với chuyên gia. MC thường hỏi lại và giải thích các thuật ngữ
khoa học thành những từ ngữ dễ hiểu. Câu hỏi thường có phần phụ để dẫn giải.
Hiện nay, tùy theo từng góc độ tìm hiểu, nghiên cứu, người ta đưa ra nhiều
quan niệm khác nhau về phỏng vấn:
- Các bộ Bách khoa toàn thư xuất bản vào những năm 60 thế kỷ XX định
nghĩa: “Phỏng vấn là một cuộc hỏi đáp giữa những người làm cơng tác báo chí với
một nhân vật có tiếng tăm dưới hình thức một bài phát biểu chủ yếu mang tính chất
chính trị. Cuộc hỏi đáp này có thể được ghi chép đầy đủ - đúng nghi thức, với các
câu hỏi và câu trả lời trong cuộc gặp gỡ tiến hành một cách độc lập hoặc là dưới
dạng tường thuật cuộc gặp gỡ đó”. (dẫn theo Nguyễn Thanh Huyền [22; 164-165])
- Các bộ Bách khoa toàn thư xuất bản vào những năm 70 thế kỷ XX định
nghĩa: “Phỏng vấn là một kiểu thông tin trình bày thơng qua nhà báo dưới hình thức
đàm thoại giới hạn ở một chủ đề nhất định, với một nhân vật có thẩm quyền trong

một lĩnh vực nhất định”. (dẫn theo Nguyễn Thanh Huyền [22; 164-165])
- Từ điển tiếng Việt xuất bản năm 2003 định nghĩa: “Phỏng vấn là hỏi ý kiến
để công bố trước dư luận”. [17; 784]
- Bài “Phỏng vấn và phỏng vấn trong nghề báo” trong cuốn “Nghề nghiệp và
công việc của nhà báo”, Hội Nhà báo Việt Nam xuất bản, Hà Nội, 1992, đã định
nghĩa: “Phỏng vấn là một hình thức đối thoại trong đó nhà báo nêu các câu hỏi và
người được phỏng vấn trả lời. Mục đích của phỏng vấn trên báo chí là đem lại cho
người đọc/xem/nghe những thông tin và lý lẽ về một vấn đề thời sự, chính trị, kinh
tế xã hội, … Thể loại phỏng vấn đáp ứng nhu cầu của cơng chúng là muốn có một
sự hiểu biết sâu sắc hơn về các sự kiện”. (dẫn theo Nguyễn Thanh Huyền [22; 166])
Và theo “Phỏng vấn trong báo viết” do Đào Thanh Huyền dịch với sự hợp


13

tác giữa Hội Nhà báo Việt Nam và trường Đại học báo chí Lille EST (Pháp) thì:
“Phỏng vấn là thể loại báo chí phổ cập và mọi cuộc phỏng vấn đều là một cuộc gặp
gỡ, tức có sự trao đổi, thăm hỏi với mục đích tìm hiểu thơng tin mới”.
Từ những khái niệm trên, có thể đưa ra định nghĩa về phỏng vấn như sau:
Phỏng vấn là một thể loại báo chí, trong đó nhà báo là người chủ động đặt câu hỏi
và hỏi chuyện trực tiếp một hoặc một vài nhóm người nhằm khai thác thơng tin
phục vụ cho yêu cầu và mục đích tuyên truyền của các phương tiện truyền thơng.
Khi bàn về phỏng vấn truyền hình, có người cho rằng nó chẳng khác gì so
với phỏng vấn trên báo viết. Có khác chăng đây chỉ là một cuộc trị chuyện bằng
hình ảnh, thơng qua hình ảnh để trao đổi, bày tỏ ý kiến của chủ thể phỏng vấn. Cũng
có người cho rằng phỏng vấn truyền hình là một hình thức truyền tin dưới dạng một
cuộc trao đổi giữa người được phỏng vấn và một đại diện trên truyền hình và thơng
điệp này được truyền dưới dạng hình ảnh.
Tóm lại, có thể hiểu phỏng vấn truyền hình là một cuộc trao đổi, nói chuyện
giữa người đại diện cho cơ quan truyền hình với một người đại diện trả lời phỏng

vấn thơng qua hình thức hỏi - đáp chính là nhằm mục đích cung cấp thơng tin về
lĩnh vực nào đó mà cơ quan báo chí muốn cung cấp cho khán giả.
Tọa đàm cũng là cuộc phỏng vấn, trao đổi thơng tin giữa hai cá thể hoặc một
nhóm người. Nhưng tọa đàm không chỉ khai thác thông tin mà cịn thể hiện quan
điểm đối với người nói và sự việc cần nói.
Phỏng vấn - tọa đàm là phỏng vấn tập thể về một vấn đề nhất định trong
cùng một không gian. Phỏng vấn - tọa đàm là cuộc đối thoại một chiều, chiều chủ
động thuộc về MC, nhân vật/khách mời là thụ động, giữ vai trị trả lời, ít khi hỏi lại.
Và trên thực tế cũng có nhiều phóng sự truyền hình hoặc truyền hình thực tế đều có
lồng ghép tọa đàm truyền hình như các chương trình: Yêu thương cuộc sống, Ngôi
nhà mơ ước, Kết nối đến tương lai, Kiến thức cuộc sống, Ẩm thực Việt Nam, ...
1.2.1.2. Điểm giống và khác nhau giữa phỏng vấn và phỏng vấn - tọa
đàm truyền hình
Trong tọa đàm, vai trị của MC ngang bằng với khách mời, cũng đưa ra chính
kiến của mình và nghe những ý kiến khác nhau; cịn trong phỏng vấn thì vai trị của
người trả lời là chính, MC chủ yếu nghe khách mời kể về một sự kiện nào đó.


14

a. Điểm giống nhau
- Làm sinh động cho chương trình truyền hình: Việc đặt câu hỏi để tìm thơng
tin là một kỹ năng nghiệp vụ đặc trưng của nghề báo. Q trình này có tính chất
tương tác và tăng tính sinh động cho chương trình bởi sự xuất hiện của nhiều khách
mời ở những cương vị khác nhau cùng tham gia bàn luận, trao đổi về một vấn đề
nào đó mà cơng chúng quan tâm.
“Trong phỏng vấn báo chí, câu hỏi là một sự sáng tạo phản ánh tính chất, lập
trường của phóng viên. Vì vậy, nhà báo để có một cuộc phỏng vấn có hiệu quả cần
nghiên cứu kỹ đối tượng và phải sáng tạo trong quá trình phỏng vấn.” [46; 125]
- Làm tăng tính khách quan của thơng tin báo chí: Nội dung thơng tin thu

nhận từ cuộc phỏng vấn do đối tượng cụ thể cung cấp. Đó là những thơng tin nằm
ngồi ý muốn và suy nghĩ chủ quan của người phỏng vấn. Vì vậy, hoạt động phỏng
vấn giúp tăng cường tính khách quan của thơng tin báo chí.
- Khả năng thơng tin nhanh chóng và chính xác: Phỏng vấn và phỏng vấn tọa đàm đều là những hoạt động mang tính tương tác. Khoảng cách thơng tin giữa
người nhận và người phát được xác định bởi thời gian của câu trả lời. Hoạt động
này giảm thiểu được thời gian mày mị tìm hiểu của nhà báo. Áp lực tâm lý và trách
nhiệm cá nhân đối với nội dung thông tin cung cấp của người được phỏng vấn có
khả năng mang lại tính trung thực cho thơng tin.
- Tăng tính cảm xúc cho tác phẩm: Các chủ thể tham gia vào quá trình phỏng
vấn thể hiện thái độ, quan điểm, tình cảm, tư duy của mình qua lời nói, điệu bộ, chất
giọng, yếu tố biểu cảm trong ngơn từ, bối cảnh giao tiếp, … sẽ góp phần tạo nên
những hiệu ứng cảm xúc cho tác phẩm báo chí.
- Có khả năng thu hút cơng chúng: Khả năng thu hút của thể loại phỏng vấn
và phỏng vấn - tọa đàm ở chỗ làm cho khán thính giả thỏa mãn, có cảm giác “là
người trong cuộc”. Q trình diễn tiến của cuộc phỏng vấn, làm cho khán thính giả
cảm nhận được khơng khí và tính chất chân thực của những nội dung thông tin.
b. Điểm khác nhau
Theo Trần Bảo Khánh (2003), phỏng vấn làm một cách lấy tin của nhà báo.
Thao tác phỏng vấn sử dụng ở nhiều thể loại truyền hình khác nhau. Thao tác phỏng
vấn đóng vai trị chính yếu trong hai thể loại là phỏng vấn và đàm luận (tọa đàm).
Phỏng vấn và tọa đàm có những điểm khác nhau cơ bản sau:


15

“- Vị trí của người phỏng vấn và người trả lời khác nhau. Trong đàm luận, cả
phóng viên cũng đưa ra quan điểm, chính kiến của mình trao đổi với người khác, vị
trí ở đàm luận là ngang bằng. Trong phỏng vấn, người phỏng vấn đi khai thác tư
liệu là chủ yếu. Nhân vật trọng tâm của phỏng vấn là người trả lời.
- Tính chất thơng tin: Trong đàm luận, người đọc, xem, nghe chứng kiến các

quan điểm, ý kiến khác nhau là chủ yếu. Cịn trong phỏng vấn, có thể qua lời kể mà
biết được sự kiện đã hoặc sẽ xảy ra. Nội dung quan trọng của phỏng vấn là khai thác
thông tin về sự việc, sự kiện đã diễn ra, đang diễn ra, hoặc có thể sẽ diễn ra. Dĩ
nhiên, cả ý kiến, quan điểm cũng là nội dung của phỏng vấn” [46; 126-127].
Những điểm khác biệt nhau như trên là thuộc về lý thuyết, còn trong thực tế
sản xuất chương trình truyền hình của HTV cũng như của nhiều đài truyền hình
khác ở Việt Nam hiện nay, nhiều biên tập luôn muốn kết hợp cả phỏng vấn lẫn tọa
đàm vào việc khai thác thông tin để chương trình hay hơn, cho nên, khơng có sự
phân biệt rạch rịi giữa hai thể loại trên, từ đó xuất hiện một thể loại trung gian và
thường được gọi là “phỏng vấn - tọa đàm”.
Chính vì vậy, chúng tơi chọn cả hai thể loại “tọa đàm” và “phỏng vấn - tọa
đàm” để khảo sát.
1.2.2. Đặc điểm của các chương trình tọa đàm trên Đài Truyền hình
Thành phố Hồ Chí Minh
Nhìn chung, các chương trình tọa đàm của HTV là các cuộc tọa đàm “khơng
chính danh”, vì nó chưa tách hẳn thể loại phỏng vấn truyền hình.
Các cuộc tọa đàm thường chỉ là cuộc đối thoại một chiều: MC hỏi và khách
mời trả lời. MC ít khi đóng góp ý kiến của mình một cách trực tiếp. MC chỉ đặt vấn
đề rồi khách mời đàm luận, còn vấn đề của khách mời đặt ra không được MC đàm
luận, phát biểu ý kiến gì. Cho nên, cuộc đối thoại giữa MC và khách mời khơng
phải là một cuộc tọa đàm đúng nghĩa. Vì vậy, chúng tơi tạm xếp các chương trình
này vào thể loại phỏng vấn - tọa đàm.
1.2.2.1. Về cấu trúc của chương trình
Cấu trúc một tác phẩm truyền hình có thể chia làm ba phần. Phần đầu dẫn dắt
nội dung tác phẩm truyền hình. Phần thân diễn giải nội dung của tác phẩm. Phần
cuối nhận xét - kết luận tác phẩm.


16


Trong một chương trình truyền hình chúng ta thường thấy MC có câu dẫn
giới thiệu về nhà đài hoặc trong cuộc phỏng vấn sẽ giới thiệu khách mời. Đó là
phần lời dẫn quan trọng để hướng người xem tập trung chú ý đến tác phẩm truyền
hình. Phỏng vấn cũng phải giới thiệu bản thân và mục đích chương trình thật rõ
ràng, nêu cả lý do phỏng vấn để người được phỏng vấn an tâm và tự tin trả lời.
Cấu trúc của một tác phẩm truyền hình khác nhau thì lời dẫn và câu hỏi sẽ
khác nhau, trong đó cứ mỗi yếu tố khác nhau sẽ kéo theo sự thể hiện khác nhau.
- Khác nhau về thời lượng:
Ví dụ 1: Chương trình “Chung tay vì cộng đồng” phát sóng trên kênh HTV7
với thời lượng 5 phút thì lời dẫn của MC chỉ gói gọn trong 1 phút kể cả phần dẫn
mở và dẫn kết. Nội dung còn lại được phân bố cho hình ảnh, lời bình và có khoảng
1 phút 30 giây đến 2 phút phỏng vấn nhanh từ 1 đến 2 câu để cấu thành tác phẩm.
Ví dụ 2: Chương trình “Ẩm thực Việt Nam” phát sóng trên kênh HTV9 với
thời lượng 18 phút thì lời dẫn mở đầu và kết thúc của MC sẽ dài hơn, bên cạnh đó,
ngồi hình ảnh và lời bình thì số lượng câu phỏng vấn cũng sẽ tăng lên.
- Khác nhau về địa điểm:
Ví dụ: Chương trình “u thương cuộc sống” phát sóng trên kênh HTV9,
MC ngồi hiện trường sẽ trình bày lời dẫn trau chuốt hơn để lấy cảm xúc của khán
giả đối với nhân vật cần giới thiệu, đặt câu hỏi khai thác nhiều về nhân vật để xây
dựng nên một tác phẩm truyền hình thực tế.
- Khác nhau về tính chất của nội dung:
Ví dụ: Nếu là một tin tức bình thường, MC sẽ dẫn mở đầu và kết thúc ngắn
gọn, sau đó nhường lời lại cho nội dung chính của bản tin. Nhưng nếu là chương
trình quan trọng như truyền hình trực tiếp về cuộc bầu cử quốc hội thì MC phải có
lời dẫn mở đầu và kết thúc rõ ràng, mạch lạc, chính xác và sẽ đặt nhiều câu hỏi với
các khách mời có mặt tại cuộc bầu cử quốc hội.
1.2.2.2. Về người dẫn chương trình và khách mời của chương trình
Người dẫn chương trình phần lớn là người nói giọng Nam Bộ, nhạy bén, có
kiến thức, biết sẻ chia và cũng cần phải thông minh để dễ dàng xử lý tình huống khi
khách mời khơng trả lời theo yêu cầu của nội dung chương trình.

Khách mời là những đối tượng được lựa chọn trước cho phù hợp với yêu cầu
khai thác và truyền tải thông điệp của chương trình đến khán giả.


17

1.3. Ngơn ngữ truyền hình
Khác với báo in và báo phát thanh (người đọc chỉ tiếp nhận bằng con đường
thị giác hoặc thính giác), người xem truyền hình tiếp cận sự kiện bằng cả thị giác và
thính giác. Qua nghiên cứu, người ta thấy 70% lượng thông tin con người thu được
là qua thị giác và 30% qua thính giác. Do vậy truyền hình trở thành một phương
tiện cung cấp thơng tin rất lớn, có độ tin cậy cao, có khả năng làm thay đổi nhận
thức của con người trước sự kiện.
Người ta thường nói một cách bóng bẩy rằng “ngơn ngữ truyền hình là ngơn
ngữ hình ảnh và âm thanh”, nhưng nói chính xác thì ngơn ngữ truyền hình là dạng
ngơn ngữ nói thành tiếng đi kèm với hình ảnh, thường gắn chặt với hình ảnh.
Ngơn ngữ truyền hình có các đặc trưng sau:
- Tính phổ thơng: Ngơn ngữ truyền hình là ngơn ngữ của tồn dân, vì truyền
hình khơng chỉ tập trung vào một đối tượng mà có rất nhiều đối tượng theo dõi, do
vậy, ngôn ngữ truyền hình địi hỏi phải có tính phổ thơng.
- Tính chuẩn mực: Truyền hình có tác động dư luận rất mạnh mẽ, chính vì
thế ngơn ngữ của truyền hình cần phải chuẩn mực vì chỉ một lời nói sai hay khơng
rõ nghĩa sẽ dễ dàng làm sai lệch vấn đề.
- Tính phổ biến: Do những ưu thế về hình ảnh và âm thanh, truyền hình có
khả năng thu hút hàng tỷ người xem cùng một lúc. Cùng với sự phát triển của khoa
học và cơng nghệ truyền hình ngày càng mở rộng phạm vi phủ sóng phục vụ được
nhiều đối tượng người xem ở vùng sâu, vùng xa.
Do các đặc trưng trên, ngơn ngữ truyền hình cần tránh những cấu trúc câu
phức tạp hoặc sử dụng biệt ngữ sẽ khiến người xem khơng kịp hiểu.
Ngơn ngữ truyền hình nên rõ ràng, cụ thể, ngắn gọn, súc tích, hạn chế những

từ thừa để khơng làm người nghe khó hiểu. Bên cạnh đó, cần phải cung cấp thơng
tin chính xác, gắn kết chặt chẽ giữa các phần, dùng dự báo thu hút để giúp người
xem biết còn nhiều điều hay để tiếp tục theo dõi. Tạo sự mong đợi bằng những câu
hỏi, nhằm khơi gợi sự tìm hiểu. Ngồi ra, cần lơi kéo khán giả tham gia vào câu
chuyện, đưa người xem vào cuộc, đưa ra những bình luận gần giống khán giả để có
thể nói thay khán giả, đồng thời chỉ ra được những khía cạnh độc đáo hơn, nâng tầm
suy nghĩ, nhìn nhận vấn đề của khán giả.
Do đó, tổ chức Southam đã đưa ra nguyên tắc "5 C" hướng dẫn cách viết cho


18

các phóng viên của mình như sau: Clear = rõ ràng; Correct = chính xác; Concise =
súc tích; Comprehensive = dễ hiểu; Considerate = thận trọng.
1.4. Người dẫn chương trình truyền hình và ngơn ngữ của người dẫn
chương trình truyền hình
1.4.1. Người dẫn chương trình truyền hình
1.4.1.1. Khái niệm người dẫn chuơng trình truyền hình
Người dẫn chương trình - hay còn gọi là MC (viết tắt từ chữ tiếng Anh:
Master of Ceremonies).
Từ điển Bách khoa toàn thư Enciclopedia định nghĩa: MC là người có tính
hoạt bát, tự tin trước cơng chúng, có kiến thức rộng, khơi hài, thanh lịch, dun
dáng, có uy tín với cơng chúng. MC có khả năng dẫn dắt chương trình như một cầu
nối với khán giả, làm cho khán giả khơng chỉ say mê thích thú mà MC cịn là một
bộ phận khơng thể thiếu trong kết cấu chương trình. Chương trình có thành cơng
hay khơng, hơn 50% là do tài năng của MC.
Theo giáo trình của Khoa báo chí Đại học Lile (Pháp), những kỹ năng cần có
của một MC gồm 6 điểm cơ bản: Đài từ - tiếng nói, âm vực sân khấu phải trịn, rõ,
vang, chính xác; Nghệ thuật diễn cảm - biết diễn đạt cảm xúc theo vấn đề, có năng
khiếu đạo diễn; Phong cách sân khấu - duyên dáng, thanh lịch, có cá tính riêng biệt;

Nghệ thuật biên soạn lời dẫn - có kiến thức sâu rộng; Có khả năng của nhà biên
kịch; Phương pháp phối hợp - kết hợp một cách thống nhất để tạo thành một sự nhất
quán trước sau, có mở - đóng; …
Trên thực tế, vẫn chưa có một định nghĩa rõ ràng nào về “người dẫn chương
trình”. Cho nên, chúng tơi tạm định nghĩa người dẫn chương trình và người dẫn
chương trình tọa đàm truyền hình như sau:
Người dẫn chương trình là người điều khiển, dẫn dắt chương trình, giữ chức
năng nối kết giữa các tiết mục, các thành phần của chương trình, làm cho chương
trình diễn ra liền mạch theo kế hoạch (thể hiện trong kịch bản).
Người dẫn chương trình tọa đàm truyền hình là người điều khiển, dẫn dắt
cuộc hội thoại (chủ yếu là giữa MC với khách mời, và có hướng đến người nghe là
khán giả) được phát sóng trên đài truyền hình.


19

1.4.1.2. Vai trò và trách nhiệm của người dẫn chương trình
MC là người dẫn dắt khán giả, tạo nên sự kết nối xuyên suốt các tiết mục để
đảm bảo sự liền mạch, nhất qn cho chương trình. Qua đó, gắn kết khán giả với
chương trình, tạo sự hưng phấn, thích thú nơi khán giả. Người dẫn chương trình
muốn thành cơng, nhất định phải có sự nhạy cảm để dự báo tình huống và đưa đến
những quyết định đúng đắn.
MC có trong tay tồn bộ chương trình (các phần, các tiết mục theo thứ tự
diễn tiến từ khai mạc cho đến bế mạc), từ đó giữ vai trị xuất hiện để giới thiệu từng
tiết mục cho khán thính giả hoặc quần chúng tham dự. MC chịu trách nhiệm có tính
quyết định về hiệu quả tồn bộ chương trình. MC có khả năng cân chỉnh bầu khơng
khí cho tồn bộ chương trình bằng cách tạo ra các đột biến cao trào phấn khởi hay
lắng đọng sâu xa nhằm thu hút, lôi cuốn mọi người theo tiết tấu có tính tốn trước
một cách khéo léo và chu đáo. MC xuất hiện rất nhiều lần trong một chương trình,
do vậy, cần có những nét mới, duyên dáng, hấp dẫn, lôi cuốn và gây được cảm xúc

mới. Tiết mục của MC tuy ngắn ngủi nhưng lại có thể làm nổi bật hơn những tiết
mục khác vừa diễn xong hoặc sắp diễn ra trong chương trình.
MC trong các chương trình phát sóng trực tiếp cần phải căn cứ theo những
kế hoạch sắp xếp của người tổ chức, căn cứ theo quy trình của chương trình truyền
hình trực tiếp để dẫn chương trình theo đúng tiết tấu nhịp điệu một cách tự
nhiên nhất. Làm MC cho một chương trình truyền hình khơng đơn thuần là phát
thanh viên, chỉ cần truyền đạt sao cho đúng nội dung đã biên tập, mà cần phải làm
việc mang tính sáng tạo và bao qt được tồn bộ chương trình. Do đó, mỗi một
MC cần phải tạo dựng phong cách riêng cho chương trình mà mình đảm nhận.
Phong cách, hình ảnh đó phải vì đơng đảo khán giả, đáp ứng được u cầu mang
tính cộng đồng của xã hội, đồng thời cũng cần phải mang tính đặc trưng, riêng biệt,
mới có thể tạo nên hiệu ứng tốt trong suốt quá trình dẫn.
Dẫn chương trình khơng phải là hành vi cá nhân, vì thế MC không thể hành
động theo chủ ý cá nhân. Mọi hoạt động của MC đều biểu hiện trực tiếp hoặc gián
tiếp một ý thức xã hội nhất định. Giá trị cuối cùng của MC chính là thành cơng của
chương trình. MC là đại diện cho tiếng nói của cơng chúng và tượng trưng hình ảnh
xã hội, nên MC phải luôn là cầu nối giữa khán giả và những nhân vật của chương
trình, phải nắm bắt vấn đề để khai thác câu chuyện cho phù hợp.


20

MC phải chịu trách nhiệm trước khán giả của mình. MC khơng thể trình diễn
với phong cách tùy tiện. Trong nhiều trường hợp, MC cũng sẽ phải giúp khách mời,
người được phỏng vấn kể cả khán giả tìm ra được lời thích hợp để diễn giải ý kiến
của mình, làm cho tất cả những người tham gia có cảm giác là chương trình đang
chạy tốt và rất thú vị. MC ln xem việc dẫn chương trình là một vinh dự. Họ ln
làm việc đó với sự cẩn thận và tinh thần trách nhiệm để đem lại niềm vui cho khán
giả, cho chính bản thân. Họ ln nhìn thẳng vào khán giả khi nói cũng như chú ý
lắng nghe những ý kiến phản hồi của khán giả. Và cuối cùng, MC chính là người có

thể tạo nên thành cơng nhưng cũng có thể làm cho chương trình đổ vỡ hồn tồn.
Ngày nay, dẫn chương trình được xem là một nghiệp vụ thuộc về lĩnh vực
nghệ thuật. Vì thế người làm nghiệp vụ này cũng được xem là một nghệ sĩ.
1.4.1.3. Cách thức dẫn chương trình: dẫn đơn và dẫn đơi
Khi dẫn đơn, MC sẽ dễ dàng chủ động dẫn theo kịch bản hoặc những sáng
tạo của chính MC. Nhưng khi dẫn đơi, phải cần có sự ăn ý để hai MC đều có thể
tung hứng hài hịa với nhau, tạo nên sự sinh động, lơi cuốn, hấp dẫn hơn cho
chương trình. Tuy nhiên, nếu hai MC quá khập khiễng về kiến thức, lẫn tác phong
sẽ dễ dàng làm cho chương trình giảm đi chất lượng.
Khi dẫn đơi trong một chương trình, hai MC có thể là hai nữ, hai nam hoặc
một nam và một nữ. Trong đó, các phối hợp của hai MC là điều kiện để quyết định
chương trình diễn ra có sn sẻ và thành cơng hay khơng. Do vậy, vai trò và sự phối
hợp giữa hai MC rất quan trọng, cả hai cần tạo cho mình phong cách phù hợp với
chương trình, hịa quyện nhịp nhàng, biết cách đỡ lời cho nhau khi một trong hai
người bị lúng túng, nói sai, qn kịch bản, ... nhưng khơng có nghĩa là cướp lời của
nhau. Hai MC một nam và một nữ sẽ làm chương trình hấp dẫn hơn bởi sự hài hịa
về giới tính.
Khi dẫn đơi, cả hai MC cần phải có cùng quan điểm, tơn nhau lên, khơng làm
mờ nhau. Điều quan trọng là hai người biết nhường nhau, nếu người trước nói hết ý,
người sau sẽ khơng cịn cơ hội nói nữa. Vì vậy, mỗi MC khi dẫn đơi chỉ nên nói nửa
câu, nửa cịn lại chuyển sang cho bạn dẫn. Một đôi bạn dẫn hiểu nhau, biết tung
hứng sẽ giúp họ thăng hoa, làm chương trình hấp dẫn, thú vị hơn. Và có lẽ, sẽ là
thảm họa nếu hai người chưa thực sự hiểu nhau.


×