Tải bản đầy đủ (.pdf) (128 trang)

Xây dựng đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị cơ sở ở bến tre hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 128 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----0O0----

NGUYỄN VĂN THẮNG

XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ
Ở BẾN TRE HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SỸ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2011


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----0O0----

NGUYỄN VĂN THẮNG

XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ
Ở BẾN TRE HIỆN NAY

Chuyên ngành: CNXHKH
Mã số: 602285
LUẬN VĂN THẠC SỸ CHUYÊN NGÀNH CNXHKH

Cán bộ hướng dẫn khoa học:


TS. LÊ HANH THƠNG

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2011


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự
hướng dẫn khoa học của TS. Lê Hanh Thông; chưa được ai công bố. Các số
liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là hồn tồn chính xác và sự thật.

TÁC GIẢ

NGUYỄN VĂN THẮNG


MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................ 1
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. ĐỘI NGŨ CÁN BỘ TRONG HỆ THỐNG
CHÍNH TRỊ CƠ SỞ Ở VIỆT NAM...................................................... 8
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và Đảng Cộng sản Việt Nam về cán bộ. ....................................................... 8
1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về cán bộ .................... 8
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ ............................................ 10
1.1.3. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cán bộ ................ 15
1.2. Hệ thống chính trị cơ sở ở Việt Nam ....................................... 19
1.2.1. Khái niệm hệ thống chính trị ................................................... 19
1.2.2. Hệ thống chính trị cơ sở........................................................... 21

1.2.3. Đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị cơ sở ......................... 25
1.3. Những yếu tố tác động đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ
trong hệ thống chính trị cơ sở ở nước ta hiện nay ................................... 38
1.3.1. Sự mở rộng hội nhập, giao lưu quốc tế .................................... 38
1.3.2. Sự tác động của q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ......... 40
1.3.3. Sự tác động của cơ chế kinh tế thị trường ................................ 44
1.3.4. Ảnh hưởng của tư duy sản xuất nhỏ, tiểu nông ........................ 46
Chương 2. XÂY DỰN G ĐỘ I N GŨ CÁN BỘ TRONG
HỆ THỒN G CH ÍNH TR Ị CƠ SỞ Ở B ẾN TR E H IỆN N AY THỰC TRẠNG, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ............. 51
2.1. Những đặc điểm kinh tế - xã hội của tỉnh Bến Tre hiện nay .. 51
2.1.1. Những đặc điểm về kinh tế của tỉnh Bến Tre hiện nay ............. 51
2.1.2. Những đặc điểm về xã hội của tỉnh Bến Tre hiện nay .............. 54


2.2. Thực trạng đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị cơ sở ở
Bến Tre hiện nay ....................................................................................... 59
2.2.1. Mặt mạnh ................................................................................ 59
2.2.2. Mặt hạn chế ............................................................................. 64
2.2.3. Nguyên nhân ........................................................................... 71
2.3. Những vấn đề đặt ra và phương hướng, giải pháp xây dựng
đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị cơ sở ở Bến Tre hiện nay ......... 76
2.3.1. Những vấn đề đặt ra trong xây dựng đội ngũ cán bộ trong
hệ thống chính trị cơ sở ở Bến Tre hiện nay ............................................. 76
2.3.2. Những phương hướng cơ bản xây dựng đội ngũ cán bộ trong
hệ thống chính trị cơ sở ở Bến Tre hiện nay ................................................ 79
2.3.3. Những giải pháp chủ yếu xây dựng đội ngũ cán bộ trong
hệ thống chính trị cơ sở ở Bến Tre hiện nay .......................................... 84
PHẦN KẾT LUẬN ..................................................................................... 96
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 99



1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, Việt Nam đang trong thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Trong quá trình ấy, đội
ngũ cán bộ ở nước ta đã không ngừng nỗ lực, phấn đấu vươn lên, năng động,
sáng tạo và có những đóng góp to lớn vào sự nghiệp xây dựng đất nước ngày
một tiến bộ, văn minh.
Nhưng xây dựng đất nước từ một nước nông nghiệp lạc hậu, kinh tế
chậm phát triển trở thành một nước công nghiệp hiện đại, hội nhập sâu rộng
với thế giới là q trình khó khăn, phức tạp. Trong hoàn cảnh mới, sự tác
động của mặt trái cơ chế thị trường, một bộ phận cán bộ đã bộc lộ những
khuyết điểm, yếu kém, như Đảng ta nhận định: “Trong điều kiện cơ chế thị
trường, kinh tế nhiều thành phần, mở cửa với bên ngoài, cán bộ, đảng viên
hằng ngày, hằng giờ chịu sự tác động của nhiều nhân tố rất phức tạp, kể cả
những hoạt động chống phá Đảng, vấn đề giữ bản chất giai cấp công nhân của
Đảng trước những thách thức mới”[15,137]; “khơng ít cán bộ, đảng viên phai
nhạt lý tưởng cách mạng, tha hóa về phẩm chất, đạo đức; sức chiến đấu của
một bộ phận tổ chức cơ sở đảng suy yếu”.[15,67]
Thực trạng đó địi hỏi hệ thống chính trị nước ta, đặc biệt là hệ thống
chính trị cơ sở khơng ngừng hồn thiện về tổ chức, quản lý và hoạt động để
đáp ứng yêu cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong đó, đội ngũ cán bộ,
nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt ở cơ sở phải là những người thật sự tiêu biểu,
có lập trường giai cấp và bản lĩnh chính trị kiên định; có phẩm chất đạo đức
tốt, trình độ học vấn, năng lực công tác đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao.
Trước yêu cầu và nhiệm vụ mới, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở tỉnh Bến
Tre vẫn cịn những hạn chế về các mặt như: trình độ nhận thức chính trị, năng



2

lực tổ chức quản lý, năng lực chỉ đạo hoạt động thực tiễn,…dẫn đến tình trạng
xử lý cơng việc tùy tiện, theo kinh nghiệm chủ nghĩa, không đáp ứng được
với u cầu của thực tiễn.
Do đó, tơi chọn đề tài “Xây dựng đội ngũ cán bộ trong hệ thống
chính trị cơ sở ở Bến Tre hiện nay” làm đề tài luận văn tốt nghiệp thạc sỹ,
tơi mong muốn được đóng góp những giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ của
tỉnh vững mạnh, đáp ứng nhiệm vụ chính trị ở địa phương.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu vấn đề đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị cơ sở là vấn
đề lớn, phức tạp và đòi hỏi sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều nhà khoa học
Việt Nam. Trong đó, nổi bật là các cơng trình:
- “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo quá trình xây dựng đội ngũ cán
bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp cơ sở từ 1975 đến 1993”, Luận án
phó tiến sĩ khoa học lịch sử của Bùi Thị Hồng Phấn, Hà Nội (1994). Trong
cơng trình này, tác giả phân tích q trình Đảng lãnh đạo, xây dựng đội ngũ
cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp cơ sở ở một số tỉnh Nam Trung
bộ thời kỳ trước và sau khi thực hiện chủ trương đổi mới, thơng qua đó rút ra
một số kinh nghiệm và đưa ra một số kiến nghị xây dựng đội ngũ cán bộ chủ
chốt trong hệ thống chính trị cấp cơ sở trong thời gian tới.
- “Đổi mới và tăng cường hệ thống chính trị cơ sở ở nước ta trong giai
đoạn mới” của Nguyễn Đức Bình, Trần Trọng Hiên, Đồn Trọng Tuyền,
Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội (1999). Các tác giả đã tổng kết những thành
tựu và hạn chế trong tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị ở nước ta
sau 10 năm đổi mới (1986 - 1996). Qua đó, các tác giả đề xuất một số giải
pháp nhằm tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta trong giai đoạn mới.
- “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của chính

quyền cơ sở” của Lê Hữu Nghĩa, Tạp chí cộng sản, số 19 (2000). Tác giả


3

phân tích tầm quan trọng của đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và sự
quản lý của chính quyền cơ sở nhằm nâng cao chất lượng của hệ thống
chính trị cơ sở và đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường vai trò
lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của chính quyền cơ sở trong giai đoạn hiện nay.
- “Đổi mới giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt trong
hệ thống chính trị cấp xã các tỉnh khu vực Nam bộ”, Luận án Tiến sĩ Triết học
của Lê Hanh Thông, Hà Nội (2003). Cơng trình này nghiên cứu một cách cơ
bản và có hệ thống về cơng tác giáo dục lý luận chính trị cấp xã ở các tỉnh khu
vực Nam bộ, trên cơ sở đó đề xuất một hệ thống giải pháp tác động, phù hợp,
những kiến nghị đổi mới nội dung, chương trình, phương thức giáo dục lý
luận chính trị, góp phần nâng cao vai trị, phẩm chất và năng lực của cán bộ chủ
chốt cấp xã ở nước ta trong sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- “Hệ thống chính trị cơ sở ở nơng thơn nước ta hiện nay” của
GS.TS Hồng Chí Bảo, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội (2004). Qua cơng
trình, tác giả đã phân tích q trình hình thành hệ thống chính trị cơ sở nước
ta, những thành tựu và hạn chế trong tổ chức hoạt động của hệ thống chính trị
cơ sở sau gần 20 năm đổi mới, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở ở nơng thơn nước ta hiện nay.
- “Hệ thống chính trị cơ sở - Thực trạng và một số giải pháp đổi mới”
là cơng trình của Bộ Nội vụ, Viện nghiên cứu khoa học, tổ chức nhà nước,
Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội (2004) đã trình bày kết quả điều tra thực trạng
và hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở ở 48 xã, phường, thị trấn thuộc 16
tỉnh, thành trực thuộc Trung ương từ năm 2001 đến năm 2002. Trên cơ sở
phân tích kết quả điều tra thực trạng, các tác giả đề xuất một số giải pháp
nhằm đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết Trung ương năm khóa IX về đổi

mới hệ thống chính trị cơ sở ở nước ta.


4

- “Luận cứ khoa học và một số giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh
đạo phường trong giai đoạn hiện nay” của Tiến sĩ Nguyễn Duy Hùng
(Chủ biên), Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội (2007). Cơng trình này đã
tổng kết thực tiễn, phân tích làm rõ những căn cứ, cơ sở lý luận của công
tác xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo nói chung và cán bộ lãnh đạo
phường nói riêng. Qua khảo sát cán bộ lãnh đạo phường thuộc địa bàn thủ
đô Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phịng từ năm 2000
đến nay, tác giả đưa ra những nhận xét, đánh giá và giải pháp nhằm xây
dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường hiện nay.
- “Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nhằm đáp ứng yêu cầu của
sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” của GS.TS Vũ Văn Hiền,
Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội (2007). Trong cơng trình này, tác giả làm rõ
đường lối cán bộ của Đảng và vai trò đặc biệt quan trọng của công tác xây
dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong giai đoạn mới.
- “Hệ thống chính trị nước ta trong thời kỳ đổi mới” của
GS.VS Nguyễn Duy Q, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội (2008). Đây là
cơng trình tác giả tổng kết, phân tích hiện trạng của hệ thống chính trị nước ta
sau hơn 20 năm đổi mới, dự đoán xu hướng vận động của hệ thống chính trị
nước ta trong thời gian tới và đưa ra những giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng
hệ thống chính trị Việt Nam giai đoạn cách mạng mới.
- “Đảng và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị
Việt Nam hiện nay” của TS. Nguyễn Hữu Đổng (Chủ biên), Nxb.Chính trị
quốc gia, Hà Nội (2009). Cơng trình này bước đầu nghiên cứu làm rõ vị trí,
vai trị, nhiệm vụ của Đảng và tổ chức chính trị - xã hội; thực trạng hoạt động
của Đảng và các tổ chức chính trị - xã hội hiện nay,…Ngồi ra, cơng trình cịn

đề cập đến vấn đề đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng, nhằm


5

đổi mới hệ thống chính trị, thực hiện tốt dân chủ hóa xã hội chủ nghĩa, phát
huy quyền làm chủ của nhân dân.
Như vậy, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về hệ thống chính trị và hệ
thống chính trị cơ sở ở nước ta, vấn đề đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị
cơ sở,… nhưng chưa có cơng trình nào đề cập chun biệt đến vấn đề xây
dựng đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị cơ sở ở Bến Tre. Do đó, trên cơ
sở tiếp thu có chọn lọc các cơng trình nghiên cứu tiêu biểu nêu trên kết hợp
với nhu cầu thực tiễn của địa phương trong xây dựng đội ngũ cán bộ, tác giả
chọn vấn đề “Xây dựng đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị cơ sở ở
Bến Tre hiện nay” làm đề tài nghiên cứu và viết luận văn thạc sỹ của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn: Luận văn làm rõ một số vấn đề lý luận và thực
tiễn về đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị cơ sở ở nước ta. Trên cơ sở
phân tích thực trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cơ sở ở
Bến Tre, kiến nghị một số giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ
này vững mạnh đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn mới.
Nhiệm vụ của luận văn: Để đạt mục đích trên, luận văn tập trung giải
quyết những nhiệm vụ sau:
- Làm rõ khái niệm cán bộ chủ chốt; vai trò, nhiệm vụ và tiêu chuẩn
của đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị cơ sở ở Việt Nam.
- Phân tích thực trạng xây dựng đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị
cơ sở ở Bến Tre trong những năm qua, đặt ra những vấn đề cần giải quyết để
xây dựng đội ngũ cán bộ trong sạch, vững mạnh.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục xây dựng đội ngũ cán
bộ trong hệ thống chính trị cơ sở ở Bến Tre hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn


6

Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Đội ngũ cán bộ trong hệ thống
chính trị cơ sở ở tỉnh Bến Tre.
Phạm vi nguyên cứu của luận văn: Tập trung nghiên cứu đội ngũ cán
bộ, chủ yếu là đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cơ sở ở Bến
Tre từ năm 2006 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu luận văn
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước và có sử dụng các phương pháp nghiên cứu: phương pháp
lịch sử, phương pháp thống kê, phương pháp logích, phân tích và tổng hợp,
điều tra xã hội học, so sánh đối chiếu,…
Trong công tác điều tra xã hội học, tác giả chọn ngẫu nhiên 3 đơn vị để
trực tiếp tổ chức phát phiếu thăm dò ý kiến (đối với cán bộ và nhân dân): xã
Thạnh Ngãi, huyện Mỏ Cày Bắc; phường 6, Thành phố Bến Tre và Thị trấn
Giồng Trôm, huyện Giồng Trơm. Đối với cán bộ, thăm dị ý kiến ở các chức
danh chủ chốt, số phiếu phát ra 23 phiếu ở 3 đơn vị, thu về 23 phiếu. Đối với
nhân dân, thăm dò ý kiến ở mỗi đơn vị 100 người, tổng số phiếu thăm dò
được là 300 phiếu. Do mức độ và câu hỏi không nhiều, tác giả tham khảo ý
kiến cán bộ hướng dẫn khoa học và được đồng ý xử lý các kết quả đạt được
bằng phương pháp thủ cơng nhưng vẫn đảm bảo tính khách quan, đúng theo các
quy định trong điều tra xã hội học.
6. Ý nghĩa khoa học của luận văn
Luận văn góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về đội ngũ cán bộ
trong hệ thống chính trị cơ sở ở Việt Nam.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho cơ quan chức năng

trong quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ ở Bến Tre hiện nay.


7

Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu nghiên cứu, giảng dạy các chuyên
đề của chủ nghĩa xã hội khoa học, xây dựng Đảng trong các trường trung cấp,
cao đẳng và đại học ở Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Phần kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận
văn có hai chương, sáu tiết.


8

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
I NG

CÁN B

CHÍNH TR

1.1. QUAN
MINH VÀ

I M C A CH

C


TRONG H

TH

S

T NA M

VI

NG

NGH A MÁC - LÊNIN, T

NG C NG S N VI T NAM V

T

NG H

CHÍ

CÁN B

1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
C.Mác và Ph.Ănghen là những nhà sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa
học, các ơng đã đóng góp cho nhân loại tiến bộ toàn thế giới những biện pháp
để thực hiện ước mơ ngàn đời của họ về một xã hội khơng có áp bức, bóc lột một xã hội tự do, bình đẳng, bác ái, hịa bình và hạnh phúc. Những vấn lý
luận và thực tiễn về công tác cán bộ cũng góp phần khơng nhỏ trong những
biện pháp ấy. Hoạt động thực tiễn của phong trào công nhân đã chứng minh

một điều, giai cấp vơ sản và chính đảng của mình muốn giành được quyền
lãnh đạo, giữ vững thành quả cách mạng, giữ vững chính quyền thì cần phải
xây dựng một đội ngũ cán bộ thật trung thành và tài năng mới đáp ứng được
nhiệm vụ cách mạng. C.Mác đã khẳng định: “Muốn thực hiện tư tưởng thì cần
có những con người sử dụng lực lượng thực tiễn” [4,181]. “Con người sử
dụng lực lượng thực tiễn” ở đây là con người hoạt động, là nhân tố đầu tiên để
hiện thực hóa tư duy. Theo nghĩa rộng, “những con người sử dụng lực lượng
thực tiễn” là con người hành động, tham gia vào các quá trình hoạt động vật
chất hiện thực của xã hội. Theo cách hiểu đó, “những con người sử dụng lực
lượng thực tiễn” là chỉ về cán bộ và cả đội ngũ cán bộ. Đây là những con
người tiên phong, sẵn sàng chịu đựng mọi hy sinh, gian khổ cho cách mạng,
suốt đời phấn đấu vì lợi ích của nhân dân, của dân tộc. Trong hoạt động chính


9

trị, cán bộ càng trở nên quan trọng khi tham gia hoạch định, thực thi các chính
sách, quyết định và là người chịu trách nhiệm về sự phát triển của xã hội. Do
hoàn cảnh lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen chưa phân tích đầy đủ về cán bộ,
vai trị người cán bộ cách mạng mà thực tế các ông chỉ bàn về một số nguyên
tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của đảng cộng sản, về tiêu chuẩn của
người đảng viên đảng cộng sản, tuy nhiên ông cũng rất quan tâm đến việc xây
dựng một đội ngũ những người tuyên truyền, cổ động để truyền bá tư tưởng
cộng sản; lãnh đạo và tổ chức phong trào đấu tranh của giai cấp vơ sản. Sau
này, trong q trình phân tích các hoạt động kinh tế - xã hội, C.Mác và
Ph.Ăngghen chỉ ra vai trò quan trọng của những người đứng đầu trong các tổ
chức kinh tế - xã hội. Các ông cho rằng: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp
hay lao động chung nào tiến hành trên quy mơ tương đối lớn, thì ít nhiều cũng
đều cần đến một sự chỉ đạo để điều hòa những hoạt động cá nhân… Một
người độc tấu vĩ cầm tự điều khiển lấy mình, cịn một dàn nhạc thì cần phải

có nhạc trưởng” [8,480]. Các ơng đánh giá cao hình thức tổ chức của Cơng xã
Pari, trong đó có việc sử dụng, xây dựng đội ngũ cán bộ.
Như vậy, theo C.Mác và Ph.Ăngghen thì khi giành được chính quyền,
muốn giữ vững và lãnh đạo chính quyền thì phải xây dựng một đội ngũ cán
bộ trung thành và tài năng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng. Đội
ngũ những con người ấy phải “tuyệt nhiên khơng có một lợi ích nào tách khỏi lợi
ích của tồn thể giai cấp vơ sản”, họ là “bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng
công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận luôn thúc đẩy phong trào tiến lên”, còn
“về mặt lý luận, họ hơn bộ phận cịn lại của giai cấp vơ sản ở chỗ là họ hiểu rõ
những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vơ sản”. [5,614-615]
Đến đầu thế kỉ XX, chủ nghĩa tư bản trên thế giới đã chuyển sang giai
đoạn phát triển mới, giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Trên cơ sở phân tích sâu
sắc và toàn diện sự vận động và phát triển của chủ nghĩa tư bản trong giai


10

đoạn đế quốc chủ nghĩa, phong trào cách mạng vô sản đang phát triển mạnh
mẽ, với vai trò là người kế thừa, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác,
V.I.Lênin đặc biệt chú trọng đến việc xây dựng một đội ngũ những nhà cách
mạng chuyên nghiệp trong phong trào cộng sản. V.I.Lênin đã chỉ rõ: “Trong lịch
sử, chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó khơng đào
tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu
tiền phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào”. [71,473]
Điều này cịn có nghĩa là một phong trào cách mạng phát triển vững
chắc thì cần có những người cán bộ biết lãnh đạo để tổ chức và duy trì phong
trào. Đó là những cán bộ nịng cốt của Đảng Cộng sản, và khi giành được
chính quyền, để giữ chính quyền, cán bộ càng trở nên quan trọng và cấp bách.
Việc lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng một đội ngũ cán bộ đủ tiêu chuẩn đáp ứng
được thời kỳ mới của cách mạng. V.I.Lênin chỉ rõ: “Nghiên cứu những con

người tìm những cán bộ có bản lĩnh. Hiện nay, đó là là then chốt; nếu khơng
thế thì tất cả mọi mệnh lệnh và quyết định sẽ chỉ là mớ giấy lộn” [72,449].
Với những quan điểm lý luận của V.I.Lênin về cán bộ và công tác cán bộ đã
tạo nên một hệ thống lý luận chính thống của giai cấp vơ sản và các dân tộc bị
áp bức trên toàn thế giới trong giai đoạn chủ nghĩa đế quốc về việc tuyển
chọn, xây dựng một đội ngũ những nhà cách mạng chuyên nghiệp cho phong
trào cộng sản.
1.1.2.Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ
Trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta, chủ tịch Hồ Chí Minh ln coi trọng vấn đề cán bộ và công tác cán
bộ. Người cho rằng cán bộ là cái gốc của mọi công việc và công việc thành
công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém. Đây là quan điểm gốc của Hồ
Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ, đồng thời là quan điểm chi phối có
tính quyết định đối với tồn bộ hệ thống chính trị nước ta. Theo quan điểm


11

trên, nếu chúng ta có cán bộ tốt thì cơng việc thành công, công việc ở đây là
đưa đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước ta
đến với nhân dân, đồng thời vận động người dân thực hiện thắng lợi đường
lối, chủ trương đó. Ngược lại, cán bộ kém thì dù chủ trương, chính sách có
đúng đắn thì khó có thể trở thành hiện thực. Người còn cho rằng: “Cán bộ là
những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân
chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo
cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng” [33,269].
Đồng thời, “cán bộ luôn luôn ở trong phong trào cách mạng của đất nước, cán
bộ là lực lượng trung tâm của phong trào cách mạng, luôn luôn đi tiên phong
lôi cuốn cả phong trào cách mạng phát triển” [2,33]. Đó là vai trò to lớn của
cán bộ trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta.

Trong hệ thống quan điểm của Hồ Chí Minh về cán bộ, vấn đề tư cách,
phẩm chất năng lực và phong cách người cán bộ được Người đặc biệt quan
tâm lưu ý. Về tư cách người cách mạng, trong tác phẩm “Đường Kách Mệnh”
(1927), chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra 23 điều về Tư cách của một người
kách mệnh. Nội dung này được Người nhiều lần đề cập tới, nhưng có thể khái
quát yêu cầu về tư cách của người cán bộ là suốt đời phấn đấu, hy sinh cho lý
tưởng của Đảng. Đây là yêu cầu tiên quyết, cao nhất của người cán bộ. Đồng
thời, người cán bộ phải đặt quyền lợi của Đảng, Tổ quốc lên trên hết, trước
hết, với quan điểm này, người cán bộ được gắn liền với vận mệnh của Đảng,
của Tổ quốc. Do đó, “Ngồi lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc, thì Đảng khơng
có lợi ích gì khác. Cho nên Đảng phải ra sức tổ chức nhân dân, lãnh đạo nhân
dân để giải phóng nhân dân và nâng cao sinh hoạt, văn hóa, chính trị của nhân
dân. Vì tồn dân được giải phóng, tức là Đảng được giải phóng” [33,250].
Điều này đồng nghĩa với việc lợi ích cá nhân phải phục tùng, phù hợp lợi ích
của Đảng, của tập thể. Ngồi ra, người cán bộ phải có đức hy sinh, có một đời


12

tư trong sáng, phải là một tấm gương sáng trong cuộc sống. Nếu cán bộ khơng
có đời tư trong sáng thì khó thuyết phục vận động quần chúng nhân tham gia
vào phong trào cách mạng. Và Người là tấm gương mẫu mực cho tư cách này.
Về phẩm chất và năng lực, Hồ Chí Minh yêu cầu người cán bộ phải có
đầy đủ những phẩm chất và năng lực cần thiết như đạo đức cách mạng trong
sáng; trung thành với Đảng với nhân dân; có năng lực lãnh đạo, tổ chức thực
hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và các đồn thể
nhân dân; có quan hệ mật thiết với nhân dân; luôn học tập để nâng cao trình
độ về mọi mặt và đặc biệt phải có phong cách làm việc khoa học, chuẩn mực.
Trong chỉnh thể các u cầu đó, Người khơng xem nhẹ khía cạnh nào. Chẳng
hạn như khi nói về đạo đức cách mạng, Người so sánh đạo đức như gốc của

cây, như nguồn của sơng. “Cũng như sơng thì có nguồn mới có nước, khơng
có nguồn thì sơng cạn. Cây phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo. Người
cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng khơng
lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho lồi
người là một cơng việc to tát mà tự mình khơng có đạo đức, khơng có căn
bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì cịn làm nổi việc gì”.[33,252-253]
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là nét đặc trưng của đạo đức,
Người cho rằng những phẩm chất này cũng là một lẽ tự nhiên của con người
và nếu thiếu một trong những phẩm chất ấy thì khơng thể thành người. Đạo
đức rất cần cho tất cả mọi người, nhất là đối với cán bộ vì “đạo đức cách
mạng là một nguồn động lực giúp cán bộ vượt qua mọi khó khăn, cám dỗ trên
con đường khơng ít chơng gai, thử thách” [34,106]. Theo chủ tịch Hồ Chí
Minh, Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí cơng vơ tư được giải thích là:
Cần là siêng năng, chăm chỉ; lao động có kế hoạch, có hiệu quả, có
năng suất cao với tinh thần tự lực cánh sinh.


13

Kiệm là tiết kiệm, tức là khơng lãng phí thời gian, của cải của mình và
của nhân dân. Tiết kiệm cịn có nghĩa là khơng xa xỉ, hoang phí, khơng phơ
trương, hình thức, khơng liên hoan, chè chén lu bù.
Liêm là ln tơn trọng, giữ gìn của cơng, của nhân dân, trở thành thước
đo bản chất con người, bản chất cách mạng của mỗi người.
Chính là thẳng thắn, đứng đắn. Người đưa ra một số yêu cầu: Đối với
mình – không được tự cao, tự đại, tự phụ, phải khiêm tốn học hỏi, phát triển
cái hay, sửa chữa cái dở của mình. Đối với người - khơng nịnh người trên,
khơng khinh người dưới, thật thà không dối trá. Đối với việc - phải đặt việc công
lên trên, lên trước, việc thiện nhỏ mấy cũng làm, việc ác, nhỏ mấy cũng tránh.
Mối quan hệ giữa Cần, Kiệm, Liêm, Chính rất chặt chẽ, biện chứng và

cán bộ, đảng viên phải thực hành trước để làm kiểu mẫu cho dân. Vấn đề này
còn được coi là nền tảng của đời sống mới, của phong trào thi đua u nước.
Chí cơng vơ tư, là công bằng, công tâm, không thiên tư, thiên vị, ham
làm những việc ích nước, lợi dân, khơng ham cơng danh phú q. Chí cơng
vơ tư là nêu cao chủ nghĩa tập thể, trừ bỏ, chống chủ nghĩa cá nhân. Đấu
tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là giày xéo lên lợi ích cá nhân.
Hồ Chí Minh cho rằng, chủ nghĩa xã hội không thể thắng lợi nếu không loại
trừ chủ nghĩa cá nhân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cịn phân tích mối quan hệ giữa đức và tài,
Người cho rằng, có tài mà khơng có đức thì sẽ làm hỏng cơng việc, có hại cho
cách mạng; ngược lại, có đức mà khơng có tài thì như ơng bụt ngồi đấy chẳng
giúp ích được gì; trong mỗi con người địi hỏi phải vừa có đức, vừa có tài.
Muốn làm cách mạng, người cán bộ phải có tâm trong sáng, cái đức cao đẹp.
Cái tâm ấy phải được thể hiện hàng ngày trong mối quan hệ với nhân dân, với
đồng chí. Mối quan hệ máu thịt với nhân dân, giúp người cán bộ không xa
dân, không vi phạm quyền làm chủ của nhân dân. Qua đó, người cán bộ phải


14

làm cho dân yêu, dân kính, dân phục. Muốn vậy, người cán bộ phải biết lắng
nghe ý kiến nhân dân, phải hiểu dân chúng, học dân chúng, suy rộng ra, người
cán bộ học để nâng cao trình độ về mọi mặt. Thơng qua đó, người cán bộ
khẳng định được năng lực lãnh đạo của mình, hồn thành tốt nhiệm vụ chính
trị với tinh thần trách nhiệm cao. Đó cũng là phong cách tốt của người cán bộ
cách mạng.
Về phong cách người cán bộ cách mạng, chưa thấy Hồ Chí Minh dùng
từ “phong cách” nhưng qua các tác phẩm, bài nói, bài viết của Người, đặc biệt
là tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, ta thấy rõ yêu cầu đối với cán bộ, đảng
viên như khiêm tốn, giản dị, cách nói, làm việc, cách lãnh đạo, công tác, tác

phong độc lập trong suy nghĩ và tự do tư tưởng… Rõ ràng, những vấn đề đó
được hiểu như là phong cách của người cán bộ cách mạng. Khi nghiên cứu
vấn đề này, chúng ta cũng cần nhấn mạnh rằng “phong cách người cách
mạng, người cán bộ, đảng viên có quan hệ mật thiết với tư tưởng, đường lối
và phương pháp cách mạng” [31,153]. Do đó mà đường lối và phương pháp
chung của tồn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam, cũng như của từng giai
đoạn, từng thời kỳ được quán triệt thống nhất trong đội ngũ cán bộ nhưng kết
quả thực hiện đường lối và vận dụng phương pháp có sự khác nhau. Điều này
phụ thuộc rất nhiều vào phong cách của mỗi người và có liên quan chặt chẽ,
thống nhất với vấn đề đạo đức cách mạng của cán bộ. Đại hội X của Đảng
khẳng định rõ: “Tiếp tục đổi mới phong cách, lề lối làm việc của Đảng theo
hướng thật sự dân chủ, kỷ cương, thiết thực, sâu sát cơ sở, sâu sát quần
chúng; làm việc có chương trình, kế hoạch, có trọng tâm, trọng điểm, nói đi
đơi với làm” [17,310]. Rõ ràng, muốn thực hiện nhiệm vụ này, đội ngũ cán bộ
trong hệ thống chính trị cơ sở phải đổi mới phong cách làm việc theo tư tưởng
Hồ Chí Minh.


15

Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ là hệ thống quan điểm của
Người về vai trò của cán bộ và cơng tác cán bộ trong q trình thực hiện
nhiệm vụ cách mạng. Tư tưởng cán bộ của Người được vận dụng một cách có
hiệu quả trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, nhất là trong
công tác cán bộ của Đảng và Nhà nước. Đây cũng là cơ sở lý luận để chúng ta
xây dựng một đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất và năng lực phục vụ cho sự
nghiệp cách mạng của Đảng trong giai đoạn mới.
1.1.3. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cán bộ
Hiện nay, vấn đề cán bộ ngày càng có tầm quan trọng đặc biệt, vừa có
tính lý luận sâu sắc và là u cầu của thực tiễn, vừa có tính cơ bản lâu dài và

lại là địi hỏi bức xúc của tình hình hiện tại. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn
luôn coi trọng vai trị đội ngũ cán bộ và cơng tác xây dựng đội ngũ cán bộ cán
bộ. Qua các giai đoạn lịch sử đã chứng minh điều đó, đặc biệt hơn khi bước
vào thời kỳ đổi mới, thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước và hội nhập quốc tế, công tác cán bộ của Đảng càng trở nên
quan trọng hơn bao giờ hết vì đội ngũ cán bộ, đảng viên có vị trí đặc biệt vì
suy cho cùng, đường lối của Đảng đúng đắn, tổ chức của Đảng chặt chẽ cũng
là do đội ngũ cán bộ của Đảng thực hiện và tạo dựng. Bên cạnh đó, vấn đề cốt
tử tạo nên năng lực lãnh đạo của Đảng chính là đội ngũ cán bộ chủ chốt. Đây
là những đầu tàu kéo cả đồn tàu đi về phía trước, là hạt nhân quy tụ đảng viên
và quần chúng nhân dân đồng tâm hợp lực thực hiện đường lối của Đảng.
Nhận thức rõ vị trí đặc biệt quan trọng của công tác cán bộ,
Đảng Cộng sản Việt Nam qua các kỳ đại hội Đảng và trong các
Nghị quyết cũng như trong hoạt động thực tiễn của mình, ln chú
trọng cơng tác cán bộ, đặc biệt đã có nhiều Nghị quyết quan trọng đề cập
đến công tác cán bộ. Ngay từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta
khẳng định: “Đổi mới đội ngũ cán bộ có nghĩa là đánh giá, lựa chọn, bố trí lại,


16

đi đơi với đào tạo, bồi dưỡng để có một đội ngũ có đủ phẩm chất và năng lực
lãnh đạo, quản lý ngang tầm nhiệm vụ”. [19,103-104] Hoặc đến Hội nghị lần
thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, chiến lược cán bộ thời kỳ cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa được xây dựng và nhận thức ngày sâu sắc hơn về
công tác xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở và công tác xây dựng đội ngũ cán bộ
cơ sở, chiến lược cán bộ của Đảng ta xác định: “Xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức các cấp từ Trung ương đến cơ sở, đặc biệt là cán bộ đứng đầu, có
phẩm chất và năng lực, có bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở lập trường
của giai cấp công nhân, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, bảo đảm sự

chuyển tiếp liên tục và vững vàng giữa các thế hệ cán bộ nhằm thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, giữ vững độc lập tự chủ, đi
lên chủ nghĩa xã hội”. [20, 67-68] và đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Đảng ta yêu cầu công tác cán bộ phải: “mở rộng và phát huy dân chủ, thực hiện
công khai, minh bạch trong công tác cán bộ. Các cấp ủy cần coi trọng việc
đánh giá cán bộ; căn cứ vào tiêu chuẩn, sự tín nhiệm, xem xét giới thiệu để bầu
cử hoặc bổ nhiệm những người thật sự có đức, có tài, có tâm huyết với đất
nước vào các chức vụ trong cơ quan nhà nước các cấp, không phân biệt người
Đảng, người trong Đảng”. [17,294]
Rõ ràng, Đảng ta rất coi trọng công tác cán bộ và qua các thời kỳ tùy
theo mức độ, cách thức thực hiện công tác cán bộ có khác nhau nhưng yêu
cầu phải xây dựng và đảm bảo được đội ngũ cán bộ vừa hồng, vừa chuyên,
giỏi lý luận, giỏi thực tiễn, thạo chuyên mơn, biết học tập và phấn đấu vì mục
tiêu chung của dân tộc, đó là dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng,
văn minh.
Từ chủ trương, đường lối của Đảng, công tác tổ chức cán bộ đã được
các cấp, các ngành, các địa phương thực hiện nghiêm túc, đã nhanh chóng đi
vào cuộc sống, góp phần quan trọng vào việc củng cố phát triển đội ngũ cán


17

bộ, ổn định tư tưởng, thống nhất nhận thức và hành động trong Đảng và nhân
dân. Nhận định chung về công tác cán bộ của Đảng trong những năm qua có
thể thấy rõ nhiều nét mới, nhất là đổi mới nhận thức, làm rõ hơn nội dung và
phương thức thực hiện nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ
và quản lý đội ngũ cán bộ, đi đôi với phát huy trách nhiệm của tập thể thường
vụ cấp ủy, nhất là người đứng đầu của tổ chức trong hệ thống chính trị về
cơng tác cán bộ; việc thực hiện dân chủ ngày càng thiết thực, rộng rãi hơn,
chấp hành đúng và đầy đủ hơn nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể quyết

định công tác cán bộ. Thực tiễn đã khẳng định, để tạo ra sự chuyển biến cơ
bản trong công tác cán bộ, cần phải thực hiện đồng bộ các khâu chính yếu; từ
đánh giá, quy hoạch, luân chuyển đến đào tạo, bồi dưỡng và bố trí, sử dụng
cán bộ. Bên cạnh những ưu điểm, thành công đã đạt được cơng tác cán bộ
cũng cịn một số khuyết điểm, thiếu sót như đánh giá và quản lý cán bộ là
khâu yếu, nhưng chưa được khắc phục; công tác cán bộ chưa góp phần đẩy lùi
tiêu cực, tham nhũng; chính sách cán bộ cịn có những điểm bất hợp lý.
Nguyên nhân do thiếu thống nhất cao trong nhận thức và tổ chức cán bộ,
chậm phát hiện và khắc phục những mặt mâu thuẫn trong công tác tổ chức,
cán bộ; công tác nghiên cứu khoa học về tổ chức có những hạn chế, chưa quan
tâm xây dựng hệ thống cơ quan tham mưu về công tác tổ chức, cán bộ,…
Qua thực tiễn, công tác cán bộ và việc xây dựng đội ngũ cán bộ nói
chung, xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt nói riêng, Đảng ta đã rút một số
kinh nghiệm bước đầu, đó là: cơng tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ chủ
chốt phải gắn với chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội phải chuẩn
bị chiến lược cán bộ đáp ứng, trong đó chú trọng đến cán bộ chủ chốt. Nội
dung quan trọng là xây dựng được quy hoạch cán bộ và chăm lo bồi dưỡng,
đào tạo, giáo dục cán bộ; Trên cơ sở quán triệt sâu sắc quan điểm giai cấp
trong cơng tác cán bộ, phải tăng cường đồn kết, tập hợp rộng rãi các loại cán


18

bộ, trọng dụng mọi nhân tài cho đất nước. Cần thu hút những người có đủ
đức, đủ tài, đủ năng lực trình độ vào đội ngũ cán bộ chủ chốt, kể cả những
người chưa phải là đảng viên. Có những cơ quan, đơn vị mà người đứng đầu
cũng có thể là người ngoài Đảng; Phải nắm vững tiêu chuẩn cán bộ, nhất là
tiêu chuẩn đối với cán bộ chủ chốt, cán bộ đứng đầu các cơ quan đơn vị, giải
quyết mối quan hệ giữa tiêu chuẩn và cơ cấu cán bộ. Tiêu chuẩn chung của
cán bộ là: Phẩm chất chính trị tốt, vững vàng, kiên định mục tiêu lý tưởng và

con đường xã hội chủ nghĩa, trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư
tưởng Hồ Chí Minh; có đạo đức cách mạng trong sáng, lối sống lành mạnh,
có trình độ và khả năng thực hiện những nhiệm vụ công tác chuyên môn được
giao. Tiêu chuẩn đối với cán bộ chủ chốt là: Có năng lực tham gia, quyết định
và tổ chức thực hiện tốt những nhiệm vụ trong phạm vi trách nhiệm của mình;
có năng lực điều hành, điều khiển, tập hợp quần chúng, phối hợp cơng tác; có
kiến thức kinh nghiệm thực tiễn, tổng kết thực tiễn, đúc rút kinh nghiệm; có
kiến thức và ý thức xây dựng Đảng, biết làm cơng tác tổ chức, cán bộ. Có
phong cách làm việc tập thể, tổ chức khoa học, nói đi đôi với làm, sâu sát thực
tế; biết lắng nghe, biết quyết đoán, dám chịu trách nhiệm; Đánh giá đúng và
biết sử dụng cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt. Trước hết, phải tìm hiểu kỹ và
đánh giá cán bộ đúng đắn, đây là khâu đầu tiên và quan trọng nhất của công
tác cán bộ cũng như của việc xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt. Đánh giá
đúng thì mới sử dụng cán bộ đúng chỗ, đúng việc. Đánh giá cán bộ là hiểu
cán bộ trong sự vận động phát triển, từ hiện tượng tìm ra bản chất, từ biểu
hiện bề ngồi tìm ra thực chất bên trong, tìm hiểu về quá khứ và hiện tại thấy
hướng phát triển tương lai. Đã đánh giá đúng rồi thì cần mạnh dạn sử dụng đề
bạt, cất nhắc và giao nhiệm vụ đúng lúc; khơng chờ đợi q chín có khi sẽ bị
rụng, không để chậm trễ mất thời cơ của cán bộ; Chính sách cán bộ phải nhất
quán, thực sự dân chủ, công bằng. Mọi cán bộ đều được đối xử như nhau, đều


19

được tạo điều kiện để phát huy năng lực sở trường, cống hiến thật nhiều cho
sự nghiệp chung. Đồng thời tất cả cán bộ đều được hưởng những chính sách
về bồi dưỡng, đào tạo, sử dụng, đề bạt cất nhắc, đãi ngộ... một cách công
bằng, hợp lý.
1.2 . HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM


1.2.1. Khái niệm hệ thống chính trị
Theo nghĩa chung nhất, hệ thống chính trị là một một bộ phận của kiến
trúc thượng tầng xã hội, bao gồm các tổ chức, các thiết chế hợp pháp, các
quan hệ về mục đích và chức năng thực hiện hoặc tham gia quyền lực chính
trị, quyền lực nhà nước. Do là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng xã hội,
hệ thống chính trị là hệ thống những quan điểm, tư tưởng và truyền thống
chính trị,… với những thiết chế, những tổ chức chính trị tương ứng và chịu sự
chi phối của cơ sở hạ tầng của xã hội. Khái niệm hệ thống chính trị chỉ xuất
hiện trong nền chính trị hiện đại, là sự phản ánh của thực tiễn chính trị hiện
đại và hệ thống chính trị của một quốc gia là “một cấu trúc của xã hội bao
gồm các tổ chức chính trị đặc trưng của xã hội (Nhà nước, các đảng phái
chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, các đoàn thể - phong trào chính trị,…)
tồn tại và hoạt động trong khn khổ pháp luật chính thức hiện hành, cùng
với tổng thể các mối quan hệ chính trị ràng buộc, gắn kết các tổ chức đó thành
một chỉnh thể thơng qua đó giai cấp cầm quyền thực hiện quyền lực chính trị
của mình trong xã hội”. [38,24]
Trước khi chủ nghĩa tư bản ra đời, cả lịch sử tư tưởng chính trị phương
Đơng và phương Tây đều chưa có khái niệm hệ thống chính trị. Ngay cả
những nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin cũng khơng sử dụng đến
thuật ngữ “hệ thống chính trị” mà chỉ sử dụng những thuật ngữ tương đương
như C.Mác và Ph.Ăngghen đã sử dụng các thuật ngữ “hệ thống cai trị”, “hệ
thống đẳng cấp cai trị”, “hệ thống cấp bậc về mặt xã hội và chính trị” [7, 128].


20

Trong đó, chỉ có các thuật ngữ “cơ cấu chính trị”, “hình thức chính trị”, “thiết
chế xã hội và chính trị”, “cơ cấu chính quyền”, “thể chế pháp luật và chính trị”
[6,62;349] thì gần với cách hiểu như khái niệm hệ thống chính trị hiện nay.
Với V.I.Lênin, ơng cũng khơng dùng thuật ngữ “hệ thống chính trị” mà

chỉ dùng thuật ngữ “hệ thống chun chính vơ sản” để nghiên cứu các thiết
chế xã hội. Theo V.I.Lênin, hệ thống chuyên chính vơ sản có các yếu tố cấu
thành như: Nhà nước Xơ Viết, Đảng Cộng sản giữ vai trị lãnh đạo nhà nước
Xô Viết và các tổ chức quần chúng mà tiêu biểu là Cơng Đồn. Ơng xem đây
như là một hệ thống những bánh răng của cổ máy, phức tạp và có quan hệ
chặt chẽ với nhau, trong đó, ơng nhấn mạnh đến mối quan hệ giữa Đảng với
giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động.
Như vậy, khái niệm hệ thống chính trị là để chỉ một cấu trúc xã hội
gồm các tổ chức chính trị đặc trưng của xã hội như Nhà nước, các đảng phái
chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, các đồn thể và các phong trào chính
trị,…Và các tổ chức này tồn tại và hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật
hiện hành, cùng với các mối quan hệ ràng buộc, gắn kết lại thành một chỉnh
thể, thơng qua đó giai cấp cầm quyền thực hiện quyền lực chính trị của mình.
Hệ thống chính trị ở Việt Nam được hình thành sau khi nước ta giành
được độc lập và sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) dưới sự lãnh đạo của Đảng và chủ tịch
Hồ Chí Minh. Cùng với sự phát triển của chế độ mới, hệ thống chính trị nước
ta ngày càng phát triển, hồn thiện và là hệ thống chính trị mang tính chất xã
hội chủ nghĩa, với những đặc điểm, bản chất của chế độ chính trị mới, chế độ
do nhân dân làm chủ.
Trước Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986), Đảng ta thường
dùng khái niệm “hệ thống chuyên chính vơ sản”, “Nhà nước chun chính vơ
sản” hoặc cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân lao động làm


×