Tải bản đầy đủ (.pdf) (41 trang)

Luận Văn CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ - CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT VÀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ TRONG HỆ THỐNG CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (357.79 KB, 41 trang )







Luận Văn
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ - CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT VÀ
NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ TRONG HỆ THỐNG CHÍNH SÁCH
TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY









MỤC LỤC
Lời nói đầu 1
Phần I: Chính sách tiền tệ quốc gia 5
I. Mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia 5
1. Quan điểm về chính sách tiền tệ quốc gia 5
2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ 7
II. Các công cụ của chính sách tiền tệ quốc gia: 10
1. Cơ chế tác động của các công cụ chính sách tiền tệ đến các biến số
kinh tế vĩ mô. 11
2. Các công cụ của chính sách tiền tệ. 15
Phần II. Chính sách lãi suất và hoạt động của thị trường mở ở Việt Nam
thời gian qua 19


I. Điều hành chính sách lãi suất của NHNN thời gian qua 19
1. Cơ chế điều hành chính sách lãi suất ở Việt Nam 19
2. Kết quả của việc điều hành chính sách tiền tệ thông qua chính sách
lãi suất, hạn chế của cơ chế điều chỉnh trực tiếp 25
II. Nghiệp vụ thị trường mở ở Việt Nam. 30
1. Thực tiễn hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở trong thời gian qua 30
2. Khắc phục hạn chế của hoạt động nghiệp vụ thị trường mở để nâng
cao hiệu quả tác động của nghiệp vụ thị trường mở của chính sách tiền
tệ 33
Kết luận 38
Tài liệu tham khảo 39









ĐỀ TÀI
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ - CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT VÀ
NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ TRONG HỆ THỐNG CHÍNH
SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LỜI NÓI ĐẦU
Nền kinh tế thế giới đang bước vào thế kỷ 21 thế kỷ của hội nhập,
toàn cầu hoá và sự phát triển to lớn của kinh tế toàn cầu. Bất cứ một nền
kinh tế quốc gia nào cũng đều không nằm ngoài xu thế kinh tế tất yếu đó.
Đối với Việt Nam cũng vậy xu thế hội nhâpạ, phát triển là con đường duy
nhất và có ý nghĩa quyết định trong công cuộc xây dựng CNXH và đi lên

CNCS nếu không muốn bị tụt hậu và suy vong. Để bắt kịp xu thế của thời
đại và chủ động hoà nhập để có những bước phát triển vững chắc về kinh tế
đòi hỏi chúng ta phải có đường lối, chiến lược vững chắc và có những chính
sách kinh tế vĩ mô thật sự có hiệu quả.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định đường lối phát
triển kinh tế là : “Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền
kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp, ưu tiên
phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh
thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế để phát triển nhanh,
có hiệu quả bền vững …”. Nền kinh tế thế giới với xu thế phát triển đi lên
vượt bậc đã đem lại nhiều cơ hội cho đất nước ta đi lên vượt bậc đã đem lại
nhiều cơ hội cho đất nước ta đi lên đuổi kịp các nước phát triển, đồng thời
nó cũng luôn diễn biến phức tạp, thăng trầm tạo ra nhiều thách thức to lớn
đối với đất nước. Để xây dựng được một nền kinh tế phát triển mạnh và ổn
định đòi hỏi chúng ta phải có những chính sách kinh tế đúng đắn, có hiệu
quả, phù hợp với tình hình thực tiễn của đất nước.
Nằm trong hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô, chính sách tiền tệ quốc
gia đóng một vai trò rất quan trọng mang tính chất quyết định đối với sự
phát triển và ổn định của nền kinh tế.
Để có được một chính sách tiền tệ đúng đắn thực sự có tác dụng tích
cực, hiệu quả trong việc điều tiết nền kinh tế đói hỏi chúng ta phải nghiên
cứu thật kỹ, đầy đủ, chính xác tình hình thực tiễn của đất nước để có thể đề
ra được chính sách tiền tệ thích hợp và thực hiện tốt, có hiệu quả.
Thực tế qua nhiều năm việc điều hành chính sách tiền tệ đã thực sự
đem lại hiệu quả kinh tế tích cực to lớn cho nền kinh tế, tuy nhiên nó cũng
còn có nhiều hạn chế và bất cập đòi hỏi tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi, sáng
tạo để có một chính sách tiền tệ hoàn thiện với hiệu quả cao nhất.
Với vai trò quan trọng như trên của chính sách tiền tệ, thì việc nghiên
cứu chính sách tiền tệ là hết sức cần thiết, đặc biệt đối với những sinh viên

kinh tế, để nâng cao tầm hiểu biết của mình về các vấn đền kinh tế.














PHẦN I: CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ QUỐC GIA
I. MỤC TIÊU CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ QUỐC GIA.
1. Quan điểm về chính sách tiền tệ quốc gia.
Đối với bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới, muốn cho đất nước phát
triển đi lên, ổn định …. đều phải hoạch định đề ra và thực hiện các chính
sách ở tầm vĩ mô. Mỗi một lĩnh vực: kinh tế, xã hội, chính trị, văn hoá …
tồn tại một hệ thống chính sách để định hướng và vạch ra những đường lối
chiến lược để phát triển lĩnh vực đó. Cũng như các lĩnh vực khác, kinh tế là
một phần rất quan trọng đóng góp vào sự ổn định phát triển phồn vinh của
một đất nước. Nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội (đang ở trong thời kỳ quá độ)
thì việc xây dựng một nền kinh tế phát triển, phồn vinh, hiện đại, ổn định, có
mức tăng trưởng cao, đời sống vật chất của nhân dân ở mức cao … là một
đòi hỏi tất yếu mục tiêu quan trọng và là một vấn đề bức xúc hiện nay ở
nước ta.
Sau 15 năm đổi mới, từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế

thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, nền kinh tế
nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn đáng kể. Những thành tựu này
ngoài sự nổ lực to lớn của toàn dân cả nước thì việc hoạch định thực thi các
chính sách kinh tế vĩ mô cũng có vai trò rất quan trọng đối với những thành
tựu vượt bậc này. trong hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô thì chính sách tiền
tệ quốc gia là một trong những chính sách trọng yếu góp phần quan trọng
trong việc điều chỉnh nền kinh tế quốc dân tăng trưởng liên tục ở mức cao và
tương đối ổn định. Vậy chính sách tiền tệ quốc gia được hiểu như thế nào?
Nói chung, chính sách tiền tệ quốc gia là một chính sách vĩ mô của
Nhà nước giao cho Ngân hàng Nhà nước thực hiện nhằm một mục tiêu
chung là tăng trưởng và ổn định nền kinh tế. Theo điều 2 của luật Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam thì: “chính sách tiền tệ là một bộ phận của chính sách
kinh tế tài chính của Nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm
phát góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, bảo đảm quốc phòng, an
ninh và nâng cao đời sống nhân dân”.
Với chính sách này, Nhà nước thống nhất quản lý mọi hoạt động của
Ngân hàng, động viên các nguồn lực trong nước, đồng thời tranh thủ các
nguồn lực bên ngoài, tạo nguồn vốn để phát triển kinh tế. Trên cơ sở đó giữ
vững định hướng XHCN, giữ vững chủ quyền quốc gia, mở rộng hợp tác và
hội nhập quốc tế, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xí nghiệp, góp phần
thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Chính sách tiền tệ là một chính sách nằm trong hệ thống chính sách vĩ
mô nói chung, nó thống nhất và có quan hệ chặt chẽ với các chính sách vĩ
mô khác về mặt quản lý thực hiện, tác động và đều nhàm mục tiêu chung là
tăng trưởng ổn định để đi đến phát triển.
Do vậy khi nghiên cứu chính sách tiền tệ quốc gia luôn phải đặt nó
trong sự thống nhất với hệ thống chính sách vĩ mô khác và luôn liên hệ với
các chính sách khác về việc thực hiện và mục tiêu chung.
Khi nói đến chính sách tiền tệ quốc gia ta phải hiểu chính sách này
được Nhà nước giao cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực thi chính sách

này thay mặt Nhà nước. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nắm trong tay các
công cụ tiền tệ sẽ thay mặt Nhà nước điều hành chính sách tiền tệ nhằm các
mục tiêu màNhà nước đã định hướng.
Trong phạm vi bài nghiên cứu này tập trung vào việc nghiên cứu việc
thực thi chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam bằng các công
cụ tiền tệ có trong tay của mình.
2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Như định nghĩa của chính sách tiền tệ trong luật Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam đã chỉ ra ta thấy mục tiêu của chính sách tiền tệ là: “ổn định giá
đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội,
đảm bảo quốc phòng, an ninh và nâng cao đời sống nhân dân”. Qua định
nghĩa này ta thấy được các mục tiêu cụ thể của chính sách tiền tệ như sau:
a. Ổn định tiền tệ:
Chính sách tiền tệ quốc gia phải đảm bảo sự ổn định tiền tệ trong
nước, đồng tiền không bị mất giá một cách đột ngột, nghiêm trọng, kiểm
soát được lượng tiền cung ứng để từ đó điều chỉnh lượng tiền cung ứng
nhằm vào các mục tiêu khác.
b. Ổn định giá cả:
Lạm phát luôn là căn bệnh kinh niên của nền kinh tế thị trường. Lạm
phát làm cho mức giá cả chung tăng lên gây nên tình trạng bấp bênh của nền
kinh tế, khi lạm phát ở mức cao thì việc lập kế hoạch trong tương lai khó
khăn, việc ra các quyết định kinh tế rất khó khăn, chưa nhiều rủi ro, gây
căng thẳng cho các quan hệ xã hội của đất nước… lạm phát có tác động rất
sấu đến nền kinh tế khi nó ở mức cao. Vì thế một mục tiêu quan trọng của
chính sách tiền tệ đó là kiềm chế lạm phát, giữ cho lạm phát ở mức thấp để
có thể “kích thích” nền kinh tế tăng trưởng, tức là giữ cho mức giá chung ổn
định và ở mức tăng nhẹ phù hợp với tình hình kinh tế hiện đại.
c. Ổn định lãi suất:
Lãi suất là biểu hiện quan trọng của sự cân đối giữa cung và cầu tiền
tệ trong nền kinh tế. Khi cung và cầu tiền tệ (cầu hay cung trái phiếu) biến

động sẽ làm cho mức lãi suất chung trong nền kinh tế thay đổi. Ta đã biết,
lãi suất chính là chi phí cơ hội của việc giữ tiền, là chi phí của người đi vay,
do đó khi lãi suất thay đổi sẽ làm cho chi phí cơ hội của việc giữ tiền thay
đổi, chi phí của người vay biến động. Nếu sự biến động này lớn sẽ ảnh
hưởng lớn đến các quyết định kinh tế (cho vay, đi vay, đầu tư, mua tài sản,
tiêu dùng …) nền kinh tế không ổn định. Lãi suất còn tác động đến nhiều
biến số kinh tế vĩ mô khác (tổng cầu, GDP…), do đó việc điều chỉnh cho lãi
suất ở mức thích hợp, ổn định luôn là một mục tiêu quan trọng của chính
sách tiền tệ quốc gia.
d. Ổn định tỷ giá:
Đối với nước ta hiện nay, nền kinh tế được mở cửa dần (từ 1986, khi
thay đổi cơ chế kinh tế ), xu hướng giao lưu hội nhập kinh tế là tất yếu thì tỷ
giá là một biến số rất quan trọng. Việc hội nhập kinh tế toàn cầu đã và đang
đưa lại cho chúng ta nhiều cơ và thách thức lớn đối với việc tăng trưởng và
phát triển kinh tế. tỷ giá có tác động đến kim ngạch xuất nhập khẩu, khả
năng cạnh tranh của hàng hoá trong nước đối với hàng hoá nước ngoài. Do
vậy việc điều chỉnh chính sách tiền tệ với mục tiêu ổn định trên thị trường
ngoại hối, ổn định tỷ giá ở mức độ sao cho có lợi nhất cho sự phát triển kinh
tế đất nước để xu hướng hội nhập giao lưu với quốc tế thực sự có hiệu quả
luôn là mục tiêu cần thiết và quan trọng trong việc điều hành chính sách tiền
tệ quốc gia nói riêng và các chính sách vĩ mô nói chung.
e. Ổn định các thị trường tài chính:
Thị trường tài chính là một thị trường hết sức quan trọng trong nền
kinh tế quốc dân. thị trường tài chính ra các nguồn vốn để phát triển kinh tế.
Khi thị trường tài chính không ổn định sẽ có ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực
(đầu tư, tiêu dùng, vốn, tăng trưởng…) và gây nên sự bất ổn cho nền kinh tế.
Trong giai đoạn hiện nay, thị trường tài chính phát triển ở cấp độ cao, thị
trường tài chính của mỗi quốc gia có mối liên hệ chặt chẽ với thị trường tài
chính của các quốc gia khác và toàn thế giới. Sự biến động của thị trường tài
chính quốc tế luôn tác động đến thị trường tài chính của mỗi quốc gia. Cuộc

khủng hoảng tài chính tiền tệ ở khu vực Đông Nam Á đã lan ra cả khu vực
rộng trên thế giới và nó cũng tác động sấu đến thị trường tài chính nước ta
và nền kinh tế. (1997).
Chính vì vậy, mục tiêu của chính sách tiền tệ còn là việc giữ ổn định
thị trường tài chính. Mục tiêu này có quan hệ chặt chẽ với các mục tiêu
khác như lãi suất, giá cả …
f. Đảm bảo công ăn việc làm cao:
Việc làm cao không những là một mục tiêu kinh tế mà còn là một mục
tiêu xã hội đối với chính sách tiền tệ và các chính sách vĩ mô khác. Lao động
là một nguồn lực quan trọng trong nền kinh tế xã hội. Công ăn việc làm càng
cao tức là ta càng sử dụng được nhiều nguồn lực của xã hội, thu nhập của
nền kinh tế tăng lên. Đặc biệt khi tỷ lệ làm việc cao tức là phần thất nghiệp
giảm đi, những tệ nạn xã hội, tác động tiêu cực của thất nghiệp mang lại
cũng giảm, đây là điều rất tốt cho mục tiêu xã hội. Đặc biệt, đối với nước ta
chúng ta đang xây dựng XHCN để tiến lên CNCS thì việc đảm bảo làm sao
cho “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”, “ai cũng có cơm ăn
áo mặc” là mục tiêu hàng đầu và lâu dài, nên công ăn việc làm đầy đủ góp
phần thực hiện mục tiêu mang tính chất chiến lược trên.
h. Tăng trưởng và phát triển kinh tế:
Đây là mục tiêu chung, bao trùm lên các mục tiêu khác và là mục tiêu
cốt lõi của chính sách kinh tế vĩ mô. Tất cả là làm sao cho nền kinh tế tăng
trưởng nhanh, ổn định tránh được các cuộc khủng hoảng, suy thoái… từ đó
để dần đưa nền kinh tế phát triển, góp phần xây dựng cơ sở vật chất cho
CNXH.
Ở đây ta cần quan tâm và phân biệt hai mục tiêu là tăng trưởng và
phát triển. Mục tiêu tăng trưởng chỉ nói lên được phần lượng của phát triển,
tăng trưởng phải đồng thời với ổn định nền kinh tế, nâng cao mức sống
người dân, tỷ lệ thất nghiệp thấp, lạm phát được kiềm chế ở mức vừa phải…
đó sẽ là mục tiêu phát triển. Chính sách tiền tệ quốc gia cần cân nhắc và
hướng vào mục tiêu cốt lõi nhất là phát triển kinh tế.

Các mục tiêu trên của chính sách tiền tệ có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau, chúng liên hệ bổ xung thúc đẩy nhau và cũng có khi tác động trái
ngược nhau. Chẳng hạn lãi suất ổn định góp phần ổn định thị trường tài
chính, việc làm cao thì tăng trưởng mạnh, tuy nhiên tăng trưởng mạnh có thể
làm cho giá cả không ổn định tức lạm phát có thể cao.
Chính vì vậy mà việc điều hành chính sách tiền tệ phải nhằm vào các
mục tiêu cụ thể nào và luôn phải xem xét trên tất cả các mục tiêu khác để
nhằm vào mục tiêu này mà không ảnh hưởng lớn và hạn chế đến mục tiêu
khác và luôn phải hướng vào mục tiêu lâu dài cốt lõi. Luôn đặt chính sách
tiền tệ đi liền và quan hệ chặt chẽ với chính sách vĩ mô khác để nhằm vào
mục tiêu chung là phát triển nền kinh tế xã hội ở mức cao.
II. CÁC CÔNG CỤ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ QUỐC GIA:
Mục đích của chính sách tiền tệ là nhằm điều tiết lượng tiền lưu
thông, sự điều tiết này thể hiện qua hai hướng: mở rộng tiền tệ và thắt chặt
tiền tệ. Việc điều tiết lượng cung tiền như thế nào để cho nền kinh tế phát
triển một cách nhịp nhàng luôn là vấn đề nan giải của các quốc gia, thiếu hay
thừa tiền luôn có tác động tiêu cực của nó. Tuy nhiên trong thực tế điều hành
chính sách tiền tệ tuỳ vào từng thời kỳ phát triển kinh tế, tuỳ voà hoàn cảnh
cụ thể của nền kinh tế xã hội mà sử dụng chính sách thắt chặt hay mở rộng
tiền tệ. Đây là vấn đề mang tính nhạy cảm của các nhà điều hành chính sách
tiền tệ.
Để làm được điều này Ngân hàng trung ương phải sử dụng hàng loạt
các công cụ như: Dự trữ bắt buộc, lãi suất, tỷ giá hối đoái, tái cấp vốn,
nghiệp vụ thị trường mở.
Trong phạm vi bài nghiên cứu này chỉ tập trung vào việc nghiên cứu
hai công cụ chính đó là lãi suất và nghiệp vụ thị trường mở.
1. Cơ chế tác động của các công cụ chính sách tiền tệ đến các biến
số kinh tế vĩ mô.
a. Cung cầu tiền tệ:
* Mức cung tiền tệ là tổng số tiền có khả năng thanh toán. Mức cung

tiền bao gồm: tiền mặt đang lưu hành và các khoản tiền gửi không kỳ hạn tại
các Ngân hàng thương mại.
Mức cung tiền phụ thuộc vào các nhân tố sau:
+ Lượng tiền cơ sở
+ Tỷ lệ dự trữ của các Ngân hàng thương mại (phụ thuộc vào tỷ lệ dự
trữ bắt buộc và tỷ lệ dự trữ dư thừa của các Ngân hàng thương mại)
+ Tỷ lệ giữ tiền mặt của công chúng
Ngân hàng Trung ương với các công cụ tiền tệ trong tay có thể tác
động vào lượng tiền thông qua:
+ Quản lý lượng tiền cơ sở (do NHTW nắm giữ quyền phát hành tiền)
+ Quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các Ngân hàng thương mại
(nó tác động đến số nhân tiền  tác động đến lượng tiền dự trữ và lượng
tiền lưu thông NHTW sử dụng ba công cụ khác)
1. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc
2. Lãi suất chiết khấu, tái chiết khấu
3. Nghiệp vụ thị trường
* Cầu tiền là khối lượng tiền cần để chi tiêu thường xuyên, đều đặn
cho nhu cầu tiêu dùng cá nhân và kinh doanh sản xuất.
Cầu tiền phụ thuộc:
1. Thu nhập thực tế (tỷ lệ thuận)
2. Lãi suất (tương quan nghich)
* Cung và cầu tiền tệ cân bằng sẽ xác định mức lãi suất cân bằng và
tổng lượng tiền cân bằng.






Khi NHTW điều chỉnh các mức cung ứng tiền ở các mức độ khác

nhau thì lãi suất danh nghĩa của nền kinh tế sẽ thay đổi. Khi lãi suất thay đổi
sẽ tác động đếu tiêu dùng và đầu tư làm cho chúng thay đổi tiêu dùng và đầu
tư là yếu tố của tổng cầu do đó tổng cầu thay đỏi làm GNP thay đổi.
Ví dụ: Khi NHNN điều chỉnh tăng cung tiền  đường MS dịch phải
làm lãi suất cân bằng giảm  giá trái phiếu tăng  giá trị hiện tại của thu
nhập tương lại có giá hơn  tiêu dùng tăng lên ở mỗi mức thu nhập.
MS

i

i
0

MD

M

Điểm cân bằng thị trường tiền tệ
Mặt khác: Lãi suất giảm  Chi phí cơ hội của việc giữ tiền giảm
Chi phí vay tiền giảm 
có nhiều dự án lớn được đầu tư
Khi tiêu dùng tăng, đầu tư giảm  tổng cầu tăng  GDP giảm  giá
tăng (lạm phát)
Ngược lại: MS giảm  đường MS dịch phải  lãi suất tăng  tiêu
dùng giảm, đầu tư tăng  tổng cầu giảm  giá giảm.
b. Mô hình IS-LM
* Đường IS là tập hợp các tổ hợp khác nhau giữa lãi suất và thu nhập
phù hợp với sự cân bằng của thị trường hàng hoá.
* Đường LM biểu thị những tổ hợp khác nhau giữa lãi suất và thu
nhập phù hợp với sự cân bằng của thị trường tiền tệ.

* Sự cân bằng của IS-LM






 Điểm cân bằng của cả hai thị trường hàng hoá và tiền tệ i
0
và Y
0

mức lãi suất và thu nhập cân bằng cả hai thị trường hàng hoá và tiền tệ.
- Chính sách thị trường tác động đến MS làm cho LM dịch chuyển và
thay đổi lãi suất và thu nhập của nền kinh tế.
* Chính sách tiền tệ mở rộng.
E
0

i

i
0

ML

Y

Y


E
0

i

i
0

ML

Y

Y

Khi NHTW điều chỉnh tăng lượng tiền MS làm đường LM dịch
chuyển sang phải, thị trường cân bằng ở mức lãi suất mới i
1
,i
0
, thu nhập
quốc dân Y
1
> Y
0.











* Chính sách tiền tệ thu hẹp
Khi NHNN điều chỉnh giảm lượng tiền lưu thông (nền kinh tế rơi vào
tình trạng quá nóng) làm MS giảm, đường LM dịch trái làm điểm cân bằng
mới của nền kinh tế ở điểm E
1
với i
1
>i
0
, Y
1
<Y
0
 lạm phát tăng,twang
GDP







i

i
0


i
1

E
0

LM
0

LM
1

E
1

IS

Y
0

Y
1

Y

i

i
0


i
1

E
0

LM
0

LM
1

E
1

IS

Y
0

Y
1

Y

2. Các công cụ của chính sách tiền tệ.
Mức cung ứng tiền MS tỷ lệ thuận với số nhân tiền tệ. Khi tỷ lệ dự trữ
bắt buộc hay giảm sẽ làm cho số nhân tiền giảm hay tăng từ đó tác động làm
giảm hay tăng lượng cung ứng tiền MS.

Chẳng hạn, khi nền kinh tế đang ở tình trạng quá nóng (mức tăng
trưởng quá cao so với mức bình thường lạm phát cao …). Để giảm bớt tình
trạng này NHNN thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, điều chỉnh giảm mức
cung tiền. Chẳng hạn, NHNN dùng công cụ quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
Lúc này NHNN sẽ quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các Ngân hàng
thương mại ở mức cao. Số nhân tiền tệ sẽ giảm xuống và mức cung tiền
giảm đường LM dịch chuyển sang trái làm cho lãi suất tăng  tiêu dùng và
đầu tư giảm  tổng cầu giảm  sản lượng giảm và giá cả giảm tức là tình
trạng quá nóng của nền kinh tế đã được hạn chế.
Tuy nhiên, trên thực tế thì công cụ này có nhiều hạn chế, đôi khi
không đạt được hiệu quả như mong muốn bởi vì: Số nhân tiền tệ không chỉ
phụ thuộc vào tỉ lệ dự trữ bắt buộc mà còn phụ thuộc vào hành vi của công
chúng (giữ tiền hay gửi tiền) và hành vi của các Ngân hàng thương mại (dự
trữ dư thừa). Chính vì thế mà hiệu quả của công cụ này rất hạn chế, nhiều
lúc NHNN rất khó kiểm soát được số nhân tiền. Do đó công cụ quy định tỷ
lệ dự trữ bắt buộc được sử dụng rất ít và dần được thay thế bằng các công
cụ khác có hiệu quả hơn.
b. Lãi suất chiết khấu – tái chiết khấu:
Là lãi suất NHTW quy định khi họ cho các Ngân hàng thương mại
vay tiền để đảm bảo có đầy đủ hoặc tăng thêm dự trữ của các Ngân hàng
thương mại. Khi lãi suất chiết khấu thấp hơn lãi suất thị trường và điều kiện
cho vay thuận bởi sẽ là tín hiệu khuyến khích các Ngân hàng thương mại
vay tiền để tăng dự trữ và mở rộng cho vay dẫn đến mức cung tiền sẽ tăng
lên.
Lãi suất tái chiết khấu là lãi suất quy định của NHTW khi họ thực
hiện cho các Ngân hàng thương mại vay tiền qua hình thức chiết khấu lại các
thương phiếu của Ngân hàng thương mại đã chiết khấu cho khách hàng của
họ.
Vậy khi lãi suất chiết khấu và tái chiết khấu thay đổi sẽ tác động đến
dự trữ (của các Ngân hàng thương mại ) và quy mô cho vay của các Ngân

hàng thương mại, từ đó tác động đến lượng cung ứng tiền MS và tác động
đến các biến số kinh tế vĩ mô của nền kinh tế. Đây chính là cơ sở cho việc
điều hành chính sách tiền tệ bằng công cụ lãi suất chiết khấu và tái chiết
khấu cuả NHTW.
Ví dụ: Khi nền kinh tế ở mức tăng trưởng chậm tình trạng thiếu phát
triển … (nền kinh tế nguội lạnh) để kích thích sự tăng trưởng của nền kinh
tế, NHTW thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng bằng việc điều chỉnh tăng
cung tiền qua công cụ lãi suất chiết khấu và tái chiết khấu. NHTW sẽ quy
định mức lãi suất chiết khấu và tái chiết khấu thấp hơn mức lãi suất huy
động vốn của các Ngân hàng thương mại. Khi đó các Ngân hàng thương mại
sẽ tích cực vay tiền của NHTW để mở rộng cho vay. Mức cung tiền MS tăng
lên  đường LM dịch phải làm lãi suất giảm  đầu tư, tiêu dùng tăng 
tổng cầu tăng  thu nhập quốc dân tăng  giá tăng (thiểu phát được khắc
phục)
Công cụ này cũng khá quan trọng khi công cụ thị trường mở cửa phát
triển.
d. Hoạt động thị trường mở:
Thị trường mở cửa là thị trường tiền tệ của NHTW được sử dụng để
mua bán trái phiếu kho bạc của Nhà nước.
Muốn tăng hay giảm mức cung tiền tệ, NHTW sẽ mua trái phiếu ở thị
trường mở hay bán chúng. Kết quả là họ đã đưa thêm vào hay rút ra thị
trường một lượng tiền cơ sở bằng cách tăng dự trữ hay giảm của các NHTM,
dẫn đến khả năng cho vay tăng hay giảm, tăng hay giảm mức tiền gửi nhờ số
nhân tiền tệ. Kết quả cuối cùng là mức cung tiền tăng (hay giảm) gấp bội so
với số tiền mua tín phiếu (hay bán ) của NHTW.
Đây là một công cụ hết sức hữu hiệu đối với việc điều chỉnh mức
cung tiền của NHTW. Nó đáp ứng một cách nhanh chóng, kịp thời và hoàn
toàn mang lại tính chủ động cho NHTW khi học điều tiết nền kinh tế bằng
cách điều chỉnh mức cung tiền. Công cụ này là công cụ rất quan trọng, nó
được sử dụng rộng rãi và dần là công cụ chính đối với tất cả các NHTW của

các quốc gia trên thế giới khi thực hiện điều tiết nền kinh tế thông qua mức
cung tiền.
e. Lãi suất:
Là công cụ mang tính chất trực tiếp của NHTW khi họ điều tiết nền
kinh tế. Nó được thể hiện qua việc NHTW quy định trực tiếp đối với lãi suất
của nền kinh tế thông qua sàn lãi suất, trần lãi suất, lãi suất cơ bản và biên
độ cho phép. Từ lãi suất này mà các Ngân hàng thương mại quy định lãi
suất tín dụng cụ thể của mình.
Ta đã biết, lãi suất có tác động đến tiêu dùng và đầu tư do đó nó tác
động đến cầu. Tổng cầu thay đổi sẽ làm cho thu nhập quốc dân thay đổi và
việc làm, lạm phát biến động. Khi NHTW quy định mức lãi suất chung (có
thể là lãi suất cơ bản + biên độ dao động, sàn và trần lãi suất …) ở các mức
độ khác nhau thông qua các biến động trung gian sẽ làm thay đổi các biến số
của nền kinh tế quốc dân tuỳ theo mục tiêu của sự điều chỉnh chính sách.
Lãi suất là kết quả quả phả ánh cân bằng cung cầu trê thị trường tiền
tệ. Tức là, khi trên thị trường tiền tệ mà cung hay cầu tiền tệ thay đổi sẽ làm
Cửa Ông thị trường tiền tệ cân bằng ở các mức độ khác nhau, và lãi suất cân
bằng phản ánh các mức cân bằng đó.
Việc NHTW sử dụng công cụ lãi suất, tức là quy định lãi suất một
cách trực tiếp đôi khi không phản ánh được điểm cân bằng cung cầu trên thị
trường, điều đó có tác dụng tiêu cực hình thành thị trường ngầm, hạn chế
việc cho vay của các Ngân hàng thương mại làm ứ đọng vốn, kìm hãm lưu
thông tiền tệ….
Chính vì thế, việc thay thế công cụ trực tiếp lãi suất bằng các công cụ
gián tiếp của chính sách tiền tệ để lãi suất được tự do biến đổi phản ánh cung
cầu tiền tệ, vốn là điều cần thiết và đúng đắn, cần thực hiện…
f. Tỷ giá
Tỷ giá là một chính sách quan trọng đối với một nền kinh tế mở. Tỷ
giá phản ánh kết quả cân bằng của thị trường ngoại tệ, nó có ảnh hưởng đến
kim ngạch xuất nhập khẩu của một quốc gia, khả năng cạnh tranh của hàng

hoá nước này so với nước khác. Việc điều hành chính sách tỷ giá bằng việc
quy định tỷ giá một cách cứng nhắc hay để cho tỷ giá được tự do biến động
phản ánh cung cầu ngoại tệ là tuỳ thuộc vào mỗi quốc gia và tuỳ vào thời kỳ
và điều kiện cụ thể. Xu hướng chung của các quốc gia là để cho tỷ giá được
biến đổi tự do phản ánh cung cầu ngoại tệ. Nhà nước chỉ điều hành tỷ giá
thông qua việc tác động đến cung ngoại tệ.
* Trên đây là 6 công cụ chính của chính sách tiền tệ, để điều hành
chính sách tiền tệ được tốt và có hiệu quả cần có sự phối hợp giữa các công
cụ và luôn kết hợp với các công chính sách vĩ mô khác. Trong 6 công cụ trên
thì 3 công cụ thị trường mở, tỷ giá và lãi suất là các công cụ quan trọng nhất.
Trong phạm vi bài vi bài cứu phần thực tế của chính sách tiền tệ chỉ
tập chung vào 2 công cụ chính sách, đó là lãi suất và nghiệp vụ thị trường
mở.









PHẦN II. CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA THỊ TRƯỜNG MỞ Ở VIỆT NAM THỜI GIAN QUA
I. ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT CỦA NHNN THỜI GIAN QUA.
1. Cơ chế điều hành chính sách lãi suất ở Việt Nam.
Thực trạng cơ chế điều hành lãi suất ở Việt Nam có thể chia thành các
giai đoạn sau:
- Giai đoạn 1986-1990
- Giai đoạn 1991-1995

- Giai đoạn 1996-8/2000
- Giai đoạn 8/2000-8/2000
- Giai đoạn 8/2000 trở đi
Đây là bước ngoặt trong cơ chế điều hành lãi suất theo hướng tiến tới
tự do lãi suất do cơ chế lãi suất trước đây chưa có mức lãi suất nào đóng vai
trò là lãi suất chủ đạo, định hướng cho các tổ chức tín dụng ấn định mức lãi
suất kinh doanh. Từ trước 8/2000, cơ chế điều hành lãi suất là quy định mức
trần lãi suất, nghĩa là giới hạn các Ngân hàng thương mại không được cho
vay với lãi suất vượt quá mức này. Biện pháp đó nhằm bảo vệ cho người vay
không bị ép bởi các Ngân hàng. Thí dụ đầu năm 2000 NHNN quy định mức
lãi suất cho vay tối đa hiện hành là: 0,85%/tháng đối với cho vay nội tệ khu
vực thành thị, 1,0%/tháng đối với các tổ chức kinh tế các mức lãi suất tiền
gửi USD tối đa đối với các tổ chức kinh tế các mức lãi suất tiền gửi USD tối
đa hiện hành là 0,5%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn 2,5%/năm đối với
tiền gửi có kỳ hạn đến 6 tháng và 3%/năm, đối với tiền gửi có kỳ hạn trên 6
tháng.
Tuy nhiên chính sách trần lãi suất chỉ thích hợp trong trường hợp:
- Nhu cầu tín dụng lớn hơn cung tín dụng
- Ngân hàng hoạt động trong một môi trường độc quyền .
Trong điều kiện như thế, Ngân hàng luôn cho vay với mức lãi suất tối
đa, không quan tâm đến việc tiết kiệm chi phí hay thái độ phục vụ. Thế
nhưng, tình hình 1999 (nhất là các tháng cuối năm 1999) điều kiện thị
trường tín dụng đã thay đổi. Nhu cầu vay thu hẹp lại, các Ngân hàng thương
mại đọng vốn không cho vay ra được, tính thiếu ổn định ở người vay đã xuất
hiện nhiều hơn theo quy luật thị trường, đặc biệt là có sự cạnh tranh của các
nước trong khu vực. Tình trạng khách hàng vay vốn giảm đi, nhưng các tổ
chức tín dụng lại gia tăng về số lượng dẫn đến sự cạnh tranh quyết liệt giữa
các tổ chức tín dụng. Tính quyết liệt càng trở nên gay gắt hơn khi mà điều
kiện thị trường tiền tệ còn chưa phong phú, các dịch vụ khác còn đơn sơ, lợi
nhuận Ngân hàng hầu hết là từ hoạt động cho vay mang lại, nên việc tranh

giành thị trường sảy ra chỉ còn bằng cách hạ lãi suất.
- Việc cạnh tranh hạ lãi suất đưa đến hiện tượng nghịch lý, doanh số
lớn, rủi ro cao nhưng tỷ suất lợi nhuận lại nhỏ, thay vì rủi ro cao thì lợi
nhuận cao.
- Việc cạnh tranh hạ lãi suất giành giật khách hàng đưa đến một sự vội
vã trong kiểm tra các điều kiện vay vốn, thậm chí bỏ qua cả các yếu tố pháp
nhân của doanh nghiệp (như cho các chi nhánh, các Công ty phụ thuộc vay
khi chưa có sự đồng ý cua Công ty mẹ …)
- Việc cạnh tranh lãi suất đưa đến tình trạng khách hàng chạy vòng
quanh các Ngân hàng vay Ngân hàng để trả nợ Ngân hàng khác làm mất tính
ổn định, đưa đến Ngân hàng không đủ thời gian và điều kiện để kiểm soát
khách hàng, bởi vì khách hàng chỉ dừng lại ở một Ngân hàng với thời gian
khá ngắn.
- Việc cạnh tranh còn đưa đến tình trạng cho vay không còn quan tâm
đến tính thời vụ, tính chu kỳ sản xuất của doanh nghiệp…
- Việc cạnh tranh hạ lãi suất như vậy làm Ngân hàng bị thiệt hại. Lợi
nhuận ít không đủ lập quỹ dự phòng cho rủi ro trong hoạt động kinh tế, lợi
nhuận ít không đủ tích luỹ để đổi mới lại hệ thống trang thiết bị để theo kịp
các Ngân hàng Nhà nước trong khu vưCông ty nói chng và chi nhánh của họ
đang hoạt động tại Việt Nam nói riêng. Thậm chí việc cạnh tranh đó còn làm
cho không ít các Ngân hàng thương mại cổ phần có nguy cơ không còn khả
năng hoạt động bởi không đủ bù đắp chi phí.
Trước tình trạng như thế thì chính sách lãi suất điều hành bằng trần lãi
suất xem ra không còn thích hợp lúc này không còn Ngân hàng nào áp dụng
lãi suất tối đa để cho vay mà chỉ cố gắng tối thiểu lãi suất để giành khách
hàng.
Để phù hợp với thực thiễn và khức phục những bất cập của chính sách
lãi suất điều hành bằng trần lãi suất, Ngân hàng Nhà nước đã kịp thời thay
đổi cơ chế điều hành chính sách lãi suất chuyển từ điều hành bằng trần lãi
suất sang quy định lãi suất cơ bản đối với các loại tiền cho vay của các tổ

chức tín dụng. Việc đối mới cơ chế điều hành lãi suất đã được quy định
trong các văn bản pháp luật.
Theo luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: “Ngân hàng Nhà nước xác
định và công bố lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn ” và “lãi suất cơ bản là
lãi suất do Ngân hàng Nhà nước công bố làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng
ấn định lãi suất kinh doanh ”
Trong báo cáo của Chính phủ do thủ tưởng Phan Văn Khải trình bày
tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khoá X – tháng 11/1999:
“Ngân hàng cần sớm thay việc định lãi suất trần bằng việc áp dụng lãi
suất cơ bản theo luật Ngân hàng đi đôi với sử dụng công cụ điều tiết lưu
thông tiền tệ phù hợp với cơ chế thị trường… giải pháp cơ bản và lâu dài là
đổi mới cơ chế lãi suất đồng thời đòi hỏi các doanh nghiệp phải làm ăn có
lãi, trả được nợ… “
Kể từ ngày 5/8/2000, theo quyết định số 241/QĐ/NHNN một của
thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã chính thức thay đổi cơ chế điều hành
trần lãi suất cho vay bằng cơ chế lãi suất cơ bản đối với cho vay bằng đồng
Việt Nam và cơ chế lãi suất thị trường có sự quản lý đối với cho vay bằng
ngoại tệ. Theo đó, đối với lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam các tổ chức
tín dụng sẽ ấn định lãi suất cho vay đối với khách hàng trên cơ sở lãi suất cơ
bản do Ngân hàng Nhà nước công bố theo nguyên tắc lãi suất cho vay khong
vượt quá mức lãi suất cơ bản và biên độ do thống đốc Ngân hàng Nhà nước
quy định cho từng thời kỳ. Trong đó, lãi suất cơ bản được Ngân hàng Nhà
nước công bố trên cơ sở tham khảo mức lãi suất cho vay thương mại đối với
khách hàng tốt nhất của nhóm các tổ chức tín dụng được lựa chọn theo quy
định của thống độc Ngân hàng Nhà nước trong từng thời kỳ, còn biên độ thì
được công bố hàng tháng trong trường hợp cần thiết, Ngân hàng Nhà nước
sẽ công bố điều chỉnh kịp thời.
Cơ chế điều hành lãi suất mới bằng lãi suất cơ bản như thế được hình
thành trên cơ sở nguyên tắc thị trường nhưng với bước đi thích hợp, thận
trọng, phù hợp với điều kiện thực tế của thị trường tiền tệ, từng bước tiến tới

tự do hoá lãi suất, quốc tế hoá hoạt động tài chính trong nước, đồng thời với
các biện pháp phát triển thị trường tiền tệ và nâng cao năng lực tài chính và
năng lực điều hành của các tổ chức tín dụng, xử lý lãi suất VNĐ trong mối
quan hệ với lãi suất ngoại tệ và chính sách tỷ giá, quản lý ngoại hối. Cụ thể
là:
- Đối với lãi suất cho vay bằng VNĐ: Ngân hàng Nhà nước bỏ việc
quy định trần lãi suất cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng,
chuyển sang xác định và công bố lãi suất cơ bản với tỷ lệ % biên độ trên,
dựa trên việc tham khảo lãi suất cho vay ngắn hạn thông thường của các
Ngân hàng thương mại áp dụng đối với khách hàng vay có uy tín trong việc
sử dụng vốn vay, trả nợ, có rủi ro thấp. Lãi suất cho vay và huy động của tổ
chức tín dụng gắn với lãi suất cơ bản. Theo đó, lãi suất cho vay của tổ chức
tín dụng cao nhất = lãi suất cơ bản + tỷ lệ %. Thí dụ: Tại thời điểm tháng
8/2000:
- Lãi suất cơ bản là 0,75%/tháng
- Biên độ trên đối với lãi suất cho vay ngắn hạn là 0,3%/tháng.
- Biên độ trên đối với lãi suất cho vay trung hạn, dài hạn là
0,5%/tháng.
Với lãi suất cơ bản và biên độ như trên là phù hợp với mặt bằng lãi
suất đã và đang được hình thành trên thị trường nông thôn và thành thị hiện
nay, không tác động làm thay đổi lãi suất thị trường và không tạo ra tâm lý
về việc Ngân hàng Nhà nước tăng trần lãi suất.
- Đối với lãi suất cho vay bằng ngoại tệ:
Cho vay bằng Đô la Mỹ: Bỏ việc quy định trần lãi suất cho vay Ngân
hàng thương mại đối với khách hàng, chuyển sang cơ chế lãi suất linh hoạt,
phù hợp với thị trường quốc tế nhưng vẫn có sự kiểm soát của Nhà nước, cụ
thể là lãi suất cho vay ngắn hạn (từ 18 năm trở lên) không vượt quá mức
SIBOR kỳ hạn 6 tháng +2,5%/năm.
Cho vay bằng các loại ngoại tệ khác: Do chiếm tỷ lệ nhỏ trong hoạt
động tiền gửi và tín dụng trên thị trường nên cho phép các Ngân hàng

thương mại tự xem xét quyết định lãi suất tiền gửi, lãi suất cho vay của các
ngoại tệ này trên cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và cung cầu vốn tín dụng
của từng loại ngoại tệ ở trong nước.
- Các Ngân hàng thương mại cung cấp thông tin tham khảo cho Ngân
hàng Nhà nước về lãi suất bao gồm: Ngân hàng ngoại thương Việt Nam,
Ngân hàng công thương Việt Nam, Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt
Nam, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, Ngân hàng
thương mại cổ phần Á châu, Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội, Ngân
hàng ANZ, Ngân hàng HSBC và Ngân hàng VIDPUBLIC.
Các mục tiêu của chính sách lãi suất đang hướng tới.
- Trong điều kiện kinh tế thị trường tiền tệ hiện nay, cơ chế lãi suất
mới không làm tăng mặt bằng lãi suất thị trường tạo điều kiện để tổ chức tín
dụng huy động vốn ở trong và ngoài nước ở mức cao để đảm bảo vốn cho
tăng trưởng tín dụng có chất lượng, đáp ứng yêu cầu của chủ trương trích
cầu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ổn định giá trị đối nội và đối ngoại cảu
đồng Việt Nam.
- Tạo điều kiện cho tổ chức tín dụng và khách hàng gửi, vay vốn có
thể thoả thuận để lựa chọn lãi suất cố định hoặc lãi suất có điều chỉnh linh
hoạt, có lợi cho các bên khuyến khích tổ chức tín dụng mở rộng huy động và
cho vay vốn trung và dài hạn. Riêng lãi suất cho vay bằng ngoại tệ tuy đã
tiếp cận dần với thông lệ quốc tế nhưng sẽ thấp hơn mặt bằng thị trường
quốc tế, phù hợp với cung cầu vốn ngoại tệ thị trường trong nước hiện nay,
có lợi cho cả doanh nghiệp và Ngân hàng thương mại, tạo điều kiện Ngân
hàng thương mại mở rộng cho vay vốn ngoại tệ hạn chế gửi vốn ngoại tệ ở
nước ngoài.
- Tạo khuôn khổ linh hoạt cho các tổ chức khi áp dụng lãi suất phù
hợp với đặc điểm của từng vùng và mức độ rủi ro theo thời hạn cho vay và
đối tượng khách hàng vay nhưng Ngân hàng thương mại vẫn kiểm soát được
lãi suất để tránh việc các tổ chức tín dụng tăng lãi suất cho vay quá mức, ảnh
hưởng đến đầu tư của nền kinh tế, thúc đẩy phân bổ vốn tín dụng linh hoạt

giữa các lĩnh vực kinh tế, khu vực thành thị và nông thôn phù hợp với sự
phát triển không đều của thị trường tài chính nước ta hiện nay.
- Làm cho mối quan hệ giữa lãi suất VNĐ tỷ giá lãi suất ngoại tệ linh
hoạt hơn, phản ánh được chính xác hơn cung cầu vốn, ngoại tệ, tạo cơ sở
cho Ngân hàng Nhà nước khi cần thiết có thể can thiệp để ổn định thị
trường.
Đồng thời việc triển khai cơ chế lãi suất mới, Ngân hàng Nhà nước
theo dõi chặt chẽ sự diễn biến của kinh tế vĩ mô và thị trường tiền tệ khác
đảm bảo cho sự vận hành cơ chế lãi suất mới phù hợp với mục tiêu đề ra.
2. Kết quả của việc điều hành chính sách tiền tệ thông qua chính
sách lãi suất, hạn chế của cơ chế điều chỉnh trực tiếp.
Trong thế giới 10 năm qua, việc sử dụng hệ thống công cụ điều tiết
trực tiếp (hạn mức tín dụng, trần lãi suất, tỷ giá) nói chung và của chính sách
lãi suất nói riêng, mặc dù những hạn chế của nó đã được biết trước, là phù
hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam khi những điều kiện sử dụng công cụ
gián tiếp chưa được hình thành.

×