Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

skkn một số biện pháp tổ chức hoạt động khám phá khoa học cho trẻ 5 6 tuổi theo hướng lấy trẻ làm trung tâm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (725.1 KB, 25 trang )

MỘT SỐ BIỆN PHÁP TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG KHÁM PHÁ KHOA HỌC
CHO TRẺ 5-6 TUỔI THEO HƯỚNG LẤY TRẺ LÀM TRUNG TÂM

PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU:
I.1. Lý do chọn đề tài:
“Mẫu giáo tốt mở đầu nền giáo dục tốt”
Như chúng ta đã biết giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống
giáo dục quốc dân, là bậc học mở đầu cho nền giáo dục ngay từ những năm tháng
đầu đời trẻ đã được đến trường, được các cô giáo chăm sóc, giáo dục. Mục tiêu của
giáo dục mầm non là giúp trẻ phát triển toàn diện về 5 mặt phát triển: thể chất,
ngôn ngữ, nhận thức, thẩm mĩ, tình cảm và kỹ năng xã hội.
Ở độ tuổi này tâm hồn trẻ rất ngây thơ và trong sáng, thế giới xung quanh
đối với trẻ tất cả đều mới lạ với biết bao điều kỳ diệu và muôn vàn câu hỏi “Vì sao
lại thế?” hay “Vì sao thế nhỉ?”…luôn là những câu hỏi thắc mắc, là những điều trẻ
luôn khao khát muốn biết, muốn tìm hiểu và khám phá
Khám phá khoa học mang lại nguồn biểu tượng vô cùng phong phú, đa
dạng, sinh động, đầy hấp dẫn với trẻ thơ, từ môi trường tự nhiên (cỏ cây, hoa lá,
những sự vật, hiện tượng xung quanh ….) đến môi trường xã hội (công việc của
mỗi người trong xã hội, mối quan hệ của con người với nhau …) và trẻ hiểu biết về
chính bản thân mình, vì thế trẻ luôn có niềm khao khát khám phá, tìm hiểu về
chúng. Khám phá khoa học đòi hỏi trẻ phải sử dụng tích cực các giác quan chính vì
vậy sẽ phát triển ở trẻ năng lực quan sát, tư duy, khả năng phân tích, so sánh, tổng
hợp… nhờ vậy khả năng cảm nhận của trẻ sẽ nhạy bén, chính xác, những biểu
tượng, kết quả trẻ thu nhận được trở nên cụ thể, sinh động và hấp dẫn hơn.
Khám phá khoa học là phương tiện để giao tiếp và làm quen với môi trường
xung quanh, để giao lưu và bày tỏ nguyện vọng của mình hình thành và nhận thức
sự vật, hiện tượng xung quanh mà giáo dục thái độ ứng xử đúng đắn với thiên
nhiên, với xã hội cho trẻ. Thông qua hoạt động học này, hình thành cho trẻ kĩ năng
quan sát, tư duy, phân tích tổng hợp khái quát. Khám phá khoa học với trẻ mầm



non là quá trình tham gia các hoạt động thăm dò, tìm hiểu thế giới tự nhiên qua đó
giúp trẻ được hoạt động và tự phục vụ bản thân. Những công việc đó có thể sẽ là
bài học trải nghiệm tốt cho trẻ.
Theo Tiến sĩ Phan Thị Thu Hiền “Chương trình giáo dục mầm non tốt là
một chương trình lấy trẻ làm trung tâm. Có nghĩa là nó được xây dựng dựa trên
hứng thú, nhu cầu, kinh nghiệm và khả năng của trẻ. Chương trình này sẽ tạo cơ
hội cho trẻ phát triển toàn diện, không chỉ chú trọng tới sự phát triển trí tuệ mà còn
nuôi dưỡng tâm hồn, phát triển thể chất và khả năng giao tiếp xã hội của trẻ”.
Xuất phát từ đặc điểm đó, ngành giáo dục mầm non đã nghiên cứu để đổi
mới hình thức giáo dục theo hướng lấy trẻ làm trung tâm, có nghĩa là tạo mọi cơ
hội cho trẻ được tham gia vào các hoạt động. Từ đó, trẻ tiếp thu những kiến thức
trong hoạt động khám phá khoa học cũng như kiến thức các hoạt động khác một
cách nhẹ nhàng, giúp trẻ hiểu sâu, nhớ lâu mà không mang tính chất gò ép, áp đặt
đảm bảo cho trẻ “ Học bằng chơi, chơi mà học”. Qua đó phát triển khả năng ghi
nhớ, chú ý, phát triển tư duy và tính sáng tạo của trẻ
Muốn thực hiện tốt biện pháp tổ chức hoạt động khám phá khoa học cho trẻ
theo hướng lấy trẻ làm trung tâm thì đòi hỏi chúng ta phải có kiến thức, có kỹ năng
tổ chức các hoạt động, luôn có sự đổi mới trong các phương pháp tổ chức. Bản
thân tôi là một giáo viên mầm non tôi không ngừng học tập nâng cao trình độ, tu
dưỡng và rèn luyện để trang bị cho bản thân mình những kiến thức cơ bản, nhằm tổ
chức các hoạt động khám phá khoa học cho trẻ theo hướng lấy trẻ làm trung tâm
đạt hiệu quả cao.
Thực trạng ở trường Mẫu giáo EaH'leo có 11 lớp học với các lớp học được
rãi rác ở các thôn buôn vì phòng học của nhà trường còn thiếu thốn nên không đủ
phòng học cho trẻ học tập trung tại một điểm trường. Vì thế phải mượn hội trường
thôn buôn để trẻ học nhờ. Bên cạnh đó điều kiện cơ sở vật chất, đồ dùng dạy học,
đồ chơi còn hạn chế. Đòi hỏi giáo viên phải linh động tự làm đồ dùng, đồ chơi từ
những nguyên vật liệu phế thải để phục vụ cho công việc giáo dục trẻ đạt hiệu quả
cao hơn. Bên cạnh đó đội ngũ giáo viên của nhà trường đa số là giáo viên trẻ nên


2


kinh nghiệm trong công tác giảng dạy chưa thật sự sâu sắc. Đặc biệt là đối với việc
tổ chức các hoạt động cho trẻ theo hướng “lấy trẻ làm trung tâm” là điều mới mẻ
với đội ngũ giáo viên trong trường tôi. Trong cách tổ chức hoạt động, trẻ chưa
được tham gia trải nghiệm, giao tiếp mà giáo viên còn đi sâu vào việc lấy giáo viên
làm trung tâm, giáo viên hay nói nhiều, thường ít sử dụng câu hỏi mở để phát huy
tính sáng tạo, tư duy của trẻ. Vì thế luôn dẫn đến trẻ bị thụ động, chưa phát huy
được trí tưởng tượng và sự sáng tạo của trẻ nên chưa đạt được kết quả cao trong
công tác giáo dục. Khi thực hiện chương trình mầm non, đặt biệt là đối với hoạt
động khám phá khoa học, đây là hoạt động mà đòi hỏi trẻ phải được quan sát, phán
đoán, so sánh, trẻ phải tư duy thì mới có thể trả lời tốt các câu hỏi “ vì sao lại thế?”
hay “vì sao thế nhỉ”… Tôi luôn băn khoăn, tìm tòi để tổ chức hoạt động khám phá
khoa học theo hướng lấy trẻ làm trung tâm để đạt được chất lượng cao.
I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài:
I.2.1. Mục tiêu của đề tài
Nhiệm vụ chính của đề tài là nghiên cứu, tìm ra nhiều biện pháp khác nhau
phù hợp với từng chủ đề, chủ điểm để dạy trẻ, giúp trẻ hứng thú trong hoạt động
khám phá khoa học theo hướng “lấy trẻ làm trung tâm”.
I.3. Đối tượng nghiên cứu :
Một số biện pháp tổ chức hoạt động khám phá khoa học cho trẻ 5-6 tuổi theo
hướng lấy trẻ làm trung tâm
I.4. Giới hạn nghiên cứu:
Lớp Lá 7 Trường Mẫu Giáo EaH’Leo
I.5. Phương pháp nghiên cứu:
- Nghiên cứu lí thuyết làm cơ sở lí luận cho đề tài
- Tổng quan và tổng hợp tài liệu, hình ảnh thực tế
- Xử lí tài liệu, hình ảnh phù hợp đề tài
- Tổng kết kinh nghiệm


II. PHẦN NỘI DUNG

3


II.1. Cơ sở lí luận:
Trong lý luận dạy và học, trước đây vai trò của nhà giáo dục và vai trò của học
sinh được biết đến đó là hoạt động lấy giáo viên làm trung tâm. Nhưng trong
những năm gần đây, một xu hướng tất yếu mà chúng ta cần học hỏi ở các nước trên
thế giới và thay đổi đó là dạy học “Lấy trẻ làm trung tâm”.
Ở độ tuổi trẻ mẫu giáo lớn (5 – 6 tuổi), trẻ ghi nhớ có chủ định và có khả năng
tập trung tốt, bền vững hơn. Khả năng tư duy trực quan hình tượng của trẻ phát
triển mạnh mẽ. Ở độ tuổi này xuất hiện tư duy trực quan với đồ vật, đó là trẻ đi sâu
tìm hiểu mối quan hệ giữa các sự vật hiện tượng và có nhu cầu tìm hiểu bản chất
của chúng, trẻ đã bắt đầu lĩnh hội được tri thức ở trình độ khái quát cao và một số
khái niệm sơ đẳng, ở trẻ phát triển chức năng ký hiệu của ý thức và trẻ đang ở
bước đầu của quá trình tư duy trìu tượng.
Trong các hoạt động giáo dục ở trẻ mẫu giáo, hoạt động học là một trong những
hoạt động chủ đạo. Thông qua hoạt động học trẻ được trải nghiệm đó là trẻ được
học qua thực tế, qua việc làm, qua khám phá tìm hiểu và trẻ được giao tiếp đó là
chia sẻ với bạn và học từ mọi người, trẻ được diễn đạt chia sẻ suy nghĩ và mong
muốn của bản thân. Qua đó, trẻ suy nghĩ và vận dụng những điều đã lĩnh hội được
vào việc giải quyết các tình huống. Nhiệm vụ của cô giáo trong tổ chức hoạt động
khám phá lấy trẻ làm trung tâm chỉ là người tạo cơ hội, hướng dẫn, gợi mở giúp trẻ
tiếp thu kiến thức.
Việc tổ chức hoạt động khám phá khoa học theo hướng lấy trẻ làm trung tâm
tạo ra một không gian mở cho trẻ, khuyến khích trẻ phát triển tư duy cho trẻ khám
phá về đặc điểm nổi bật và ích lợi sự việc hiện tượng quen thuộc, một vài mối quan
hệ đơn giản giữa sự vật với môi trường xung quanh, cách chăm sóc bảo vệ chúng,

đồng thời trau dồi khả năng quan sát, so sánh nhận xét phán đoán của trẻ hình
thành ở trẻ thái độ đúng đắn với sự vật hiện tượng sự vật xung quanh trẻ.
II.2.Thực trạng vấn đề:
Việc tổ chức cho trẻ khám phá môi trường xung quanh từ lâu đã được đưa vào.
Trong thực tế là giáo viên mầm non tôi rất quan tâm và đã biết cách cho trẻ tham

4


gia vào hoạt động khám phá đạt được một số hiệu quả nhất định nhưng kết quả đạt
được chưa cao vì lí do còn dạy trẻ theo hướng lấy giáo viên làm trung tâm, cô
hướng dẫn nhiều, nói nhiều, trẻ ít được trải nghiệm, thực hành và trao đổi nên chưa
phát huy ở trẻ tính tích cực sáng tạo. Trẻ còn thụ động trong các hoạt động, chưa
mạnh dạn tự tin, các tiết dạy chưa đem lại hiệu quả cao. Hơn nữa trường có số
lượng trẻ đồng bào dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ khá cao so với số trẻ trong toàn
trường nên về ngôn ngữ trẻ bất đồng khi tham gia vào hoạt động thì khả năng tiếp
thu của trẻ còn nhiều hạn chế và đa số trẻ chưa tự diễn đạt được mong muốn của
bản thân như khi trẻ chưa hiểu hoặc không hiểu thì trẻ chưa mạnh dạn, tự tin để
trao đổi với cô giáo để hiểu được những điều mình muốn biết.
a. Thuận lợi - khó khăn:
* Thuận lợi:
Được sự quan tâm của phòng giáo dục huyện, Ban giám hiệu nhà trường,
đồng nghiệp và quý phụ huynh, bản thân cũng đã được trực tiếp đứng lớp đối
tượng 5-6 tuổi nên cũng đã tích góp được một số kinh nghiệm, nắm chắc các
phương pháp dạy học, lập kế hoạch phù hợp với từng độ tuổi.
Trường luôn tạo điều kiện cho các giáo viên tham gia lớp tập huấn chuyên đề.
Ban giám hiệu trường quan tâm và sự giúp đỡ của chuyên môn, đồng nghiệp.
Tham gia dự giờ đồng nghiệp tại các lớp, cũng như dự giờ của các bạn đồng
nghiệp trong khi thao giảng, trong các đợt tập huấn chuyên môn, trong các hội thi
giáo viên giỏi cấp trường, cấp huyện.

Cha mẹ học sinh luôn quan tâm tới con em và nhiệt tình kết hợp với nhà trường
trong công tác chăm sóc và giáo dục trẻ.
Bản thân tôi là một người yêu nghề, mến trẻ và thích tìm hiểu, tiếp cận phương
thức giáo dục mới.
* Khó khăn:
Giáo viên tổ chức hoạt động khám phá tìm hiểu môi trường xung quanh còn gò
bó, chưa linh hoạt, chưa thật sự lấy trẻ làm trung tâm, cô giáo còn nói nhiều, trẻ ít

5


được hoạt động, đa số học sinh là người dân tộc thiểu số nên khó khăn về giao tiếp.
Trẻ chưa tự giải quyết tình huống mà còn nhờ vào sự can thiệp của cô giáo.
b. Thành công - hạn chế.
* Thành công:
Tôi đã theo dõi và thực hiện phương pháp này trong 2 năm và kết quả đạt
được cũng nhiều khả quan: Trẻ đã phát huy được năng lực quan sát, khả năng phân
tích, so sánh, tổng hợp… nhờ vậy khả năng cảm nhận của trẻ trở nên nhạy bén,
chính xác, những biểu tượng, kết quả trẻ thu nhận được trở nên cụ thể, sinh động
và hấp dẫn hơn, trẻ hứng thú hơn khi tham gia vào các hoạt động.
* Hạn chế:
Lớp học với 100% trẻ đều là dân tộc thiểu số, ngôn ngữ giữa cô và trẻ bất
đồng, cô nói trẻ không hiểu, trẻ nói cô không hiểu. Bên cạnh đó mỗi trẻ một đặc
điểm tâm sinh lý, tính cách, sở thích khác nhau, nhận thức của trẻ cũng không
đồng đều, một số trẻ khả năng tiếp thu rất nhanh, một số trẻ lại quá chậm dường
như khi cô nói trẻ không hiểu lời nói của cô, cô nói sao thì trẻ nói vậy, thường hay
lặp lại lời nói của cô. Dẫn đến nhận thức của trẻ cũng chênh lệch nhau, có trẻ thì
tiếp thu rất nhanh khi cô cho trẻ quan sát, thực hành, trải nghiệm thì trẻ rất hứng
thú và đưa ra nhận xét của mình rất tốt, nhưng cũng có một số trẻ thì lại nhút nhát,
ngôn ngữ bất đồng nên trẻ khó hiểu.

Đề tài này khó áp dụng đối với giáo viên chưa có kinh nghiệm trong việc tổ
chức các hoạt động dạy trẻ theo hướng lấy trẻ làm trung tâm, giáo viên tổ chức các
hoạt động chung còn gò bó, chưa linh hoạt, chưa gây được sự hứng thú cho trẻ
trong hoạt động.
Mặc khác đề tài này muốn thực hiện tốt đòi hỏi người thực hiện phải luôn
có sự đổi mới, tìm tòi những nguyên vật liệu sẵn có trong tự nhiên và nguyên vật
liệu phế thải để làm đồ dùng, đồ chơi tự tạo phục vụ cho tiết học, người thực hiện
phải thật sự đầu tư vào các phương pháp giáo dục trẻ mới đạt kết quả cao.

6


Đề tài này chưa thật sự sâu và rộng, gói gọn trong vai trò của một cá nhân là
giáo viên chủ nhiệm mong muốn học sinh của lớp mình thực hiện được kết quả tốt
nhất nên những biện pháp đưa ra có thể còn nhiều hạn chế.
c. Mặt mạnh - mặt yếu.
* Mặt mạnh:
Đề tài này hoàn toàn ứng dụng được ở mọi trường học với mọi phạm vi
vùng miền khác nhau bởi bất kì một lớp học nào cũng có giáo viên chủ nhiệm, hầu
hết các cháu ở trường Mầm Non đều được học 2 buổi / ngày. Giáo viên chủ nhiệm
luôn gần gũi với trẻ nên giáo viên dễ dàng nhận biết được đặc điểm, sở thích của
từng trẻ, nắm bắt được tình hình và khả năng học tập của từng trẻ trong lớp mình.
Từ đó cô sẽ có những biện pháp hữu hiệu để tổ chức hoạt động khám phá khoa học
cho trẻ theo hướng lấy trẻ làm trung tâm.
* Mặt yếu:
Đề tài này sẽ khó thực hiện nếu giáo viên không có kiến thức, kỹ năng tổ
chức các hoạt động cho trẻ theo hướng lấy trẻ làm trung tâm, giáo viên không thật
sự quan tâm, yêu thương, gần gũi trẻ, giáo viên không chịu khó làm đồ dùng tự tạo.
Thì cô giáo sẽ không có biện pháp để tổ chức các hoạt động khám phá khoa học
cho trẻ theo hướng lấy trẻ làm trung tâm.

d. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động.
- Mỗi đứa trẻ là một cá thể riêng biệt, chúng khác nhau về thể chất, tình cảm, xã
hội, trí tuệ, hoàn cảnh gia đình, văn hóa và tâm lý. Do đó, mỗi trẻ em có hứng thú,
cách học và tốc độ học tập khác nhau có những trẻ thì khả năng tiếp thu và tư duy
rất trừu tượng nhưng có những trẻ thì khả năng tiếp thu còn hạn chế. Đứng trước
các sự vật, hiện tượng xung quanh đời sống của trẻ, có trẻ rất tò mò, muốn tìm hiểu
và thích được khám phá những sự vật, hiện tượng xung quanh trẻ, trẻ hay đặt ra
câu hỏi như: “ Vì sao lá cây lại rung?”, “ Vì sao lại có gió?”...Nhưng có trẻ thì lại
nhút nhát, không tìm cách giải quyết khi gặp khó khăn, trẻ thụ động.

7


- Đa số trẻ là dân tộc thiểu số nên ngôn ngữ của trẻ còn bất đồng, khó khăn
trong khi giao tiếp
- Có những trẻ mới đi học năm đầu tiên nên trẻ còn bỡ ngỡ, rụt rè, chưa mạnh
dạn trong giao tiếp đặc biệt là khi trẻ chưa hiểu và muốn biết được những điều trẻ
chưa biết nhưng trẻ lại không dám hỏi, kinh nghiệm nhận thức của trẻ còn nghèo
nàn, khả năng chú ý ghi nhớ và khả năng diễn đạt của trẻ còn hạn chế.
e. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra:
Để tìm ra được các biện pháp và thực hiện những biện pháp đó sao cho thật hữu
hiệu và đạt kết quả cao trong việc tổ chức các hoạt động khám phá khoa học theo
hướng “lấy trẻ làm trung tâm” để giúp trẻ hoạt động một cách hứng thú, trẻ tự
mình biết giải quyết các vấn đề trong môi trường xung quanh gần gũi trẻ, tạo cho
trẻ cảm giác thoải mái, tự tin khi tham gia vào các hoạt động. Tôi đã rất quan tâm
đến lớp học của mình, luôn quan sát trẻ các hoạt động hằng ngày.
Thực tế, tôi nhận thấy:
Khi chưa áp dụng các biện pháp tổ chức các hoạt động khám phá khoa học cho trẻ
theo hướng “lấy trẻ làm trung tâm” thì tôi thấy đa số trẻ trong lớp còn thụ động,
trẻ tham gia vào hoạt động chưa hứng thú, những kiến thức cô truyền đạt đến trẻ

chưa đạt kết quả cao, chưa phát huy được tư duy, tưởng tượng, nhận thức của trẻ
còn hạn chế và dẫn đến ngôn ngữ của trẻ cũng kém phát triển, trẻ còn nhút nhát,
chưa tự tin khi tham gia vào các hoạt động ở lớp.
Lớp học với số lượng học sinh là 26 trẻ trong đó 100% là trẻ dân tộc thiểu
số, một số trẻ đã được học qua chương trình lớp chồi và một số trẻ thì chưa được
học qua chương trình lớp chồi, đặc điểm tâm sinh lý, môi trường sống của trẻ khác
nhau. Dẫn đến nhận thức của trẻ cũng không đồng đều. Bên cạnh đó phòng học
phải mượn hội trường của thôn buôn nên cơ sở vật chất cũng còn nhiều hạn chế
dẫn đến việc giáo dục trẻ còn gặp nhiều khó khăn.
Có trẻ thì rất nhanh nhẹn, hiếu động, trẻ thích tìm tòi, khám phá, trẻ tham gia
vào các hoạt động một cách hứng thú, nhưng cũng có trẻ thì lại nhút nhát, thụ động

8


không mạnh dạn giơ tay trả lời câu hỏi của cô, thậm chí ngay khi cô gọi tên trẻ mà
trẻ vẫn không dám trả lời câu hỏi của cô.
II.3. Giải pháp, biện pháp:
a.Mục tiêu của giải pháp, biện pháp:
Giáo viên xây dựng kế hoạch phù hợp với đặc điểm nhận thức của trẻ lớp
mình trực tiếp giảng dạy.
Giáo viên tổ chức hoạt động khám phá khoa học linh hoạt theo từng chủ đề,
giúp trẻ phát huy tính tích cực.
Trẻ được thõa mãn nhu cầu khám phá, trải nghiệm.
Giúp cha mẹ học sinh có sự phối hợp tốt với nhà trường và hiểu được ý nghĩa,
tầm quan trọng của các hoạt động giáo dục ở trường mầm non.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp:
Dạy trẻ làm quen với hoạt động khám phá khoa học có một tầm quan trọng
trong quá trình giáo dục trẻ mầm non. Đặc biệt là trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi. Vì thông
qua việc dạy trẻ khám phá môi trường xung quanh đã rèn cho trẻ khả năng quan

sát, so sánh, phân loại, khả năng chú ý tư duy tưởng tượng. Khám phá khoa học
nhằm củng cố hoá kiến thức, mở rộng vốn hiểu biết từ thế giới xung quanh và qua
đó làm giàu vốn từ cho trẻ. Trẻ nhận biết phân biệt âm đúng chuẩn, đồng thời phát
triển ngôn ngữ, diễn đạt rõ ràng mạch lạc.
Hoạt động khám phá khoa học theo hướng “lấy trẻ làm trung tâm” là trẻ
được khám phá khoa học về: Các bộ phận cơ thể con người, đồ vật và chất liệu,
thực vật và động vật, các hiện tượng tự nhiên như: thời tiết, nước, không khí ánh
sáng, mặt trời, mặt trăng, …Trẻ được trải nghiệm, được học qua thực tế, qua việc
làm, qua khám phá tìm tòi. Cô giáo chỉ là người tạo cơ hội, hướng dẫn, gợi mở cho
trẻ. Qua đó, khuyến khích trẻ phát triển tư duy và giúp trẻ lĩnh hội kiến thức một
cách sâu sắc.

9


* Một số biện pháp thực hiện:
1.Chuẩn bị các điều kiện và phương tiện cho trẻ làm quen với hoạt động
khám phá khoa học theo hướng lấy trẻ làm trung tâm
* Môi trường trong và ngoài lớp:
Khác với những cấp học khác trẻ mầm non luôn thích thú muốn tìm tòi,
khám phá với những môi trường sinh động như cỏ cây, hoa lá, con vật… Với đủ
sắc màu là yếu tố tác động trực tiếp đến trẻ hằng ngày. Môi trường trang trí lớp,
môi trường học tập, môi trường vui chơi…có vai trò quan trọng đến sự phát triển
trí tưởng tượng, óc sáng tạo, tư duy cho trẻ thông qua các hoạt động giáo dục trẻ.
Đối với việc trang trí môi trường lớp học tôi luôn quan tâm hàng đầu. Tôi
cùng trẻ đưa ra ý tưởng để trang trí môi trường lớp học sao cho phù hợp với chủ
đề. Với chủ đề thế giới động vật môi trường lớp học sẽ được trang trí từ những sản
phẩm được chính trẻ tạo ra như sản phẩm trẻ vẽ, tô màu, xé dán…sẽ góp phần giúp
trẻ biết thêm về đặc điểm cấu tạo, cách vận động, môi trường sống… của từng con
vật. Từ đó trẻ hiểu thêm về các sự vật thông qua vật thật và tạo cho trẻ cảm giác

thích thú với những sản phẩm do trẻ tạo ra.

Hình ảnh trẻ trang trí chủ đề từ sản phẩm tạo hình của trẻ
10


Bên cạnh đầu tư trang trí phù hợp với chủ đề, tôi cùng trẻ làm đồ dùng đồ
chơi tự tạo từ những nguyên vật liệu mở, sắp xếp đồ dùng sao cho thu hút trẻ, vừa
tạo cho trẻ khám phá, trải nghiệm thông qua hoạt động góc.
Ví dụ: Khi thực hiện chủ đề: “ Nghề nghiệp”
+ Ở góc thiên nhiên là góc dành riêng cho trẻ để khám phá xung quanh. Ở góc này
tôi trồng rất nhiều cây xanh. Tôi bố trí sẵn bình nước tưới để khi trẻ tham gia ở
hoạt động góc để trẻ vừa chăm sóc cây và khám phá các loại cây. Trong quá trình
chăm sóc ở góc thiên nhiên, trẻ được hình thành kỹ năng, kỹ xảo lao động, được
bồi dưỡng phẩm chất yêu lao động, yêu thiên nhiên, có ý thức trách nhiệm trong
công việc được giao.

Trẻ thực hành chăm sóc cây xanh

11


* Đồ dùng đồ chơi:
Trẻ mầm non luôn thích thú với cái đẹp, đồ dùng đồ chơi phải hấp dẫn, sinh
động và đa dạng. Ngoài những đồ dùng, đồ chơi được nhà trường cấp cho tranh
dạy khám phá khoa học, lô tô các loại... Với từng chủ đề khác nhau trong năm học
tôi tổ chức cho trẻ cùng làm đồ dùng, đồ chơi cùng cô và những đồ dùng đó được
sử dụng vào các tiết học. Bên cạnh đó tôi luôn tìm tòi, sưu tầm các loại tranh ảnh,
hình ảnh, các con vật, cây cỏ, hoa lá ... có hình ảnh đẹp sử dụng trong việc cho trẻ
khám phá khoa học. Tận dụng các hình ảnh ở đốc lịch, bìa, hoạ báo, ảnh cũ, các

nguyên vật liệu phế thải ... Vừa trang trí lớp vừa làm đồ dùng đồ chơi. Tôi tận dụng
những nguyên vật liệu phế thải như vỏ sò, vỏ ốc, bìa cát tông, vỏ hộp sữa, quả
bóng nhựa…Sau đó tôi tổ chức cho trẻ thực hiện làm đồ dùng đồ chơi để trẻ được
trải nghiệm, biết được cấu tạo và cách sử dụng của đồ dùng, đồ chơi. Trẻ vẽ tranh
về các con vật, cỏ cây, hoa lá, hoặc các sản phẩm nặn những đồ vật xung quanh trẻ,
các sản phẩm tạo hình, tranh từ những phế liệu, thể hiện vốn hiểu biết phong phú
của trẻ về môi trường xung quanh.
Với những đồ dùng, đồ chơi trẻ được tham gia làm cùng cô, khi tôi đưa vào
sử dụng trong tiết dạy khám phá khoa học, tôi thấy trẻ rất hào hứng, trẻ hiểu biết
nhiều, quan sát rất tốt, tìm rất nhanh các vật mẫu cô đưa ra, so sánh và phân loại
cũng rất rõ ràng, rành mạch, ngôn ngữ rất phát triển, tư duy của trẻ nhanh hơn và
chính xác hơn. Bởi vì trong quá trình làm đồ dùng, đồ chơi trẻ đã được biết đặc
điểm, cấu tạo của từng loại con vật, từng loại phương tiện giao thông và cũng như
từng loại hoa, quả…mà trẻ đã được làm.
Ví dụ: Đang thực hiện chủ đề “ Động vật” thì tôi cùng trẻ thu gom các bìa cát tông,
xốp bitis, cuộn giấy vệ sinh, vỏ sò, vỏ ốc, quả bóng nhựa, thìa sữa chua… để làm
một số loại động vật
Ví dụ: Đang thực hiện chủ đề ‘thực vật” thì tôi tận dụng những nguyên vật liệu phế
thải như chai nước ngọt, bông gối, kẽm, giấy vệ sinh… để làm một số loại cây và
một số loại quả

12


Ví dụ: Đang thực hiện chủ đề ‘phương tiện giao thông” thì tôi tận dụng những
nguyên vật liệu phế thải như hộp sữa, can nước rửa chén, chai sữa chua, que đè
lưỡi để làm một số phương tiện giao thông theo ý thích của trẻ.

Hình ảnh trẻ cùng cô làm đồ dùng tự tạo


13


Những sản phẩm cô và trẻ cùng làm từ những nguyên vật liệu phế thải

14


2. Sử dụng một số trò chơi, nhằm tạo sự hứng thú cho trẻ hoạt động khám
phá khoa học:
Đối với trẻ mầm non thì hoạt động chủ đạo của trẻ đó là “Chơi mà học - học
mà chơi” thông qua trò chơi trẻ sẽ lĩnh hội được kiến thức, trò chơi sẽ giúp trẻ tiếp
thu những kiến thức một cách dễ dàng và sâu sắc nhất, giúp trẻ nhớ lâu hơn. Trong
hoạt động khám phá khoa học sau thời gian trò chuyện, đàm thoại trẻ được hoạt
động, được tham gia vào các trò chơi hứng thú, trẻ không chỉ ngồi nghe cô nói và
trả lời các câu hỏi của cô mà trẻ còn có cơ hội để bộc lộ các hiểu biết của mình
thông qua các trò chơi, trò chơi nhằm cũng cố lại những kiến thức trọng tâm của
hoạt động có chủ đích, bổ sung và phát triển thêm các tri thức mà trẻ vừa lĩnh hội,
tái tạo lại biểu tượng đã học thông qua những hoạt động thực tiễn. Do đó, trò chơi
cũng cố trong giờ hoạt động khám phá là rất quan trọng. Giáo viên lựa chọn và sử
dụng những trò chơi càng phong phú, đa dạng thì các tri thức trẻ lĩnh hội càng sâu
sắc và trẻ càng nhớ lâu hơn.
Ví dụ 1: Khi cho trẻ làm quen với chủ đề thực vật cô có thể tổ chức cho trẻ chơi
với các trò chơi sau đây:
* Trò chơi 1: “Ai chọn đúng”
– Chuẩn bị: 2 giỏ đựng trái cây với nhiều loại trái cây khác nhau
– Cách chơi: Chia trẻ thành 2 nhóm trong một thời gian là một bản nhạc, đội nào
xếp được nhiều quả theo đặc điểm thì đội đó chiến thắng.
– Luật chơi: Thi xem đội nào xếp được nhiều quả theo đặc điểm thì đội đó chiến
thắng

+ Nhóm quả nhiều hạt
+ Nhóm quả mọc thành chùm
* Trò chơi 2: “Thu hoạch”
Sử dụng trong tiết: khám phá khoa học “ phân loại nhóm rau”
– Chuẩn bị: Một số loại rau ăn củ, rau ăn quả và rau ăn lá
– Cách chơi: Chia làm 3 đội, số lượng trẻ ở mỗi đội bằng nhau. Khi nghe tiếng
nhạc thì lần lượt từng trẻ sẽ bật qua vòng thể dục lên thu hoạch đúng loại rau của
15


đội mình sau đó bỏ vào giỏ của đội mình rồi chạy về đứng cuối hàng tiếp tục đến
bạn kế tiếp lên thực hiện. Khi kết thúc bản nhạc là trò chơi kết thúc.
+ Nhóm 1: Rau ăn củ
+Nhóm 2: Rau ăn quả
+Nhóm 3: Rau ăn lá
– Luật chơi: Mỗi lần lên thu hoạch quả mỗi bạn chỉ được thu hoạch 1 quả.
Trò chơi 3: Cây cần gì để sống
– Chuẩn bị một tờ giấy rô ki và một số hình ảnh về cây xanh và tranh rời về hình
ảnh ông mặt trời, bình tưới ước bón phân, hình ảnh con người chăm sóc cây.
– Cách chơi: Cho trẻ chơi theo nhóm hoặc cá nhân. Cô phát cho trẻ một rổ đựng
tranh rời. Trẻ chọn các bức tranh mô phỏng công việc làm đối với cây gắn vào và
kể về tranh mình vừa gắn.
3: Tạo điều kiện cho trẻ trải nghiệm, suy luận, phán đoán và đưa ra kết luận
Để trẻ được trải nghiệm, suy luận, phán đoán và đưa ra kết luận thông qua
hoạt động khám phá khoa học tôi thường xuyên cho trẻ tham gia trải nghiệm tìm
hiểu các hiện tượng thông qua hoạt động thực hành thí nghiệm để trẻ thấy được
những thay đổi của thế giới xung quanh, luôn tạo cho trẻ sự hứng thú, kích thích
trẻ tích cực hoạt động, phát triển ở trẻ tính tò mò, ham hiểu biết, thích khám phá,
tìm tòi, phát triển óc quan sát, phán đoán và các năng lực hoạt động trí tuệ. Những
thí nghiệm do trẻ trực tiếp làm sẽ giúp trẻ nhớ lâu, nắm vững được kiến thức và có

thể đưa ra những kết luận từ thực tế.
Ví dụ: Cho trẻ làm thí nghiệm cây cần gì để sống
* Mục đích: Cho trẻ thấy cây cần thức ăn và nước để mọc thành cây non.
* Đối tượng: Trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.
* Chuẩn bị: Hạt đậu đen, đậu xanh, hạt lúa… 4 cái khay nhỏ đựng đất và bình
tưới nước.
* Cách tiến hành: Cô cho trẻ thực hành theo 3 nhóm. Ngâm hạt vào trong nước ấm
khoảng 2 đến 3 tiếng rồi lấy ra. Gieo hạt vào 4 khay nhỏ. Hằng ngày, mỗi nhóm sẽ
16


quan sát và tưới nước vào khay của nhóm mình và tại khay này hạt sẽ nẩy mầm và
lớn dần. Còn 1 khay không tưới nước hạt sẽ không nẩy mầm.
+ Cho trẻ đoán và giải thích tại sao hạt gieo trên khay của nhóm mình có thể nẩy
mầm và mọc lên, còn hạt gieo trên khay khô không được tưới nước thì không nẩy
mầm được.
+ Cô cho trẻ tự làm thực nghiệm và nói về kết quả thực nghiệm của mình.
* Giải thích và kết luận: Trong hạt có mầm sống và hằng ngày chúng ta cho cây
uống nước nên hạt đã nảy mầm. Còn khay không tưới nước hạt không có nước
uống nên hạt không thể nẩy mầm
4. Cho trẻ quan sát vật thật để trẻ trải nghiệm và khám phá.
Trẻ mầm non là lứa tuổi rất hiếu động, thích tòm tòi, thích khám phá. Đối
với những vật xung quanh khi trẻ được nhìn thấy, trẻ không chỉ quan sát rồi đưa ra
kết luận về vật đó mà trẻ rất thích thú với việc được sờ, ngửi, ném…Vì vậy một
trong những phương pháp giáo dục mang lại hiệu quả cao nhất đối với trẻ khi tổ
chức hoạt động khám phá là phương pháp thực hành và trải nghiệm. Thông qua các
thao tác nhìn, sờ, ném, ngửi…trẻ dễ dàng lĩnh hội nắm bắt và khắc sâu kiến thức.
Khi tổ chức hoạt động khám phá khoa học thiếu những thao tác thực hành trải
nghiệm thì trẻ không tập trung chú ý và sẽ không khắc sâu được kiến thức và rất dễ
mau quên.

Ở lứa tuổi mẫu giáo trẻ chưa có sự tưởng tượng đa dạng, phong phú, vốn hiểu biết
cũng như những kinh nghiệm sống của trẻ còn ít nên khi giải quyết vấn đề trong
cuộc sống cũng như những thắc mắc về thế giới xung quanh trẻ còn gặp khó khăn,
trẻ chưa tự mình giải quyết những thắc mắc mà còn phụ thuộc vào người lớn. Để
giúp trẻ có thể hiểu thêm nhiều hơn về thế giới xung quanh, trẻ có khả năng tư duy
để giải quyết được vấn đề và hiểu rõ hơn về thế giới xung quanh trẻ thì khi dạy trẻ
trong các hoạt động khám phá khoa học tôi thường xuyên tận dụng các vật thật để
dạy trẻ. Khi cho trẻ được tiếp xúc với vật thật thì tôi nhận thấy trẻ hứng thú và nắm
bắt kiến thức một cách rõ ràng nhất.

17


Tạo điều kiện cho trẻ thực hành trải nghiệm với sự vật hiện tượng chính là cho trẻ
luôn luôn làm quen với sự vật hiện tượng xung quanh một cách trực tiếp như nhìn,
sờ, nếm, ngửi. Trong qua đó trẻ được bộc lộ tính cách và được hình thành phát
triển tâm lý và phát triển thêm vốn từ cho trẻ.
Ví dụ: Với chủ đề “thế giới thực vật” khi cho trẻ tìm hiểu về một số loại hoa. Tôi
chuẩn bị một số loại hoa thật như: hoa hồng, hoa cúc, hoa huệ…cho trẻ quan sát
lần lượt từng loại hoa và nhận xét được đặc điểm của mỗi loại hoa. Sau đó cô lần
lượt cho trẻ sờ, ngửi hoa và cho trẻ đưa ra nhận xét về mùi hương, đặc điểm, cấu
tạo của mỗi loại hoa.
Trẻ mầm non rất hiếu động, trẻ thích được khám phá, thích được trải
nghiệm. Thay vì cô giáo cho trẻ xem hình ảnh và đặt ra hàng loạt câu hỏi để trẻ trả
lời thì trong mỗi hoạt động, tôi cho trẻ quan sát vật thật, sau đó để trẻ đưa ra nhiều
ý kiến nhận xét để tìm ra đầy đủ và chính xác đặc điểm vật được quan sát. Nhằm
phát huy được tính sáng tạo, tư duy và hiểu biết của trẻ.
Ví dụ : Với chủ đề động vật cho trẻ tìm hiểu về một số động vật sống dưới nước
Tôi chuẩn bị một số vật thật: Con cua, con cá, con tôm cho trẻ quan sát lần lượt
từng con vật và cho trẻ nhận biết được đặc điểm của từng con vật, cho trẻ đưa ra

nhận xét về từng con vật như cách di chuyển, môi trường sống, đặc điểm cấu tạo…
Khi được quan sát vật thật như vậy thì trẻ sẽ dễ dàng đưa ra được nhận xét của
mình về từng con vật một cách chính xác hơn và trẻ sẽ thấy hứng thú. Từ đó so
sánh rất rõ ràng và phân loại cũng rất tốt hơn.

18


Trẻ quan sát vật thật để trẻ trải nghiệm và khám phá
5. Cho trẻ hoạt động theo nhóm.
Trong xã hội hiện đại các mối quan hệ ngày càng được mở rộng, việc biết cách hòa
đồng, biết cách làm việc theo nhóm, tận dụng sức mạnh của tập thể để đạt kết quả
tốt nhất trong học tập và công việc là vô cùng quan trọng.
Việc hợp tác với các bạn trong nhóm sẽ giúp trẻ thấy được sự đoàn kết, gần
gũi với nhau sẽ tạo nên sức mạnh và mang lại thành công. Việc học tập, làm việc
theo nhóm sẽ giúp trẻ và trẻ được thảo luận với nhau để đưa ra phương án trả lời
đúng nhất, ở đó trẻ được trao đổi được kinh nghiệm và học hỏi lẫn nhau, giúp trẻ
phát huy được tư duy, óc sáng tạo một cách tốt nhất. Vì vậy trong khi tổ chức hoạt
động khám phá khoa học tôi luôn tạo cơ hội cho trẻ chơi và làm việc theo nhóm
với các trẻ khác, trẻ sẽ tự tìm hiểu, khám phá theo nhóm của mình. Các thành viên
trong nhóm sẽ thảo luận, trao đổi ý kiến giữa các thành viên trong nhóm và đưa ra

19


câu trả lời. Sau đó, các bạn nhóm khác sẽ có ý kiến bổ sung cho nhóm bạn. Cô
giáo chỉ là người tạo cơ hội, hướng dẫn, gợi mở giúp trẻ lĩnh hội kiến thức.
Ví dụ: Trong hoạt động khám phá “phân loại động vật”.
+ Cô sẽ cho trẻ chia thành 3 nhóm để trẻ khám phá. Mỗi nhóm sẽ tìm hiểu một
nhóm động vật: Động vật nuôi trong gia đình, động vật sống dưới nước, một số

loại côn trùng
+ Cô gợi mở để các thành viên trong nhóm sẽ thảo luận về nhóm động vật của
nhóm mình. Sau đó, một bạn đội trưởng thay mặt cho nhóm sẽ lên trình bày đặc
điểm của nhóm động vật của nhóm mình. Các thành viên của nhóm khác sẽ lắng
nghe và bổ sung ý kiến (nếu có). Cô giáo sẽ là người lắng nghe những ý kiến của
trẻ và bổ sung, sau đó đưa ra kết luận từ những ý kiến đúng của trẻ về 3 nhóm
động vật. Và trẻ tự rút ra bài học biết yêu thương, chăm sóc các loại vật nuôi

Hình ảnh trẻ hoạt động theo nhóm
6. Kết hợp với với phụ huynh.
Trẻ mầm non dễ nhớ nhưng cũng rất dễ quên. Vì thế, tôi thường xuyên trao
đổi với phụ huynh vào giờ đón - trả trẻ để hiểu được tính cách, năng lực, trình độ
của từng cá nhân trẻ và để phụ huynh rèn thêm cho trẻ khi về nhà. Gia đình phối
hợp với cô giáo để quan tâm đến chế độ sinh hoạt của trẻ về việc dạy trẻ cách ứng
sử đúng đắn, giáo dục lòng yêu thương con người và sự vật xung quanh mình.
20


Giáo viên trao đổi với các bậc phụ huynh để phụ huynh giúp trẻ phát huy
tính sáng tạo, tư duy của trẻ trong việc khám khá sự vật hiện tượng xung quanh. Từ
đó trẻ có kiến thức về tự nhiên, xã hội phong phú và đa dạng hơn. Vì trẻ ở môi
trường nông thôn nên được tiếp xúc nhiều với cỏ cây, hoa lá, đồng thời được bố mẹ
thường xuyên cung cấp và củng cố kiến thức về môi trường xung quanh nên hiệu
quả hoạt động làm quen với khám phá khoa học là rất cao.
Về việc đóng góp trang thiết bị đồ dùng đồ chơi cho lớp học ngoài những đồ dùng,
đồ chơi mà nhà trường đã cấp phát cho lớp tôi còn vận động các bậc phụ huynh
cùng tham gia đóng góp thêm các loại đồ dùng như có phụ huynh đã sưu tầm các
loại tranh ảnh về các con vật hoa quả, các bậc phụ huynh đã ủng hộ các cây cảnh,
cây hoa và một số vật liệu phế thải để tôi cùng trẻ cùng làm thêm đồ dùng, đồ chơi
tự tạo để phục vụ cho tiết học và đã được phụ huynh ủng hộ rất nhiệt tình.

c. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp:
Để thực hiện được giải pháp, biện pháp tốt nhất, cô giáo nên thường xuyên gần
gũi, yêu thương trẻ, thường xuyên tạo cơ hội để trẻ được tham gia vào các hoạt
động cùng cô như trẻ cùng cô làm đồ dùng tự tạo, trẻ cùng đưa ra ý kiến, tham gia
trang trí lớp học theo từng chủ đề từ những sản phẩm tạo hình mà trẻ đã tạo ra. Bên
cạnh đó cô giáo cần chuẩn bị đồ dùng, đồ chơi đẹp, hấp dẫn, phong phú, sinh động
đặc biệt là đồ thật, vật thật hoặc hình ảnh động cho tiết học sinh động phù hợp với
từng chủ đề nhằm kích thích, hứng thú, tính tò mò, ham hiểu biết của trẻ. Mặc khác
giáo viên thường xuyên vận động phụ huynh mua thêm sách tranh, truyện, đặc biệt
là tranh, sách, ảnh về các con vật, cây cối, hoa lá, quả ... Sưu tầm những câu ca
dao, tục ngữ, đồng dao để làm phong phú vốn hiểu biết về khám phá khoa học của
trẻ, vận động phụ huynh đóng góp những nguyên vật liệu phế thải để làm đồ dùng,
đồ chơi cho trẻ.
d. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp:
Tôi nghiên cứu các biện pháp và sắp xếp theo một quy trình. Các biện pháp
có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau giúp tăng vốn hiểu biết cho trẻ, giúp trẻ
hứng thú tham gia các hoạt động, sáng tạo trong mọi công việc, giúp hoạt động
khám phá khoa học không còn tẻ nhạt, khô khan đối với trẻ mà trẻ tích cực tham
gia hoạt động phát huy tính sáng tạo và khả năng tư duy khi khám phá khoa học cụ
thể trẻ có tiến bộ rõ rệt trong từng hoạt động. Trẻ có kỹ năng quan sát, so sánh,

21


phân loại tốt, hiểu biết rộng về thế giới tự nhiên xung quanh trẻ. Qua đó giúp giáo
viên linh hoạt, tự tin hơn khi tiến hành hoạt động nhằm nâng cao chất lượng chăm
sóc và giáo dục trẻ
e. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu:
Qua khảo sát thực tế tại lớp Lá 7 vào đầu năm học 2018-2019, khi tôi chưa
áp dụng các biện pháp nêu trên thì kết quả cho thấy:

Tổng số trẻ điều tra: 26 trẻ
STT

ĐẠT

CHỈ TIÊU

CHƯA ĐẠT

Số trẻ

Tỉ lệ %

Số trẻ

Tỉ lệ %

14/26

54%

12/26

46%

13/26

50%

13/26


50%

12/26

46%

14/26

54%

12/26

46%

14/26

54%

Trẻ hứng thú tham gia giờ học
1

2

3

4

Trẻ có ý thức tự thực hiện tốt
yêu cầu của tiết học

Trẻ nắm vững kiến thức, kỹ năng
vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào
thực tế
Trẻ có kỹ năng sử dụng ngôn
ngữ rõ ràng, mạch lạc

II.4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên
cứu:
Qua khảo nghiệm thực tế đồng thời qua quá trình nghiên cứu, sau khi tôi áp
dụng các biện pháp nêu trên vào các giờ học của trẻ cho thấy:
Trẻ hứng thú hơn khi tham gia giờ học, trẻ có ý thức tự thực hiện tốt yêu cầu
của tiết học, nắm vững kiến thức, kỹ năng vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào thực tế
và kỹ năng sử dụng ngôn ngữ rõ ràng, mạch lạc hơn.

22


* Kết quả đạt được như sau:
stt

1

Nội dung
điều tra

Khảo sát
đầu năm

Trẻ hứng thú tham gia giờ học


Khảo sát
giữa năm

Dự kiến
cuối năm

54%

77%

92%

2

Trẻ có ý thức tự thực hiện tốt
yêu cầu của tiết học

50%

73%

88%

3

Trẻ nắm vững kiến thức, kỹ
năng vận dụng linh hoạt, sáng
tạo vào thực tế

46%


69%

85%

4

Trẻ có kỹ năng sử dụng ngôn
ngữ rỏ ràng, mạch lạc

46%

73%

92%

Sau khi áp dụng các biện pháp trên, kết quả cho thấy:
Việc tổ chức hoạt động khám phá khoa học theo hướng lấy trẻ làm trung tâm đã tạo
được sự hứng thú, thu hút trẻ vào các hoạt động mà giáo viên tổ chức, trẻ háo hức
được phát biểu ý kiến của mình.
Các trò chơi đã cụ thể hóa, trực quan hóa các kiến thức khoa học trìu tượng,
giúp trẻ tiếp thu dễ dàng hơn.
Tạo điều kiện cho trẻ trải nghiệm để trẻ có thêm những hiểu biết xã hội,
những kiến thức văn hóa hay môi trường xung quanh trẻ.
Trẻ linh hoạt và nhanh nhẹn trong các hoạt động.
Tiết học sinh động và lôi cuốn trẻ.
Trẻ hứng thú tham gia hoạt động.
Trẻ tiếp thu kiến thức một cách nhẹ nhàng thoải mái.
Như vậy, kết quả thực nghiệm của tôi thành công và tạo thêm cảm hứng cho nhiệm
vụ giảng dạy của tôi ngày một tốt hơn.


23


PHẦN III: PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Qua kiểm tra đánh giá quá trình thực nghiệm, kết quả thực nghiệm chứng tỏ
việc sử dụng các phương pháp trên đã giúp trẻ học môn khám phá khoa học có tiến
bộ rõ rệt.
Phương pháp giảng dạy lồng ghép các môn học một cách khoa học và sáng
tạo linh hoạt của giáo viên đã đem lại hiệu quả cao trong các giờ học, bằng những
hình thức khác nhau đã phát huy tốt trí tưởng tượng và thông minh ở trẻ, những tìm
ẩn vốn có để hình thành tính cách của trẻ, phát triển tình cảm, thẫm mĩ đạo đức.
Cô luôn tận dụng những phương tiện sẵn có một cách sáng tạo trong chuyên
môn, để tạo mọi điều kiện trong xây dựng phương pháp giúp trẻ phát triển môn
khám phá khoa học cho trẻ.
Đối với bản thân qua nghiên cứu tài liệu, qua sự học hỏi kinh nghiệm từ các
đồng nghiệp tôi đã có thêm nhiều kinh nghiệm và kiến thức trong việc giảng dạy.
Là giáo viên tâm huyết với nghề yêu nghề mến trẻ không ngừng tham khảo
đọc tài liệu tìm kiếm thiết kế những bài dạy điện tử, tham khảo những trò chơi, các
hình thức áp dụng cho bài dạy thêm phong phú, nội dung chương trình dạy trẻ một
cách sáng tạo, linh hoạt giúp trẻ phát triển về mọi mặt. Tôi sẽ cố gắng tạo nhiều cơ
hội, hướng dẫn, gợi mở để trẻ được tham gia vào các hoạt động theo hướng “lấy trẻ
làm trung tâm”
Tôi cảm thấy rất vui khi được góp một phần nhỏ bé của mình vào sự đổi mới của
giáo dục mầm non.
2. Kiến nghị
Trong qúa trình làm đề tài bản thân tôi có một số kiến nghị đề xuất sau:
* Về phía nhà trường:


24


- Tham mưu với lãnh đạo cấp trên để hỗ trợ kinh phí xây thêm phòng để trẻ ở các
điểm lẻ có phòng học tập trung tại một điểm trường giúp cho công tác chăm sóc
giáo dục trẻ đạt hiệu quả hơn.
- Có biện pháp để tuyên truyền với phụ huynh nhằm mua sắm đầy đủ đồ dùng,
trang thiết bị phục vụ cho lớp học.
- Nhà trường cần quan tâm nhiều hơn nữa về cơ sở vật chất để tạo môi trường
phong phú cho trẻ trải nghiệm. Bản thân giáo viên cần quan tâm nhiều hơn đến
lĩnh vực “ cho trẻ khám phá khoa học” để giúp trẻ nâng cao kỹ năng quan sát, so
sánh, phân loại.
* Về phía giáo viên:
- Cần thường xuyên học hỏi và rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp nhằm trau dồi kiến
thức chăm sóc giáo dục trẻ theo hướng “lấy trẻ làm trung tâm”
- Cần nhiệt tình, có tâm huyết với nghề, yêu nghề, mến trẻ, gần gũi trẻ xem trẻ
như con em của mình để chăm sóc giáo dục trẻ một cách tốt nhất.
- Giáo viên sưu tầm và áp dụng các trò chơi thực nghiệm vào các hoạt động học
nhằm tạo sự hứng thú cho trẻ.
- Luôn hỏi han và chia sẻ với phụ huynh về những kiến thức trong chăm sóc giáo
dục trẻ, vận động phụ huynh đóng góp những nguyên vật liệu phế thải để phục vụ
cho việc cô giáo tổ chức cho trẻ làm đồ dùng, đồ chơi tự tạo cùng cô.
* Về phía phụ huynh:
- Cần quan tâm đến việc chăm sóc giáo dục trẻ
- Rèn cho trẻ kỹ năng giao tiếp bằng tiếng phổ thông tại nhà, thường xuyên trò
chuyện với trẻ và quan tâm hơn nữa đến việc học tập của con em mình.
- Phối hợp với nhà trường trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ
Eah’Leo, ngày 10 tháng 03 năm 2019

Người viết


Nguyễn Thị Minh Kiều
25


×