Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

SKKN phát triển năng lực phản biện cho học sinh THPT qua dạy học văn bản hồn trương ba, da hàng thịt (lưu quang vũ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.23 KB, 39 trang )

MỤC LỤC
Trang
Phần I. Đặt vấn đề.....................................................................................................1
1.1. Lý do chọn đề tài...............................................................................................1
1.2. Mục tiêu, tính mới của đề tài.............................................................................2
1.3. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu.....................................................................3
1.4. Phương pháp nghiên cứu...................................................................................3
1.5. Quá trình hồn thành sáng kiến.........................................................................4
1.6. Cấu trúc của đề tài.............................................................................................4
Phần II. Nội dung......................................................................................................5
2.1. Cơ sở khoa học của đề tài..................................................................................5
2.1.1.
Một số vấn đề lí thuyết về phản biện và năng lực phản biện trong dạy học
môn Ngữ văn ở trường phổ thông.............................................................................5
2.1.2. Thực trạng dạy học phát triển năng lực phản biện cho học sinh trong dạy
học môn Ngữ văn ở trường phổ thông hiện nay........................................................6
2.2. Một số giải pháp tổ chức dạy học phát triển năng lực phản biện trong văn bản
Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Lưu Quang Vũ).........................................................8
2.2.1. Tạo khơng khí dân chủ trong giờ học..............................................................8
2.2.2. Tạo tình huống phản biện................................................................................9
2.2.3. Tổ chức tranh luận, phản biện.......................................................................12
2.2.4. Đổi mới kiểm tra - đánh giá theo hướng phát triển năng lực phản biện.......13
2.3.

Thực nghiệm sư phạm...................................................................................15

2.3.1. Mục đích của thực nghiệm sư phạm..............................................................15
2.3.2. Nội dung của thực nghiệm sư phạm..............................................................16
2.3.3. Phương pháp thực nghiệm sư phạm..............................................................16
2.3.4. Giáo án thực nghiệm.....................................................................................16
2.3.5. Kết quả thực nghiệm.....................................................................................30


Phần 3. Kết luận......................................................................................................34
3.1. Kết luận...........................................................................................................34
3.2. Kiến nghị.........................................................................................................35
3.2.1. Đối với nhà trường........................................................................................35
3.2.2. Đối với giáo viên...........................................................................................35
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................36
PHỤ LỤC 01...........................................................................................................37
PHỤ LỤC 02...........................................................................................................38
1


Phần I. Đặt vấn đề
1.1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm qua, công tác giảng dạy của giáo viên ở các nhà trường đã
có nhiều chuyển biến tích cực theo u cầu của cơng tác đổi mới chương trình giáo
dục phổ thơng 2018. Trong đó, xu hướng dạy học phát triển năng lực học sinh (HS)
đang thực sự được quan tâm. Nghị quyết số 29/NQ-TWcủa Ban Chấp hành Trung
ương về đổi mới căn bản toàn diện GD-ĐT đã xác định mục tiêu trọng tâm của
giáo dục, dạy học là chuyển từ tiếp cận tri thức sang tiếp cận năng lực người học
để có thể đào tạo được những cơng dân đáp ứng được xu thế tồn cầu hóa. u cầu
của thực tế hiện nay là cần dạy cho người học phương pháp chiếm lĩnh tri thức,
chứ không phải cung cấp tri thức. Vì thế, phát triển tư duy phản biện và năng lực
phản biện biện chứng được xem là một trong những bước đi cần thiết nhằm thúc
đẩy sự phát triển của nền giáo dục Việt Nam.
Hiện nay, trên thế giới tư duy phản biện, năng lực phản biện biện chứng đã
trở thành một trong những tiêu chí cần đạt trong giáo dục ở nhiều quốc gia, được
đưa vào chương trình đào tạo của nhiều trường đại học. Có thể nói, những nước có
nền giáo dục tiên tiến đều coi trọng việc thực hiện các hoạt động hướng đến rèn
luyện và phát triển năng lực phản biện biện chứng trong dạy học. Trong khi đó,
nền giáo dục Việt Nam vẫn chưa thực sự chú trọng đến việc phát triển tư duy và

năng lực HS bằng con đường phản biện. Thậm chí nhiều GV cịn tỏ ra khó chịu khi
HS đưa ra những ý kiến trái chiều, nhiều GV không thích khi HS tranh luận, nhiều
GV cịn áp đặt kiến thức... Việc kiểm tra đánh giá chưa linh hoạt, đề thi chủ yếu
vẫn đóng khung trong tư duy đồng thuận, tư duy xi chiều. Vì vậy, chú trọng hình
thành và phát triển năng lực tư duy phản biện biện chứng cần phải trở thành một
mục tiêu đào tạo hướng tới của nhà trường các cấp nhằm hoàn thiện hơn phẩm chất
và tư duy của học sinh.
Ngữ văn là bộ môn bắt buộc trong hệ thống giáo dục phổ thông. Với những
đặc thù riêng của mình, mơn Ngữ văn có những lợi thế để phát triển tư duy phản
biện và năng lực phản biện biện chứng cho HS. Việc tìm tịi, nghiên cứu đề xuất
các biện pháp dạy học mới trong dạy học đọc hiểu văn bản được xem là yêu cầu
quan trọng của việc đổi mới dạy học Ngữ văn hiện hành. Trong số những văn bản
được đưa vào chương trình Ngữ văn THPT thì văn bản Hồn Trương Ba, da hàng
thịt, trích trong vở kịch cùng tên của Lưu Quang Vũ là văn bản có nhiều cách tiếp
nhận khác nhau thậm chí cả những tiếp nhận trái chiều, những tiếp nhận đi ngược
với tư duy truyền thống gây nhiều tranh cãi. Có thể nói, trích đoạn ấy trở thành
mảnh đất màu mỡ để GV gieo hạt giống năng lực phản biện biện chứng để chúng
nhanh chóng nảy nở, đâm chồi, đơm hoa kết trái trên con đường tiếp cận tri thức
khoa học cho HS.
2


Vì vậy, từ nghiên cứu và thực tiễn cơng tác dạy học, nhóm tác giả đã xây
dựng đề tài sáng kiến kinh nghiệm “Phát triển năng lực phản biện cho học sinh
THPT qua dạy học văn bản Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Lưu Quang Vũ)”.
Đề tài này đã được áp dụng thành công ở trường THPT Lê Hồng Phong,
huyện Hưng Nguyên và trường THPT Đô Lương 2, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ
An.
1.2. Mục tiêu, tính mới của đề tài
1.2.1. Mục tiêu

Với đề tài “Phát triển năng lực phản biện cho học sinh THPT qua dạy học
văn bản Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Lưu Quang Vũ)”, chúng tôi hướng đến mục
tiêu giúp học sinh THPT có thể phát triển năng lực phản biện thông qua hoạt động
dạy học văn bản Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ. Từ đó, giúp HS
hình thành thói quen và năng lực phản biện trong học tập, trong đời sống thường
ngày, trong nghiên cứu khoa học…, giúp HS rút ngắn con đường đến với thành
cơng.
Mục tiêu của đề tài này cịn để thay đổi phương pháp dạy học cũ, vận dụng
linh hoạt phương pháp dạy học mới, để đồng hành cùng mục tiêu chung của đổi
mới giáo dục hiện nay: dạy học theo hướng phát triển năng lực nhằm phát triển
toàn diện các phẩm chất nhân cách, chú trọng năng lực, biết vận dụng tri thức trong
những tình huống thực tiễn để chuẩn bị chu đáo cho HS năng lực giải quyết các
tình huống trong cuộc sống và nghề nghiệp sau khi ra trường.
1.2.2. Tính mới
Những năm gần đây, việc dạy học theo hướng phát triển năng lực phản biện
đã được nhiều GV dạy môn Ngữ văn quan tâm, nghiên cứu. Đã có một số cơng
trình khoa học, sáng kiến sinh nghiệm, bài tham luận… về dạy học môn Ngữ văn
theo hướng phát triển tư duy phản biện cho HS. Nhưng các đề tài đó đều đề cập
một cách chung chung, chủ yếu tập trung vào việc vận dụng tư duy phản biện để
viết bài văn nghị luận mà chưa quan tâm đến việc phát triển năng lực phản biện
biện chứng cho HS thông qua hoạt động dạy học một bài học cụ thể, một văn bản
cụ thể.
Có thể khẳng định đề tài “Phát triển năng lực phản biện cho học sinh THPT
qua dạy học văn bản Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Lưu Quang Vũ)” là đề tài mới
mẻ, được nghiên cứu lần đầu ở các trường THPT huyện Hưng Nguyên, huyện Đô
Lương, tỉnh Nghệ An. Trước đây, trong quá trình thiết kế giáo án dạy học mơn Ngữ
văn, GV thường hướng HS đến một số năng lực như: tự học, giải quyết vấn đề, sử
dụng tiếng Việt, giao tiếp, tự quản bản thân... Với đề tài này, lần đầu tiên phát triển
năng lực phản biện được xem như là một năng lực thiết yếu cần phải chú trọng
hình thành cho HS để HS có thể tự chủ, độc lập, sáng tạo, mạnh dạn hơn trong tư

duy, dám dấn thân, dám đi ngược với đám đông, dám lựa chọn con đường riêng
3


cho bản thân. Một khi HS có được năng lực phản biện tốt thì HS dễ dàng hình
thành, phát triển các năng lực cần thiết khác.
Với đề tài này, chúng tôi cũng đã giải quyết được vấn đề cấp thiết trong thực
tiễn dạy học văn bản Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ, một văn
bản đa thanh, giàu chất triết lí nhưng khơng dễ tiếp nhận. Đề tài đã mở ra một
hướng tiếp cận khác, một cách khai thác khác giúp cho GV có thêm cơ hội để lựa
chọn, để vận dụng linh hoạt, hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng dạy học văn bản
Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ nói riêng và dạy học văn bản nói
chung.
1.3. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
1.3.1. Nhiệm vụ
Đề tài nghiên cứu nhằm hướng đến làm sáng tỏ những vấn đề sau:
- Tìm hiểu cơ sở lý luận của việc phát triển năng lực phản biện cho học sinh.
- Thông qua bài học Hồn Trương Ba, da hàng thịt nhằm nâng cao chất lượng
và giúp HS hình thành thói quen, năng lực phản biện trong học tập, trong đời sống
thường ngày, trong nghiên cứu khoa học.
- Thiết kế dạy học Hồn Trương Ba, da hàng thịt nhằm thay đổi phương pháp
dạy học cũ, vận dụng linh hoạt phương pháp dạy học mới, để đồng hành cùng mục
tiêu chung của đổi mới giáo dục hiện nay.
- Tiến hành thực nghiệm sư phạm ở các lớp khối 12 trong các nhà trường.
- Khảo sát kết quả thử nghiệm đề tài thông qua lấy ý kiến của học sinh.
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu áp dụng cho học sinh lớp 12 tại trường THPT Lê Hồng Phong
huyện Hưng Nguyên, trường THPT Đô Lương 2 trong năm học 2018-2019, 20192020.
- Nội dung nghiên cứu cơ bản thông qua bài học Hồn Trương Ba, da hàng
thịt để mở rộng thói quen, năng lực phản biện trong học tập, trong đời sống thường

ngày cho học sinh.
- Phạm vi và khả năng nhân rộng cho tất cả các đối tượng học sinh khối 12
và áp dụng cho dạy học đại trà ở tất cả học sinh khối 12 của các trường THPT, góp
phần nâng cao năng lực phản biện cho học sinh trên nhiều phương diện.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài chúng tôi sử dụng các phương pháp sau:
Phương pháp tổng hợp lý luận: phân tích, tổng hợp và hệ thống hóa các vấn
đề lý luận có liên quan đến năng lực phản biện.
4


Phương pháp quan sát: sử dụng phương pháp này nhằm giúp GV quan sát
thái độ học tập, tinh thần hợp tác, kĩ năng tranh luận, phản biện của HS trong giờ
dạy học môn Ngữ văn.
Phương pháp so sánh và phân tích thống kê: các dữ liệu thu thập được từ
khảo sát sẽ được phân loại, sắp xếp, xử lý phục vụ cho phân tích và đưa ra các
nhận định, đánh giá về thực trạng dạy học phát triển năng lực phản biện cho HS
THPT trong các trường học hiện nay.
Phương pháp thực nghiệm sư phạm: khảo sát kết quả học tập của học sinh
các lớp thực nghiệm và đối chứng để kiểm chứng hiệu quả của các phương pháp
được đề xuất.
1.5. Q trình hồn thành sáng kiến
1.5.1. Hình thành ý tưởng
Đề tài: “Phát triển năng lực phản biện cho học sinh THPT qua dạy học văn
bản Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Lưu Quang Vũ)” được hình thành ý tưởng từ
tháng 9 năm 2018 đến tháng 9 năm 2020.
1.5.2. Điều tra khảo sát
Các số liệu điều tra khảo sát trong đề tài được tôi điều tra vào tháng 9 năm
2020 tại trường THPT Lê Hồng Phong, huyện Hưng Nguyên và trường THPT Đô
Lương 2, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An

1.5.3. Đúc rút kinh nghiệm và áp dụng
- Đề tài sáng kiến được đúc rút từ tháng 9 năm 2018 đến tháng 9 năm 2020.
- Áp dụng ở lớp 12A2, 12B3, 12B8 trường THPT Đô Lương 2 và lớp 12A2,
12A5 trường THPT Lê Hồng Phong, huyện Hưng Nguyên.
1.5.4. Báo cáo hội đồng khoa học trường
Đề tài được báo cáo trước hội đồng khoa học trường THPT Lê Hồng Phong
Hưng Nguyên ngày 8 tháng 3 năm 2021 và trường THPT Đô Lương 2 ngày 20
tháng 3 năm 2021
1.6.

Cấu trúc của đề tài

Gồm 3 phần:
Phần I. Đặt vấn đề
Phần II. Nội dung
Phần III. Kết luận

5


Phần II. Nội dung
1. Cơ sở khoa học của đề tài
1.
Một số vấn đề lí thuyết về phản biện và năng lực phản biện trong
dạy học môn Ngữ văn ở trường phổ thông
Phản biện là việc đưa ra những suy nghĩ, quan điểm và lý lẽ về một điều gì
đó để chứng minh sự đúng đắn hay sai lầm của điều đó (sự vật, hiện tượng, chủ
trương, quan điểm, cơng thức...). Phản biện đồng thời cũng được xem là tư duy về
tư duy. Trong lĩnh vực chính trị xã hội, phản biện được xem là việc đưa ra các quan
điểm, lý lẽ để tìm kiếm hoặc lựa chọn những giải pháp tốt nhất cho các chính sách

của Nhà nước hay đảng phái nắm quyền trong quản lí xã hội. Trong cuộc sống
hàng ngày, chúng ta có thể nhận thấy phản biện là một hoạt động diễn ra thường
xuyên và hầu khắp mọi lĩnh vực, bởi đó khơng chỉ là cách thức và biểu hiện tiến bộ
để tìm ra sự đúng đắn nhất mà còn là một nhu cầu của cuộc sống. Trong khoa học,
phản biện cũng là một cách thức để các nhà khoa học tiệm cận đến gần hơn với
chân lý, loại bỏ những cái sai hay điều chưa hợp lý. Đối với một xã hội dân chủ,
phản biện và tự do ngôn luận là biểu hiện của một xã hội tiến bộ và là thước đo cho
dân chủ thực sự. Có thể thấy ở quốc gia nào, mơi trường nào mà có khơng khí dân
chủ thực sự thì phản biện cũng vì vậy mà được phát triển và tác động rõ rệt đến sự
phát triển của xã hội, góp phần kiến tạo nên một xã hội tốt đẹp, văn minh.
Tuy nhiên, cũng cần phải hiểu rằng phản biện khơng phải lúc nào cũng đúng
nếu khơng có sự chuẩn bị và đặc biệt là khơng có kiến thức. Cần phải thấy rằng
phản biện khơng có nghĩa là phản đối, là cách thức để chống lại các quan điểm hay
chủ trương chính sách của một tổ chức hay cá nhân. Phản biện là biểu hiện của sự
tiến bộ, vì vậy nó cần có đội ngũ trí thức để hình thành tư duy phản biện và bộc lộ
nó bằng kĩ năng. Cho nên phản biện cần được hiều là cách thức để đưa ra và nhằm
tìm cách giải quyết mọi vấn đề của cuộc sống để làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn.
Trong hoạt động dạy học, phản biện hình thành cho người học khả năng hiểu
sâu các vấn đề với những câu hỏi vì sao, như thế nào. Bên cạnh đó, phản biện cũng
giúp hoạt động dạy và học trở nên dân chủ và có khơng khí giao tiếp, tác động
nhiều chiều hơn là khơng khí dạy học kiểu một chiều như lâu nay. Phát triển được
phản biện và khuyến khích người học phản biện là một cách thức để đổi mới
phương pháp dạy học trong xu hướng dạy học tiếp cận năng lực.
Năng lực phản biện là năng lực tiếp nhận và xử lý thông tin, phát hiện, xem
xét và đánh giá tình huống có vấn đề; chứng minh giả thuyết khoa học hoặc phản
khoa học; hình thành tri thức mới để từ đó lựa chọn phương án và có quyết định
đúng đắn cho hành động. Cấu thành năng lực phản biện có các khả năng: tiếp
nhận, xử lý, phản bác, phát hiện vấn đề mới trong thông tin.
Tuy nhiên, năng lực phản biện cũng là một năng lực rất cần sự định hướng.
Nó là năng lực có thể tự khởi phát và tự có ở người học, nhưng không thể phát

6


triển mà thiếu sự định hướng. Trong đời sống hiện đại ngày nay, có q nhiều
luồng thơng tin được đưa đến thông qua internet, việc tiếp nhận thông tin, tri thức
khơng chỉ cịn đến từ người dạy mà cịn thơng qua nhiều con đường khác. Vì thế,
nếu người học khơng vận dụng năng lực phản biện một cách chính xác, có định
hướng hợp lý sẽ dẫn đến tính chủ quan, thiên kiến cũng như bị tác động cực đoan
từ các thông tin khác, mà không xác định được trọng tâm của việc tư duy, dẫn đến
khó khăn và những cản trở trong q trình học tập.
Mơn Ngữ văn là mơn học đặc thù, có những đặc trưng riêng biệt và cũng vì
thế mở ra những khả năng riêng biệt mà người học có thể tiếp nhận thơng qua việc
học mơn học này. Ngữ văn vừa là mơn học có tính khoa học, vừa là mơn học
hướng đến một loại hình nghệ thuật đặc biệt: văn chương. Các tác phẩm văn học
và việc cảm nhận, đánh giá một vấn đề văn học có thể thay đổi theo thời gian và
phụ thuộc vào thị hiếu thẩm mỹ của mỗi cá nhân, mỗi thời đại. Ngay cả ngôn ngữ
tưởng rằng là một phạm trù bất biến, nhưng chính nó cũng linh hoạt trong thực
hành giao tiếp, vì thế nhiều nguyên tắc về từ, câu...trong tiếng Việt đã thay đổi và
có nhiều hiện tượng ngơn ngữ mới.
Vì thế, khác với các bộ mơn khác, mơn Ngữ văn đưa đến cái nhìn rộng rãi,
đa chiều về mọi đối tượng, từ văn học thuần tuý cho tới đời sống xã hội, nhưng bề
sâu của nó là điều cần được người học hình thành. Để khơi sâu vấn đề, tìm hiểu
được bản chất của mọi sự vật, hiện tượng trong q trình học mơn Ngữ văn, người
học khơng thể khơng có thói quen tư duy đặt câu hỏi bản chất, tư duy phân tích và
xa hơn là đạt đến trình độ tư duy phản biện trước các tri thức mình được tiếp nhận.
Có như vậy, mơn Ngữ văn mới có thể phát huy được tính đặc thù của bộ mơn, giúp
người học có được vốn tri thức về văn hoá, văn học và rộng hơn, là biết nhìn đời
sống một cách cởi mở, sâu sắc, hiểu con người và hiểu cuộc sống hơn.
2.
Thực trạng dạy học phát triển năng lực phản biện cho học sinh

trong dạy học môn Ngữ văn ở trường phổ thông hiện nay
Ngữ văn là môn học bắt buộc trong hệ thống giáo dục phổ thơng. Với những
đặc thù riêng, mơn Ngữ văn có những lợi thế để phát triển tư duy phản biện, năng
lực phản biện cho HS. Tuy nhiên, chương trình và sách giáo khoa hiện hành của
mơn Ngữ văn vẫn cịn nhiều bất cập, dung lượng kiến thức, thời gian dành cho rèn
luyện kĩ năng cịn ít. Dù năm học 2020-2021, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có cơng
văn 3280 hướng dẫn việc giảm tải một số nội dung trong chương trình, giao cho
nhà trường, tổ chun mơn tự chủ về thời lượng dạy học ở mỗi chủ đề, ở mỗi bài
học, nhưng nhìn chung chương trình vẫn cịn nặng về kiến thức, về lí thuyết. Hệ
thống văn bản ở sách giáo khoa Ngữ văn THPT đã có nhiều đổi mới so với trước
năm 2005, mạnh dạn đưa một số sáng tác sau năm 1975 vào chương trình. Song về
cơ bản, hệ thống văn bản đó thường nằm trong vùng an tồn, các vấn đề đặt ra khá
đơn giản, xi chiều, chủ yếu là ngợi ca, thiếu tính tranh luận, phản biện... Hệ
thống câu hỏi hướng dẫn học bài cũng chủ yếu là nhận biết, tái hiện kiến thức, rất
ít câu hỏi phản đề, kích thích tính độc lập sáng tạo trong tiếp nhận của mỗi HS.
7


Trong những năm gần đây, đội ngũ GV dạy học bộ mơn Ngữ văn đã có
nhiều cố gắng trong đổi mới PPDH theo hướng tích cực, chủ động chuyển giao
nhiệm vụ học tập cho HS, giúp HS hình thành, phát triển các năng lực theo yêu cầu
của mục tiêu giáo dục. Có điều, trong q trình dạy học đó, nhiều GV vẫn chưa
thực sự quan tâm đến việc phát triển năng lực phản biện cho HS. Ngay cả thiết kế
dạy học của số đông GV khi xác định năng lực cần hình thành cho HS ở mỗi bài
học vẫn khơng đề cập đến năng lực phản biện. Thậm chí một số GV cịn khơng vui
vẻ gì khi HS có những ý kiến khác mình, những ý kiến trái chiều. Nhiều GV vẫn
còn áp đặt kiến thức cho HS, truyền đạt kiến thức một chiều, chưa coi trọng việc
hình thành lối nghĩ khác, vượt ra ngồi tư duy thơng thường cho HS. Chúng tôi đã
dự giờ rất nhiều các đồng nghiệp ở nhiều ngôi trường khác nhau. Với những giờ
dạy học đó, chúng tơi nhận thấy: nhiều đồng nghiệp đã vận dụng công nghệ vào

dạy học, chú trọng cho HS làm việc theo nhóm, khuyến khích HS trình bày kết quả
học tập nhưng chúng tơi vẫn nhận thấy, khơng khí lớp học chưa thực sự cởi mở,
những câu hỏi đưa ra cho HS thảo luận làm việc vẫn chủ yếu là tái hiện kiến thức,
là dạng câu hỏi như thế nào, dạng câu hỏi vì sao chưa được khai thác; chưa đặt HS
vào tình huống có vấn đề để kích thích tư duy HS, để HS có cơ hội bày tỏ ý kiến
riêng của bản thân... Thực tế vẫn có nhiều GV có ý thức giúp HS hình thành và
phát triển năng lực phản biện trong dạy học nhưng chính bản thân họ cũng chưa có
đủ kinh nghiệm, kiến thức và kỹ năng để giải đáp mọi thắc mắc của HS. Ngoài ra,
thời lượng lên lớp hạn chế cũng là một nguyên nhân khiến các GV ngại sử dụng
phương pháp dạy học hướng đến năng lực phản biện cho HS.
HS Việt Nam ngay từ những ngày đầu tiên đến trường, các em đã được thầy
cơ chỉ bảo, dặn dị: ở lớp luôn luôn vâng lời thầy cô, về nhà nghe lời ông bà, bố
mẹ... Nhiều phụ huynh, nhiều thầy cô cũng chỉ muốn con mình ngoan, học trị
mình ngoan là được. Ngoan trong tư duy của phụ huynh, của thầy cô là “gọi dạ,
bảo vâng”. Ở nhà, con cái có ý kiến, có tranh luận thì bố mẹ bảo là “Cá không ăn
muối cá ươn- Con cãi cha mẹ, trăm đường con hư”, là “Trứng khôn hơn vịt”. Ở
trường các em được giáo dục: “Một chứ cũng là thầy, nửa chữ cũng là thầy”. Môi
trường sống cũng như môi trường giáo dục ấy khiến phần lớn HS trở nên thụ động
trong tư duy, lười biếng trong suy nghĩ, trong tìm kiếm dẫn chứng hay các căn cứ
xác đáng để phản biện những điều GV truyền dạy. Các em dễ dàng chấp nhận kết
quả, chấp nhận bài học mà GV đã hướng dẫn, đã cung cấp. Trong thực tế đi dạy
bao nhiêu năm, chúng tơi nhận thấy HS rất ít khi chủ động hỏi GV, chủ động đưa
ra những băn khoăn, thắc mắc, trăn trở... về một vấn đề nào đó của bài học. Ngay
cả đối với những HS khá, giỏi mà chúng tôi tham gia bồi dưỡng để dự thi các kì thi
HS giỏi cũng khơng biết nên hỏi thầy cơ vấn đề gì, cũng khơng bao giờ đề xuất
bọn em cần học cái này, cần đọc kia mà GV dạy nội dung gì thì các em tiếp nhận
nội dung ấy. Vì thế, có thể thấy kĩ năng phản biện của HS cịn nhiều hạn chế.
Nhiều em có ý thức bày tỏ chính kiến, tranh luận với GV nhưng lại thiếu hệ thống
lí lẽ, dẫn chứng thuyết phục để bảo vệ chính kiến, quan điểm của mình.
8



Như vậy từ thực trạng chương trình, sách giáo khoa, đội ngũ GV đến HS đã
khiến cho việc dạy học theo hướng phát triển năng lực phản biện cho HS THPT
gặp khơng ít khó khăn, trở ngại trong q trình thực hiện. Vì vậy, ở đề tài này
chúng tơi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp với hi vọng trên cơ sở đó, HS sẽ hình
thành và phát triển được năng lực phản biện, để có thể mỗi giờ học nhất là giờ học
môn Ngữ văn trở nên hứng thú hơn, để HS có thể có được khơng khí học tập như
Đỗ Nhật Nam đã chia sẻ về một giờ học Văn ở Mĩ: Trong q trình học, có sự hỗ
trợ của giáo viên. Học sinh có thể đặt bất cứ câu hỏi nào cho giáo viên hoặc hỏi
lẫn nhau. Sau mỗi chương sẽ có những giờ trao đổi chung của cả lớp. Khi ấy, cả
lớp biến thành một “diễn đàn” và ai cũng được quyền nói lên ý kiến của mình về
chương mà mình đọc. Thơng thường, các ý kiến rất khác nhau, người đồng tình,
người phản đối và giáo viên sẽ phải làm nhiệm vụ... lắng nghe. Khơng có đúng,
sai, miễn là bạn phải tìm cách bảo vệ được quan điểm của mình.
2. Một số giải pháp tổ chức dạy học phát triển năng lực phản biện
trong văn bản Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Lưu Quang Vũ)
1.

Tạo khơng khí dân chủ trong giờ học

Tâm lí lứa tuổi 17, 18 thường rất phức tạp. Các em vừa khao khát khẳng
định mình, mong muốn được bày tỏ chính kiến, mong muốn được công nhận; vừa
nhạy cảm, tâm hồn dễ bị tổn thương. Vì thế, để các em mạnh dạn, tự tin thể hiện
những suy nghĩ chân thực, những ý kiến riêng của bản thân trong các giờ học, GV
phải tạo được một khơng khí dân chủ, phải có những đối thoại sơi nổi. Có vậy, HS
mới tích cực, chủ động tranh luận, phản biện với bạn bè, với thầy cô về các nội
dung, các vấn đề được đề cập trong bài học.
Để có thể tạo được khơng khí dân chủ, đối thoại tự do cho HS được phát
triển năng lực phản biện trong mỗi giờ học, trước hết GV phải thay đổi quan niệm

về vai trò của người thầy. Người thầy không phải là thượng đế, không phải là chủ
thể trung tâm của một giờ học. Người thầy chỉ là người dẫn dắt, hướng dẫn, người
tổ chức các hoạt động giúp HS tiếp nhận, chiếm lĩnh tri thức. Người thầy hiện đại
tuyệt đối không áp đặt kiến thức, tuyệt đối khơng cho rằng mình ln ln đúng,
lời thầy là chân lí. Người thầy hiện đại phải ln biết cách động viên, khích lệ HS
nhìn nhận vấn đề một cách ở nhiều góc độ, nhiều phương diện; khuyến khích HS
phát hiện lại vấn đề; tôn trọng, chấp nhận những cách tiếp cận, lí giải khác nhau,
thậm chí đi ngược với ý kiến của thầy giáo.
Người thầy còn phải chủ động rút ngắn khoảng cách thầy - trò để quan hệ
thầy - trò trở nên thân thiện hơn bao giờ hết. Trong một mơi trường học tập như
thế, HS hồn tồn có đầy đủ tự tin để đưa ra những phản biện để tranh luận với bạn
bè, thầy cô về một nội dung nào đó. Và các em sẽ coi đó như là những hoạt động
học tập tích cực, sáng tạo.
Trong thực tế dạy học, bản thân chúng tôi luôn chú ý tạo khơng khí học tập,
kích thích tính tị mò, khả năng khám phá của học sinh. Nhất là trong các tiết đọc
9


hiểu văn bản văn học. Mỗi một tác phẩm văn học thường ẩn chứa nhiều ý nghĩa,
nhiều tầng bậc, nhiều thông điệp, tư tưởng của nhà văn thường được ẩn đi sau hệ
thống ngơn từ giàu tính biểu tượng, ẩn dụ... nên việc tiếp nhận chưa bao giờ là đơn
giản, đồng thuận, xi chiều. Vì thế, để hướng HS vào cuộc đối thoại, tranh luận,
chúng tôi luôn đặt ra cho HS những câu hỏi tạo điều kiện cho các em được nói lên
tiếng nói riêng của bản thân như là: Nhân vật nói như vậy, em có đồng ý với ý kiến
của nhân vật khơng? Lí giải hoặc Về vấn đề này, bạn đã có ý kiến như vậy, cịn ý
kiến của em thì thế nào? Hay Em nào có những phát hiện khác về vấn đề này?...
Dạy Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ trong chương trình Ngữ văn
12, chúng tơi thường đặt câu hỏi: Trong cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác
anh hàng thịt, Trương Ba đã nói: Khơng! ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên
vẹn, trong sạch, thẳng thắn... Vậy em có đồng tình khi Trương Ba nói vậy về phần

hồn trong khi thể xác đã có sự thay đổi khơng? Lí giải?, hay ở một tình huống
khác, khi Đế Thích nói với Trương Ba rằng: Thế ơng ngỡ tất cả mọi ngươi đều
được là mình tồn vẹn cả ư ? Ngay cả tơi đây. Ở bên ngồi, tơi đâu có được sống
theo những điều tôi nghĩ bên trong. Mà cả Ngọc Hồng nựa, lắm khi chính người
cũng phải khn ép mình cho xứng đáng với danh vị Ngọc Hồng. Dưới đất, trên
trời đều thế cả, nữa là ông, chúng tôi đưa ra câu hỏi: em có đồng ý với ý kiến của
đó của Đế Thích khơng? Vì sao?
Với những câu hỏi đó, chúng tơi cho HS tự do bày tỏ ý kiến, sau đó chúng
tơi tiến hành phân loại những ý kiến của các em, chú ý tập hợp thành những luồng
ý kiến đối lập nhau. Trên cơ sở đó, chúng tôi tổ chức cho HS một diễn đàn để HS
được bảo vệ, tranh luận, phản biện ý kiến của mình. Cách tổ chức diễn đàn đó
được chúng tơi trình bày ở mục sau.
Khi HS tham gia ý kiến, tham gia phản biện, chúng tôi luôn trân trọng lắng
nghe, để các em trình bày trọn vẹn ý kiến của mình, tuyệt đối không phủ nhận ý
kiến của các em, không đánh giá kiểu: em nhìn nhận vấn đề như vậy là sai, là lệch
lạc... Khi HS có nhiều ý kiến trái chiều, chúng tôi khéo léo gợi mở, định hướng để
các em có cái nhìn so sánh, giúp các em đưa ra lí lẽ và dẫn chứng cần thiết để bảo
vệ ý kiến của mình.
Với cách tạo ra bầu khơng khí dân chủ, cởi mở như vậy, chúng tơi nhận thấy
HS trở nên hứng thú hơn với văn bản, không khí giờ học trở nên sơi nổi, HS nhập
cuộc tích cực, chủ động. Trên tinh thần đó, năng lực phản biện được phát huy tối
đa.
2.

Tạo tình huống phản biện

Nhiều học sinh có tư duy phản biện, có kỹ năng phản biện tốt cùng với kiến
thức chuyên sâu rất tốt nhưng do hồn cảnh, tính cách nhút nhát … mà HS khơng
dám hay e ngại phản biện. Lúc này vai trị của người GV sẽ là người biết cách phát
hiện và tạo ra tình huống có vấn đề để làm sao các em mạnh dạn, phấn khích hơn,

tự tin nhập cuộc. Tình huống có vấn đề là một khái niệm của lí luận dạy học hiện
10


đại. Tình huống có vấn đề sẽ buộc HS phải hình thành tư duy. Vì thế việc sử dụng
các tình huống có vấn đề trong dạy học đã trở thành PPDH mới: phương pháp nêu
vấn đề.
Dạy học nêu vấn đề (hay còn được gọi là dạy học giải quyết vấn đề) được
đánh giá là một kiểu dạy học hiện đại, tích cực, có khả năng khơi gợi hứng thú và
sự sáng tạo của người học. Hình thức dạy học này có vai trị rất lớn trong việc góp
phần hình thành và phát triển năng lực người học, trong đó có cả năng lực phản
biện. Cụ thể, vai trò của phương pháp dạy học này thể hiện ở các phương diện như:
phát huy tính tích cực, tự giác, độc lập, sáng tạo của người học; rèn luyện cho học
sinh năng lực tư duy logic; rèn cho học sinh năng lực phát hiện và giải quyết vấn
đề, năng lực tự nghiên cứu khoa học.
Có ba đặc điểm quan trọng của hình thức dạy học này là: chứa đựng tình
huống có vấn đề liên quan đến nội dung học tập; quá trình thực hiện dạy học giải
quyết vấn đề được chia thành những giai đoạn, những bước có tính mục đích
chun biệt; gồm nhiều hình thức tổ chức đa dạng, lơi cuốn người học tham gia
một cách tích cực, chủ động, sáng tạo dưới sự dẫn dắt, gợi mở của giáo viên.
Hạt nhân của dạy học nêu vấn đề là hệ thống các tình huống có vấn đề. Tình
huống có vấn đề địi hỏi phải đáp ứng những yêu cầu sau: luôn phải chứa đựng
những gì chưa biết, bao hàm một hoặc những cái đã biết, có tính mới lạ. Thơng qua
việc giải quyết các vấn đề mà học sinh thu nhận được kiến thức, kĩ năng, lĩnh hội
được tri thức, phương pháp giải quyết mới. Có thể nói, bản thân các vấn đề được
nêu ra qua hình thức dạy học này đích thực là nguồn kích thích tư duy, khơi gợi
hứng thú, tìm tịi, phát kiến của cả giáo viên và học sinh. Do vậy, có thể xem đây là
một hình thức dạy học phù hợp để qua đó hình thành năng lực phản biện cho học
sinh.
Khi dạy văn bản Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ trong

chương trình môn Ngữ văn 12, chúng tôi luôn chú ý đặt HS vào những tình huống
có vấn đề để buộc HS phải tư duy, phải “động não”, phải nhìn nhận vấn đề ở nhiều
góc độ ngay từ phần tiểu dẫn. Cụ thể, trong phần tiểu dẫn có nội dung khái quát về
vở kịch, SGK chỉ nêu một số tri thức như: năm Lưu Quang Vũ sáng tác, nguồn gốc
vở kịch, giá trị vở kịch và tóm tắt cốt truyện. Vì thế, trong thực tế dạy học, rất
nhiều GV chỉ dừng lại ở việc cung cấp cho HS những tri thức đã nêu trong SGK
khiến HS hoàn toàn thụ động trong tiếp nhận kiến thức. Do đó, để tạo tâm thế nhập
cuộc, giúp HS tò mò, hứng thú khám phá tác phẩm ngay những phút đầu tiên của
tiết họ, chúng tôi đã đặt HS vào tình huống có chứa mâu thuẫn khiến HS khao khát
“giải mã”, đó là chúng tơi tiến hành cho HS so sánh cốt truyện Hồn Trương Ba, da
hàng thịt trong văn học dân gian và cốt truyện của vở kịch Lưu Quang Vũ, sau đó
yêu cầu HS phát hiện điểm khác biệt và lí giải sự khác biệt đó. HS phát hiện ra
trong vở kịch của dân gian thì Trương Ba chết theo lẽ tự nhiên, nhưng vì Đế Thích
tiếc cái kì tài đánh cờ của ơng mà cho ông sống lại trong thân xác và mọi người
vẫn chấp nhận xem đó là Trương Ba, nên Trương Ba trong xác anh hàng thịt, vẫn ở
11


lại và sống yên ổn cùng gia đình của mình, cịn vợ anh hàng thịt thì buộc phải chấp
nhận điều đó. Cịn trong vở kịch Lưu Quang Vũ thì mọi chuyện lại khơng đơn giản
như vậy: Trương Ba chết vì sự tác trách của Nam Tào, Bắc Đẩu; hồn Trương Ba
sau khi nhập vào xác anh hàng thịt thì mỗi ngày một thay đổi, những người yêu
thương ông dần dần xa lánh ông khiến ông đau khổ, dằn vặt bản thân. Cuối cùng,
hồn Trương Ba đi đến quyết định: trả lại xác cho anh hàng thịt, cầu xin cho cu Tỵ
được sống, bản thân mình chấp nhận cái chết. HS cũng lí giải được sự khác biệt
trong cách giải quyết sau khi hồn Trương Ba sống lại trong thân xác anh hàng thịt
suy cho cùng chính là sự thay đổi trong tư tưởng, trong quan niệm về mối quan hệ
giữa linh hồn và thế xác. Cách kết thúc vở kịch của Lưu Quang Vũ gợi lên rất
nhiều vấn đề phải suy nghĩ, phải giải quyết trong cuộc sống.
Rõ ràng khi chúng tơi đặt ra tình huống đó, HS phải đọc kĩ, phải tìm tịi, phát

hiện điểm khác biệt và lí giải. Khi HS tiến hành lí giải là đồng thời HS phải vận
dụng lí lẽ, sự hiểu biết của mình về tác phẩm để đưa ra ý kiến của minh, q trình
đó đã giúp HS từng bước chạm đến tư tưởng sáng tác của tác giả, từng bước phát
triển năng lực phản biện.
Hoặc sau khi hướng dẫn HS tìm hiểu đoạn đối thoại giữa hồn Trương Ba và
xác anh hàng thịt, thay vì đặt câu hỏi: nêu ý nghĩa của đoạn đối thoại thì chúng tơi
nêu tình huống: trong vai nhà viết kịch Lưu Quang Vũ, anh (chị) hãy phát biểu với
người đọc ý tứ sâu xa mà tác giả muốn gửi gắm qua màn đối thoại giữa hồn
Trương Ba và xác hàng thịt? Với tình huống giả định này, HS đã được bày bỏ
những điều tự bản thân suy ngẫm, tự bản thân rút ra có thể sẽ khác với suy nghĩ,
của HS khác thậm chí là định hướng của chính GV.
Hay với phần kết thúc của vở kịch nếu GV nêu câu hỏi: trước tình cảnh
phần hồn, của bản thân bị phần xác anh hàng thịt lấn át, trước nỗi đau khổ của
những người trong gia đình và của cả bản thân mình, Trương Ba đã quyết định
như thế nào? Qua quyết định đó, em có nhận xét gì về nhân vật Trương Ba? Với
những câu hỏi như thế HS sẽ dễ dàng trả lời, dễ dàng tìm được đáp án trong sự
đồng thuận của những HS khác trong lớp. Với những câu hỏi đó, GV khơng kích
hoạt được tinh thần khao khát sự khám phá, sự tìm tịi của HS. Nhưng khi chúng
tơi nêu lên vấn đề: giả sử em là Trương Ba thì em sẽ có sự lựa chọn như thế nào
cho mình? Lí giải về sự lựa chọn đó thì HS rất hào hứng bày tỏ sự lựa chọn của
bản thân. Mỗi em có một sự lựa chọn khác nhau, em nào cũng muốn GV lắng nghe
sự lựa chọn của mình. Các em đặt mình vào nhân vật Trương Ba, suy tư, trăn trở
về mỗi tình huống lựa chọn, cũng là một cách các em đối diện với những vấn đề
của cuộc sống để buộc các em phải có sự lựa chọn đúng đắn nhất. Với tình huống
giả định đó, HS buộc phải hóa thân vào nhân vật nên sẽ hiểu sâu hơn về nhân vật,
từ đó tiếp cận thấu đáo hơn vào thế giới tác phẩm văn học có thể lắng nghe được
tiếng nói bên trong của nhà văn, những thông điệp mà nhà văn muốn gửi gắm. Với
tình huống giả định đó, GV đã tạo cho HS một cơ hội được tranh luận với HS khác
về cách mà mình lựa chọn, nhờ vậy mà năng lực phản biện của HS cũng được tôi
12



luyện, được phát triển.
Dạy học “nêu vấn đề” là một phương pháp dạy học hiệu quả để qua đó vừa
hình thành kiến thức cho học sinh, vừa có thể rèn luyện và phát huy năng lực phản
biện cho người học. Tuy nhiên, để đem lại hiệu quả tối ưu ở phương pháp này giáo
viên phải có sự đầu tư nhất định để tìm ra các tình huống có vấn đề, hướng dẫn học
sinh phát hiện và giải quyết vấn đề.
3.

Tổ chức tranh luận, phản biện

Đây là khâu quan trọng nhất của giờ học theo hướng phát triển năng lực
phản biện. Lúc này HS sẽ trình bày quan điểm của mình trước tập thể và quan
trọng hơn là các em trực tiếp đối thoại với các bạn khác để bảo vệ quan điểm của
mình. HS sẽ đưa ra hàng loạt những lí lẽ, dẫn chứng và sắp xếp chúng theo một trật
tự hợp lí để thuyết phục những người khác tán đồng quan điểm với mình. Cũng
trong hoạt động này, HS có thể sẽ phải trả lời những câu hỏi do các bạn khác đặt
ra. Điều này đòi hỏi các em phải có một thói quen tư duy biện chứng rõ ràng, khả
năng ứng biến mau lẹ trước các tình huống phát sinh, và tất nhiên là phải hiểu về
tác phẩm văn học một cách tường tận. Hơn thế học sinh còn cần phải biết cách
quan sát, đánh giá thái độ của những người nghe xung quanh mình để điều chỉnh
ngữ điệu, thái độ, lời văn... cho phù hợp. Thiết nghĩ con đường này sẽ cho HS
nhiều bài học để trưởng thành hơn cả về trong tri thức lẫn cuộc sống.
Khi dạy Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ, trước câu hỏi:
trong cuộc đối thoại với xác anh hàng thịt, trước lí lẽ của anh ta, Hồn Trương Ba
đã khẳng định: “Khơng! ta vẫn có một đời sống riêng: ngun vẹn, trong sạch,
thẳng thắn...”, em có đồng tình với ý kiến đó của nhân vật Trương Ba? HS đã tích
cực bày tỏ quan niệm của mình. Tuy nhiên, tổng hợp các ý kiến của HS, chúng tôi
nhận thấy về cơ bản có 3 luồng ý kiến khác nhau: 1. Đồng tình; 2. Khơng đồng

tình; 3. Vừa đồng tình, vừa phản đối. Vì thế, chúng tơi tiến hành tổ chức cho HS
tranh luận, phản biện. Tổ chức tranh luận phản biện sẽ diễn ra theo các bước:
Bước 1: Tổ chức cho các em làm việc theo từng nhóm. Nhóm này bao gồm những
em có cùng quan điểm. GV tuyệt đối không lựa chọn mà để các em tự quyết định
mình sẽ thuộc nhóm nào.
Bước 2: Tổ chức cho các em thảo luận, làm việc cùng nhau để tìm ra các ý
phản biện và sắp xếp chúng theo một trật tự lôgic. Ở bước này các em không chỉ
học tập kiến thức, ghi nhớ bài học mà còn học tập được phương pháp làm việc theo
nhóm sao cho hiệu quả nhất. Tất nhiên, GV sẽ phải quan sát tổng thể q trình làm
việc của từng em, nếu khơng sẽ xảy ra tình trạng chỉ có một vài học sinh khá trong
nhóm làm việc, số cịn lại thì “ngồi chơi xơi nước”.
Bước 3: Các nhóm cử đại diện trình bày vấn đề mà mình đã chọn. Sau khi
trình bày, các bạn trong nhóm khác có thể nêu câu hỏi yêu cầu được giải đáp.
Bước 4: Giáo viên và học sinh cùng chốt lại vấn đề trọng tâm.
13


Trong quá trình tổ chức học sinh phản biện, GV phải làm tốt vai trò là người
tham dự - chia sẻ hoặc có khi phải làm trọng tài nếu cuộc “khẩu chiến” vượt ra
khỏi khuôn khổ quy định. Trên thực tế đây là lúc GV thu nhận được nhiều thông
tin phản hồi nhất. GV vừa có thể nắm bắt được mức độ hiểu bài của học sinh để
xem xét các biểu hiện lệch lạc nhằm kịp thời uốn nắn, vừa quan sát được thái độ,
hứng thú học tập của các em.
Việc tổ chức tranh luận này không nhất thiết là hình thức tranh luận theo
nhóm. Có thể sử dụng cách tranh luận giữa các cá nhân học sinh với nhau, hoặc
tranh luận giữa GV và HS. Chẳng hạn trong quá trình học tập, lĩnh hội tri thức của
bài học Hồn Trương Ba, da hàng thịt khi hướng dẫn HS cảm nhận được giá trị của
việc hồn Trương Ba chọn cái chết, GV đưa ra một ý kiến khác: Ngay bản thân cô
vẫn luôn quan niệm chết là hết, cát bụi lại trở về cát bụi nhưng ở phần kết thúc của
vở kịch, tác giả để Hồn Trương Ba hiện về, chập chờn giữa màu xanh cây lá và nói

với vợ: Tôi đây bà ạ. Tôi vẫn ở liền ngay bên bà đây, ngay trên bậc cửa nhà ta,
trong ánh lửa bà nấu cơm, cầu ao bà vo gạo, trong cái cơi bà đựng trầu, con dao
bà giẫy cỏ…, Vậy em có suy nghĩ như thế nào về vấn đề đó? Bản thân em quan
niệm như thế nào về cái chết? Trong tình huống đó HS sẽ tranh luận cùng với
chính GV của mình, điều đó khiến HS thích thú, kích thích được tư duy độc lập, tự
chủ của HS, khơi dậy niềm khao khát được khẳng định mình, được chính GV cơng
nhận. Việc đó, GV lơi kéo được HS phát hiện vấn đề. Khi HS phản biện đúng, có
sức thuyết phục thì cơng nhận, bổ sung vào bài học, coi đó như là cơng lao, phát
hiện mới mẻ, sáng tạo của học sinh.
Trong quá trình tổ chức phản biện sẽ có nhiều tình huống nảy sinh, vì vậy
trong q trình thiết kế bài dạy, GV nên có sự dự kiến tình huống và cách xử lí,
tránh để rơi vào tình trạng bị động. GV cũng cần phải có kiến thức vững vàng để lí
giải những khúc mắc cho HS một cách thấu đáo. Nhất là phải có quan điểm rõ
ràng: đồng tình hay phản đối, đúng hay sai...Sau mỗi lần phản biện nên chốt lại ý
trọng tâm để học sinh ghi nhớ, khắc sâu kiến thức.
4.

Đổi mới kiểm tra - đánh giá theo hướng phát triển năng lực phản

biện
Trong dạy học mơn Ngữ văn nói chung và dạy học văn bản Hồn Trương Ba,
da hàng thịt nói riêng, kiểm tra đánh giá là khâu quan trọng, chủ yếu để xác định
năng lực nhận thức của người học, từ đó có cơ sở để điều chỉnh quá trình dạy và
học; là động lực để đổi mới phương pháp dạy học, góp phần nâng cao chất lượng
học sinh trong nhà trường. Với mục đích thơng qua dạy học văn bản Hồn Trương
Ba, da hàng thịt GV hướng đến phát triển năng lực phản biện cho học sinh, khâu
kiểm tra đánh giá lại càng phải được chú trọng. Nói như vậy là bởi lẽ, thơng qua
việc ra đề kiểm tra, giáo viên có cơ hội tạo điều kiện cho học sinh thể hiện năng
lực phản biện của mình. Hay nói cách khác, nếu như trong các giờ học các em đã
được trang bị năng lực phản biện thì đến bài kiểm tra làm văn, năng lực đó của các

em được hiện thực hóa một cách trọn vẹn trong thực tế dưới hình thức một bài làm
14


văn hoàn chỉnh.
Hiện nay, mặc dù Bộ GD và ĐT đã có những hướng dẫn đổi mới trong khâu
kiểm tra, đánh giá nhưng việc ra đề nhất là đề thi trong các kì thi như thi HS giỏi ở
các tỉnh hoặc đề thì THPT quốc gia, đề thi vẫn chưa thực sự đổi mới. Cơ bản vẫn là
đề đóng khung trong tư duy đồng thuận, xi chiều kiểu phân tích một đoạn trích
để làm rõ một vấn đề nào đó của tác phẩm, hay cho một nhận định, một ý kiến bàn
về văn học, yêu cầu HS làm rõ nhận định đó, ý kiến đó qua một tác phẩm nào đó...
Với những dạng đề như vậy, HS mặc nhiên cơng nhận tính đúng đắn của vấn đề,
nhiệm vụ của HS là thơng qua việc phân tích dẫn chứng văn học để khẳng định lại
vấn đề mà thôi. Cách ra đề như vậy gần như đã triết tiêu tư duy phản biện của HS,
HS bị đóng khung trong định hướng của đề. Để có thể khuyến khích học sinh tham
gia phản biện và biến đó thành một thói quen trong tư duy cũng như trong đời sống
của các em, GV phải mạnh dạn thay đổi, mạnh dạn ra đề theo hướng mở, chấp
nhận nhiều kiến giải khác nhau. Có như vậy mới tạo cơ hội cho học sinh tham gia
đối thoại, tham gia thể hiện quan điểm riêng của mình. Từ đó, các em hình thành
nhu cầu và động cơ phản biện.
Theo chúng tôi, khi xây dựng một đề làm văn hướng đến hình thành năng
lực phản biện cho học sinh phải tuân thủ những yêu cầu sau:
Về nội dung: Đề văn cần gắn với thực tế xã hội, mang tính thời sự sâu sắc,
tạo ra những tình huống giao tiếp về vấn đề xã hội lôi cuốn, hấp dẫn. Đặc biệt, để
tạo ra nhu cầu tranh luận, phản biện, đề văn nên chọn những vấn đề có nhiều
hướng giải quyết khác nhau để khuyến khích học sinh thể hiện quan điểm riêng
của các em.
Về hình thức: Cấu trúc đề linh hoạt, lời văn của đề bài chuẩn mực, trong
sáng, giản dị, dễ hiểu.
Sau khi dạy học xong văn bản Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang

Vũ, chúng tôi đã ra một số đề và yêu cầu HS viết bài để kiểm tra việc tiếp nhận
kiến thức và việc vận dụng kiến thức bài học giải quyết yêu cầu của đề. Cụ thể, đề
ra như sau:
Đề 1: Nếu anh/ chị là Trương Ba trong đoạn trích Hồn Trương Ba, da hàng
thịt của Lưu Quang Vũ thì anh/ chị sẽ lựa chọn như thế nào?
Viết bài văn nghị luận trình bày những suy nghĩ của anh/ chị về sự lựa chọn
đó.
Đề 2: Suy nghĩ của anh/ chị về triết lý nhân sinh mà Lưu Quang Vũ gửi gắm
qua cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác anh hàng thịt trong trích đoạn Hồn
Trương Ba, da hàng thịt.
Với dạng đề đó, HS có cơ hội để được phát huy tinh thần phản biện cũng
như năng lực phản biện của chính mình. Các em tự do bày tỏ quan niệm, cách nhìn
của mình về vấn đề nghị luận. Đúng- sai, đồng tình hay phản đối khơng quan
15


trọng, quan trọng là các em được nói lên tiếng nói của chính mình, sự cảm nhận
riêng của chính mình, quan trọng là các em đưa ra được lí lẽ, dẫn chứng xác đáng,
cách giải quyết vấn đề khoa học, lơ gic để bảo vệ được quan điểm của mình. Kết
quả có nhiều bài đã thể hiện được suy nghĩ riêng của bản thân, có sự nhìn nhận vấn
đề thấu đáo, biết đặt vấn đề trong các tình huống để giải quyết. Một số bài viết,
chúng tôi in ở phần phụ lục để đồng nghiệp có thể tham khảo.
Tất nhiên đổi mới hướng ra đề theo hướng phát triển năng lực phản biện cần
phải đi liền với đổi mới ở cách đánh giá, cách xây dựng đáp án, biểu điểm và cách
chấm bài. Ở đây cũng vậy, đề văn được xây dựng theo định hướng hình thành năng
lực phản biện cho người học nên đòi hỏi khâu xây dựng đáp án, biểu điểm cũng
cần có sự thay đổi sao cho phù hợp.
Trước hết, vì đề bài văn hướng đến việc tạo cho học sinh cơ hội để các em
có thể thể hiện kĩ năng lập luận, kĩ năng trình bày vấn đề cũng như thể hiện quan
điểm riêng của mình nên đáp án cũng cần được xây dựng theo hướng mở. Người ra

đề không nhất thiết phải xây dựng đáp án quá tỉ mỉ, chi tiết, cũng không nên quá sơ
sài. Đáp án cần nêu ra định hướng yêu cầu về kiến thức, kĩ năng cần có ở bài viết
nhưng cũng cần có những khoảng mở để học sinh tự do thể hiện quan điểm của
mình.
Cụ thể, trong đáp án, có một số yêu cầu cơ bản về nội dung học sinh cần đạt
được đó là: các em xác định chính xác vấn đề cần trình bày, nêu được một cách rõ
ràng quan điểm của mình về vấn đề đó cũng như sử dụng một cách hợp lí các lí lẽ
và dẫn chứng từ nhiều nguồn khác nhau để làm căn cứ cho quan điểm của mình.
Giáo viên khi xây dựng đáp án có thể dự đốn một số phương hướng mở trong bài
làm của học sinh. Cịn về hình thức trình bày, các em cần thể hiện vốn ngơn ngữ
phong phú, trong sáng, mạch lạc, chặt chẽ trong bài viết của mình.
Trong quá trình đánh giá bài làm văn của HS, GV không chỉ cần chú trọng
việc cho điểm sao cho chính xác mà cịn phải quan tâm đến việc ghi lời phê như
thế nào cho phù hợp. Nói như vậy là bởi, nếu điểm số là cái cụ thể hóa sự đánh giá
kết quả bài làm của HS thì lời phê lại mang ý nghĩa khuyến khích, uốn nắn việc rèn
luyện của các em. Ngoài những yêu cầu chung đối với một lời phê, trong khi chấm
bài, nhằm hướng đến khuyến khích học sinh thể hiện sự phản biện của mình, GV
nên có sự khen ngợi riêng dành cho những học sinh có lập luận phản biện tốt trong
khi làm bài. Dù GV luôn tôn trọng sự khác biệt của mỗi HS, tôn trọng sự lựa chọn
của các em, nhưng GV vẫn phải định hướng, dẫn dắt các em biết cách lựa chọn để
cuộc sống tốt đẹp hơn, những giá trị chân, thiện mỹ vẫn luôn là kim chỉ nam cho
hành động, suy nghĩ của mỗi người.
3. Thực nghiệm sư phạm
1.

Mục đích của thực nghiệm sư phạm

16



Qua thực nghiệm để kiểm tra hiệu quả và khả năng thực thi của việc dạy học
“Phát triển năng lực phản biện cho học sinh THPT thông qua dạy học văn bản Hồn
Trương Ba, da hàng thịt (Lưu Quang Vũ)” trong chương trình Ngữ văn 12, tập 2.
2.
Nội dung của thực nghiệm sư phạm
Thực nghiệm dạy học phát triển năng lực phản biện cho học sinh THPT qua
văn bản Hồn Trương Ba, da hàng thịt ( Lưu Quang Vũ), tại một số lớp trong
trường THPT Đô Lương 2 và trường THPT Lê Hồng Phong Hưng Nguyên.
3.
Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Trước hết chúng tôi tiến hành chọn mẫu thực nghiệm: ở trường THPT Đô
Lương 2, huyện Đô Lương, chúng tôi chọn ngẫu nhiên 3 lớp để thực nghiệm đề tài
12A1, 12B3, 12B8 và lớp đối chứng 12A2; 12B4; còn ở trường THPT Lê Hồng
Phong, Hưng Nguyên chúng tôi cũng chọn ngẫu nhiên lớp 12A2, 12A5 để thực
nghiệm đề tài và lớp đối chứng là 12A6, 12A7.
4.

Giáo án thực nghiệm
HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT
(Trích)
Lưu Quang Vũ

I. Mức độ cần đạt
1. Kiến thức
a. Nhận biết
HS nhận biết, nhớ được tên tác giả và hoàn cảnh ra đời của các tác phẩm, cốt
truyện, hệ thống nhân vật, mối quan hệ giữa các nhân vật…
b. Thơng hiểu
HS hiểu và lí giải được hồn cảnh sáng tác có tác động và chi phối như thế
nào tới nội dung tư tưởng của tác phẩm.

c. Vận dụng thấp
Viết đoạn văn phân tích nghĩa hàm ý của một số lời thoại hay trong vở kịch.
d. Vận dụng cao
Vận dụng hiểu biết về tác giả, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm để lĩnh hội giá
trị nội dung, nghệ thuật của vở kịch.
2. Kĩ năng
- Đọc hiểu văn bản kịch theo đặc trưng thể loại.
- Kĩ năng vận dụng những tri thức của bài học để làm bài nghị luận văn học
về văn bản, để giải quyết các vấn đề trong cuộc sống.
3. Thái độ
17


- Hình thành thói quen: đọc hiểu văn bản kịch hiện đại.
- Biết tránh xa lối sống dung tục, sống theo bản năng, chiều theo ý muốn của
thể xác.
- Biết giữ gìn nhân cách, có tình u thương mọi người.
- Biết trân quý sự sống.
4. Những năng lực cụ thể học sinh cần phát triển
- Năng lực thu thập thông tin liên quan đến kịch hiện đại của Lưu Quang Vũ.
- Năng lực đọc – hiểu các tác phẩm kịch hiện đại Việt Nam.
- Năng lực trình bày suy nghĩ, cảm nhận của cá nhân về kịch văn học.
- Năng lực hợp tác khi trao đổi, thảo luận về giá trị tư tưởng và nghệ thuật
của đoạn trích vở kịch.
- Năng lực phân tích, so sánh quan niệm sống của 2 nhân vật Hồn Trương
Ba và Đế Thích trong đoạn trích vở kịch.
- Năng lực tạo lập văn bản nghị luận văn học.
- Năng lực phản biện.
- Năng lực chuyên biệt: đọc kịch, sân khấu hoá.
II. Trọng tâm kiến thức

- Hiểu được bi kịch của con người khi bị đặt vào nghịch cảnh : phải sống
nhờ, sống vay mượn , sống tạm bợ và trái với tự nhiên khiến tâm hồn nhân hậu
,thanh cao bị nhiễm độc và tha hóa bởi sự lấn át của thể xác thô lỗ, phàm tục.
- Cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của những người lao động trong cuộc đấu
tranh chống lại sự giả tạo và dung tục, bảo vệ quyền được sống đích thực cùng
khát vọng hoàn thiện nhân cách.
- Thấy được kịch Lưu Quang Vũ đặc sắc trên nhiều phương diện : sự hấp
dẫn của kịch bản văn học và nghệ thuật sân khấu; sự kết hợp giữa tính hiện đại với
các giá trị truyền thống; sự phê phán mạnh mẽ quyết liệt và chất trữ tình đằm thắm,
bay bổng.
III. Chuẩn bị
1. Giáo viên
- Kế hoạch bài dạy.
- Phiếu bài tập, trả lời câu hỏi
- Tranh ảnh về nhà văn, hình ảnh, trích đoạn vở kịch do Nhà hát kịch Trung
ương dàn dựng;
- Bảng phân công nhiệm vụ cho học sinh hoạt động trên lớp
18


- Bảng giao nhiệm vụ học tập cho học sinh ở nhà
2. Học sinh
- Đọc trước ngữ liệu trong SGK để trả lời câu hỏi tìm hiểu bài
- Các sản phẩm thực hiện nhiệm vụ học tập ở nhà (do giáo viên giao từ tiết
trước)
- Đồ dùng học tập
IV. Tổ chức dạy và học
1. Ổn định tổ chức lớp
2. Kiểm tra bài cũ
Kết hợp với hoạt động khởi động

3. Tổ chức dạy và học bài mới
3. 1. Khởi động
Hoạt động của GV và HS

Kiến thức kĩ năng cần
đạt, năng lực cần phát
triển

GV cho HS xem một đoạn video khoảng 3 phút cơng
chiếu trích đoạn vở kịch Tơi và chúng ta của Lưu
Quang Vũ, phần HS đã được học ở trong chương trình
mơn Ngữ văn lớp 9

- Nhận thức được nhiệm
vụ cần giải quyết của bài
học.

Sau đó GV yêu cầu HS thực hiện nhiệm vụ:

- Tập trung cao và hợp
tác tốt để giải quyết
nhiệm vụ.

- Trích đoạn trên được thuộc vở kịch nào? Của tác giả
nào?
- Giới thiệu khái quát về vở kịch và tác giả
- HS thực hiện nhiệm vụ
- HS báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ
+ Vở kịch Tơi và chúng ta của Lưu Quang Vũ


- Có thái độ tích cực,
hứng thú.

+ Vở kịch phản ánh mâu thuẫn giữa một bên là những
con người với tư tưởng bảo thủ, lạc hậu, trì trệ, vị kỉ
với những người tiến bộ, khao khát đổi mới, khao khát
cải cách lề lối làm việc, khao khát đưa ứng dụng khoa
học kĩ thuật vào sản xuất để tăng năng suất, nâng cao
chất lượng sản phẩm. Vở kịch đã góp phần thúc đẩy
sự tiến bộ xã hội, hướng tới những giá trị sống đích
thực.
19


Hoạt động của GV và HS

Kiến thức kĩ năng cần
đạt, năng lực cần phát
triển

+ Lưu Quang Vũ là nhà viết kịch nổi tiếng trong văn
học Việt Nam hiện đại. Những vở kịch của ông thường
hướng đến những vấn đề xã hội, có ý nghĩa tư tưởng,
triết lí nhân sinh sâu sắc, hướng con người đến những
lí tưởng sống cao đẹp, vượt lên cái tầm thường, vị kỉ
...

- Rèn luyện kĩ năng
Trên cơ sở đó, GV yêu cầu HS thực hiện nhiệm vụ dẫn thuyết trình dẫn dắt
trước tập thể, góp phần

vào bài học Hồn Trương Ba, da hàng thịt, nhiệm vụ
rèn luyện năng lực phản
này GV đã yêu cầu HS chuẩn bị ở nhà
biện
3.2. Hình thành kiến thức
Hoạt động của GV - HS

Kiến thức cần đạt

Năng lực cần
hình thành

Họat động 1: TÌM HIỂU PHẦN TIỂU DẪN
GV tổ chức cho HS tìm hiểu I. Tiểu dẫn
- Năng lực
tác giả, tác phẩm
thu thập
1. Tác giả
1. GV yêu cầu rút ra những tri Lưu Quang Vũ (1948 – 1988) thông tin.
thức cần thiết về tác giả Lưu là một tài năng đa dạng nhưng
Quang Vũ để định hướng tiếp kịch là phần đóng góp đặc sắc
cận văn bản
nhất. Ơng được coi là một
GV nhận xét

trong những hiện tượng đặc
GV cho HS xem một số hình biệt của sân khấu, một trong
ảnh về Lưu Quang Vũ và mở những nhà soạn kịch tài năng
nhất của văn học Việt Nam
rộng một số vấn đề.

hiện đại.
2. GV hướng dẫn HS tìm kiếm
những tri thức khái quát về vở 2. Vở kịch Hồn Trương Ba, da
kịch Hồn Trương Ba da hàng hàng thịt
thịt
+ Vở kịch được Lưu Quang Vũ
GV giới thiệu cho HS cốt viết vào năm 1981, được công
truyện Hồn Trương Ba, da diễn vào năm 1984
hàng thịt của văn học dân gian + Từ một cốt truyện dân gian,
và của Lưu Quang Vũ
tác giả đã xây dựng thành một
vở kịch nói hiện đại, đặt ra
20


Hoạt động của GV - HS

Kiến thức cần đạt

GV giao nhiệm vụ cho HS:

nhiều vấn đề mới mẻ có ý
nghĩa tư tưởng, triết lí và nhân
văn sâu sắc.

+ So sánh hai cốt truyện?
+ Lí giải sự thay đổi, sự sáng
tạo của Lưu Quang Vũ trong
việc thay đổi cốt truyện
+ Truyện dân gian gây kịch

tính sau khi Hồn Trương Ba
nhập vào xác anh hàng thịt dẫn
tới "vụ tranh chấp" chồng của
hai bà vợ phải đưa ra xử, bà
Trương Ba thắng kiện được
đưa chồng về. Lưu Quang Vũ
khai thác tình huống kịch bắt
đầu ở chỗ kết thúc của tích
truyện dân gian. Khi hồn
Trương Ba được sống "hợp
pháp" trong xác anh hàng thịt,
mọi sự càng trở nên rắc rối, éo
le để rồi cuối cùng đau khổ,
tuyệt vọng khiến Hồn Trương
Ba không chịu nổi phải cầu xin
Đế Thích cho mình được chết
hẳn.

Năng lực cần
hình thành

- Năng lực
phát hiện vấn
đề, giải
quyết những
tình huống
đặt ra.
- Năng lực
phản biện,
tranh luận


GV để HS tự do bày tỏ ý kiến,
tự do tranh luận
Trên cơ sở đó, GV chốt lại vấn
đề:
- Sự khác biệt trong cách kết
thúc tác phẩm thể hiện quan
niệm về mối quan hệ giữa phần
hồn và phần xác trong một con
người khác nhau. Nếu người
xưa tuyệt đối hóa sức mạnh của
phần hồn, coi nhẹ phần xác thì
Lưu Quang Vũ lại thấy trong
một con người phần hồn và
phần xác phải gắn kết với nhau

Năng lực
giao tiếp
tiếng Việt

21


Hoạt động của GV - HS

Kiến thức cần đạt

Năng lực cần
hình thành


một cách hài hịa. Từ đó, Lưu
Quang Vũ đặt ra nhiều vấn đề
sâu sắc thậm chí nhạy cảm
trong đời sống hiện đại khiến ý
nghĩa của tác phẩm được mở
rộng và nâng cao đưa lại nhiều 3. Đoạn trích
thơng điệp cho người đọc.
- Vị trí: thuộc cảnh VII và đoạn
3. GV hướng dẫn HS tìm hiểu kết.
vị trí đoạn trích, cách tiếp cận
- Phương pháp tiếp cận: GV
đoạn trích theo thể loại
hướng dẫn HS tiếp cận đoạn
GV nêu câu hỏi:
trích theo đặc trưng thể loại
Dựa vào cốt truyện, theo em kịch: tích cách, con người nhân
đoạn trích thuộc vị trí nào vật được bộc lộ trọn vẹn qua
trong tác phẩm?
những xung đột, mâu thuẫn và
Từ những hiểu biết về thể loại cách giải quyết mâu thuẫn, qua
kịch, em hãy đề xuất cách tiếp ngơn ngữ đối thoại, độc thoại…
Từ đó, nắm bắt được những
cận đoạn trích?
vấn đề của cuộc sống mà tác
giả đặt ra trong đoạn trích.
Họat động 2: ĐỌC HIỂU VĂN BẢN
- GV hướng dẫn HS đọc phân II/ ĐỌC HIỂU VĂN BẢN
vai thể hiện tính cách, tâm
trạng của mỗi nhân vật và xung
đột kịch.

- GV tổ chức cho HS tìm hiểu, 1. Cuộc đối thoại giữa hồn
thảo luận phần đầu của đoạn trương Ba và xác anh hàng thịt:

Năng lực
làm chủ và
phát triển
bản thân:
Năng lực tư
duy

trích theo một số câu hỏi:

- Xác đã lấn át phần hồn, vừa
+ Cuộc đối thoại giữa hồn phô trương sức mạnh của bản
Trương Ba và xác anh hành thịt thân, vừa vuốt ve, thỏa hiệp với
bắt đầu trong hồn cảnh tình phần hồn Trương Ba
huống nào?
- Linh hồn của Trương Ba dần
+ Xác anh hàng thịt đã đưa ra dần bị tha hóa, bị xác anh hàng
những dẫn chứng gì để chứng thịt sai khiến; đuối lí; đau khổ,
minh hồn Trương Ba đã bị lệ dằn vặt, day dứt
thuộc vào xác? Thái độ của xác
như thế nào?
22


Hoạt động của GV - HS

Kiến thức cần đạt


Năng lực cần
hình thành

+ Trước thái độ và lí lẽ đó của
xác, hồn Trương Ba đã có
những phản ứng như thế nào?
HS đại diện nhóm trả lời với
kết quả mong đợi:
+ Xác đã đưa ra những bằng
chứng mà hồn cũng phải thừa
nhận:

- Năng lực
hợp tác, trao
đổi, thảo
luận.

o Cái đêm khi ông đứng cạnh
vợ anh hàng thịt với "tay chân
run rẩy", "hơi thở nóng rực",
"cổ nghẹn lại"
o Đó là cảm giác "xao xuyến"
trước những món ăn mà trước
đây hồn cho là "phàm".
o Đó là cái lần ơng tát thằng
con "tóe máu mồm máu mũi",

+ Xác biết rõ những cố gắng
của Trương Ba là vơ ích nên đã
cười nhạo cái lí lẽ mà hồn đưa

ra để ngụy biện "Ta vẫn có một
đời sống riêng: nguyên vẹn,
trong sạch, thẳng thắn,…".
+ Xác lên mặt dạy đời, chỉ
trích, châm chọc: tuyên bố sức
mạnh âm u, đui mù ghê gớm
của mình.
+ Xác cịn ve vãn hồn thoả hiệp
vì: “chẳng cịn cách nào khác
đâu”, “cả hai đã hồ nhau làm
một rồi”

- Năng lực
sử dụng
ngôn ngữ.

- Năng lực
giải quyết
vấn đề
Năng lực
sáng tạo
Năng lực
cảm thụ,
thưởng thức
cái đẹp

+ Trước những “lí lẽ đê tiện”
của xác: ban đầu, hồn Trương
Ba nổi giận, khinh bỉ, mắng
xác thịt hèn hạ

23


Hoạt động của GV - HS

Kiến thức cần đạt

Năng lực cần
hình thành

Sau đó, hồn ngậm ngùi thấm
thía nghịch cảnh của mình nên
chỉ nói những lời thoại ngắn
với giọng nhát gừng kèm theo
những tiếng than, tiếng kêu.
- Thông điệp của đoạn đối thoại
Cuối cùng, hồn đành phải nhập + Con người thường bị hoàn
trở lại vào xác trong sự tuyệt cảnh sống chi phối, thường dễ
vọng
bị tha hóa trong một mơi
+ Chiến thắng tạm thời của trường sống dung tục, tầm
Xác, thất bại tạm thời của Hồn thường.
có ý nghĩa ẩn dụ như thế nào?

+ Bên trong con người vẫn
thường diễn ra cuộc đấu tranh
để chiến thắng bản thân, vượt
lên bản năng, kiềm chế những
nhu cầu khơng chính đáng của
thể xác.


+ Trong vai nhà viết kịch Lưu
Quang Vũ, anh ( chị) hãy phát
biểu với người đọc ý tứ sâu xa
tác giả kích bản muốn gửi gắm
qua màn đối thoại giữa hồn
Trương Ba và xác hàng thịt?
+ Cần phải có cái nhìn biện
chứng về vai trị của thể xác, về
nhu cầu chính đáng của thể xác
trong cuộc sống mỗi người

+ Nhiều khi, trong những hoàn - Năng lực
cảnh nhất định con người buộc phản biện
phải thỏa hiệp
….
- GV hướng dẫn HS tìm hiểu 2. Cuộc đối thoại giữa hồn
cuộc đối thoại giữa hồn Trương Trương Ba với những người
thân
Ba với những người thân
GV nêu vấn đề: Qua lớp kịch - Vợ Trương Ba
hồn Trương Ba và gia đình (vợ,
con, cháu), anh (chị) nhận thấy
nguyên nhân nào đã khiến cho
người thân của Trương Ba và
cả chính Trương Ba rơi vào bất
ổn và phải chịu đau khổ?
Trương Ba có thái độ như thế
nào trước những rắc rối đó?


+ Buồn bã, đau khổ vì: "ơng
đâu cịn là ơng, đâu cịn là ơng
Trương Ba làm vườn ngày
xưa".
+ Đòi bỏ đi, nhường Trương Ba
cho vợ anh hàng thịt.
- Con dâu Trương Ba
24


Hoạt động của GV - HS

Kiến thức cần đạt

HS trả lời cá nhân

+ Thấu hiểu cho hoàn cảnh trớ
trêu của bố chồng: Chị biết ông
"khổ hơn xưa nhiều lắm".

Năng lực cần
hình thành

+ Nhưng nỗi buồn đau trước
tình cảnh gia đình khiến chị
khơng thể chịu được: "Thầy
bảo con: Cái bên ngồi là
khơng đáng kể, chỉ có cái bên
trong, nhưng … mỗi ngày thầy
một đổi khác dần, mất mát Năng lực

dần…"
phát hiện
- Cháu gái Trương Ba: phản Năng lực
ứng quyết liệt và dữ dội
phân tích
+ Nó khước từ tình thân: “tơi Năng lực lựa
khơng phải là cháu ơng… Ơng chọn, phân
nội tơi chết rồi”.
tích tình
+ Nó khơng thể chấp nhận con huống để
người đã làm "gãy tiệt cái chồi giải quyết
non", "giẫm lên nát cả cây sâm vấn đề
quý mới ươm" trong mảnh Năng lực
vườn của ơng nội nó.
phản biện,
+ Nó hận vì ơng đã làm gãy nát tranh luận,
cái diều khiến cu Tị trong cơn đối thoại
sốt mê man cứ khóc, cứ tiếc, cứ
bắt đền.
+ Với nó, "Ơng nội đời nào thơ
lỗ, phũ phàng như vậy". Nó
xua đuổi quyết liệt: "Ơng xấu
lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể,
cút đi!".
 Người chồng, người cha,
người ông trong sạch, nhân hậu
trước đây đã và đang thành một
kẻ khác, với những thói hư tật
GV tiếp tục nêu câu hỏi: Căn xấu của một tên đồ tể thô lỗ,
cứ vào những lời thoại, em hãy phàm tục.

25


×