Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Sử dụng câu hỏi nêu vấn đề trong dạy học một số truyện dân gian việt nam lớp 10 trường THPT bá thước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (279.38 KB, 22 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG BÁ THƯỚC

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

SỬ DỤNG CÂU HỎI NÊU VẤN ĐỀ
TRONG DẠY HỌC MỘT SỐ TRUYỆN DÂN GIAN VIỆT NAM
LỚP 10 TRƯỜNG THPT BÁ THƯỚC

Người thực hiện: Phạm Thị Thêu
Chức vụ: Giáo viên
SKKN mơn: Ngữ văn

THANH HĨA, NĂM 2021


PHẦN
1
MỞ ĐẦU

2
NỘI DUNG
SKKN

3
KẾT LUẬN

MỤC LỤC
TRANG
1.1. Lí do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu


1.3. Đối tượng nghiên cứu
2
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2.1. Cơ sở lí luận
2
2.2.Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng
4
kiến kinh nghiệm
2.3. Biện pháp tiến hành để giải quyết vấn đề
2.3.1.Câu hỏi dạng lựa chọn
2.3.2.Câu hỏi dạng nghịch lí
2.3.3.Câu hỏi dạng giả định
2.3.4. Câu hỏi dạng phản bác
2.3.5. Câu hỏi dạng so sánh
2.4. Kết quả đạt được

5
6
7
8
10
12
13

3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị

16

VÀ KIẾN

NGHỊ

4

TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT

18


1
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài:
Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và khả năng hợp tác của học sinh
là một yêu cầu rất quan trọng trong hoạt động dạy học. Nó có vai trị quyết định đối
với việc hình thành phẩm chất, năng lực người học. Chương trình giáo dục phổ
thơng ban hành kèm theo quyết định số 16/2006- BGDĐT ngày 5/6/2006 của bộ
trưởng bộ GD&ĐT đã nhấn mạnh: “Phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo
của học sinh; phù hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều
kiện của từng lớp học; bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp
tác; rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm,
đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho học sinh”. Thực hiện mục
tiêu này, đổi mới phương pháp dạy học được đẩy mạnh ở tất cả các môn học trong
nhà trường THPT. Đổi mới phương pháp dạy học văn cũng khơng nằm ngồi mục
tiêu ấy.
Là một giáo viên ngữ văn cấp trung học phổ thông tơi cũng trăn trở rất nhiều,
gắng tìm tịi và thử nghiệm để lựa chọn những phương pháp dạy học phù hợp với
lớp học và mơn học của mình. Trong q trình đó, tơi nhận thấy phương pháp dạy
học nêu vấn đề rất phù hợp với bộ môn Ngữ văn. Tôi đã áp dụng phương pháp dạy
học tích cực này vào dạy học các tác phẩm văn học và nhận thấy rất hiệu quả. Thực

sự, phương pháp nêu vấn đề đã đáp ứng được yêu cầu của việc đổi mới phương
pháp dạy học văn, phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo, khả năng hợp
tác của học sinh, và tạo ra nhiều hứng thú cho cả người dạy và người học. Để áp
dụng thành cơng phương pháp này thì việc sử dụng câu hỏi nêu vấn đề là vô cùng
quan trọng. Điều đó, đặt ra yêu cầu rất cao đối với mỗi giáo viên trong việc xây
dựng hệ thống câu hỏi nêu vấn đề trong mỗi tiết học. Thế nhưng, trong thực tế việc
sử dụng câu hỏi nói chung và câu hỏi nêu vấn đề nói riêng trong giờ đọc văn nhiều
khi còn dễ dãi. Mức độ sử dụng các loại câu hỏi chưa hợp lí, câu hỏi quá dễ hoặc
quá khó…dẫn đến giờ học kém hấp dẫn, trở thành giờ vấn đáp nhàm chán, không
tạo được hứng thú cho học sinh. Có nhiều tiết học rất hay, đặt ra rất nhiều vấn đề
đòi hỏi người học nhận thức và giải quyết song giáo viên lại không xây dựng được
những câu hỏi nêu vấn đề để tạo ra tình huống có vấn đề buộc học sinh phải tìm
cách giải quyết. Đây là điều đáng tiếc, làm hạn chế tính tích cực, chủ động, sáng tạo
và sự hứng thú của học sinh.
Đối với khu vực miền núi cao nói chung và trường THPT Bá Thước nói
riêng, đa số học sinh là người dân tộc thiểu số điều kiện giao lưu, học hỏi, kĩ năng
nói cịn rất hạn chế. Các em khá nhút nhát, ngại phát biểu ý kiến trước tập thể. Vì
vậy, trong giờ học chỉ tập trung lắng nghe và ghi chép, chưa phát huy được tính tích
cực, chủ động, sáng tạo của người học. Lâu dần hình thành thói quen thụ động , tạo
sức ì lớn. Nhiều khi, trong tiết học chỉ có thầy đặt câu hỏi và vài học sinh tích cực
trả lời từ đầu đến cuối dẫn đến khơng khí lớp học rất buồn tẻ.
Vậy làm thế nào để sử dụng câu hỏi nêu vấn đề cho hiệu quả? Xây dựng hệ
thống câu hỏi nêu vấn đề ra sao để phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo
của học sinh, để tạo được hứng thú, sự say mê, yêu thích của người học trong giờ
đọc văn? Từ những câu hỏi của thực tế đó, với những kinh nghiệm mà mình có
được, trong đề tài này tôi sẽ đi sâu vào vấn đề “ Sử dụng câu hỏi nêu vấn đề trong
dạy học một số truyện dân gian Việt Nam lớp 10 ở trường THPT Bá Thước”


2

1.2. Mục đích nghiên cứu:
Tơi chọn đề tài này vừa để trao đổi kinh nghiệm, vừa để có điều kiện nghiên
cứu kĩ lưỡng, sâu sắc hơn về phương pháp dạy học mà mình tâm đắc. Đồng thời,
qua quá trình nghiên cứu và thực nghiệm phát huy được tính tích cực, chủ động,
sáng tạo của học sinh, tạo thêm hứng thú, niềm say mê cho các em khi học các tác
phẩm văn học trong chương trình ngữ văn ở trường THPT.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Trong phạm vi của một đề tài nhỏ này tôi chỉ tập trung vào việc xây dựng hệ
thống câu hỏi nêu vấn đề khi dạy một số tác phẩm truyện dân gian Việt Nam ở lớp
10. Cụ thể là ba truyện tiêu biểu cho ba thể loại của văn học dân gian Việt nam:
- Truyện An Dương Vương và Mị Châu- Trọng Thủy(Truyện truyền thuyết)
- Tấm Cám( Truyện cổ tích)
- Chiến thắng Mtao Mxây( Trích Đăm Săn- sử thi Tây Nguyên)
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
* Về lí thuyết:
- Tham khảo các tài liệu tin cậy, các công trình nghiên cứu của các tác giả có uy tín,
sáng kiến kinh nghiệm của các đồng nghiệp.
- Sử dụng các phương pháp khoa học như: khảo sát, thống kê, phân tích số liệu, so
sánh đối chiếu, tổng hợp…để nhận thức, triển khai và đánh giá vấn đề nghiên cứu.
* Về thực tiễn:
- Dự giờ đồng nghiệp cùng dạy các tác phẩm truyện dân gian Việt Nam lớp 10. Góp
ý, thảo luận với tổ chuyên môn.
- Thực nghiệm sư phạm: Sử dụng câu hỏi nêu vấn đề trong các tiết học về truyện
dân gian Việt nam lớp 10. Ở mỗi năm học chọn ra các lớp thực nghiệm và lớp đối
chứng để có cơ sở so sánh, đối chiếu. Qua đó, kiểm chứng các biện pháp đã nêu ra
trong đề tài, đưa ra những kết luận khoa học và khẳng định tính khả thi của đề tài.
- Tiến hành kiểm tra đánh giá học sinh thường xuyên và định kì, ưu tiên cho nội
dung kiểm tra ở các tác phẩm truyện dân gian Việt Nam lớp 10 để thấy rõ hiệu quả
của đề tài.
2. NỘI DUNG

2.1. Cơ sở lý luận
Trong một xã hội đang phát triển nhanh theo cơ chế thị trường, cạnh tranh
gay gắt thì phát hiện sớm và giải quyết hợp lí những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn
là một năng lực đảm bảo sự thành đạt trong cuộc sống. Vì vậy, tập dượt cho học
sinh biết phát hiện, đặt ra và giải quyết những vấn đề gặp phải trong học tập, cuộc
sống cá nhân, gia đình và cộng đồng là rất có ý nghĩa. Và việc tập dượt đó sẽ thực
sự hiệu quả khi người thầy thường xuyên sử câu hỏi nêu vấn đề trong dạy học. Để
sử dụng hiệu quả dạng câu hỏi này người dạy cần nắm vững bản chất của dạy học
nêu vấn đề.
2.1.1.Khái niệm dạy học nêu vấn đề:
Thuật ngữ “dạy học nêu vấn đề” xuất phát từ thuật ngữ “Orixtic” hay còn gọi
là phương pháp phát kiến hay tìm tịi.
Theo V. Ơkơn: “Dạy học nêu vấn đề là tập hợp những hoạt động như tổ


3
chức các tình huống có vấn đề, phát biểu vấn đề, giúp đỡ cần thiết cho học sinh
trong việc giải quyết vấn đề, kiểm tra phép giải đó và cuối cùng điều khiển q
trình hệ thống hóa, củng cố kiến thức tiếp thu được”. [3]
V. Ơkơn cho rằng: “Nét bản chất nhất của dạy học nêu vấn đề không phải là
sự đặt ra những câu hỏi mà là tạo ra những tình huống có vấn đề”. [3]
T.V. Kudriaxep cũng phát biểu ý tương tự: “Khái niệm về tình huống có vấn
đề và các biện pháp giải quyết nó tạo nên cơ sở của dạy học nêu vấn đề”.
Như vậy, hạt nhân của phương pháp dạy học nêu vấn đề là tạo ra các tình
huống có vấn đề.
Vậy thế nào là “tình huống có vấn đề”?
2.1.2. Khái niệm tình huống có vấn đề
Hiện nay chưa có một định nghĩa hồn tồn thống nhất, sau đay là một số
định nghĩa đáng chú ý:
Theo tác giả người Nga M.I Mackmutov: “Tình huống có vấn đề là trở ngại

về trí tuệ của con người xuất hiện khi người đó chưa biết cách giải quyết hiện
tượng, sự kiện, quá trình của thực tế, khi chưa thể đạt tới mục đích bằng cách thức
hành động quen thuộc. Tình huống này kích thích con người tìm tịi cách giải thích
hay hành động mới. Tình huống có vấn đề là quy luật của hoạt động nhận thức
sáng tạo có hiệu quả. Nó qui định sự khởi đầu của tu duy, hành động tư duy tích
cực sẽ diễn ra trong quá trình nêu ra và giải quyết các vấn đề”.
Một tác giả khác lại viết: “Tình huống có vấn đề là trạng thái tâm lí độc đáo
của người gặp chướng ngại nhận thức, xuất hiện mâu thuẫn nội tâm, có nhu cầu
giải quyết mâu thuẫn đó, khơng phải bằng tái hiện hay bắt chước mà, bằng tìm tịi,
sáng tạo tích cực đầy hưng phấn, và khi tới đích thì lĩnh hội được kiến thức,
phương pháp giành kiến thức và cả niềm vui sướng của phát hiện”.
Như vậy, có thể coi tình huống có vấn đề trong dạy học là trạng thái tâm lí
đặc biệt của học sinh khi họ gặp mâu thuẫn khách quan của bài toán nhận thức giữa
cái đã biết và cái phải tìm, tự họ chấp nhận và có nhu cầu, có khả năng giải quyết
mâu thuẫn đó bằng tìm tịi tích cực, sáng tạo, kết quả là họ nắm được cả kiến thức
và phương pháp giành kiến thức.
Một tình huống được coi là có vấn đề khi thỏa mãn ba điều kiện sau:
- Tồn tại một vấn đề.
- Gợi nhu cầu nhận thức.
- Gợi niềm tin vào khả năng của bản thân.
Vấn đề trong tác phẩm văn chương là mâu thuẫn giữa tri thức văn học,
phương thức phân tích, cắt nghĩa, bình giá tác phẩm ở học sinh với các giá trị nội
dung tư tưởng và giá trị thẩm mĩ cần tìm của tác phẩm. Mâu thuẫn này chỉ được giải
quyết bằng những nỗ lực hoạt động sáng tạo và cảm xúc thẩm mĩ của học sinh.
Nhưng điều quan trọng là làm thế nào để vấn đề trong tác phẩm trở thành tình
huống có vấn đề với học sinh. Giáo sư Phan Trọng Luận trong cuốn giáo trình
“Phương pháp dạy học văn” xuất bản năm 1998 có nêu: “Tác phẩm nào cũng có
vấn đề cả nhưng không phải bất cứ vấn đề nào trong tác phẩm cũng tự nhiên trở
thành tình huống có vấn đề đối với chủ thể người học”[7]. Chính vì vậy, giáo viên
nhất định phải tạo ra được các tình huống có vấn đề trong giờ dạy. Nhờ câu hỏi nêu

vấn đề mà giáo viên tạo được tình huống có vấn đề. Thế nên việc xây dựng câu hỏi
nêu vấn đề quyết định sự thành bại của phương pháp dạy học này.


4
2.1.3. Khái niệm câu hỏi và câu hỏi nêu vấn đề
*Khái niệm về câu hỏi
Theo Arisotle: “Câu hỏi là một mệnh đề trong đó chứa đựng cái đã biết và
cái chưa biết.”[10]
Khái niệm câu hỏi cũng được diễn đạt theo một cách khác: Câu hỏi là dạng
cấu trúc ngôn ngữ diễn đạt một đòi hỏi, một yêu cầu, một mệnh lệnh cần được giải
quyết.
Trong dạy học câu hỏi được sử dụng như là một cơng cụ để hướng dẫn q
trình nhận thức, quá trình kiểm tra, tự kiểm tra và tự học.
* Khái niệm câu hỏi nêu vấn đề
Trong cuốn Phương pháp dạy học văn, Phan Trọng Luận cho rằng: “Câu hỏi
nêu vấn đề là loại câu hỏi đặt ra cho chủ thể học sinh và được học sinh tiếp nhận
một cách có ý thức, khơng phải từ ngồi dội vào mà là do nhu cầu khám phá tìm
hiểu của bản thân và chính học sinh cũng đã có một số dữ kiện (tri thức kinh
nghiệm kĩ năng) song không thể tìm được lời giải cũ bằng chính những hiểu biết cũ
và theo phương thức hành động cũ”[7]
Vũ Nho quan niệm: “Câu hỏi nêu vấn đề khơng nhằm mục đích tái hiện kiến
thức cũng không nhằm khơi gợi sự tự biểu hiện của học sinh khi đánh giá chi tiết
hay toàn bộ các tác phẩm văn học. Câu hỏi nêu vấn đề phải làm rõ được vấn đề
tiềm ẩn trong tác phẩm, phải gây hứng thú nhận thức cho học sinh, phải động viên,
khuyến khích học sinh giải quyết vấn đề đã nêu. Câu hỏi nêu vấn đề phải làm rõ
hoặc đặt ra được vấn đề, đưa người nghe vào tình huống có vấn đề. Tính chất khái
qt, tính chất phức tạp, tính chất hệ thống và tính chất phù hợp với tác phẩm là
đặc điểm của câu hỏi nêu vấn đề”.[4]
Từ những quan niệm trên, có thể thấy rõ: Câu hỏi nêu vấn đề thường có tính

chất phức tạp về nội dung, gợi lên những mâu thuẫn giữa cái đã biết với cái chưa
biết, giữa cái cũ với cái mới, giữa lý thuyết với thực tế…, mâu thuẫn đó đòi hỏi học
sinh giải quyết bằng tư duy sáng tạo. Qua đây, rèn luyện cho học sinh tính tích cực,
chủ động, sáng tao, hợp tác để giải quyết những yêu cầu đặt ra trong giờ học văn.
2.2. Thực trạng vấn đề
2.2.1. Thực trạng chung
Trong q trình cơng tác nhiều năm qua, tôi nhận thấy học sinh trung học phổ
thông Bá Thước nói riêng và các trường trung học phổ thơng khác nói chung ngày
càng ít đam mê, hứng thú với mơn ngữ văn mặc dù nó vẫn được coi là mơn học
chính. Biểu hiện rõ nhất của thực trạng này là rất nhiều học sinh không đọc tác
phẩm ở nhà khơng soạn bài theo u cầu và rất ít khi làm bài tập môn văn. Trong
giờ học các em hầu như chỉ quen nghe và ghi chép. Vì vậy, các em hoàn toàn thụ
động trong việc chiếm lĩnh tri thức. Có những tác phẩm dài khơng có thời gian đọc
trên lớp, giáo viên chỉ yêu cầu tóm tắt chi tiết thì những học sinh này khơng đáp ứng
được u cầu và cũng khơng có cơ sở vững chắc để đánh giá đúng tác phẩm. Lâu
dần thành thói quen, các em sẽ mất đi kiến thức cơ bản cũng nhu niềm say mê, hứng
thú với môn học. Nhiều giờ học văn trở thành áp đặt kiến thức một chiều từ giáo
viên, học sinh cảm thấy nhàm chán, buồn ngủ là không tránh khỏi. Thực trạng này
đặt ra nhiều vấn đề phải suy nghĩ trong đó có vấn đề đổi mới phương pháp dạy học
văn. Vì vậy, sử dụng câu hỏi nêu vấn đề cũng là một trong những lựa chọn của
nhiều giáo viên để kích thích tư duy độc lập, sáng tạo của học sinh, để học sinh chủ


5
động tiếp thu tri thức từ đó tăng thêm cảm hứng say mê với tác phẩm. Câu hỏi nêu
vấn đề cịn có tác dụng kết nối học sinh, nêu cao tinh thần hợp tác, giúp đỡ nhau,
tạo ra khơng khí thảo luận sôi nổi cho các em.
2.2.2. Thực trạng của trường THPT Bá Thước
*Về phía học sinh:
Do nhiều yếu tố chủ quan và khách quan tác động, chất lượng đầu vào của

các mơn rất thấp trong đó có mơn Ngữ văn. Hai kĩ năng quan trọng là Nói và Viết
của các em rất yếu kém. Điểm tuyển sinh vào lớp 10 đa số dưới mức trung bình.
Khoảng 90% học sinh chỉ có mục đích thi lấy bằng tốt nghiệp nên sức ì của các em
khá lớn. Chính vì vậy, giáo viên gặp khơng ít khó khăn trong q trình giảng dạy,
trong việc phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Có thể nói, việc
phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh mới chỉ làm tốt ở các giờ thao giảng
định kì, các tiết thi giảng. Các tiết học thường ngày khơng khí giờ học vẫn trầm, chỉ
có một số em học sinh tích cực, tự tin thường xuyên phát biểu xây dựng bài còn đa
số khơng tham gia. Khả năng cịn nhiều hạn chế, thái độ tự ti, ít tinh thần quyết tâm
và khơng có niềm đam mê với mơn học là những trở ngại rất lớn ngăn cản sự tích
cực, chủ động, sáng tạo của các em trong giờ học.
* Về phía giáo viên:
Đối với bộ môn ngữ văn ở trường THPT Bá Thước, phương pháp dạy học
nêu vấn đề mới chỉ được sử dụng thường xuyên trong các giờ thao giảng. Trong các
giờ dạy ấy, nó cũng chỉ phát huy được tính chủ động, tích cực của một bộ phận học
sinh có ý thức xây dựng bài tốt. Từ phía giáo viên cịn có những cách nhìn nhận
chưa thỏa đáng về dạy học nêu vấn đề. Một số người cho rằng phương pháp này hay
nhưng khó, nó địi hỏi người giáo viên phải có khả năng phát hiện tình huống có
vấn đề và nghệ thuật nêu tình huống có vấn đề nên cịn ngại. Có người lại băn
khoăn rằng phương pháp này không phù hợp với đối tượng học sinh miền núi (năng
lực rất hạn chế, phần lớn các em rất yếu về kỹ năng nói trước tập thể cộng với ý
thức tham gia thảo luận kém mất trật tự, mất thời gian giáo viên sẽ khó hồn thành
bài học) … Bên cạnh đó, một tồn tại lớn nữa là nhiều giáo viên chưa chú trọng và
đầu tư có chiều sâu trong việc xây dựng hệ thống câu hỏi nêu vấn đề. Thường chỉ
ưu tiên những câu hỏi dễ như: tái hiện, thơng hiểu, tìm tịi… Nhiều khi vấn đề đưa
ra chưa được giải quyết thỏa đáng nên không tạo được hứng thú với học sinh. Cho
nên: Làm thế nào để sử dụng hiệu quả dạng câu hỏi nêu vấn đề? Vận dụng nó ra sao
cho phù hợp với bài học, đối tượng học?... là những câu hỏi đặt ra với tất cả các
giáo viên văn ở nhà trường chúng tôi. Bản thân tôi đã chú trọng sử dụng dạng câu
hỏi này một cách thường xuyên. Và với các giải pháp của mình tơi thu được kết

quả khả quan.
2.3. Biện Pháp thực hiện
Từ ý thức về tầm quan trọng của việc sử dụng câu hỏi nêu vấn đề, từ thực
trạng của việc dạy và học môn ngữ văn ở THPT Bá Thước, những năm qua tơi đã cố
gắng tìm tịi, vận dụng dạng câu hỏi này vào việc dạy học các tác phẩm văn học nói
chung và truyện dân gian Việt Nam nói riêng . Q trình thực hiện đã thu được kết
quả khả quan. Khi dạy mỗi tác phẩm văn học, tôi chú trọng xây dựng hệ thống câu
hỏi phù hợp trong đó nhất thiết phải có dạng câu hỏi nêu vấn đề và tổ chức, hướng
dẫn cho học sinh giải quyết các câu hỏi được nêu ra.


6
Theo kinh nghiệm của mình, tơi đã xây dựng hệ thống câu hỏi nêu vấn đề và
tổ chức cho học sinh trả lời câu hỏi theo các cách thức sau đây:
2.3.1. Câu hỏi dạng lựa chọn:
Câu hỏi lựa chọn là câu hỏi yêu cầu học sinh phải lựa chọn một phương án cụ
thể. Học sinh được chọn một giải pháp trước hai hay nhiều phương án giải quyết mà
cái nào cũng có vẻ như có lí, có sức hấp dẫn. Câu hỏi này đòi hỏi học sinh phải bộc
lộ quan điểm, thái độ của bản thân với mỗi vấn đề được nêu ra và đi đến lựa chọn
phương án hợp lí nhất. Qua đây, phát huy được tính tích cực chủ động của mỗi học
sinh và tăng hứng thú của các em trong mỗi giờ học.
Với dạng câu hỏi này, tôi để học sinh phát biểu ý kiến cá nhân sau đó nhận
xét và nêu định hướng chung cho việc giải quyết tình huống.
Sau đây là một số ví dụ cụ thể mà tôi đã tiến hành trong các giờ dạy và kết
quả thu được khi giải quyết xong một câu hỏi ( kết quả về kiến thức, kĩ năng và thái
độ)
*Ví dụ : Bài “Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy”
Câu hỏi: Một truyền thuyết ở vùng Cổ Loa kể lại: Trọng Thủy không tự vẫn,
khi ngó xuống giếng bị oan hồn Mị Châu kéo xuống giếng và dìm chết. Theo
anh(chị), kết cục này có hợp lí khơng? Anh (chị) thích kết thúc Trọng Thủy tự vẫn

hay là bị dìm chết?.
Định hướng trả lời câu
Câu trả lời của
Đánh giá kết quả
hỏi của giáo viên
học sinh
- Kết cục này là hợp lí,
- Đa số học sinh cho
- Học sinh nắm được ý
Trọng Thủy phải trả giá
rằng kết cục này hợp lí. tưởng nghệ thuật cũng như
bằng sinh mạng cho tội lỗi - Có các ý kiến riêng rất tình cảm nhân đạo của tác
của mình.
thuyết phục theo các
giả dân gian.
- Cả hai cách kết thúc đều hướng:
- Một số học sinh rút ra
có cái hay riêng. Để Trọng + Thích kết thúc Trọng được bài học ứng xử trong
Thủy bị dìm chết, tác giả Thủy tự vẫn vì đó là kết cuộc sống:
dân gian đã chứng tỏ nỗi thúc rất thông minh. Tác + Cần phải sống trung thực
căm hận của Mị Châu nói giả dân gian để cho tịa với chính mình để lương
riêng và của nhân dân ta án lương tâm của nhân
tâm thanh thản.
nói chung với Trọng Thủy. vật tự phán quyết công
+ Kẻ gây tội ác thì sớm
Để Trọng Thủy tự vẫn thì bằng và nghiêm khắc.
muộn, bằng cách này hay
kẻ thù của dân tộc bị trừng + Thích kết thúc Trọng cách khác cũng sẽ bị trả
phạt nhưng lại cho thấy Thủy bị dìm chết cho hả giá cho tội lỗi của mình.
tình cảm bao dung, độ giận. Kẻ gây tội ác phải - Học sinh được tự bộc lộ

lượng và sự cảm thông của đền tội.
suy nghĩ, quan điểm riêng
nhân dân ta đối với Trọng
của bản thân, khơng khí
Thủy và đó cũng là cơ sở
giờ học sôi nổi hơn.
cho sự sáng tạo hình ảnh
hồn mĩ “ ngọc trai – giếng
nước”.
*Một số câu hỏi đã sử dụng trong các tiết học:
Câu hỏi 1: Về kết cục đối với mẹ con Cám có một số người đề xuất ý kiến là
Tấm nên đuổi họ ra khỏi hoàng cung hoặc nhốt vào ngục tối suốt đời để trừng phạt


7
thay vì dội nước sơi khiến Cám chết đau đớn. Theo ý kiến của em kết cục nào là phù
hợp nhất? Vì sao?
Gợi ý:
Mỗi đề xuất đều có sự hợp lí riêng. Tuy nhiên, kết cục mà tác giả dân gian đã
lựa chọn hồn tồn hợp lí. Họ muốn cái ác phải bị trừng trị tận gốc bằng hình thức
nghiêm khắc nhất để địi lại sự cơng bằng cho người lương thiện. Mẹ con Cám đã
nhiều lần giết hại Tấm rất độc ác. Vì thế, Cám phải trả giá cho tội ác của mình, phải
chịu đựng cảm giác đau đớn mà mình đã gây ra cho người khác
Câu hỏi 2: Có ý kiến cho rằng hành động lén cho Trọng Thủy xem nỏ thần
của Mị Châu làm lộ bí mật quốc gia là sai trái. Ý kiến khác thì khẳng định nàng
nghe theo lời chồng là thuận theo lẽ tự nhiên, khơng có gì sai. Ý kiến của em như
thế nào?
Gợi ý:
Về hành động lén cho Trọng Thủy xem nỏ thần của Mị Châu xét ở đạo nghĩa
vợ chồng thì Mị Châu khơng làm gì sai trái. Nhưng xét ở góc độ cơng dân đối với

Tổ quốc thì Mị Châu đã vơ tình đặt tình nhà cao hơn nghĩa nước. Thiếu ý thức cảnh
giác dẫn đến lộ bí mật quốc gia, đẩy nhân dân ta vào cảnh nước mất, nhà tan. Sai
lầm của Mị Châu khó có thể bào chữa được.
2.3.2. Câu hỏi dạng nghịch lí:
Câu hỏi dạng nghịch lí là câu hỏi chứa đựng nhứng điều trái khoáy, ngược
đời, trái với lẽ thường được mọi người công nhận. Câu hỏi này đòi hỏi học sinh phải
huy động những kiến thức tổng hợp để lí giải những vấn đề khó khăn mà tác phẩm
đặt ra. Giải quyết được vấn đề có nghĩa là học sinh đã tự nhiên chiếm lĩnh được tri
thức. Bởi vậy, trong khi dạy học tác phẩm văn học giáo viên cần chú ý phát hiện
tình huống nghịch lí từ những điều trái với tự nhiên, trái với lẽ thường trong cuộc
sống và nêu ra để học sinh tham gia giải quyết. Tình huống này sẽ giúp các em ngộ
ra được nhiều điều bổ ích, mới mẻ trong bài học và trong cuộc sống.
Với dạng câu hỏi này, tôi thường tổ chức cho học sinh thảo luận theo
nhóm( chia lớp thành 4 nhóm), các em trong nhóm sẽ trình bày ý kiến và nhóm
trưởng tổng hợp, đại diện trình bày trước lớp. Giáo viên tổ chức, chỉ đạo chung và
hỗ trợ các nhóm khi cần thiết bằng câu hỏi gợi dẫn. Kết thúc hoạt động này, giáo
viên đánh giá, nhận xét và nêu định hướng chung cho việc trả lời câu hỏi.
*Ví dụ : Bài “Tấm Cám”
Câu hỏi: Về hành động trả thù của Tấm, có bạn học sinh cho rằng: Cô Tấm thực
ra không hiền như lâu nay chúng ta vẫn nghĩ( Quả thị thơm cô Tấm rất hiền) mà
trái lại rất ghê gớm, thậm chí có phần độc ác vì hành động giết người trả thù của
Tấm cũng độc ác không kém hành động giết hại Tấm của mẹ con Cám. Suy nghĩ
của anh (chị ) thế nào?
Định hướng trả lời câu
hỏi của giáo viên
- Tấm là nhân vật văn học
đại diện cho cái thiện mà
nhân dân lao động sáng tạo
ra để thể hiện quan niệm,
thái độ của mình về cuộc


Câu trả lời của
học sinh
Học sinh nhiều ý kiến
trái ngược nhau theo
những quan điểm riêng:
- Tấm hành động như
vậy là đúng để trừng

Đánh giá kết quả
- Học sinh có cơ hội củng
cố và tích hợp kiến thức vì
cần phải huy động những
kiến thức về tác phẩm, về
thể loại truyện cổ tích, về


8
sống. Cái tư tưởng cốt lõi
mà dân gian muốn gửi gắm
đến người đọc, người nghe
là: “thiện luôn thắng ác”,
“ở hiền gặp lành, ở ác gặp
ác”. Với suy nghĩ như thế,
dân gian không cho rằng
hành động của Tấm là độc
ác thậm chí là cần thiết đối
với Cám tức là kẻ ác cần bị
trừng trị đích đáng.
- Hiền khơng đồng nghĩa

với nhút nhát, sợ hãi,
nhường nhịn hay là chịu
khuất phục trước cái ác, cái
xấu. Trong quan niệm của
dân gian là “ đi với bụt
mặc áo cà sa, đi với ma
mặc áo giấy”.

phạt cái ác tận gốc.
Không thể nhường nhịn,
chịu thua thiệt mãi để
cho kẻ ác lấn tới.
- Tấm hành động như
vậy là tàn nhẫn quá. Dù
sao Tấm và Cám cũng là
chị em máu chảy ruột
mềm. Thực ra vẫn còn
nhiều cách nghiêm khắc
để trừng trị mẹ con Cám
cho Tấm lựa chọn mang
tính nhân văn hơn.

tư tưởng của dân gian mới
có thể lí giải được vấn đề.
- Các em được tự bộc lộ
suy nghĩ riêng của bản
thân, được đặt mình vào vị
trí của Tấm, của tác giả
dân gian để lí giải hành
động của Tấm. Từ đó, hiểu

được nội dung tư tưởng
của tác phẩm mà tác giả
dân gian muốn gửi gắm
qua nhân vật.
- Học sinh hiểu sâu hơn
những triết lí sống của dân
gian và rút ra cho mình
những bài học bổ ích về
cách ứng xử trong cuộc
sống “gieo gió gặt bão”,
“nhân nào quả ấy”, “ác giả
ác báo”, “đi với bụt mặc áo
cà sa, đi với ma mặc áo
giấy”

*Một số câu hỏi đã sử dụng trong các tiết học:
Câu hỏi 1: Tại sao tất cả tôi tớ của Mtao Mxây không căm hận lo trả thù cho
tù trưởng của mình mà lại đồng lịng đi theo Đăm săn trong khi chính Đăm Săn là
người giết chết Mtao Mxây ?
Gợi ý:
Tất cả tôi tớ của Mtao Mxây khơng căm hận trả thù mà cịn hưởng ứng tuyệt
đối, một lịng một dạ đi theo Đăm Săn vì:
- Mtao Mxây là một tù trưởng kém cỏi cả về tài năng và bản lĩnh, không khiến cho
cả buôn làng tuân phục
- Đăm Săn là một tù trưởng anh hùng danh vang đến thần, tài năng vượt trội,
dũng cảm vô song. Đăm Săn xứng đáng là người dẫn đầu, có khả năng dẫn dắt đem
lại cuộc sống giàu có, thịnh vượng cho cả bộ tộc.
Câu hỏi 2: Trọng Thủy giúp cha là Triệu Đà chiếm được thành Cổ Loa, cướp
được nước Âu Lạc nhưng rút cuộc không thể sống hạnh phúc mà lại lao đầu xuống
giếng tự vẫn. Tại sao?

Gợi ý:
Trọng Thủy giúp vua cha thực hiện một âm mưu đen tối, thâm độc. Để thực
hiện được mưu đồ cướp nước Âu Lạc chàng đã nhẫn tâm lừa dối người vợ thủy
chung của mình. Hành động của Trọng Thủy đã đẩy nhân dân Âu Lạc vào cảnh
nước mất, nhà tan, Mị Châu phải chết thảm khốc dưới thanh kiếm của An Dương
Vương. Có lẽ, chàng bị tồn án lương tâm trừng phạt, day dứt, ân hận vô hạn nên đã
lao đầu xuống giếng tự vẫn để giải thốt cho mình.
2.3.3. Câu hỏi dạng giả định.


9
Câu hỏi giả định là câu hỏi giáo viên nêu ra một số giả thiết nào đó khi phân
tích tác phẩm văn học để làm rõ vấn đề hay sự việc cần tìm hiểu. Câu hỏi này giúp
học sinh được biểu lộ năng lực thích ứng trong tình huống của cuộc sống, học sinh
được nhập vai để phát huy trí tưởng tượng và năng lực sáng tạo.
Với dạng câu hỏi này, tôi đã tổ chức cho học sinh trả lời bằng cách phát biểu
ý kiến cá nhân, sau đó nhận xét, đánh giá và nêu định hướng chung để làm rõ vấn đề
cần tìm hiểu.
*Ví dụ : Bài “ Tấm Cám” .
Câu hỏi: Đọc xong truyện Tấm Cám, nhiều người còn trăn trở về cái chết
của Cám. Giả sử được viết lại đoạn kết của truyện thì em sẽ viết như thế nào về kết
cục đối với mẹ con nhà Cám?
Định hướng trả lời
câu hỏi của giáo viên
Có thể viết theo nhiều
cách tùy vào trí tưởng
tượng phong phú của
mỗi người. Song dù
viết như thế nào cũng
phải để cho mẹ con

nhà Cám bị trừng trị
nghiêm khắc. Trên
quan điểm cái ác phải
bị tiêu diệt tận gốc để
răn đe, để đề phòng
hậu họa, để địi lại
cơng bằng cho cái
thiện.

Câu trả lời của
học sinh
Học sinh đưa ra nhiều kết
thúc bất ngờ, thú vị như:
- Đuổi mẹ con nhà Cám ra
khỏi hoàng cung. Ra đường
hai mẹ con bị sét đánh chết
giống như mẹ con nhà Lí
Thơng trong truyện Thạch
Sanh.
- Cho mẹ con nhà Cám vào
chùa xuống tóc đi tu để ăn
năn, sám hối suốt phần đời
còn lại.
- Tống giam hai mẹ con nhà
Cám vào ngục cho đến hết
đời.
- Đuổi về quê suốt đời
không được vào hồng cung

Đánh giá kết quả

- Học sinh được phát huy
trí tưởng tượng phong phú
và năng lực sáng tạo dồi
dào khiến giờ học thêm sôi
nổi, hấp dẫn .
- Học sinh hiểu rõ hơn triết
lí dân gian “ ác giả ác
báo”, “ gieo gió gặt bão”.
Kẻ ác khơng thể nào thốt
được lưới trời lồng lộng.
Từ đó rút ra được những
bài học cuộc sống: Không
làm điều xấu, không gây
tội ác và không dung túng,
tiếp tay cho cái xấu, cái ác.
Có như vậy mới được sống
thanh thản, hạnh phúc.

*Một số câu hỏi đã sử dụng trong các tiết học:
Câu hỏi 1: Sau khi tự tử ở giếng Loa Thành, xuống thủy cung, Trọng Thủy
đã tìm gặp lại Mị Châu. Em thử tưởng tượng xem cuộc gặp sẽ diễn ra như thế nào?
Gợi ý:
Có thể kể và kết thúc theo nhiều cách khác nhau miễn là bài viết có tính
thuyết phục và phù hợp với ý đồ nghệ thuật của tác giả dân gian:
- Gặp lại Trọng Thủy dưới thủy cung , Mị Châu nặng lời phê phán rồi quay đi, bỏ
mặc Trọng Thủy đầu tóc bơ phờ, nét mặt đau khổ, dáng hình mờ dần và tan trong
dịng nước xanh.
- Mị Châu bình tĩnh phân tích mọi lẽ đúng, sai lúc hai người cịn sống. Hiểu
lời Mị Châu, Trọng Thủy rất ân hận, muốn nối lại duyên xưa. Tuy cảm động trước
thái độ ấy của Trọng Thủy nhưng Mị Châu không chấp nhận. Nàng tỏ ý muốn “đem

tình cầm sắt đổi ra cầm kì”


10
Câu hỏi 2: Nếu như khơng có sự mách bảo của Ơng trời thì Đăm săn có
chiến thắng được Mtao Mxây khơng? Vì sao? Qua chi tiết này em rút ra được bài
học gì cho mình?
Gợi ý:
-Nếu khơng có sự mách bảo, giúp đỡ của ơng Trời thì Đăm Săn rất khó chiến
thắng Mtao Mxây vì bộ áo giáp sắt bảo vệ Mtao Mxây rất chắc chắn, an tồn. Có
thể Đăm Săn sẽ chiến thắng nhưng phải mất nhiều thời gian và nỗ lực hơn.
-Bài học: Cần nỗ lực hết mình trong mọi việc nhưng cũng nên biết tìm sự
giúp đỡ từ người khác khi cần thiết. Khi đó, ta sẽ có một nguồn sức mạnh lớn lao để
vượt qua mọi khó khăn thử thách, đạt được mục tiêu của mình.
Câu hỏi 3: Truyện Tấm Cám khẳng định triết lí sống “ Ở hiền gặp lành”.
Thế nhưng trong thực tế cuộc sống vẫn còn rất nhiều người “ở hiền” mà vẫn “gặp
dữ”. Nếu người thân của em rơi vào hoàn cảnh này em sẽ động viên an ủi họ như
thế nào?
Gợi ý:
Thực tế có nhiều trường hợp người tốt khơng may gặp rủi ro, tai nạn, bât
hạnh. Đó là điều khó tránh khỏi vì cuộc sống vốn dĩ rất phức tạp, nhiều chuyện khó
lường. Ai cũng có lúc gặp may mắn, có lúc phải chấp nhận rủi ro, chuyện vui buồn
nối nhau tạo thành cuộc sống dài vô tận. Vậy nên, chúng ta không bi quan mà phải
giữ tinh thần, thái độ lạc quan, bình tĩnh trước mọi tình huống. Mọi khó khăn, trắc
trở, bất hạnh, rủi ro rồi sẽ qua. Người tốt nhất định sẽ được báo đáp, làm việc tốt
nhất định sẽ được hưởng thành quả.
Câu hỏi 4: Sau khi tự tử ở giếng Loa Thành, xuống thủy cung, Trọng Thủy
đã tìm gặp lại Mị Châu. Em thử tưởng tượng xem cuộc gặp sẽ diễn ra như thế nào?
Gợi ý:
Có thể kể và kết thúc theo nhiều cách khác nhau miễn là bài viết có tính

thuyết phục và phù hợp với ý đồ nghệ thuật của tác giả dân gian:
- Gặp lại Trọng Thủy dưới thủy cung , Mị Châu nặng lời phê phán rồi quay
đi, bỏ mặc Trọng Thủy đầu tóc bơ phờ, nét mặt đau khổ, dáng hình mờ dần và tan
trong dịng nước xanh.
- Mị Châu bình tĩnh phân tích mọi lẽ đúng, sai lúc hai người còn sống. Hiểu
lời Mị Châu, Trọng Thủy rất ân hận, muốn nối lại duyên xưa. Tuy cảm động trước
thái độ ấy của Trọng Thủy nhưng Mị Châu không chấp nhận. Nàng tỏ ý muốn “đem
tình cầm sắt đổi ra cầm kì”
2.3.4. Câu hỏi dạng phản bác
Câu hỏi phản bác là câu hỏi giáo viên cố tình đưa ra ý kiến sai lệch, thiếu
chính xác để học sinh dùng lập luận bác bỏ ý kiến này và đưa ra ý kiến đúng đắn
trên cơ sở đó nắm vững nội dung bài học. Câu hỏi này đòi hỏi học sinh phải biết
dùng lí lẽ và dẫn chứng để bác bỏ ý kiến sai lệch và thuyết phục mọi người bằng ý
kiến đúng. Trả lời được câu hỏi học sinh sẽ tránh được cách hiểu vấn đề thiên lệch,
thiếu chính xác.
Với câu hỏi này, tôi thường tổ chức cho học sinh thảo luận theo nhóm (chia
lớp thành 4 nhóm), các em trong nhóm sẽ trình bày ý kiến và nhóm trưởng tổng
hợp, đại diện trình bày trước lớp. Giáo viên tổ chức, chỉ đạo chung và hỗ trợ các


11
nhóm khi cần thiết bằng câu hỏi gợi dẫn. Kết thúc hoạt động này, giáo viên đánh
giá, nhận xét và nêu định hướng chung cho việc trả lời câu hỏi.
*Ví dụ : Bài “Truyện “An Dương Vương và Mị Châu- Trọng Thủy”
Câu hỏi: Có bạn học sinh cho rằng hình ảnh ngọc trai- giếng nước được tác
giả dân gian xây dựng để ca ngợi mối tình chung thủy, trong sáng của Mị ChâuTrọng Thủy. Em có đồng tình với ý kiến này khơng? Vì sao?
Định hướng trả lời câu
hỏi của giáo viên
Chi tiết ngọc trai mị được
ở biển đơng đem rửa nước

giếng Ngọc thì càng trong
sáng hơn là một chi tiết
nghệ thuật đặc sắc. Nó thể
hiện sự cảm thơng của
nhân dân ta với bi kịch
đầy nước mắt của mối tình
Mị Châu - Trọng Thủy
chứ khơng phải là ca ngợi
mối tình ấy. Vì dù có nói
thế nào thì Mị Châu và
Trọng Thủy cũng là những
người mang đến nỗi đau
mất nước của nhân dân
Âu Lạc. Nhân dân ta với
tấm lòng nhân ái, độ
lượng đã tha thứ cho Mị
Châu- Trọng Thủy muốn
cho họ được gặp gỡ, thấu
hiểu nhau ở kiếp khác.

Câu trả lời của học sinh
Học sinh đưa ra hai ý
kiến trái chiều:
- Đồng tình. Đây là hình
ảnh ca ngợi mối tình thủy
chung, trong sáng của Mị
Châu và Trọng Thủy. Vì
mối tình ấy đầy bi kịch
nhưng q đẹp. Nó là
biểu tượng của tình u

đẹp trong cuộc sống.
- Khơng đồng tình. Vì
nhân dân ta khơng thể ca
ngợi mối tình của những
người đã đẩy họ vào bi
kịch nước mất nhà tan.
Thực chất tác giả dân
gian xây dựng hình ảnh
này để thể hiện sự cảm
thơng với bi kịch tình yêu
của Mị Châu và Trọng
Thủy.

Kết quả đạt được
-Học sinh được rèn luyện
tư duy phản biện, biết
cách lập luận để bác bỏ ý
kiến sai lệch hoặc thiếu
chính xác.
- Qua lập luận bác bỏ ý
kiến sai các em rút ra
được ý nghĩa, giá trị thực
sự của hình ảnh ngọc trai giếng nước. Hiểu được
thái độ nghiêm khắc và
tấm lòng nhân ái, bao
dung của nhân dân ta đối
với những đứa con lầm
lỗi.
- Từ việc trả lời câu hỏi
các em cũng rút ra được

những bài học sâu sắc về
sự cảm thông, độ lượng,
tha thứ…trong cuộc sống

*Một số câu hỏi đã sử dụng trong các tiết học:
Câu hỏi 1: Từ sự việc Tấm ln được Bụt giúp đỡ mỗi khi gặp khó khăn có
khơng ít người tin rằng cuộc sống có rất nhiều điều kì diệu. Chúng ta hãy kiên nhẫn
chờ đợi, hi vọng và cầu nguyện nhất định điều kì diệu sẽ đến với mình. Theo em ta
có nên nghe theo lời khun này khơng? Vì sao?
Gợi ý:
- Việc Tấm ln được Bụt giúp đỡ là mong muốn của nhân dân ta. Họ muốn cứu
giúp người hiền lành, bất hạnh vượt qua mọi khó khăn, thử thách.
- Trong cuộc sống đời thường những phép màu, những điều kì diệu cũng có thể xảy
ra nhưng rất hiếm hoi. Vì vậy, ta khơng nên chỉ biết trông chờ và cầu nguyện mà
phải sống ở thế chủ động. Chủ động trong mọi việc nhất là khi phải đối diện với
những khó khăn thử thách lớn lao cần nỗ lực hết mình.


12
Câu hỏi 2: Từ sự việc Tấm luôn được Bụt giúp đỡ mỗi khi gặp khó khăn có
nhiều người tin rằng cuộc sống có rất nhiều điều kì diệu. Chúng ta hãy kiên nhẫn
chờ đợi, hi vọng và cầu nguyện nhất định điều kì diệu sẽ đến với mình. Theo em ta
có nên nghe theo lời khun này khơng? Vì sao?
Gợi ý:
- Việc Tấm luôn được Bụt giúp đỡ là mong muốn của nhân dân ta. Họ muốn cứu
giúp người hiền lành, bất hạnh vượt qua mọi khó khăn, thử thách.
- Trong cuộc sống đời thường những phép màu, những điều kì diệu cũng có thể xảy
ra nhưng rất hiếm hoi. Vì vậy, ta khơng nên chỉ biết trơng chờ và cầu nguyện mà
phải sống ở thế chủ động. Chủ động trong mọi việc nhất là khi phải đối diện với
những khó khăn thử thách lớn lao cần nỗ lực hết mình.

Câu hỏi 3: Có bạn học sinh cho rằng hình ảnh ngọc trai- giếng nước được
tác giả dân gian xây dựng để ca ngợi mối tình chung thủy, trong sáng của Mị ChâuTrọng Thủy. Em có đồng tình với ý kiến này khơng? Vì sao?
Gợi ý:
Chi tiết ngọc trai mị được ở biển đơng đem rửa nước giếng Ngọc thì càng
trong sáng hơn là một chi tiết nghệ thuật đặc sắc. Nó thể hiện sự cảm thơng của
nhân dân ta với bi kịch đầy nước mắt của mối tình Mị Châu - Trọng Thủy chứ
không phải là ca ngợi mối tình ấy. Vì dù có nói thế nào thì Mị Châu và Trọng Thủy
cũng là những người mang đến nỗi đau mất nước cho nhân dân Âu Lạc. Nhân dân
ta với tấm lòng nhân ái, độ lượng đã tha thứ cho Mị Châu- Trọng Thủy muốn cho họ
được gặp gỡ, thấu hiểu nhau ở kiếp khác.
2.3.5. Câu hỏi dạng so sánh
Câu hỏi dạng so sánh là cách thức đặt câu hỏi đối chiếu với những tư liệu có
liên quan đến tác phẩm đang tìm hiểu. So sánh giúp học sinh phát hiện ra những nét
độc đáo, ý nghĩa sâu sắc của tác phẩm. Có thể so sánh ở nhiều phạm vi khác nhau
như chi tiết, hình ảnh, từ ngữ, nhân vật, kết cấu, chủ đề…
Với dạng câu hỏi này, tôi đã tổ chức cho học sinh trả lời bằng cách phát biểu
ý kiến cá nhân, sau đó nhận xét, đánh giá và nêu định hướng chung để làm rõ vấn đề
cần tìm hiểu.
*Ví dụ : Bài “Truyện “An Dương Vương và Mị Châu- Trọng Thủy”
Câu hỏi: Kết thúc truyện, An Dương Vương cầm sừng tê bảy tấc cùng rùa
vàng rẽ nước đi xuống biển gợi nhớ đến chi tiết Thánh Gióng cưỡi ngựa bay về trời
sau khi dẹp xong giặc Ân. Hai chi tiết này giống nhau ở điểm nào. Nó nói lên thái
độ gì của nhân dân ta đối với các nhân vật An Dương Vương và Thánh Gióng?
Định hướng trả lời câu
hỏi của giáo viên
- Giống nhau: Hai chi tiết
hoang đường, kì ảo này thực
chất đều nói về cái chết của các
nhân vật. Cái chết đã hóa thành
bất tử trong sự ngưỡng vọng

của nhân dân. Thánh Gióng bay

Câu trả lời của
học sinh
- Giống nhau: Hai chi
tiết này mang tính kì
ảo nói về sự bất tử của
các nhân vật.
-Thái độ của nhân dân:
Nhân dân ta sáng tạo

Đánh giá kết
quả
-Học sinh biết cách đối
chiếu so sánh để tìm ra
nét riêng độc đáo, ý
nghĩa của mối tác phẩm
- Các em hiểu rõ hơn
đặc trưng của truyện


13
về trời, An Dương Vương đi
xuống Thủy cung đều là trở về
cội nguồn nơi họ đã sinh ra, về
thế giới linh thiêng của thánh
thần bất tử sau khi hoàn thành
sứ mệnh thiêng liêng.
- Thái độ của nhân dân: Nhân
dân ta sáng tạo ra chi tiết hoang

đường này để thần thánh hóa
các nhân vật lịch sử mà họ yêu
mến, ngưỡng mộ và tôn vinh.

ra chi tiết hoang đường
này để thể hiện tình
cảm u mến, sự tơn
vinh đối với những
người có cơng lao to
lớn với đất nước.

truyền thuyết là kể theo
xu hướng lí tưởng hóa,
để thể hiện thái độ tơn
vinh, ngưỡng mộ của
nhân dân ta đối với
những người có cơng
với đất nước. Từ đó có
thái độ trân trọng người
có cơng.

*Một số câu hỏi đã sử dụng trong các tiết học:
Câu hỏi 1: Vẻ đẹp của tù trưởng Đăm Săn trong cảnh ăn mừng chiến thắng
có điểm gì giống với chàng Phù Đổng Thiên Vương trong truyện Thánh Gióng?
Qua đó em có nhận xét như thế nào về tầm vóc của nhân vật Đăm Săn?
Gợi ý:
- Điểm giống: Cả hai nhân vật đều là những người có sức khỏe phi thường, tầm vóc
lớn lao có thể sánh ngang với các vị thần linh. Đăm Săn “ăn không biết no, uống
không biết say”, Thánh Gióng một mình ăn hết “bảy nong cơm, ba nong cà”.
- Nhận xét: Đăm Săn mang tầm vóc của người anh hùng đứng đầu cả bộ tộc. Uy

danh, tài năng, bản lĩnh như một vị thần linh.
Câu hỏi 2: Tại sao tác giả dân gian không để cho Tấm đuổi mẹ con nhà Cám
ra khỏi hoàng cung như Thạch Sanh đuổi mẹ con Lý Thông mà lại chọn cách Tấm
tự tay giết chết Cám?
Gợi ý:
Tác giả dân gian muốn kẻ ác bị trừng phạt nghiêm khắc. Cám phải chết để
đền tội, chết để rễ ác khơng thể mọc lan. Đó cũng là cách địi lại cơng bằng cho
Tấm. Cịn Thạch Sanh khơng giết mẹ con Lý Thơng nhưng sau đó họ cũng bị sét
đánh chết.Tác giả dân gian trong cả hai truyện đều thống nhất một quan điểm kẻ ác
phải bị trừng trị nghiêm khắc bằng hình thức nặng nề nhất.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
2.4.1. Kết quả thực nghiệm
Năm học 2019- 2020 tôi đã sử dụng câu hỏi nêu vấn đề trong dạy học một số
tác phẩm truyện dân gian Việt Nam ở lớp thực nghiệm 10A1. Kết quả thu được so
với lớp đối chứng 10A2( không sử dụng câu hỏi nêu vấn đề). Kết quả cụ thể như
sau:
Bảng 1: Điểm kiểm tra bài viết số 2 :
Điểm
Điểm
trung
Trung
Yếu,
Lớp
Sĩ số
Giỏi
Khá
bình
bình
kém
SL % SL % SL %

SL %
10A1
63.
41
6 14.6 26
9
22 0
0
7.0
(Lớp thực nghiệm)
4
10A2
28.
16.
42
2
4.8 12
21 50
7
6.0
(Lớp đối chứng)
6
6


14
Bảng 2: Điểm tổng kết học kì I năm học 2019- 2020
Lớp

Sĩ số


10A1
(Lớp thực nghiệm)
10A2
(Lớp đối chứng)

41
42

Giỏi
SL
%

Điểm
Khá
Trung bình
SL
%
SL
%

Yếu, kém
SL
%

5

12.2

26


63.4

10

24.4

0

0

1

2.4

11

26.2

21

50

9

21.4

Năm học 2020- 2021 tôi đã sử dụng câu hỏi nêu vấn đề trong dạy học một số
tác phẩm truyện dân gian Việt Nam ở lớp thực nghiệm 10A9. Kết quả thu được so
với lớp đối chứng 10A4( không sử dụng câu hỏi nêu vấn đề). Kết quả cụ thể như

sau:
Bảng 1:Điểm kiểm tra giữa học kì I :
Điểm
Điểm
trung

Trung
Lớp
Giỏi
Khá
Yếu, kém
bình
số
bình
SL %
SL %
SL % SL %
10A9
19.
64.
12.
31
6
20
4
1
3.2
7.3
(Lớp thực nghiệm)
4

5
9
10A4
35.
40.
42
3
7.1 15
17
7 16.7
6.0
(Lớp đối chứng)
7
5
Bảng 2: Điểm tổng kết học kì I năm học 2020- 2021
Lớp

Sĩ số

Giỏi
SL
%

Điểm
Khá
Trung bình
SL
%
SL
%


Yếu, kém
SL
%

10A9
4
12.9 18 51.1
9
29
0
0
(Lớp thực nghiệm) 31
10A4
1
2.4
10 23.8 20 47.6 11 26.2
(Lớp đối chứng)
42
Như vậy, qua phân tích số liệu đối chiếu hai năm học tôi thấy rằng chất lượng
học tập của các em ở các lớp thực nghiệm cao hơn hẳn so với các lớp đối chứng. Rõ
rệt nhất là số lượng học sinh khá giỏi nhiều hơn, số học sinh yếu và trung bình ít,
điểm trung bình các bài kiểm tra thường xuyên và định kì ở lớp thực nghiệm cũng
được nâng lên đáng kể.
2.4.2. Đối với chất lượng giảng dạy và giáo dục học sinh
*Đối với học sinh
-Về thái độ học tập: Đa số học sinh đều rất hứng thú học tập, khơng khí giờ
học sơi nổi hẳn lên. Các em đã chủ động đọc trước tác phẩm, nắm được cốt truyện,
nhân vật, sự việc, chi tiết… để có thể trình bày ý kiến riêng của mình trước tập thể



15
lớp. Nhiều em trước đây lười đọc tác phẩm đã chủ động đọc trước ở nhà, đến lớp
còn xung phong đọc để nắm chắc tác phẩm, tự tin tranh luận.
- Về năng lực giao tiếp: Nhiều học sinh trở nên mạnh dạn, tự tin hơn trong
giao tiếp, thường xuyên phát biểu xây dựng bài. Một số em nhanh nhẹn, hoạt bát
hẳn lên không chỉ biểu hiện trong giờ học mà cả trong quan hệ với bạn bè, thầy cô,
trong việc tham gia các hoạt động tập thể.
- Về nhận thức: Học xong tác phẩm, ấn tượng về cốt truyện, nhân vật lưu lại
khá sâu đậm trong tâm trí các em. Nhiều hình tượng nhân vật đã bước ra ngồi trang
sách đi vào đời sống tâm hồn của các em, trở thành những người gần gũi, thân quen.
Mỗi tác phẩm dường như đã giúp các em trưởng thành hơn về nhận thức, nâng cao
được năng lực phát hiện và giải quyết hợp lí những vấn đề nảy sinh trong cuộc
sống. Kết quả này không phải lúc nào cũng đo, đếm được bằng điểm số, bằng tỉ lệ
học sinh xếp loại giỏi, khá. Song tôi thấy chắc chắn hiệu quả của phương pháp này
trong mỗi suy nghĩ và hành động của các em. Học ba truyện dân gian Việt Nam lớp
10, tôi thấy thật nhiều điều bất ngờ, thú vị. Một học sinh của mình đã tưởng tượng
về cuộc gặp gỡ giữa Mị Châu và Trọng Thủy ở dưới thủy cung rất có hậu. Nhờ liều
thuốc kì diệu của vua Thủy Tề, Mị Châu đã quên hết quá khứ buồn đau mà vui vẻ
tha thứ, đồn tụ với Trọng Thủy. Từ đó, em rút ra được bài học bổ ích trong cuộc
sống là phải biết tha thứ, độ lượng với những người đã hối lỗi ăn năn, khơng nên
lãng phí cuộc sống bằng việc chôn giữ hận thù. Hoặc, về cái kết của truyện “Tấm
Cám”, có em đã khơng muốn Tấm giết Cám mà để cho hai mẹ con Cám xuống tóc
đi tu nơi của phật từ bi. Tại đó, họ sẽ nghe tòa án lương tâm phán xét, sẽ ăn năn hối
cải. Như vậy, họ đã nhận sự trừng phạt mà vẫn cịn cơ hội sám hối, và cơ Tấm sẽ
hồn toàn thanh thản sống hạnh phúc bên nhà vua đến trọn đời. Lại có học sinh
thích một cái kết thúc như kiểu truyện “ Thạch Sanh”. Tấm sẽ tha chết cho hai mẹ
con Cám nhưng đuổi họ khỏi hoàng cung. Ra đường, cả hai mẹ con Cám đều bị sét
đánh chết.
Như vậy, có thể nói các em đã khơng cịn thơ ơ với tác phẩm, không học một

cách hời hợt, đối phó nữa. Đọc kĩ tác phẩm, tranh luận để hiểu sâu sắc tác phẩm đã
trở thành nhu cầu rất tự nhiên của mỗi học sinh. Trong mỗi tác phẩm các em đều tự
rút ra được cho bản thân mình những bài học cuộc sống quý giá. Đây là điều đáng
mừng mà bất cứ người giáo viên ngữ văn nào cũng mong đợi.
* Đối với giáo viên
- Bản thân trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu đã hiểu rõ bản chất của câu hỏi nêu
vấn đề. Nắm vững nguyên tắc xây dựng và sử dụng một cách hiệu quả dạng câu hỏi
này trong các tiết dạy ở trường THPT Bá Thước. Qua các tiết học đã phát huy được
tính tích cực, chủ động và tạo được nhiều hứng thú cho học sinh.
- Có cơ sở cả về lí luận và thực tiễn để trao đổi, chia sẻ với đồng nghiệp, với tổ
chuyên môn Ngữ văn để áp dụng kinh nghiệm này vào thực tế giảng dạy nhằm nâng
cao chất lượng của bộ môn.
- Tạo thêm hứng thú cho giáo viên, kích thích niềm say mê, tìm tịi sáng tạo của mỗi
người.
2.4.3. Khả năng ứng dụng và triển khai của sáng kiến


16
- Có khả năng ứng dụng rộng rãi trong dạy học các tác phẩm văn học. Phù hợp với
mọi đối tượng học sinh ở các địa phương, vùng miền khác nhau.
- Giáo viên có cơ sở khoa học để xây dựng hệ thống câu hỏi nêu vấn đề giảng dạy
tác phẩm văn học, thực hiện yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học.
- Phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong quá trình học
tập nói riêng và trong những tình huống nảy sinh của cuộc sống nói chung.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:
Xã hội càng phát triển mạnh càng đặt ra nhiều vấn đề phức tạp địi hỏi mỗi cá
nhân phải thích ứng và có cách giải quyết kịp thời. Việc đặt ra các câu hỏi nêu vấn
đề tạo ra các tình huống có vấn đề là một cách hiệu quả tập dượt cho học sinh thực
hành giải quyết những tình huống nảy sinh trong cuộc sống. Qua đó, phát huy được

tính tích cực, chủ động, sáng tạo cho học sinh trong học tập nói riêng và cuộc sống
nói chung. Sử dụng tốt hệ thống câu hỏi nêu vấn đề trong các tiết đọc văn tạo được
nhiều hứng thú cho người học và cả người dạy, góp phần tạo ra khơng khí giờ học
sôi nổi, đầy cảm hứng. Hơn nữa, cách làm này còn cho thấy hiệu quả rõ rệt trong
việc rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh. Các em vượt qua được cảm giác tự ti, sự
nhút nhát để bày tỏ quan điểm riêng của mình. Khơng cịn tâm lí sợ trả lời sai bị các
bạn cười vì đây đều là câu hỏi mở cho phép bộc lộ quan điểm riêng. Mỗi em có thể
mạnh dạn đưa ra cách giải quyết của riêng mình chỉ cần lập luận có sức thuyết phục.
Giáo viên có thể chấp nhận những câu trả lời khác nhau thậm chí trái ngược miễn
là có tính thuyết phục cao không trái với đạo đức, pháp luật và thuần phong mĩ tục.
Qua một thời gian dài tìm tịi, thử nghiệm dạng câu hỏi nêu vấn đề, tơi có thể kết
luận: Việc sử dụng câu hỏi nêu vấn đề vào dạy học các tác phẩm văn học là rất cần
thiết và hiệu quả. Nó đã thực sự đáp ứng được yêu cầu của việc đổi mới phương
pháp dạy học nói chung u cầu của mơn học nói riêng. Vì vậy, bản thân tơi thấy
mình cần phải quan tâm hơn nữa đến viêc áp dụng phương pháp này trong q trình
dạy học.
Trên đây là những kinh nghiệm nhỏ tơi tích lũy được trong q trình giảng
dạy. Kinh nghiệm và hiểu biết của cá nhân áp dụng trong phạm vi của đơn vị mình
chắc chắn cịn nhiều thiếu sót, hạn chế. Vì vậy, qua đề tài này tơi mong nhận được
sự góp ý, chia sẻ kinh nghiệm từ các đồng nghiệp.
3.2. Kiến nghị:
* Đối với sách giáo khoa:
Hằng năm trong quá trình tái bản sách người biên soạn nên bổ sung thêm một
vài câu hỏi dạng nêu vấn đề ở phần luyện tập để giáo viên và học sinh có định
hướng tìm hiểu bài học.
* Đối với tổ chun mơn :
+ Trong các buổi sinh hoạt tổ chuyên môn cần dành nhiều thời gian quan tâm
đặc biệt đến đổi mới phương pháp dạy học văn nhất là phương pháp dạy học nêu
vấn đề trong đó phải chú trọng xây dựng hệ thống câu hỏi nêu vấn đề. Để làm tốt
điều này, cần có những buổi góp ý giáo án chi tiết theo định hướng phát triển phẩm

chất, năng lực người học. Trong đó, cần ưu tiên đối với dạng câu hỏi nêu vấn đề.


17
+ Trong hoạt động đánh giá giờ dạy, góp ý đồng nghiệp cũng cần lưu ý đến
tính hiệu quả của việc sử dụng các loại câu hỏi trong đó có dạng câu hỏi nêu vấn đề.
* Đối với giáo viên:
Mỗi giáo viên phải không ngừng tự học hỏi, nâng cao trình độ chun mơn,
và rất cần thiết phải tìm tịi, phát hiện các vấn đề trong mỗi tác phẩm văn học để đưa
ra được những câu hỏi nêu vấn đề trong giờ học. Người giáo viên cũng nên tạo điều
kiện, khuyến khích học sinh hưởng ứng câu hỏi nêu vấn đề. Tuy nhiên, áp dụng
dạng câu hỏi này cần phối kết hợp với các dạng câu hỏi khác cho phong phú, cũng
cần cân nhắc sao cho phù hợp, tránh lạm dụng sẽ gây tình trạng nhàm chán hoặc
mệt mỏi cho cả người dạy và người học.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 19 tháng 5 năm 2021
Tơi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh
nghiệm của mình viết không sao chép nội
dung của người khác.
NGƯỜI VIẾT

Phạm Thị Thêu


18

[1].

4. TÀI LIỆU THAM KHẢO

Lê Bá Hán( Chủ biên) - Từ điển thuật ngữ văn học - Nxb ĐHQG Hà Nội

2000.
[2]. SGK Ngữ văn 10- tập 1, NXB Giáo dục 2011
[3].

V.O. Kon Những cơ sở dạy học nêu vấn đề , Nxb Giáo dục Hà Nội, 1976

[4].

Phạm Thị May- Xây dựng hệ thống câu hỏi nêu vấn đề trong dạy học các

đoạn trích truyện Kiều ở lớp 9 THCS- Trường đại học Quốc gia Hà Nội.
[5]. Tài liệu bồi dưỡng giáo viên môn Ngữ văn lớp 11 NXB Giáo dục 2007
[6]. Tài liệu bồi dưỡng giáo viên môn Ngữ văn lớp 12 NXB Giáo dục 2008
[7]. Phan Trọng Luận( Chủ biên)- Phương pháp dạy học văn( tập 1), Nxb ĐHSP
1998
[8]. Phan Trọng Luận- Đổi mới giờ học tác phẩm văn chương ở trường THPT- Nxb
Giáo Dục 1999.
[9]. Bộ giáo dục và đào tạo, Tài liệu tập huấn giáo viên dạy học, kiểm tra, đánh giá
theo chuẩn kiến thức kĩ năng trong chương trình giáo dục phổ thơng mơn Ngữ văn,
Hà Nội tháng 7/2010.
[10]. Đỗ Thị Bích Đào – Xây dựng hệ thống câu hỏi nêu vấn đề trong dạy học hai
tác phẩm “Tràng giang”( Huy Cận) và” Đây thôn Vĩ Dạ”( Hàn Mặc Tử) ở lớp 11
trung học phổ thông - Trường đại học Quốc gia Hà Nội.
[11].

Phương Thảo- Tìm hiểu phương pháp dạy học nêu vấn đề, Trường đại học

văn hóa nghệ thuật quân đội.

[12]. Nguyễn Xuân Lạc- Chuẩn bị kiến thức và kĩ năng làm bài thi môn Văn- Nxb
ĐHQG Hà Nội 2009
[13]. Phan Trọng Luận- Thiết kế bài học ngữ văn 11( Tập hai) – Nxb Giáo dục 2008


19
DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT
VIẾT TẮT

VIẾT ĐẦY ĐỦ

THPT

Trung học phổ thông


20

DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNH
GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC CẤP CAO
HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Phạm Thị Thêu
Chức vụ và đơn vị công tác: Tổ trưởng chuyên môn tổ Văn – Trường THPT Bá
Thước

TT
1.

Tên đề tài SKKN


Kết quả
Cấp đánh
đánh giá
giá xếp loại
xếp loại
(Phòng, Sở,
(A, B,
Tỉnh...)
hoặc C)

Vận dụng phương pháp nêu
và giải quyết vấn đề trong
Sở GD&ĐT
dạy học tác phẩm tự sự ở
trường THPT Bá Thước

C

Năm học
đánh giá xếp
loại

2012- 2013



×