Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

CƠ sở lý LUẬN về QUẢN lý dạy học môn TIẾNG VIỆT CHO học SINH TIỂU học dân tộc THIỂU số THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG lực GIAO TIẾP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.51 KB, 42 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ DẠY HỌC MÔN
TIẾNG VIỆT CHO HỌC SINH TIỂU HỌC DÂN TỘC
THIỂU SỐ THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC
GIAO TIẾP

Tổng quan nghiên cứu vấn đề
Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh
đại trà nói chung và chất lượng giáo dục vùng dân tộc thiểu
số nói riêng là nhiệm vụ hàng đầu của ngành Giáo dục.
Những khăn trong quá trình giao tiếp đối với học sinh
DTTS là rào cản ngôn ngữ khiến học sinh và giáo viên
chúng ta khó tiếp cận được mục tiêu dạy học Tiếng Việt
theo hướng phát triển năng lực giao tiếp. Để vượt qua các
rào cản đó, biết được tiếng mẹ đẻ của học sinh. Mà thực tế
cho thấy ngay cả giáo viên địa phương cũng chưa thực sự
nắm vững việc sử dụng thế mạnh tiếng mẹ đẻ của mình để
truyền đạt kiến thức và hình thành kĩ năng sử dụng tiếng
Việt cho học sinh một cách khoa học và hiệu quả trong giao
tiếp. Vì vậy giao tiếp không chỉ quan trọng đối với cuộc
sống con người, với tồn tại và phát triển của xã hội lồi
người nói chung mà cịn có ảnh hưởng rất lớn đến việc hình
thành nhân cách học sinh. Trong cộng đồng được xã hội


quan tâm không chỉ của Việt Nam mà ở tất cả các quốc gia
đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
mình nhằm đào tạo nguồn nhân chất lượng cao cho xã hội.
Chất lượng giáo dục ở các trường có học sinh dân tộc thiểu
số là yếu tố quan trọng khơng thể thiếu, đóng vai trị chủ
đạo trong hoạt động chun mơn của các nhà trường có đối
tượng là học sinh dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Mỹ


Đức.
Từ xưa trong lịch sử giáo dục của nhân loại, ở những
thời kỳ phát triển khác nhau, rất nhiều nhà khoa học nghiên
cứu, dưới những góc độ khác nhau. Ở phương Đông, các
nhà tư tưởng về giáo dục có cách đây hơn 2500 năm,
Khổng Tử (551- 479TCN) một triết gia nổi tiếng của Trung
Quốc đã cho rằng: “Đất nước muốn phồn vinh, yên bình và
thịnh vượng thì người quản lý cần chú trọng đến ba yếu tố
là Thứ (dân đông), Phú (dân giàu), Giáo (dân được giáo
dục). Khổng Tử cho rằng giáo dục là một thành tố không
thể thiếu được của mỗi dân tộc, của mỗi quốc gia. Ông cho
rằng việc giáo dục là cần thiết cho mỗi người” “Hữu giáo
vơ lồi” [1, tr.4]. nghĩa là mọi người trong xã hội đều có
quyền được học, được giáo dục, không phân biệt giầu,
nghèo, sang, hèn, thiện, ác... Có đặt tư tưởng Khổng Tử vào


thời điểm lịch sử bấy giờ chỉ tầng lớp thống trị có đặc
quyền ấy mới thấy hết tính cách mạng của ơng. “Hữu giáo
vơ loại” tìm ra các con đường hiệu quả phát triển giáo dục
nhằm xây dựng đất nước.
Các nhà nghiên cứu giáo dục Liên Xơ trước đây thì
khẳng định: “Kết quả toàn bộ hoạt động quản lý hoạt động
của nhà trường phụ thuộc rất nhiều vào việc tổ chức đúng đắn
và hợp lý hoạt động dạy học của đội ngũ giáo viên” [7, tr. 9].
Dựa trên những cơ sở lý luận của triết học Mác-Lê nin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, Năm 1945, Bác Hồ đã có chỉ thị:
“Sự học tập trong nhà trường có ảnh hưởng rất lớn cho
tương lai của thanh niên và thanh niên là tương lai của
nước mình. Vì vậy phải biết dạy cho học trò biết yêu nước

thương nòi,… phải dạy cho họ có ý trí tự lập tự cường,
quyết khơng chịu thua kém ai, quyết không chịu làm nô lệ”
[dẫn theo 14, tr.24].
Đảng và Nhà nước ta coi giáo dục là “Quốc sách
hàng đầu”, điều này đã được luật hóa trong Luật giáo dục:
“Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” [21,
tr.4].


Vì vậy quản lý hoạt động dạy học mơn tiếng Việt ở
các trường có học sinh dân tộc thiểu số trở thành vấn đề
quan tâm của toàn Đảng, toàn dân, nhất là ở thành phố Hà
Nội. Nhằm quản lý tốt hoạt động dạy học của cán bộ, giáo
viên trong trường. Chú trọng các kỹ năng: đọc, viết, nghe
và nói, tập trung giáo dục kỹ năng đọc hiểu, kỹ năng giao
tiếp cần thiết khác nhau tạo dựng các kỹ năng phát triển
ngôn ngữ trong cuộc sống học tập và lao động cho học
sinh. Để nâng cao dạy học môn tiếng Việt ở các trường
tiểu học có học sinh dân tộc thiểu là vô cùng quan trọng.
Nhiều nhà khoa học giáo dục Việt Nam như Phạm Viết
Vượng, Phạm Minh Hạc, Đặng Quốc Bảo, Nguyễn Văn Lê,
Nguyễn Ngọc Quang, Hà Thế Ngữ, Trần Kiểm... đã có
nhiều tác giả nghiên cứu khoa học về lý luận quản lý giáo
dục và quản lý dạy học trong nhà trường. Một số tài liệu về
phương pháp dạy học Tiếng Việt của các tác giả như: Đỗ
Đình Hoan, Lê Phương Nga, Đỗ Xuân Thảo, Lê Hữu Tỉnh...
Ngoài những tài liệu dưới dạng sách như đã nêu cịn có
thể kể đến những luận văn thạc sỹ của các tác giả như Ma
Vĩnh Tường - Tổ chức dạy học Tiếng Việt lớp 1 cho học sinh

dân tộc thiểu số vùng khó khăn của tỉnh Cao Bằng.
Các cơng trình nghiên cứu về quản lý dạy học môn


Tiếng Việt cho học sinh tiểu học DTTS hầu như chưa có,
nhất là tại địa bàn huyện Mỹ Đức. Đặc biệt là chưa có
nghiên cứu về dạy học mơn Tiếng Việt theo hướng phát
triển năng lực giao tiếp làm cơ sở để nâng cao chất lượng
giáo dục cho học sinh DTTS đáp ứng được yêu cầu đổi mới
giáo dục của thủ đô tại địa bàn huyện Mỹ Đức. “Quản lý
dạy học môn tiếng việt cho học sinh dân tộc thiểu số ở các
trường tiểu học huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội theo
hướng phát triển năng lực giao tiếp” là vấn đề chưa có
cơng trình nào nghiên cứu.
Một số khái niệm cơ bản
Khái niệm quản lý
Quản lý là một trong những hoạt động cơ bản nhất của
con người, nó xuất hiện rất sớm, bất kỳ ở đâu, lúc nào con
người cũng có nhu cầu kết hợp với nhau. Trong mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội, con người muốn tồn tại và phát
triển đều phải dựa vào sự nỗ lực của một tổ chức, một
nhóm người và từ đó xuất hiện quản lý. Xét từ những
phạm vi cá nhân, tập đồn đến quốc gia hoặc nhóm quốc
gia. Trong xã hội, dựa trên những quy luật khách quan,
quản lý là quá trình tổ chức điều hành các hoạt động nhằm
đạt tới những mục tiêu và yêu cầu nhất định. Nhu cầu và


chất lượng quản lý càng cao khi xã hội ngày càng phát triển.
Các Mác đã viết: “Bất cứ một lao động xã hội nào hay cộng

đồng trực tiếp nào được thực hiện ở quy mô tương đối lớn
đều cần một chừng mực nhất định của sự quản lý. Quản lý
xác nhập sự tương hợp giữa các công viêc cá thể nhằm
hoàn thành những chức năng chung xuất hiện trong sự vận
động các bộ phận riêng rẽ của nó”.[21, 22]
Quản lý là một hoạt động xã hội bắt nguồn từ tính
chất cộng đồng. Nó trở thành một hoạt động phổ biến mọi
địa điểm, mọi thời gian, mọi lĩnh vực, mọi cấp độ và
có liên quan đến mọi người. Hoạt động đó dựa trên sự
phân công và hợp tác để làm một cơng việc nhằm một mục
tiêu chung. Từ đó trong các cơng trình khoa học, cách định
nghĩa về quản lí khác nhau, dẫn đến sự phong phú về các
quan niệm quản lý, khác nhau theo những cách tiếp cận
khác nhau như tác giả:
+ Theo tác giả H.Koonts (Mỹ): “Quản lý là một hoạt
động thiết yếu nhằm đảm bảo sự phối hợp những nỗ lực
của các cá nhân để đạt được mục đích của nhóm (tổ chức).
Mục tiêu của quản lý là hình thành một mơi trường trong
đó con người có thể đạt được mục đích của nhóm với thời
gian, tiền bạc, vật chất và sự bất mãn ít nhất”. [22]


+ Theo tác giả Fayon (Pháp): “Quản lý là biết được
chính xác điều bạn muốn người khác làm, và sau đó hiểu
được rằng họ đã hồn thành cơng việc bằng phương pháp
tốt nhất và rẻ nhất”. [13]
+ Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý là tác
động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến tập
thể những người lao động (nói chung là khách thể quản lý)
nhằm thực hiện được những mục tiêu dự kiến”. [31]

+ Tác giả Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt cho rằng:
“Quản lý là mơt q trình định hướng, q trình có mục
tiêu, quản lý một hệ thống nhằm đạt được những mục tiêu
nhất định”. [27]
+ Tác giả Trần Kiểm khẳng định: “Quản lý nhằm phối
hợp nỗ lực của nhiều người, sao cho mục tiêu của từng cá
nhân biến thành những thành tựu của xã hội”. [21]
Theo tác giả Nguyễn Quốc Chí, Nguyễn Thị Mỹ Lộc:
“Hoạt động quản lý là tác động có định hướng, có chủ đích
của chủ thể quản lý (người quản lý) đến khách thể quản lý
(người bị quản lý) - trong một tổ chức - nhằm làm cho tổ
chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức”. Một
định nghĩa khác: “Quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu
của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động (chức năng)


kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra” [7, tr.1].
Có thể rút ra một số dấu hiệu bản chất của quản lý như
sau:
“Quản lý là tác động đến đối tượng quản lý có định
hướng, của chủ thể quản lý có chủ đích trong một tổ chức
nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích”.
Quản lý là phương thức tốt nhất để đạt được mục tiêu
chung của một nhóm người, một tổ chức, là một thuộc tính
bất biến nội tại của một q trình lao động xã hội. Một
nhóm người, một tổ chức, đối tượng quản lí là nguồn nhân
lực, cơ sở vật chất - kĩ thuật và các hoạt động thực hiện
chức năng của giáo dục và đào tạo.
Yếu tố con người giữ vai trò trung tâm của hoạt động
quản lý.

Quản lý vừa là môn khoa học, vừa là mơn nghệ
thuật. Vì vậy, trong hoạt động quản lý, người quản lý phải
hết sức sáng tạo, linh hoạt, mềm dẻo để chỉ đạo hoạt động
của tổ chức tới đích. Bằng cách nào đó để người bị quản lý
phải sẵn sàng tận tâm đem hết năng lực và trí tuệ để sáng
tạo ra lợi ích cho bản thân, cho tổ chức và xã hội.
Tóm lại từ những quan niệm trên có thể nói: “Quản lý


là hoạt động có định hướng có ý thức, có tổ chức, có hướng
đích của chủ thể đến đối tượng quản lý để lãnh đạo, hướng
dẫn, điều khiển đối tượng quản lý thực hiện nhằm đạt mục
mục đích”.
Quản lý giáo dục
Quản lý giáo dục là một dạng của quản lý xã hội với
mục tiêu xác định. Để hoạt động này vận hành có hiệu quả,
giáo dục phải được tổ chức thành các cơ sở, tạo nên một hệ
thống các cơ sở giáo dục, hoạt động có tính độc lập tương đối
trong giáo dục, đó là cơng tác quản lí giáo dục. Q trình đó

bao gồm các hoạt động giáo dục và có tính giáo dục của bộ
máy nhà nước, của hệ thống giáo dục quốc dân. Các nhà
nghiên cứu về quản lý giáo dục đã đưa ra nhiều quan niệm
khác nhau về quản lý giáo dục tạo nên một hệ thống các cơ
sở giáo dục. Vì vậy quản lý giáo dục là q trình tác động
có định hướng của người quản lý, vận dụng những phương
pháp, nguyên lý chung nhất của khoa học quản lý vào lĩnh
vực giáo dục nhằm đạt được mục tiêu mà giáo dục đề ra.
Trong quá trình nghiên cứu về lĩnh vực quản lý giáo dục, đã
có nhiều tác giả trong và ngồi nước đưa ra các khái niệm

với các cách biểu thị khác nhau:


+ Theo tác giả P.V Khuđôminky: “Quản lý giáo dục là
tác động có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức và có mục
đích của các chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến tất
cả các khâu của hệ thống nhằm mục đích đảm bảo việc
giáo dục cộng sản chủ nghĩa cho thế hệ trẻ, đảm bảo sự
phát triển toàn diện, hài hoà của họ”. [15]
+ Theo tác giả V.A Xukholinxki: “Quản lí giáo dục là
tác động có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức và có mục
đích của các chủ thể quản lí ở các cấp khác nhau đến tất
cả các khâu của hệ thống nhằm mục đích đảm bảo việc
giáo dục cộng sản chủ nghĩa cho thế hệ trẻ, đảm bảo sự
phát triển toàn diện, hài hoà của họ”. [tr21,24]
+ Theo tác giả Phạm Minh Hạc: “Quản lý giáo dục là
quản lý trường học, thưc hiện đường lối giáo dục của Đảng
trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường
vận hành theo nguyên lý giáo dục, để tiến tới mục tiêu đào
tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng học
sinh”. [Tr11, 15]
+ Theo tác giả Trần Kiểm: “Quản lý giáo dục là tác
động có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức và hướng đích của
chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau nhằm mục đích đảm
bảo sự hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ trên cơ sở nhận


thức và vận dụng những quy luật chung của xã hội cũng
như các quy luật của quản lý giáo dục, của sự phát triển
tâm lý và thể lực của trẻ em”.

[tr18, 20]
+ Theo tác giả Phạm Viết Vượng: “Mục đích cuối
cùng của quản lý giáo dục là tổ chức quá trình giáo dục có
hiệu quả để đào tạo lớp thanh niên thông minh, sáng tạo,
năng động, tự chủ, biết sống và biết phấn đấu vì hạnh phúc
của bản thân và của xã hội”. [40]
Từ những khái niệm trên tuy có cách diễn đạt khác nhau
nhưng tựu chung thì: “Quản lý giáo dục là sự tác động của
chủ thể quản lý giáo dục tới đối tượng quản lý giáo dục nhằm
thực hiện mục tiêu của giáo dục mà xã hội yêu cầu”.
Vì vậy quản lý bao gồm các nội dung như quản lí
nguồn nhân lực, tài chính, cơ sở vật chất…. Quản lí giáo
dục là q trình tác động có định hướng của người quản lý,
vận dụng những nguyên lý, phương pháp của khoa học
quản lý vào lĩnh vực giáo dục nhằm đạt được mục tiêu giáo
dục và đào tạo. Quản lý giáo dục trước hết và cuối cùng là
quản lý con người, con người được xã hội sinh ra và là lực
lượng sáng tạo xã hội.


Quản lý nhà trường
Trường học là đơn vị cơ sở nằm trong hệ thống giáo
dục là tế bào quan trọng của bất kỳ hệ thống giáo dục nào
từ trung ương đến địa phương. Trường học là nơi tiến hành
hoạt động giáo dục đào tạo. Đây là một thiết chế đặc biệt
của xã hội vừa mang tính giáo dục vừa mang tính xã hội.
Nó trực tiếp đào tạo ra thế hệ trẻ.
“Quản lý nhà trường là hoạt động của chủ thể quản lý
(Hiệu trưởng nhà trường) đến tập thể giáo viên, nhân viên,
tập thể học sinh, cha mẹ học sinh và các lực lượng xã hội

trong và ngoài nhà trường”. Như vậy “Quản lý nhà
trường” chính là bộ phận của “Quản lý giáo dục”. Trường
học là tế bào cơ sở chủ chốt của tất cả các cấp học trong hệ
thống giáo dục. Công tác quản lý trường học bao gồm xử lý
các tác động qua lại giữa trường học và xã hội đồng thời
quản lý chính nhà trường.
Cho nên quản lý nhà trường là quá trình nắm vững các
văn bản pháp quy, nắm vững thực trạng nhà trường về cán
bộ, giáo viên và các điều kiện vật chất... Quản lý các điều
kiện như: nhân sự, các tổ chức đoàn thể, cơ sở vật chất nhà
trường. Quản lý nhà trường thực chất là quản lý lao động
sư phạm của thầy và quản lý hoạt động học tập của trò


nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho giáo viên, học sinh thực
hiện có hiệu quả chất lượng, mục đích giáo dục. Người
quản lý có nhiệm vụ lựa chọn, sắp xếp các phương án, đưa
ra các quyết định và hướng dẫn thực hiện theo một phương
án tối ưu nhằm làm cho các đối tượng quản lý thực hiện có
hiệu quả cơng việc được giao.
Dạy học và Quản lý hoạt động dạy học
Hoạt động dạy ở trường là một mặt của hoạt động sư
phạm vậy “Hoạt động dạy học là hoạt động đặc trưng cho
bất cứ loại hình nhà trường nào và xét theo quan điểm tổng
thể, dạy học chính là con đường giáo dục tiêu biểu nhất...
Với nội dung và tính chất của nó, dạy học ln được xem là
con đường hợp lý, thuận lợi nhất giúp cho học sinh với tư
cách là chủ thể nhận thức có thể lĩnh hội được một hệ
thống tri thức và kỹ năng hành động, chuyển thành phẩm
chất, năng lực trí tuệ của bản thân”. [tr11, tr18] Quản lí dạy

học có hai chức năng thống nhất với nhau: Lĩnh hội và tự
chiếm lĩnh. Lĩnh hội là tiếp thu thông tin dạy của thầy, của
sách giáo khoa...; tự điều khiển là là tự giác, tích cực, tự
chiếm lĩnh tri thức cho bản thân. Chiếm lĩnh ở đây được
hiểu là hoạt động học. Học sinh là chủ thể của hoạt động
học, chiếm lĩnh tri thức cho bản thân bằng cách thao tác với


kiến thức, sử dụng kiến thức này như là công cụ, phương
pháp để chiếm lĩnh những tri thức mới khác, ngày một mở
rộng, đào sâu vốn tri thức của mình.
Quản lý hoạt động dạy học diễn ra ở trường nhằm thực
hiện mục tiêu đào tạo và nguyên lý giáo dục theo tinh thần
Nghị quyết Trung ương II khoá VIII của Đảng cộng sản
Việt Nam: “ Mục tiêu chủ yếu là thực hiện giáo dục tồn
diện đức dục, trí dục, thể dục, mỹ dục ở tất cả các bậc học.
Hết sức coi trọng giáo dục chính trị, tư tưởng nhân cách,
khả năng tư duy sáng tạo và khả năng thực hành”. [10] Cịn
theo quan điểm của giáo dục học thì “Hoạt động dạy học là
hoạt động đặc trưng cho bất cứ loại hình nhà trường nào
và xét theo quan điểm tổng thể, dạy học chính là con đường
giáo dục tiêu biểu nhất... Với nội dung và tính chất của nó,
dạy học luôn được xem là con đường hợp lý, thuận lợi nhất
giúp cho học sinh với tư cách là chủ thể nhận thức có thể
lĩnh hội được một hệ thống tri thức và kỹ năng hành động,
chuyển thành phẩm chất, năng lực trí tuệ của bản thân”.
[18]
Quản lý hoạt động dạy học là nhiệm vụ chủ yếu trong nhà
trường nói chung và trường tiểu học nói riêng. Nó góp phần


phát triển năng lực học sinh được tiến hành bởi tập thể giáo


viên và học sinh và sự phối hợp những lực lượng xã hội
được diễn ra trong suốt năm học, các kế hoạch đã được
hoạch định trước, đòi hỏi mọi thành viên trong nhà trường
tự giác chấp hành.
Quản lí dạy học môn Tiếng Việt là nhiệm vụ chủ yếu
giúp người giáo viên xác định được yêu cầu công tác giáo dục
trong năm học, cụ thể là chỉ tiêu của lớp, của trường đối với
môn học mà họ được chủ nhiệm, giảng dạy đồng thời tìm
những phương pháp hợp lí nhằm đạt được chỉ tiêu đặt ra. Kỹ
năng mà chương trình hướng tới trước hết là kỹ năng sử dụng
Tiếng Việt, trong đó đọc, viết là những kỹ năng đầu tiên được
hình thành ở học sinh được đặt lên trước những kỹ năng đã
hình thành ở trẻ trước khi đến trường là nghe và nói nhằm phát
triển năng lực giao tiếp. Nghiên cứu kế hoạch chương trình
được thảo luận, bàn bạc và thống nhất thực hiện ở tổ chun
mơn. Nó là cơ sở mà hiệu trưởng quản lí giám sát kế hoạch
giảng dạy của giáo viên.
Khái niệm năng lực
Năng lực thường được hiểu là sự kết nối của kiến thức
và kỹ năng để thực hiện thành công một nhiệm vụ trong bối
cảnh cụ thể đạt tới hiệu quả nhất định. Năng lực gồm có
năng lực chung và năng lực đặc thù. Năng lực được chia ra


thành các năng lực chung và năng lực đặc thù. Năng lực
chung là những năng lực cốt lõi mà mọi người đều cần phải
có để có thể sống và phát triển. Năng lực đặc thù thì được

thể hiện ở từng lĩnh vực khoa học ở mỗi mơn học khác
nhau. Đó là năng lực được hình thành dựa trên đặc điểm của
từng mơn khoa học đặc thù. Năng lực có thể được định
nghĩa như sau:
“Năng lực liên quan đến bình diện mục tiêu của dạy
học: mục tiêu dạy học được mô tả thơng qua các năng lực
cần hình thành;Trong các mơn học, những nội dung và hoạt
động cơ bản được liên kết với nhau nhằm hình thành năng
lực; Năng lực là sự kết nối tri thức, hiểu biết, khả năng,
mong muốn..
Mục tiêu hình thành năng lực định hướng cho việc lựa
chọn, đánh giá mức độ quan trọng và cấu trúc hóa các nội
dung và hoạt động và hành động dạy học về mặt phương
pháp” [tr19, 21]
Từ các phân loại năng lực ở trên, có thể hiểu năng lực
tiếng Việt là năng lực đặc thù. Nó được hình thành và phát
triển thơng qua giảng dạy môn Tiếng Việt ở nhà trường tiểu
học và nó cũng chính là một “lối thốt” quan trọng, khắc
phục tính “hàn lâm”. Năng lực được phát triển hiệu quả


trong giao tiếp các vấn đề của đời sống, giao tiếp trong gia
đình, giao tiếp ở nhà trường, nơi cơng sở... Giao tiếp có
nhiều dạng thức như giao tiếp hành chính, khoa học, hay
văn chương nghệ thuật…
Năng lực giao tiếp
Sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp gọi là năng lực tiếng
Việt. Việc năng lực sử dụng ngôn ngữ theo định hướng phát
năng lực giao tiếp. “Một mặt, mặc dù ngôn ngữ – tiếng Việt
chỉ là một trong những phương tiện để thực hiện giao tiếp

(hiểu hẹp là giao tiếp trong cộng đồng người Việt) nhưng
nó là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất” [tr5, tr7].
Năng lực giao tiếp phải hình thành và phát triển trong giao
tiếp, và các mối quan hệ đời sống xã hội gia đình, thầy cơ,
bạn bè, phụ thuộc vào năng lực tiếng Việt vì thế muốn hình
thành và chỉ hình thành trong giao tiếp.
Dạy học mơn Tiếng Việt cho học sinh tiểu học dân
tộc thiểu số theo hướng phát triển năng lực
Dạy học môn Tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số
theo hướng phát triển năng lực giao tiếp, rèn luyện khả
năng phát triển năng lực tiếng Việt cho học sinh tiểu học.
Thầy là người chỉ đạo định hướng nội dung học tập, trò tự


giác, tích cực tự điều khiển hoạt động nhận thức của bản
thân, thực hiện tốt hoạt động học. Trên cơ sở đó phát triển
năng lực tư duy, luyện cho học sinh các kỹ năng sử dụng
Tiếng Việt như: nghe, nói, đọc, viết và trình bày văn bản
giúp các em có thái độ tích cực trong việc giữ gìn sự trong
sáng của Tiếng Việt và hình thành tình cảm đối với quê
hương…
Môn Tiếng Việt được chia thành nhiều phân môn như:
Luyện từ và câu, chính tả, tập đọc, kể chuyện, tập làm
văn…
Dạy Tiếng Việt nhằm trang bị kiến thức cho học sinh
tiểu học giúp các em hình thành và phát triển năng lực,
thơng qua các văn bản có nội dung lành mạnh được thể
hiện qua các ngơn từ có tính chính xác, có tính thẩm mỹ
cao, bồi dưỡng cho học sinh có tình u đối với người thân,
đồng bào và đồng loại, với thiên nhiên, quê hương đất

nước.
Quan điểm dạy học theo định hướng phát triển năng
lực học sinh
Dạy học theo định hướng phát triển năng lực được
xem như là một quan điểm dạy học phát huy tính tích cực


chủ động sáng tạo của học sinh đồng thời giúp từng cá nhân
học sinh phát triển dựa trên năng lực đặc thù của chính họ.
Dạy học theo định hướng phát triển năng lực nhằm
hình thành năng lực cho học sinh thông qua việc trang bị
kiến thức, kĩ năng… và đưa học sinh vào bối cảnh thực tiễn
và giải quyết nhiệm vụ thực tiễn.
Nội dung: Nội dung được lựa chọn nhằm có được
những học sinh chất lượng đạt yêu cầu quy định những nội
dung chính.
Phương pháp dạy học: Giáo viên chủ yếu là người tổ
chức, hỗ trợ học sinh chiếm lĩnh tri thức, phát triển kĩ năng
giải quyết các nhiệm vụ của học sinh.
Đánh giá: kết quả đánh giá dựa vào sản phẩm" đầu
ra"" quan tâm tới chất lượng của người học, chú ý việc sử
dụng kiến thức đã học vào thực tiễn.
Đặc trưng của dạy học theo hướng phát triển năng lực
của học sinh là tích cực hóa hoạt động nhận thức của HS
trong q trình học tập. Nó dựa trên sự hoạt động linh hoạt
của người học dưới vai trị định hướng tổ chức của người
dạy nhằm khuyến khích HS tự mình khám phá tri thức.
Trong giảng dạy để phát huy tính tích cực trong hoạt động



nhận thức của HS thì q trình dạy học đó phải diễn biến
sao cho:
HS được tự giác, tích cực, sáng tạo đặt ở vị trí chủ thể,
trong hoạt động nhận thức của bản thân.
Giáo viên là người định hướng tổ chức điều khiển .
Dạy học phải căn cứ trên vốn kiến thức sẵn có của
người học.
Ở nhà trường, dạy tiếng Việt phải được xem như là dạy
một hoạt động giao tiếp và tư duy, hình thành cho học sinh
một hệ thống kĩ năng hoạt động giao tiếp bằng tiếng Việt. Như
vậy, nghiên cứu quá trình dạy học tiếng Việt của nhà giáo là
phải trả lời những câu hỏi cụ thể như: thầy lựa chọn những nội
dung giảng dạy nào, tại sao lại chọn chúng, thầy tổ chức công
việc của học sinh ra sao, uốn nắn chỉ bảo các em thế nào trong
hoạt động học, thầy kiểm tra việc nắm tri thức, kĩ năng của
học sinh như thế nào, thầy giúp đỡ học sinh yếu, bồi dưỡng
học sinh giỏi sao. “Dạy học là con đường cơ bản nhằm phát
triển trí tuệ nói riêng và hình thành phát triển nhân cách cho
thế hệ trẻ nói chung phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý và đặc
điểm nhận thức của người học.” [tr 35]
Hoạt động dạy học là một hệ toàn vẹn gồm hoạt động
dạy và hoạt động học luôn tương tác với nhau, thâm nhập


vào nhau, sinh thành ra nhau. Dạy và học có sự tương tác
mang tính chất cộng tác, trong đó giảng dạy giữ vai trò chủ
động, định hướng, hướng dẫn học sinh việc lĩnh hội kiến
thức, rèn luyện kỹ xảo, kỹ năng nghề nghiệp.
Dạy và học là hai hoạt động có mối quan hệ chặt chẽ,
tác động qua lại với nhau khơng thể tách rời nhau. Giáo

viên giữ vai trị là người lãnh đạo, tổ chức điều khiển còn
học sinh là người tự giác, tích cực, chủ động, tự tổ chức, tự
điều khiển hoạt động học của mình. Tiếng Việt là một mơn
học có đặc thù riêng, là bộ mơn quan trọng trong nhà
trường phổ thơng nói chung, bậc tiểu học nói riêng. Nó là
sự kết hợp hài hịa giữa tính khoa học và nghệ thuật. Bằng
những hình tượng và ngơn từ phong phú sinh động của
mình, mơn học học sinh hiểu về cuộc sống cũng như
những điều bí ẩn trong tâm hồn con người, trong mỗi sự
vật, hiện tượng. Từ đó, nó tác động tới tâm tư, tình cảm và
góp phần quan trọng để phát triển nhân cách, tâm hồn cho
thế hệ trẻ một cách toàn diện. Hơn nữa, tuổi trẻ là lứa tuổi
giàu cảm xúc, dễ rung động trước cái đẹp, môn tiếng Việt.
Điểm khác nhau giữa các phương pháp là ở chỗ dạy
học phát triển phẩm chất, năng lực người học có yêu cầu cao


hơn, mức độ khó hơn, địi hỏi người dạy phải có phẩm chất,
năng lực giảng dạy nói chung cao hơn trước đây.
Điều quan trọng hơn cả là nếu so sánh với các quan
niệm dạy học trước đây, việc dạy học theo hướng phát triển
năng lực sẽ giúp cho dạy học tiến gần hơn với mục tiêu phát
triển hình thành nhân cách toàn diện của học sinh.
Đặc trưng của dạy học môn Tiếng Việt ở tiểu học
Dạy học tiếng Việt là phải nghiên cứu, xem xét học
sinh học tập như thế nào, các em làm việc ra sao, hoạt động
trí tuệ diễn ra như thế nào, các em gặp khó khăn gì, mắc
những lỗi gì và tại sao, các em hứng thú với cái gì và cái gì
khơng hứng thú, số lượng, chất lượng và đặc điểm kiến
thức, kĩ năng, kĩ xảo tiếng Việt. Thông qua việc dạy học

Tiếng Việt, học sinh được rèn luyện các thao tác của tư duy.
Dạy học tiếng Việt hình thành và phát triển ở học sinh các
kĩ năng nghe, nói, đọc, viết bằng tiếng Việt để học tập và
giao tiếp trong các môi trường hoạt động phù hợp với lứa
tuổi. Tiếng Việt là một môn học có đặc thù riêng, là bộ mơn
quan trọng trong nhà trường phổ thơng nói chung, bậc tiểu
học nói riêng. Nó là sự kết hợp hài hịa giữa tính khoa học
và nghệ thuật. Bằng những hình tượng và ngơn từ phong
phú sinh động của mình, dạy tiếng Việt cung cấp kiến thức
về cuộc sống trong mỗi sự vật, hiện tượng, bồi dưỡng tình


u hình thành thói quen giữ gìn bảo vệ sự trong sáng của
Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt
Nam.
Dạy Tiếng Việt cho học sinh trường tiểu học nhằm
trang bị kiến thức cho các em, giúp các em hình thành và
phát triển năng lực, thơng qua các văn bản có nội dung lành
mạnh được thể hiện qua các ngơn từ có tính chính xác, có
tính thẩm mỹ cao, bồi dưỡng cho học sinh có tình u đối
với người thân, đồng bào và đồng loại, với thiên nhiên, quê
hương đất nước….Môn Tiếng Việt được chia thành nhiều
phân môn như: Luyện từ và câu, chính tả, tập đọc, kể
chuyện, tập làm văn, tập viết.
Phân môn Tập đọc: Trau rồi khả năng tiếng Việt, kỹ
năng nghe và nói đọc hiểu văn bản… ngoài nhiệm vụ dạy
đọc dạy học Tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số; luyện
câu, luyện kỹ năng giao tiếp thông qua môn tập đọc.
Phân môn luyện từ và câu: Luyện cho học sinh luyện kỹ
năng phát triển ngôn ngữ, cấu ttrúc tiếng, câu, cung cấp lý

thuyết Tiếng Việt cho các em.
Phân môn Tập làm văn: Giúp học sinh khả năng biểu
đạt, cảm nhận vẻ đẹp trước cảnh vật , thiên nhiên con


người, cái hay, cái đẹp trong cuộc sống, rèn kỹ năng viết
đúng câu…
Phân mơn Chính tả: Củng cố các kỹ năng khả năng
luyện tập và thực hành ở các kỹ năng nghe, viết cho học
sinh.
-Phân môn Kể chuyện: Rèn kỹ năng phát triển ngôn
ngữ, diễn đạt tiếng Việt trong các giờ kể chuyên cho học
sinh DTTS, các em tự tin hơn trong giao tiếp hàng ngày.
Phân môn Tập viết: cung cấp cho học sinh một số kiến
thức về chữ viết và kỹ thuật viết chữ, rèn kỹ năng viết chữ
cho học sinh như điểm đặt bút, điểm dừng bút, vị trí dấu,
dấu thanh, quy trình viết liền mạch, cấu tạo chữ cái và các
chữ số Tiếng Việt... Phân môn này cũng rèn cho học sinh
tính kiên trì, cẩn thận, khiếu thẩm mỹ, tính kỷ luật.
Đặc điểm dạy học tiếng Việt cho học sinh tiểu học dân
tộc thiểu số
Đặc điểm chung
Dạy học tiếng Việt cung cấp cho học sinh những kiến
thức cơ bản về Tiếng Việt. Qua môn học này các em có hiểu
biết đầu tiên về tự nhiên, xã hội và con người. Các em cũng
sẽ có những kiến thức căn bản về văn hoá, văn học của Việt


Nam và của nước ngoài. Dạy học tiếng Việt bồi dưỡng cho
các em học sinh tình yêu quê hương đất nước và hình thành

thói quen giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt. Mơn học
này góp phần hình thành ở các em nhân cách đặc trưng của
người Việt Nam, tạo môi trường hoạt động của mọi lứa tuổi
thông qua việc day học môn tiếng Việt theo hướng phát
triển năng lực giao tiếp. Mơn học góp phần hình thành nhân
cách con người Việt Nam đồn kết thân thiện, giàu lịng
nhân ái.
Đặc điểm riêng đối với học sinh dân tộc thiểu số
Ngoài những đặc điểm chung nêu trên, sinh DTTS có
những đặc thù riêng:
Học sinh tiếng Việt là ngôn ngữ thứ hai đối với học
sinh DTTS, nên khi học các em sẽ gặp khó khăn có sự giao
thoa giữa cấu trúc tiếng mẹ đẻ và cấu trúc tiếng Việt. Cho
nên cơ chế sử dụng tiếng mẹ đẻ vốn là những thói quen khó
chuyển hố được ln trong rèn luyện của học sinh, nó sẽ
tác động lớn đến q trình học đọc, viết, giao tiếp bằng
tiếng Việt. Thêm vào đó, vốn từ vựng của ngôn ngữ của học
sinh DTTS lại rất hạn chế, nhiều khái niệm trừu tượng,
khoa học mà học sinh DTTS phải sử dụng tiếng Việt để
diễn đạt nên gặp rất nhiều khó khăn. Chẳng hạn, các khái


×