<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1></div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>
<b>Tự do tơn giáo</b>
• là quyền được thực hiện các hành vi tôn
giáo, theo đuổi một tín ngưỡng của một cá
nhân một cách
tự do
. Nó được nhiều
</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>
•
Liên Hiệp Quốc
đề cao và bảo đảm quyền tự do
tôn giáo qua
Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền
và
Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và
Chính trị
. Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều
ghi nhận quyền này trong hiến pháp và các
tuyên ngôn nhân quyền.
Tuyên ngôn Nhân
quyền
(
<i>Bill of Rights</i>
) của
Hoa Kỳ
nói "Quốc hội
sẽ khơng ban hành một đạo luật nào nhằm thiết
lập tôn giáo, hoặc ngăn cấm tự do tín ngưỡng".
Hiến pháp Việt Nam 1992 (sửa đổi)
ghi nhận
quyền tự do tôn giáo.
</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>
<b>Tự do tơn giáo ở Việt Nam</b>
•
<b>Việt Nam là một quốc </b>
<b>gia đa tơn giáo, tín </b>
<b>ngưỡng. Người dân </b>
<b>Việt Nam có truyền </b>
<b>thống sinh hoạt, hoạt </b>
<b>động tín ngưỡng từ </b>
<b>lâu đời. Các dân tộc </b>
<b>trong cộng đồng các </b>
<b>dân tộc Việt Nam đều </b>
<b>có những tín ngưỡng </b>
<b>riêng gắn liền với đời </b>
<b>sống kinh tế và tâm </b>
<b>linh của mình.</b>
• Quyền tự do tơn giáo ở
Việt
Nam được ghi nhận trong
hiến pháp, ở điều 70 như sau:
• Cơng dân có quyền tự do tín
ngưỡng, tơn giáo, theo hoặc
khơng theo một tơn giáo nào.
Các tơn giáo đều bình đẳng
trước pháp luật.
• Những nơi thờ tự của các tín
ngưỡng, tôn giáo được pháp
luật bảo hộ.
</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>
<b>Một số diễn biến</b>
• Một số chức sắc tơn giáo, trong đó một số thuộc
giáo hội chưa được phép hoạt động, bị bắt với lý
do, theo nhà nước Việt Nam, vi phạm pháp luật
dân sự hoặc hoạt động chính trị trái phép.
• Tổ chức
Quan sát Nhân
quyền (
<i>Human Rights </i>
<i>Watch</i>
) thu thập một số báo cáo về các giáo hội
không đăng ký trên vùng Tây Nguyên bị san
</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>
• Linh mục Nguyễn Văn Lý, một tu sĩ được ân xá ngày
31 tháng 1 năm 2005, vốn bị kết án 15 năm tù (và 2
lần giảm án 5 năm) sau khi gửi thư điều trần tới Ủy
ban Hoa Kỳ về tự do tơn giáo quốc tế. Ơng bị khởi tố
với hai tội danh: "không chấp hành quyết định quản
chế của cơ quan nhà nước có thẩm quyền" và "phá
hoại chính sách đại đồn kết". Lúc ra tồ, ơng ta đã
đạp đổ vành móng ngựa, điều đó là không đúng đối
với một con chiên. Tháng 2 năm 2006, linh mục
Nguyễn Văn Lý đã bị quản chế tại Bến Cũi, Thừa
Thiên Huế, cũng với tội danh nêu trên. Những lãnh
đạo của Giáo hội Việt Nam thống nhất, vốn không
được nhà nước thừa nhận đã bị cầm cố trong chùa
</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>
• Philip Taylor, một nhà nhân học ở Đại học Quốc gia Úc
và là chuyên gia về tôn giáo Việt Nam, nhận định: "Tôn
giáo phát triển ở Việt Nam ngày nay, khi xét về số lượng
tín đồ và sự đa dạng tín ngưỡng." Nếu như trong thập
niên 1980, ít ai đi dự các buổi lễ ở nhà thờ Cơng giáo và
Tin lành thì nay chúng chật cứng người. Năm 2001,
Giáo hội Tin lành miền Nam Việt Nam lần đầu tiên được
chính thức cơng nhận. Các ngơi chùa mới xuất hiện trên
khắp nước.
• Uỷ ban Tự do Tôn giáo Hoa Kỳ, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ
và các nhân vật bất đồng chính kiến cho rằng ở Việt
Nam quyền tự do tơn giáo cịn nhiều hạn chế.
• Trong bản báo cáo hàng năm về tự do tơn giáo tồn cầu
Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cho rằng Việt Nam, cùng với
Trung Quốc, Triều Tiên và Myanma, vi phạm nặng nề tự
do tôn giáo. Bộ Ngoại giao Việt Nam đã bác bỏ quyết
định của Hoa Kỳ và cho rằng: "Đây là một quyết định sai
trái, khơng phản ánh đúng tình hình tự do tôn giáo ở Việt
Nam". Và một số năm gần đây qua khảo sát đã nhận
</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>
Một số tín ngưỡng và tơn giáo.
• <b>Tín ngưỡng dân gian:</b> Với quan niệm cho rằng bất cứ vật gì cũng có linh hồn, nên
người xưa đã thờ rất nhiều thần linh, đặc biệt là những sự vật có liên quan đến nơng
nghiệp như trời, trăng, đất, rừng, sông, núi… để được phù hộ. Đối với các dân tộc
thiểu số, mỗi dân tộc có hình thái tín ngưỡng riêng của mình. Tuy nhiên, đặc trưng
nhất là các hình thái tín ngưỡng ngun thủy và tín ngưỡng dân gian ngày nay còn
lưu giữ được trong các nhóm dân tộc như nhóm Tày-Thái, nhóm Hmơng-Dao; nhóm
Hoa-Sán Dìu-Ngái; nhóm Chăm-Ê đê-Gia Rai; nhóm Mơn-Khơ me.
• Bên cạnh đó, một phong tục, tập quán lâu đời phổ biến nhất của người Việt và một
số dân tộc thiểu số khác là việc thờ cúng tổ tiên và cúng giỗ những người đã mất. Ở
các gia đình người Việt, nhà nào cũng có bàn thờ tổ tiên và việc cúng giỗ, ghi nhớ
công ơn của các bậc tiền nhân rất được coi trọng. Bên cạnh việc cúng giỗ tổ tiên ở
từng gia đình, dịng họ, nhiều làng ở Việt Nam có đình thờ thành hồng. Tục thờ
thành hồng và ngơi đình làng là đặc điểm độc đáo của làng quê Việt Nam. Thần
thành hồng được thờ trong các đình làng có thể là các vị thần linh hoặc là những
nhân vật kiệt xuất có nhiều cơng lao to lớn như những ông tổ làng nghề hoặc anh
hùng dân tộc có cơng "khai cơng lập quốc", chống giặc ngoại xâm. Ngồi ra, người
Việt còn thờ các dạng thần như thần bếp, thần thổ công…
</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>
<b>Phật giáo</b>
</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10></div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11></div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12></div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13></div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>
<b>Cơng giáo</b>
• được các giáo sỹ Phương Tây truyền vào
Việt Nam từ thế kỷ XV. Thiên chúa giáo
đầu tiên được phổ biến trong các cư dân
ven biển Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình,
Thanh Hóa, Nghệ An… sau đó đi vào các
vùng châu thổ sơng Hồng và các thành
</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>
<b>Tin Lành</b>
•
du nhập vào Việt Nam cuối thế kỷ
19, đầu thế kỷ 20. Tuy nhiên, tới
năm 1920 đạo Tin Lành mới bắt
đầu được truyền giáo tại khắp các
vùng của Việt Nam và hiện có
</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16></div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17></div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18></div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19></div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20></div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21></div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22></div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>
<b>Đạo Hồi</b>
• truyền vào Việt Nam qua cộng đồng người
Chăm vào thế kỷ X-XI. Hiện nay Đạo Hồi ở
Việt Nam có khoảng 100 nhà thờ Hồi giáo,
70.000 tín đồ, 700 vị chức sắc tại các tỉnh Bình
Thuận, Ninh Thuận, An Giang, Tây Ninh, Đồng
Nai và thành phố Hồ Chí Minh. Có hai khối
người Chăm theo Hồi giáo: Hồi giáo chính
thống bao gồm những người Chăm theo Hồi
giáo ở Châu Đốc, thành phố Hồ Chí Minh, Tây
Ninh, Đồng Nai; Hồi giáo khơng chính thống
</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>
<b>Đạo Cao Đài</b>
•
Là một tôn giáo bản địa, sáng lập
năm 1926 tại Tây Ninh. Đạo Cao
Đài tôn thờ ba đấng tối cao Đức
Phật, Chúa Giê-xu và Đức Cao
</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>
<b>Đạo Hịa Hảo</b>
• cịn gọi là Phật giáo Hịa Hảo, là
một tơn giáo bản địa, được sáng
lập năm 1939 tại làng Hòa Hảo,
huyện Tân Châu, tỉnh An Giang.
Đạo Hòa Hảo tập hợp nhiều tín
</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>
• Theo quy định của nhà nước Việt Nam, hoạt động
tôn giáo cần tuân theo hiến pháp và pháp luật. Ngày
15 tháng
11 năm
2004
, Pháp lệnh Tín ngưỡng, tơn
giáo có hiệu lực thi hành sau khi được quốc hội
thông qua. Theo pháp lệnh này, các giáo hội chủ
động quyết định về nhân sự lãnh đạo giáo hội từ cấp
trung ương đến cơ sở; việc phong chức, phong
phẩm, bổ nhiệm và thuyên chuyển chức sắc được
các tổ chức Giáo hội thực hiện theo quy định tại hiến
chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo và thông báo,
đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền (điều
22). Cũng theo đó, tổ chức tơn giáo nào có hiến
chương, điều lệ thể hiện tơn chỉ, mục đích, đường
hướng hành đạo gắn bó với dân tộc và khơng trái
</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>
Quyền tự do tín ngưỡng và tơn
giáo
• Tham gia vào các sinh hoạt tơn
giáo ở Việt Nam có khoảng 20
triệu người, gần 62.500 chức
sắc, nhà tu hành và 22.354 cơ
sở thờ tự tôn giáo; các cơ sở
đào tạo tôn giáo được mở rộng.
Hiện nay, tại Việt Nam có 10
trường Đại học Tơn giáo, 3 Học
viện Phật giáo, 6 Đại Chủng
viện Thiên chúa giáo, 1 Viện
Thánh kinh thần học của Tổng
liên hội Hội Thánh Tin Lành
Việt Nam, 40 trường đào tạo
các giáo chức tôn giáo ở các
cấp độ khác nhau, các ấn
phẩm tôn giáo, nhất là kinh
sách được xuất bản theo yêu
cầu của các tôn giáo.
</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>
Quyền tự do và tín ngưỡng
• Quyền tự do tín ngưỡng và tự
do khơng tín ngưỡng của cơng
dân Việt Nam được quy định
trong Hiến pháp và được bảo
đảm trên thực tế. Hiến pháp
năm 1992 của nước CHXHCN
Việt Nam, điều 70 ghi rõ: "Công
dân có quyền tự do tín ngưỡng,
tơn giáo, theo hoặc không theo
một tôn giáo nào; các tôn giáo
đều bình đẳng trước pháp luật.
Những nơi thờ tự của các tín
ngưỡng, tơn giáo được pháp
luật bảo hộ. Khơng ai được xâm
phạm tự do tín ngưỡng, tơn
giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng,
tơn giáo để làm trái pháp luật và
chính sách của Nhà nước".
• Quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo của người dân
được cụ thể hóa trong nhiều văn bản pháp quy
khác. Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tơn giáo có hiệu
lực từ 15/11/2004, đã thể chế hóa đường lối, chủ
trương chính sách về tín ngưỡng, tơn giáo của
Nhà nước Việt Nam, bảo đảm cho công dân thực
hiện quyền về tự do tín ngưỡng, tơn giáo. Mọi
cơng dân - khơng phân biệt có hoặc khơng có tín
ngưỡng, tơn giáo - đều bình đẳng trước pháp
luật; có quyền theo hoặc không theo một tôn giáo
nào; được bày tỏ đức tin tơn giáo của mình; được
thực hành các nghi thức thờ cúng, cầu nguyện và
tham gia các hình thức sinh hoạt phục vụ lễ nghi
tôn giáo, học tập giáo lý, đạo đức tôn giáo. Các tổ
chức tơn giáo đều bình đẳng trước pháp luật.
Nhà nước đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo; bảo hộ cơ sở vật chất, tài sản của cơ sở tín
ngưỡng tơn giáo như chùa, nhà thờ, thánh
đường, thánh thất, điện, đền, trụ sở của tổ chức
tôn giáo, trường lớp tôn giáo, kinh bổn và các đồ
dùng thờ cúng của tín ngưỡng, tơn giáo. Ngày
1/3/2005, Chính phủ đã ban hành Nghị định
22/2005/NĐ_CP để hướng dẫn một số điều trong
Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tơn giáo. Đối với đạo Tin
lành, Thủ tướng Chính phủ đã ra Chỉ thị
</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29></div>
<!--links-->
<a href=' />