Tải bản đầy đủ (.pdf) (48 trang)

SKKN sử dụng một số biện pháp trong công tác chủ nhiệm để cảm hóa học sinh chưa tích cực lớp 12 THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 48 trang )

MỤC LỤC
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ ………………………………………………………… 1
1. Lí do chọn đề tài: ………………………………………………………………. 1
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: …………………………………………….. 2
3.Thời gian thực hiện và triển khai SKKN: ………………………………………. 2
4. Tính mới của đề tài: ……………………………………………………………. 2
5. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu: ………………………………………………. 3
6. Phương pháp nghiên cứu: ……………………………………………………… 3
PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU ………………………………………… 3
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN: ……………………………………………………………. 3
1.1. Khái niệm học sinh chưa tích cực: …………………………………………… 3
1.2. Một số căn cứ để giáo dục học sinh chưa tích cực: ………………………….. 4
1.3. Vai trò của giáo viên chủ nhiệm: …………………………………………….. 4
1.4. Một số giải pháp giáo dục tích cực: ………………………………………….. 5
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN: ………………………………………………………… 6
1. Thực trạng đạo đức, lối sống, lý tưởng của học sinh nói chung và của học sinh
trường THPT X nói riêng: ………………………………………………………... 6
1.1. Các biểu hiện tích cực: ………………………………………………………. 6
1.2. Các biểu hiện tiêu cực: ………………………………………………………. 7
2. Thực trạng giáo dục cảm hóa học sinh chưa tích cực của giáo viên: …………. 10
3. Phương pháp phân loại: ……………………………………………………….. 11
III. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ ……………………………………………………. 14
1.Tìm hiểu hồn cảnh gia đình học sinh, phân loại theo nhóm: …………………. 14
2. Đừng phân biệt các em quá rõ ràng, đừng để các em bị cô lập trong lớp: ……. 17
3. Biện pháp kiên trì tạo niềm tin, dùng tình yêu thương để thay đổi một con
người: ……………………………………………………………………………. 19
4. Biện pháp giao nhiệm vụ, kiểm tra kết quả và yêu cầu các em viết nhật ký: … 23
5. Giáo viên phải biết làm mới tiết dạy của mình: ……………………………… 25
6. Kết hợp một số yếu tố khác: ………………………………………………….. 26
6.1. Giáo viên chủ nhiệm cần kết hợp với các giáo viên bộ môn: ………………. 26



6.2. Kết hợp giữa giáo viên chủ nhiệm với Đoàn trường, Ban giám hiệu
nhà trường:………………………………………………………………………. 26
6.3. Giáo dục các em thông qua sinh hoạt trường và sinh hoạt lớp: …………….. 28
6.4. Kết hợp với hội Phụ huynh học sinh và các tổ chức đoàn thể ở địa phương:.. 30
6.5. Phương pháp kết bạn và mời một số học sinh khác cộng tác hỗ trợ:………... 32
IV. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI: ………………………………………………… 33
V. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC: ………………………………………….………… 35
PHẦN III: KẾT LUẬN ………………………………………………………… 39
1. Kết luận: ………………………………………………………………………. 39
2. Đề xuất: ……………………………………………………………………….. 40
PHỤ LỤC: ………………………………………………………………………. 42
TÀI LIỆU THAM KHẢO: …………………………………………………….. 46


PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn đề tài:
Hiện nay, do xu thế hội nhập kinh tế thị trường, mặt trái của xã hội len lỏi
khắp nơi, trong mọi ngóc ngách của cuộc sống. Nó tác động mạnh mẽ đến tuổi trẻ
làm cho các em mất phương hướng, suy nghĩ lệch lạc, phẩm chất đạo đức khơng
tốt. Trong đó lứa tuổi học sinh dễ bị kích động, bởi lứa tuổi này vừa có cá tính tị
mị khám phá, vừa nhạy cảm thích làm người lớn. Người làm cơng tác giáo dục
chưa thực sự quan tâm sâu sắc đến việc giáo dục nhân cách học sinh.
Đứng trước tình hình đó, bản thân là một giáo viên chủ nhiệm cần phát huy
tinh thần trách nhiệm của mình nhiều hơn đối với học sinh. Cơng tác giáo dục gắn
chặt vai trị của giáo viên chủ nhiệm nhất là trong công việc giáo dục học sinh chưa
tích cực. Với trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp của mình bằng mọi cách phải
giúp các em có được nhận thức đúng đắn trong lao động, học tập, phải uốn nắn các
em từ người “chưa tốt” trở thành người “tốt”. Nếu không khéo sẽ làm hỏng cả một
thế hệ của các em, đồng thời cũng là một gánh nặng cho gia đình và xã hội.

Bản thân tơi nhiều năm làm cơng tác chủ nhiệm nên có điều kiện tiếp xúc với
nhiều đối tượng học sinh: học sinh ngoan, học sinh xuất sắc, học sinh khá, học sinh
trung bình và cả học sinh chưa ngoan (hay cịn gọi là học sinh chưa tích cực). Các
em học sinh này thường làm cho giáo viên đau đầu để tìm cách cảm hóa.
Giáo dục học sinh chưa tích cực là cơng việc rất khó khăn đầy gian nan và thử
thách, địi hỏi người giáo viên phải có trái tim u nghề, yêu trẻ và đầy lòng nhân
ái. Một trong những đổi mới của Giáo dục và Đào tạo hiện nay là tăng cường giáo
dục đạo đức cho học sinh, đặc biệt là học sinh chưa tích cực được thể hiện rõ trong
nghị quyết của Đảng, luật Giáo dục và các văn bản của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Luật Giáo dục đã xác định: “Mục tiêu của giáo dục phổ thơng là giúp học sinh phát
triển tồn diện về đạo đức, trí tuệ, thẩm mĩ, thể chất và các kỹ năng cơ bản nhằm
hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và
trách nhiệm cơng dân.
Cơng tác giáo dục học sinh chưa tích cực là công tác không thể thiếu của
người giáo viên đứng lớp. Học sinh chưa tích cực, những đối tượng này chỉ chiếm
số ít của lớp nhưng đối với vai trị của giáo viên chủ nhiệm thì đây là vấn đề tương
đối khó khăn trong cơng tác chủ nhiệm, khơng khéo sẽ làm ảnh hưởng đến những
học sinh khác. Từ đó để làm tốt cơng tác giáo dục học sinh chưa tích cực thì địi
hỏi người giáo viên khơng những giỏi về chun mơn mà cịn giỏi về cơng tác chủ
nhiệm, giàu lịng nhân ái, vị tha, kiên trì, nhiệt tình, biết tơn trọng nhân cách học
sinh, được các em tin u và cha mẹ học sinh tín nhiệm, có sức cảm hóa thuyết
phục, có bản lĩnh để xử lý kịp thời các tình huống sư phạm đa dạng, đối xử công
bằng trong nhận xét đánh giá đối với học sinh. Như vậy nhiệm vụ của người giáo

1


viên chủ nhiệm có vai trị quan trọng, ảnh hưởng lớn đến việc học tập cũng như rèn
luyện nhân cách của học sinh.
Với những lý do trên, bằng những kinh nghiệm tích lũy của bản thân trong

những năm làm cơng tác chủ nhiệm, tôi viết sáng kiến kinh nghiệm với đề tài “Sử
dụng một số biện pháp trong công tác chủ nhiệm để cảm hóa học sinh chưa
tích cực lớp 12 - THPT”. Với đề tài nay hi vọng ít nhiều sẽ góp phần thêm vào
cơng tác giáo dục học sinh chưa tích cực. Đồng thời cùng nhau nghiên cứu một số
phương pháp giáo dục để ngày càng lành mạnh và trong sạch hóa mơi trường giáo
dục trong q trình xây dựng sự nghiệp giáo dục.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Học sinh lớp 12 trường THPT X, Huyện X,Tỉnh Nghệ An.
Đề tài được nghiên cứu và áp dụng tại lớp 12 tôi chủ nhiệm trường THPT X
trong năm học 2018-2019 và 2019-2020.
3.Thời gian thực hiện và triển khai SKKN:
Kế hoạch viết đề tài: Từ tháng 10 năm 2017
Đăng ký tên SKKN: tháng 8 năm 2020
Viết đề cương cơ bản của SKKN: Tháng 8 năm 2020
Viết đề cương chi tiết của SKKN: Tháng 9→11 năm 2020
Viết SKKN: Từ tháng 11 năm 2020 đến đầu tháng 3 năm 2021
4. Tính mới của đề tài:
Với đề tài “Sử dụng một số biện pháp trong cơng tác chủ nhiệm để cảm
hóa học sinh chưa tích cực lớp 12- THPT”, bản thân tơi muốn đưa ra một số biện
pháp giáo dục tích cực để giúp cho những học sinh chưa tích cực từng bước thay
đổi, nhận thức được sai lầm của mình và sẽ có thái độ học tập theo hướng tích cực.
Giúp các em biết tơn trọng bản thân mình và xác định được sự quan trọng của việc
học. Giúp cho các em thấy được cha mẹ có cơng lao rất lớn, đã vất vả nuôi con ăn
học. Giúp các em nhận ra sự vất vả và công lao to lớn của thầy cô trong công việc
truyền đạt kiến thức và giáo dục đạo đức nhân cách, kĩ năng sống cho học sinh. Từ
đó các em sẽ hiểu và biết làm gì để khơng phụ lịng mong mỏi của bố mẹ, thầy cơ
giáo.
Bên cạnh đó phần nào giúp cho các thầy cơ quan tâm hơn về vai trị, trách
nhiệm của mình đối với công tác chủ nhiệm cũng như nghề nghiệp của mình. Nhà
trường và giáo viên phải xác định mình chính là nơi để giúp các em trở thành

những công dân tốt, tạo nên những “sản phẩm” giáo dục tốt nhất mà xã hội yêu
cầu; thành công trong giáo dục học sinh chưa tích cực sẽ góp phần quan trọng
trong việc giữ gìn an ninh trật tự xã hội và cung cấp cho xã hội những công dân
tốt. Đối với gia đình, cha mẹ học sinh, giáo dục học sinh chưa tích cực sẽ đem lại
2


nguồn hạnh phúc lớn lao cho họ, giúp họ tránh được nỗi bất hạnh lớn nhất là con
cái hư hỏng. Đối với tập thể lớp đó là điều kiện đảm bảo cho lớp ổn định, trật tự,
nề nếp, các thành viên trong lớp sẽ cùng nhau tu dưỡng và học tập đạt kết quả tốt.
5. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu:
Tìm hiểu cơ sở lý luận của việc giáo dục học sinh chưa tích cực tạo ra cơ sở
thực tiễn. Từ đó xây dựng những phương pháp sư phạm nhằm nâng cao hiệu quả
giáo dục học sinh chưa tích cực ở lớp chủ nhiệm.
Giáo dục học chưa tích cực có một ý nghĩa rất to lớn đối với xã hội, với nhà
trường, với gia đình các em và với chính bản thân các em.
Đề xuất một số biện pháp sư phạm nhằm cảm hóa các em chưa tích cực có
tính khả thi, góp phần đổi mới phương pháp giáo dục các em có hiệu quả.
Mục đích cuối cùng của người viết sáng kiến kinh nghiệm là sự chia sẻ kinh
nghiệm với nhau để mỗi giáo viên chủ nhiệm có thể đào tạo những thế hệ học
sinh có Tài, có Tâm, biết hướng đến chân - thiện - mỹ của cuộc sống.
6. Phương pháp nghiên cứu:
Để tiến hành làm đề tài này tôi sử dụng các phương pháp sau:
+ Phương pháp nghiên cứu tài liệu bổ trợ qua sách báo, nhân chứng, mạng
Internet, các đề tài nghiên cứu liên quan...
+ Phương pháp phỏng vấn, trao đổi, tâm sự, phân tích, thuyết phục, quan sát.
+ Phương pháp so sánh, đối chiếu.
+ Phương pháp khen thưởng và trách phạt.
+ Áp dụng kinh nghiệm, phương pháp mới trên lớp học.
+ Đánh giá kết quả ban đầu và điều chỉnh bổ sung.

+ Kiểm tra đánh giá cuối cùng và hồn chỉnh cơng việc.
PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
1.1. Khái niệm học sinh chưa tích cực:
Đầu tiên ta hãy hiểu rõ một chút về khái niệm này nhé. Học sinh chưa tích
cực là thuật ngữ mà mọi người hay sử dụng đối với các em học sinh quậy phá,
nghịch ngợm, hay đánh nhau, gây mất trật tự trong lớp và trong trường học. Các
em học sinh này thường hay bỏ học, bỏ tiết và hay gây rối trong lớp, làm ảnh
hưởng đến phong trào thi đua nề nếp, học tập của lớp. Mặc dù thầy cơ, tập thể góp
ý xây dựng nhiều lần nhưng vẫn “chứng nào tật nấy”, không thay đổi. Các em này
không tuân theo nội quy của nhà trường và làm theo ý của bản thân. Đa phần các
3


em ở độ tuổi thiếu niên, nó biểu hiện tâm sinh lý thay đổi ở tuổi mới lớn. Nếu
khơng có cách khắc phục, các em này dễ dàng bị người xấu lôi kéo, dẫn đến các tệ
nạn xã hội.
1.2. Một số căn cứ để giáo dục học sinh chưa tích cực:
Căn cứ vào thông tư 32/2020/TT-BGDĐT về ban hành Điều lệ Trường trung
học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ thơng có nhiều cấp học.
Căn cứ vào thông tư 08 - Hướng dẫn về việc khen thưởng và thi hành kỷ luật
học sinh các trường phổ thông. Trong thơng tư có viết:
1. Việc khen thưởng và thi hành kỷ luật đối với học sinh là một trong các biện
pháp giáo dục quan trọng trong nhà trường phổ thơng, nhằm mục đích:
- Khuyến khích học sinh phấn đấu vươn lên, noi theo các gương tốt để tu
dưỡng và rèn luyện bản thân.
- Ngăn chặn không để các hiện tượng sai trái phát triển, giáo dục các học sinh
phạm sai lầm, giúp các học sinh này phấn đấu trở thành học sinh tốt.
- Thúc đẩy học sinh tự giác thực hiện quy định về quyền hạn, nhiệm vụ của
mình nhằm nâng cao ý thức góp phần xây dựng mọi nề nếp, kỷ cương trong nhà

trường.
2. Việc khen thưởng và kỷ luật đối với học sinh được thực hiện đúng đắn sẽ
góp phần tích cực vào việc củng cố và phát triển phong trào thi đua “Hai tốt” trong
nhà trường phổ thông từng bước thực hiện tốt mục tiêu đào tạo của nhà trường và
từng cấp học.
3. Đối tượng khen thưởng và thi hành kỷ luật:
Đối tượng khen thưởng là những học sinh gương mẫu, thực hiện nhiệm vụ
của mình đã được Bộ quy định. Đối tượng thi hành kỷ luật là những học sinh có
khuyết điểm tương đối nghiêm trọng, vi phạm những quy định về nhiệm vụ năm
học đã được Bộ quy định.
Căn cứ vào thông tư 26/2020/TT-BGDĐT về Sửa đổi, bổ sung một số điều
của Quy chế đánh giá, xếp loại học sinh trung học cơ sở và học sinh trung học phổ
thông ban hành kèm theo Thông tư số 58/2011/TT-BGDĐTngày 12 tháng 12 năm
2011 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
1.3. Vai trò của giáo viên chủ nhiệm:
Là người trực tiếp thay mặt nhà trường giáo dục học sinh, là người thực hiện
sự phối hợp, liên kết bền chặt với giáo viên bộ môn, các đồn thể trong nhà trường,
giữa gia đình - nhà trường - xã hội. Giáo dục đạo đức học sinh là một cơng việc địi
hỏi sự kiên trì, cần phải có tâm huyết với nghề; có phương pháp chủ nhiệm tốt với
một kế hoạch toàn diện, hợp lý. Từ việc tìm hiểu, nắm bắt hồn cảnh gia đình,
năng lực từng học sinh, học sinh có hồn cảnh khó khăn … đến việc xử lý tình
4


huống. Địi hỏi cần có sự nghiêm khắc của người thầy đồng thời phải có tấm lịng
u thương, thể hiện trách nhiệm, lịng vị tha, thơng cảm chia sẻ niềm vui, nỗi
buồn, giúp đỡ các em vượt qua khó khăn, dành thời gian để tâm sự và cho các em
những lời khuyên bảo chân tình, tạo được niềm tin động lực cho học sinh phấn đấu
hồn thiện. Hình ảnh người thầy ảnh hưởng khơng nhỏ đến học sinh, chính vì vậy
giáo viên chủ nhiệm không những cần năng lực chuyên mơn, mà cịn địi hỏi phải

thật sự là tấm gương sáng về tác phong, tư cách đạo đức; chuẩn mực trong trang
phục, lời nói, cách ứng xử… như vậy lời nói của giáo viên chủ nhiệm mới có trọng
lượng với học sinh.
Giáo viên chủ nhiệm thường xuyên phối hợp với Ban đại diện cha mẹ học
sinh, phụ huynh học sinh và các tổ chức đoàn thể nhằm giáo dục đạo đức lối sống
cho học sinh đặc biệt là giáo dục học sinh có các hành vi đạo đức thiếu chuẩn
mực.
Giáo viên chủ nhiệm phải nắm được đặc điểm, hoàn cảnh cụ thể của từng gia
đình học sinh chưa tích cực. Để từ đó cảm thơng, tránh sự xúc phạm vơ tình đến
các em và đồng thời tạo nhiều điều kiện hơn để các em phát huy học tập và rèn
luyện.
Giáo viên chủ nhiệm phải tìm hiểu, khai thác những điểm tốt và điểm yếu cơ
bản nhất của học sinh để tác động làm thay đổi tính cách của học sinh chưa tích
cực.
Giáo viên chủ nhiệm phải hiểu những suy nghĩ và những điều học sinh muốn.
Có như vậy mới giúp các em tháo gỡ được những điểm yếu của mình để đạt được
điều mình mong muốn chính đáng.
1.4. Một số giải pháp giáo dục tích cực:
Căn cứ vào những thực trạng đã điều tra, cả những nguyên nhân dẫn đến thực
trạng ấy. Tôi nhận thấy rằng, bởi lẽ các em trở thành học sinh chưa tích cực như
vậy là do nhiều nguyên nhân, trong đó phải kể đến những nguyên chính là do: hồn
cảnh gia đình, sự thờ ơ của xã hội và gia đình trong việc giáo dục và dạy dỗ các
em. Từ đó tơi có cơ sở để đề xuất các giải pháp như sau:
+ Đối với giáo viên bộ môn:
Mỗi giáo viên bộ môn phấn đấu dạy tốt mơn học của mình, chú ý đến mọi đối
tượng học sinh, để tận tình giúp đỡ các em tiếp thu tốt nhất kiến thức mình truyền
đạt. Tích cực nâng cao chất lượng giờ dạy, chú trọng yêu cầu hiệu quả việc lồng
ghép nội dung giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh trong mơn học, giờ học.
Trong đó các môn như Ngữ văn, Lịch sử, Điạ lý đặc biệt là mơn Giáo dục cơng
dân có vị trí quan trọng đối với việc trang bị cho học sinh những hiểu biết cơ bản

về phẩm chất, đạo đức về quyền và nghĩa vụ cơng dân sẽ giúp học sinh có thái
độ tích cực và thực hiện những hành vi phù hợp chuẩn mực đạo đức.
5


Giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh thường xuyên; phải theo dõi các mối
quan hệ của học sinh và giáo dục giá trị sống, kỹ năng sống cho học sinh, lý tưởng
sống và lòng yêu nước. Ở bậc THPT là thời điểm các em dần hoàn thiện về tâm
sinh lý và ln hiếu kỳ, tị mị, muốn khám phá thế giới xung quanh, vì vậy phải
dạy cho học sinh cách tiếp cận và thu nhận thông tin từ thực tiễn cuộc sống và vận
dụng nó một cách đúng đắn vào cuộc sống.
+ Phía gia đình và nhà trường:
Giữa nhà trường và gia đình phải có sự kết hợp chặc chẽ, sự kết hợp giáo dục
này phải diễn ra thật tế nhị và thường xuyên. Tránh những hành động nóng nảy của
gia đình đối với học sinh như: đánh con hay có những lời nói khó nghe khi nghe cơ
giáo đến thưa chuyện ….
Phải thuyết phục được gia đình tạo mọi điều kiện tốt nhất để con em mình học
tập, đồng thời nhắc nhở phụ huynh phải thường xuyên quan tâm đến việc học của
con em mình. Gia đình phải xem việc giáo dục con em không phải là chỉ riêng nhà
trường mà cần phải có một phần trách nhiệm rất lớn từ gia đình.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN:
1. Thực trạng đạo đức, lối sống, lý tưởng của học sinh nói chung và của học sinh
trường THPT X nói riêng:
1.1. Các biểu hiện tích cực:
Được khẳng định cơng tác giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh hiện nay đã
có nhiều tiến bộ; sự quan tâm chỉ đạo của các cấp ủy đảng trong tồn bộ hệ thống
chính trị được tăng cường; việc phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội để
chung tay giáo dục học sinh có lối sống lành mạnh, tích cực học tập, nghiên cứu
khoa học và sống có trách nhiệm đã được quan tâm đúng mức. Học sinh hiện nay
nói chung và học sinh trường THPT X nói riêng có tinh thần yêu quê hương đất

nước, tin tưởng, chấp hành đường lối, chủ trương, sự lãnh đạo của Đảng và pháp
luật của nhà nước. Đa số học sinh đều xác định được mục tiêu sống, có lý tưởng
phấn đấu rõ ràng với động cơ học tập nghiêm túc; tích cực tham gia các hoạt động,
các phong trào “xung kích, sáng tạo, tình nguyện vì cộng đồng…”; biết chia sẻ, hỗ
trợ những người có hồn cảnh khó khăn.
* Về phẩm chất, tư tưởng chính trị:
Hầu hết học sinh có tinh thần u q hương đất nước, tin tưởng và chấp
hành đường lối, chủ trương, sự lãnh đạo của Đảng, pháp luật của Nhà nước và sự
thành cơng của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đa số học sinh
đồng ý việc cần thiết phải giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong xu thế hội nhập với
thế giới hiện nay; quê hương, cội nguồn dân tộc vẫn là quan trọng.
Đa số học sinh đều xác định được mục tiêu cuộc sống, có lí tưởng phấn đấu rõ
ràng với động cơ học tập nghiêm túc, tích cực và chủ động với tinh thần vượt khó;
6


có ý chí vươn lên trong học tập, rèn luyện và đưa ra được yêu cầu tính tích cực, chủ
động, linh hoạt là yếu tố quan trọng giúp học sinh thành công trong học tập.
* Về đạo đức:
Đa số học sinh có nhận thức và hành vi trân trọng các giá trị truyền thống văn
hóa tốt đẹp của dân tộc. Các phẩm chất như nhân ái, tương thân tương ái giúp đỡ
nhau, sống có nghĩa tình, cần cù kiên trì, hiếu học, tơn sư trọng đạo, trung thực,
đồn kết được đại đa số học sinh nhận thức và phát huy. Hầu hết học sinh có ý thức
trách nhiệm với gia đình, với việc học tập rèn luyện và bản thân.
Học sinh đều biết và thực hiện sống, làm việc tuân thủ theo pháp luật; ý thức
và trách nhiệm công dân được tăng cường hơn rất nhiều. Học sinh tích cực tham
gia các hoạt động tập thể, các phong trào, xung kích, sáng tạo, tình nguyện vì cộng
đồng. Phong trào tình nguyện do Trung ương Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên Việt
Nam tổ chức đã trở thành phong trào chung, thường xuyên trong tất cả các nhà
trường với nhiều hình thức phong phú.

* Về lối sống:
Học sinh THPT hiện nay đều có lối sống lành mạnh, biết chia sẻ, hỗ trợ người
có hồn cảnh khó khăn trong các phong trào qun góp ủng hộ đồng bào bị lũ lụt,
thiên tai.
Phần lớn học sinh có lối sống văn hóa, tinh thần lành mạnh, phong phú và phê
phán những tiêu cực, tệ nạn xã hội và các hành vi trái thuần phong mĩ tục của dân
tộc, không sa vào tệ nạn xã hội. Tích cực tham gia các hoạt động, phong trào thi
đua, cuộc vận động do ngành Giáo dục, ngành Văn hóa tổ chức phát động.
Trong cuộc sống hiện đại, với xu hướng hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng
thì mọi người cần hợp tác với nhau hơn. Học sinh quan niệm rằng hợp tác giúp tạo
nên sức mạnh và khiến cho công việc đạt hiệu quả hơn. Đồng thời, học sinh vẫn
giữ được nếp sống yêu lao động, tiết kiệm, giản dị, khiêm tốn, tôn trọng sự khác
nhau về cá tính và tơn trọng người khác.
Như vậy, hầu hết học sinh THPT ý thức rõ trách nhiệm của mình đối với Tổ
quốc, gia đình và bản thân, ra sức phấn đấu lao động, học tập, rèn luyện về mọi mặt
với khát vọng cống hiến hết mình vì tương lai tươi sáng của dân tộc.
1.2. Các biểu hiện tiêu cực:
Phải thừa nhận rằng, do ảnh hưởng từ những mặt trái của nền kinh tế thị
trường cũng như của xu thế toàn cầu hóa, và đặc biệt, do khơng nghiêm túc trong
rèn luyện, phấn đấu, một bộ phận học sinh ở nước ta đang có những biểu hiện tiêu
cực đáng lo ngại, như phai nhạt lý tưởng: Không chịu học tập, học lấy lệ, gian dối
trong thi cử kiểm tra, học tập mang tính gị ép của cha mẹ, cho rằng sướng khổ do
số trời….
7


Một bộ phận không nhỏ chạy theo lối sống buông thả, lười học tập và tu
dưỡng đạo đức, thích hưởng thụ, ngại lao động, chuộng những sinh hoạt thiếu lành
mạnh hoặc phản văn hóa, nghiện ngập, thậm chí vi phạm pháp luật ...điều này thể
hiện rõ qua biểu hiện: Thiếu lễ phép với với cha mẹ, thầy cơ... thích gây gỗ, quấy

rối, đánh nhau, trộm cắp, cướp giật mà những điều đó cũng bởi vì đam mê cờ bạc,
số đề, nghiện chơi games…
Những biểu hiện đó làm ảnh hưởng đến những quan điểm về tình bạn, tình
yêu trong lứa tuổi thanh thiếu niên, nhất là khi chưa được trang bị và thiếu kiến
thức về vấn đề này.
Tất cả những suy nghĩ lệch lạc đó dần dần ảnh hưởng xấu đến động cơ, ước
mơ hoài bão vươn lên; lý tưởng trống rỗng, mục đích trơng chờ, mờ nhạt, tư tưởng
thực dụng…
Những hiện tượng đó, trước hết là nguy cơ đe dọa tương lai của chính bản
thân, gia đình, đồng thời cản trở sự phát triển theo hướng lành mạnh, tiến bộ và văn
minh của xã hội ta hiện nay.
Cụ thể, đạo đức trong học đường đang có nguy cơ xuống cấp, mơ hồ về truyền
thống dân tộc, chê bai tinh hoa dân tộc trong khi đó đua địi xính ngoại…. Một bộ
phận học sinh rơi vào những tệ nạn xã hội, bạo lực học đường; khơng kính trọng
thầy cơ, xem thường bạn bè, mọi người xung quanh; không hiếu thảo với ông bà
cha mẹ; thiếu tính nhân đạo; các em mê games bỏ học hoặc tự tử vì games; …
Đối với học sinh trường THPT X - nơi tôi công tác cũng cịn có những học
sinh bộc lộ một số biểu hiện chưa tốt về đạo đức, lối sống, lý tưởng:
Một số học sinh có biểu hiện chán nản, khơng thích học, không xác định được
động cơ học tập nên bỏ học hoặc học để lấy tấm bằng tốt nghiệp THPT…
Một số học sinh thường xuyên vi phạm, không chấp hành nội quy của nhà
trường: gây mất trật tự trong lớp, nói tục, nói dối thầy cơ và bạn bè,…
Cịn hiện tượng học sinh bỏ học, hút thuốc lá, chơi games.
Có hiện tượng gây gổ đánh nhau trong trường, có các hành vi ngơn ngữ, ứng
xử thiếu văn hóa.
* Ngun nhân dẫn đến học sinh chưa tích cực
* Từ gia đình:
Một số ít phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến giáo dục con cái, cịn nng
chiều, phó mặc cho nhà trường, thậm chí có phụ huynh cịn bất lực trước con cái.
Một số ít phụ huynh chưa có phương pháp giáo dục con cái đúng theo khoa học,

còn nặng bạo lực, chửi bới con cái làm tổn hại đến thân xác và tinh thần của các
em.

8


Lứa tuối các em rất nhạy cảm nên gia đình nào có bố mẹ hay bất hồ, cãi vã,
khơng có hạnh phúc, các em dần dần bị ảnh hưởng tâm lí như nhút nhát, sống
khép mình, buồn phiền, ít nói. Nặng hơn các em có thể bị trầm cảm, do đó ảnh
hưởng rất lớn đến việc học, từ đó học lực của các em sẽ giảm sút dẫn đến chán
học.
Một số học sinh lại có bố mẹ li hơn nên hụt hẫng về mặt tình cảm và ở với
ơng bà, thiếu thốn sự quan tâm chăm sóc, nhắc nhở của bố mẹ nên việc học của
các em cũng bị ảnh hưởng rất nhiều.
Do sự buông lỏng, thiếu trách nhiệm và sự quan tâm của gia đình, những éo
le trong cuộc sống gia đình ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành nhân cách của
các em.
Gia đình có hồn cảnh khó khăn, cha mẹ phải lao động vất vả, không quan
tâm đến việc học tập của các em, phó mặc cho nhà trường, có gia đình buộc con
cái phải lao động, làm cho các em khơng có thời gian học tập ở nhà như soạn bài
mới, học bài cũ, do đó khi đến lớp việc tiếp thu bài mới rất khó khăn, lo lắng, sợ
sệt khi thầy cô kiểm tra bài cũ… từ đó thua sút bạn bè và phát sinh tâm lí chán
học dẫn đến trốn học, bỏ học.
Bố mẹ đều đi làm ăn xa vì lo kinh tế cho gia đình đã phó mặc con cái cho
ơng bà hoặc anh chị em chăm sóc. Vì vậy nếu các em chưa ý thức tốt về việc học
tập, đồng thời bố mẹ khơng quan tâm, thiếu sự quản lí chặt chẽ của người lớn nên
chất lượng học tập bị ảnh hưởng, các em sẽ học tập yếu thua sút bạn bè.
Có gia đình tuy khơng khó khăn về kinh tế nhưng lo làm giàu, bỏ mặc con
cái, không quan tâm đến việc học của các em. Những gia đình này lại nuông
chiều các em về vật chất, cho nhiều tiền tiêu vặt khi đến lớp, dần dần sẽ hình

thành đức tính khơng tốt ở các em.
Do hồn cảnh gia đình một số em rất khó khăn, bố mẹ phải đi làm các
em hay nghỉ học để ở nhà trông em; do đó các em bị mất kiến thức và trở thành
học sinh chưa tích cực.
* Từ xã hội:
Thực trạng những mặt xấu của xã hội. Trong điều kiện xã hội hiện nay từng
giờ, từng ngày những cám dỗ, ảnh hưởng tiêu cực của xã hội dội vào trường học và
tác động đến học sinh.
Sự tác động của phim ảnh, games online, bị bạn bè khơng tốt lơi kéo, mải
chơi, sớm có những mối quan hệ tình u khơng lành mạnh, thích đua đòi, ăn
diện làm cho các em dễ dàng bắt chước dần dần làm cho các em trở thành học
sinh chưa ngoan..., thậm chí là vi phạm pháp luật.
Các dịch vụ kinh doanh trị chơi giải trí như: điện tử, chát, game, bida... mọc
lên rất nhiều là những điểm thu hút học sinh chưa ngoan, làm cho các em đam mê
9


dẫn đến bỏ học, thậm chí cịn nẩy sinh những hành động trộm cắp, bắt nạt học sinh
lớp dưới để lấy tiền...
* Từ bản thân học sinh:
Đối với học sinh bậc trung học phổ thông, hầu hết các em bước sang giai
đoạn phát triển toàn diện về thể chất, nên đặc điểm tâm lý của các em rất dễ bị
kích động do những yếu tố xã hội bên ngoài, các em thường tự khẳng định mình
là người lớn, nên các em thấy mình có quyền giải quyết các vấn đề theo kiểu
người lớn, tự quyết định cho bản thân mình mà không nghe theo sự giáo dục của
người khác kể cả cha mẹ. Một số nghĩ rằng thầy cô sẽ khơng làm gì được mình
ngồi việc nhắc nhở, hăm dọa, mời phụ huynh… Từ đó mà các biểu hiện chưa
tích cực dần dần xuất hiện. Những biểu hiện chưa tích cực của học sinh lại rất
khác nhau về mặt hình thức cũng như mức độ nên giáo viên chủ nhiệm lớp cũng
rất khó trong việc phát hiện và có biện pháp xử lý.

Dĩ nhiên trong trường nào cũng vẫn có một số học sinh chưa tích cực, bị
cám dỗ, cịn sa ngã vào những trị chơi vơ bổ, thậm chí hút hít, cờ bạc, trộm
cắp… nhưng đó chỉ là con số nhỏ.
Đối với thầy cô làm công tác chủ nhiệm trước hết phải hiểu biết về tâm lý
lứa tuổi của các em để có giải pháp xử lý tình huống cho phù hợp. Trong lớp có
rất nhiều đối tượng học sinh, học sinh giỏi, học sinh khá, học sinh trung bình, và
học sinh yếu kém. Đối với học sinh khá giỏi thường các em rất có ý thức, nghe
lời thầy cơ, các em sẽ thấy hối hận khi mình lỡ vi phạm và các em sửa đổi những
khuyết điểm của mình một cách tự giác rất nhanh. Nhưng đối với học sinh yếu
kém (học sinh chậm tiến) khi vi phạm các em sửa đổi rất chậm, thậm chí là
khơng sửa đổi mà còn vi phạm ngày càng tăng lên dẫn đến học lực ngày càng sa
sút và kết quả phải lưu ban hoặc bỏ học giữa chừng. Do đó giáo viên làm công
tác chủ nhiệm phải nắm rõ các đối tượng của mình để có hướng giáo dục cho phù
hợp. Làm thay đổi thái độ học của học sinh từ “xấu chuyển sang tốt” góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường và giảm tỉ lệ bỏ học hằng năm.
2. Thực trạng giáo dục cảm hóa học sinh chưa tích cực của giáo viên:
Thực tế cho thấy một số trường ln lấy thành tích và chạy đua theo thành
tích mà quên đi nhiệm vụ cao cả của nghề dạy học là giáo dục nhân cách, đạo
đức cho học sinh từng bước hoàn thiện, từ cái chưa thành cái có, giáo dục, cảm
hóa học sinh chưa ngoan, nghịch ngợm thành học sinh ngoan.
Mặc dù đã được đào tạo kỹ lưỡng, nhưng mỗi giáo viên có năng khiếu, sở
trường riêng. Về chuyên môn phần lớn đáp ứng nhu cầu giảng dạy, nhưng về kỹ
năng quản lý, giáo dục học sinh trong cơng tác chủ nhiệm thì chắc khơng phải ai
cũng làm tốt nhất là việc giáo dục học sinh chưa tích cực.
Một số giáo viên cịn lúng túng chưa tìm ra những biện pháp thích hợp trong
việc quản lí giáo dục học sinh, chưa quan tâm đúng mức tới những học sinh có
10


hoàn cảnh đặc biệt (những em quá đầy đủ vật chất, được chiều chuộng, và ngược

lại những em lại có hồn cảnh khó khăn q thiếu thốn về vật chất, những em có
hồn cảnh éo le, những em có cá tính bất thường…). Một số giáo viên lại “ngại”
khi phải xử phạt học sinh chưa tích cực vì sợ các em bỏ học làm giảm sĩ số của
lớp, ảnh hưởng đến chỉ tiêu của trường. Một số giáo viên lại ngại khó, ngại khổ,
ngại va chạm, chưa trở thành chỗ dựa tinh thần cho các em mỗi lúc gặp khó khăn,
thiếu tâm huyết với nghề, chưa quan tâm phát hiện và ngăn chặn kịp thời những
hành vi lệch lạc của học sinh.
Một số giáo viên chưa thực sự quan tâm đến học sinh chưa tích cực, thường
hay sử dụng các biện pháp mạnh như trách mắng các em trước lớp làm cho các
em mặc cảm, tự ti dẫn đến chán nản, lười đi học.
Đa số giáo viên chưa thực sự gần gũi với các em nên không nắm bắt kịp thời
được tâm tư, nguyện vọng của các em, do đó có biện pháp giáo dục khơng phù
hợp.
Trường THPT X chúng tôi nằm ở vùng gần biển. Người dân ở đây sống
bằng nghề làm muối, đánh bắt cá và trồng rau. Kinh tế gia đình của hầu hết các
em cịn nghèo, các em phải dành nhiều thời gian giúp đỡ gia đình. Tuy nhiên, suy
nghĩ của một số em là khơng học được thì về đi bn bán rau, đánh bắt cá, lại bị
bạn bè rủ rê, lôi kéo….sinh ra chán học và trở nên hư hỏng. Bên cạnh đó, phụ
huynh các em dành hầu hết thời gian làm ăn, ít quan tâm tới việc học và các mối
quan hệ bạn bè của các em, và phó mặc việc giáo dục các em cho nhà trường.
Số lượng học sinh toàn trường khá đơng, mỗi năm trên một nghìn rưỡi học
sinh nên việc quản lí học sinh gặp nhiều vất vả, khó khăn. Năm nào cũng có một số
học sinh chưa tích cực.
3. Phương pháp phân loại:
Để đạt hiệu quả cao trong việc cảm hóa học sinh chưa tích cực tơi đã tiến
hành:
Nghiên cứu hồn cảnh gia đình, hồn cảnh sống của học sinh chưa tích cực
(60% học sinh chưa ngoan, chưa tích cực là do ảnh hưởng từ gia đình).
Nghiên cứu hồ sơ học sinh, vào đầu năm học tôi tiến hành phát cho học sinh
01 tờ hồ sơ học sinh. Trong hồ sơ đó học sinh sẽ khai đầy đủ các thơng tin lý lịch

về bản thân, sở thích, ước mơ, nguyện vọng... Qua hồ sơ này, tôi sẽ dễ nắm bắt
được những đặc điểm tâm sinh lý của học sinh.
Nghiên cứu qua học bạ về kết quả học tâp, rèn luyện của học sinh qua những
năm trước đó.
Nghiên cứu qua những nhận xét, đánh giá của bạn bè đặc biệt là người thân
của các em, qua cha mẹ học sinh, qua tổ chức đoàn đội và qua giáo viên chủ nhiệm
những năm trước.
11


Nghiên cứu hoạt động giao tiếp giữa giáo viên và học sinh. Quá trình quan
sát, tiếp xúc của giáo viên và học sinh sẽ giúp cho giáo viên có thêm những hiểu
biết tâm lý, tính cách, nhận thức của học sinh.
Nghiên cứu nhân cách của các em qua lời nói: Thường thì các em ăn nói cộc
lốc, thiếu Dạ - Thưa, ngôn ngữ tỏ ra vô lễ với thầy cô và người lớn. Trình bày vấn
đề gì thường ấp a ấp úng, hay nói dối và tìm cách chạy tội. Đối với bạn bè thường
sử dụng lời nói có vẻ bề trên, lời nói có tích chất đe dọa, bắt nạt, hù dọa học sinh
khác, có khi sử dụng xảo ngôn để lừa dối bạn bè và thầy cô…
Nghiên cứu qua cử chỉ hành động: Học sinh chưa tích cực thường có những
hành động thái q, vơ lễ. Trước mặt thầy cơ thường tỏ ra lì lợm, ngang bướng,
khơng biết vâng lời, thậm chí tỏ vẻ thách thức với thầy cơ, có khi tỏ ra nghe lời
nhưng giả dối. Với bạn bè thường có những hành động gây gỗ, đánh lộn nhau gây
mất đoàn kết, thường hay bắt nạt học sinh khác một cách vơ cớ. Nghiêm trọng hơn
là có những hành động vi phạm pháp luật như trộm cắp, đánh lộn hay bỏ học chơi
la cà, vào các quán chơi games…
Nghiên cứu qua quan hệ bạn bè và người khác: Học sinh chưa tích cực
thường có những quan hệ bạn bè và người khác hết sực phức tạp. Đối với bạn bè
tốt các em thường ngại tiếp xúc, tìm cách xa lánh… Bởi sợ các bạn tố giác và phản
ánh đến nhà trường, gia đình những điều mình sai phạm. Học sinh chưa tích cực
thường tìm cách lơi kéo những học sinh chưa ngoan khác vào cuộc để thành lập

nhóm, bè phái. Các em thường quan hệ với người xấu hoặc bị những người xấu lôi
kéo làm những điều chưa đúng….
Đối với những giáo viên dạy môn Ngữ Văn có thể phân loại được học sinh
bằng chính những đề văn kiểm tra trên lớp. Giáo viên có thể ra một số đề bài như:
“Em hãy tâm sự với Thầy /Cô? Em hãy viết bài văn tự sự kể về bản thân mình?...
Qua những đề văn này, học sinh chưa tích cực có cơ hội để tâm sự, chia sẻ với
Thầy/Cơ rất nhiều. Qua đó khơng chỉ hiểu được học sinh mà cịn tạo được tình
cảm, sự tin cậy của học sinh đối với mình.
* Kết quả phân loại:
Nhóm 1: Chưa tích cực là do vi phạm nội quy nhà trường, của lớp, mất trật tự
trong giờ học, lười học bài, đi học muộn….
Nhóm 2: Chưa tích cực là do trốn học đi chơi điện tử, lừa dối cha mẹ, thầy
cô, giả mạo chữ ký của bố mẹ trong sổ lên lạc hoặc giấy xin phép.
Nhóm 3: Chưa tích cực là do vi phạm những chuẩn mực đạo đức, hỗn láo với
thầy cơ giáo, cha mẹ, hay nói tục, chửi bậy, dọa nạt bạn bè thậm chí đánh nhau,
lãng tránh các hoạt động tập thể.
Nhóm 4: Chưa tích cực là do vi phạm pháp luật, đánh bạn, trộm cắp, chấn
lột,…
12


Nhóm 5: Chưa tích cực là do những em có trí tuệ và khả năng nhận thức bình
thường nhưng rất lười biếng, lêu lổng, học kiểu “tài tử” dẫn đến hổng kiến thức,
hay quay cóp trong học tập. Kết quả học tập thất thường, sút kém, luôn xếp “đội
sổ” dẫn đến chán học.
Từ kết quả phân loại từng nhóm học sinh chưa tích cực tơi có sử dụng phiếu
thăm dị ý kiến của một số giáo viên làm công tác chủ nhiệm trong trường tôi đang
công tác. Số phiếu điều tra là 10 phiếu.
Tôi sử dụng 5 câu hỏi. Các thầy cô lựa chọn theo các giải pháp sau:
1. Báo cáo với phụ huynh.

2. Báo cáo với Ban giám hiệu và Đoàn trường.
3. Giáo viên chủ nhiệm tự giải quyết hoặc kết hợp với giáo viên bộ môn.
4. Giáo viên chủ nhiệm khơng làm gì và bỏ qua.
TT

1

2

3

Nội dung câu hỏi

Giải pháp
1

2

3

4

Các thầy cơ làm
gì khi học sinh vi
phạm nội quy nhà
trường, của lớp, mất
trật tự trong giờ học,
lười học...?

7/10 GV


2/10 GV

1/10 GV

0/10 GV

= 70%

=20%

=10%

= 0%

Các thầy cơ làm
gì đối với học sinh
trốn học đi chơi điện
tử, lừa dối cha mẹ,
thầy cô, giả mạo chữ
ký của bố mẹ trong sổ
liên lạc hoặc giấy xin
phép?

5/10 GV

1/10 GV

3/10 GV


1/10 GV

=50%

= 10%

=30%

= 10%

Các thầy cơ xử lý
tình huống đối với em
học sinh vơ lễ với thầy
cơ, nói tục, chửi bậy,
dọa nạt bạn bè, đánh
nhau, lãng tránh các
hoạt động tập thể như
thế nào?

5/10 GV

3/10 GV

2/10 GV

0/10 GV

=50%

= 30%


=20%

=%

13


4

5

Các thầy cơ có
biện pháp gì đối với
em học sinh vi phạm
pháp luật, đánh bạn,
trộm cắp…?

7/10 GV

2/10 GV

1/10 GV

0/10 GV

= 70%

=20%


= 10%

= 0%

Các thầy cơ làm
gì với những em có trí
tuệ và khả năng nhận
thức bình thường
nhưng rất lười biếng,
lêu lổng, học kiểu tài
tử dẫn đến hổng kiến
thức?

6/10 GV

1/10 GV

2/10 GV

1/10 GV

= 60%

=10%

= 20%

=10%

Thông qua phiếu điều tra này tôi thấy phần lớn là giáo viên chủ nhiệm thông

báo cho gia đình các em hoặc nhà trường và đồn trường giải quyết vấn đề. Giáo
viên chủ nhiệm chưa thực sự đưa ra các giải pháp tích cực. Trước thực trạng này
tôi xin đưa ra một số giải pháp sư phạm cảm hóa một số học sinh chưa tích cực.
III. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
* MỘT SỐ BIỆN PHÁP CẢM HÓA HỌC SINH CHƯA TÍCH CỰC
Nguyên nhân chủ yếu là do tâm lý của tuổi “dậy thì”, thích thể hiện mình và
dễ bị lơi cuốn theo những thói hư tật xấu dẫn đến bỏ học và có nguy cơ trở thành
những đối tượng xấu. Đây là vấn đề gây trăn trở không chỉ trong nhà trường mà cả
trong gia đình và xã hội. Dưới đây là một số phương pháp giúp giáo viên gần gũi
và nhận được sự tương tác của những học sinh chưa tích cực này.
1. Tìm hiểu hồn cảnh gia đình học sinh, phân loại theo nhóm:

14


Là giáo viên chủ nhiệm, đầu năm học chúng ta nên xây dựng một kế hoạch đi
thăm gia đình một số học sinh trong lớp. Ngồi ra ta cũng tìm hiểu hoàn cảnh một
số em trong lớp qua bạn bè của những học sinh đó để có biện pháp giáo dục phù
hợp với từng đối tượng.
Theo các chuyên gia tâm lý giáo dục thì phần lớn tính cách nghịch ngợm của
các em hầu hết bắt nguồn từ gia đình. Ta có thể chia nhóm này ra 3 dạng:
Nhóm 1: Dạng học sinh ương ngạnh do gia đình quá chiều chuộng
Trên thực tế có một số gia đình khá giả q chiều chuộng con cái cả về vật
chất lẫn tinh thần. Nghĩa là cho các em tiêu tiền, sử dụng đồng tiền theo ý thích
hoặc dễ dàng tha thứ khi các em mắc phải những khuyết điểm. Nên ngay từ nhỏ
các em đã có cá tính ương ngạnh, sống ích kỷ, muốn được mọi người chiều theo ý
mình. Dạng học sinh này thường bỏ bê việc học hành, bị các thành phần khác lợi
dụng, thường tỏ ra sống vương giả, thường bảo kê, rủ rê các học sinh khác bỏ học
vào quán, vào các dịch vụ vui chơi... tụ tập với các bạn đã nghỉ học, nên ít nghe lời
thầy cơ, tỏ ra cứng đầu, khó bảo và chậm tiến bộ. Các em này thường thích thể

hiện bản thân, chứng tỏ cho người khác thấy mình đã lớn và thích tự cho trong mọi
hành động.
* Biện pháp xử lý:
* Đối với học sinh:
Tơi tâm sự, trao đổi thuyết phục, phân tích để các em nhận thấy rằng: Ông bà,
cha mẹ nào cũng giàu lịng thương con nhưng tình thương ấy bị các em lạm dụng,
đòi hỏi ở cha mẹ quá nhiều thì mình trở thành người có tội và phụ lại tấm lịng u
thương của cha mẹ, ơng bà. Tiền bạc của cha mẹ làm ra xét cho cùng cũng là mồ
hôi nước mắt, sự vất vả lăn lộn trong cuộc sống mới có được. Việc tiêu tiền đúng
mục đích, phù hợp với cơng việc thì đồng tiền ấy mới có ý nghĩa, mới là con ngoan
trong gia đình. Cịn chi phí vào việc ăn chơi đua địi khác nào chà đạp lên cơng sức
của cha mẹ. Ngồi ra, tơi có thể đưa ra mơt số ví dụ về sự vượt khó biết vươn lên
của một số bạn xung quanh để thức tỉnh em, dần dần “mưa dầm thấm lâu” tách em
ra khỏi những trị chơi vơ bổ và tránh xa một số bạn xấu.
* Đối với phụ huynh:
Tôi trực tiếp gặp gỡ trao đổi, phân tích cho họ thấy khơng nên cho các em tiền
một cách thoải mái, không nên nuông chiều con một cách quá mức, phải theo dõi
sự chi tiêu của các em, sự kết bạn vui chơi của các em ở nhà, ở trường. Nếu thoải
mái, lỏng lẻo; việc cho tiền các em và không nghiêm khắc khi các em mắc lỗi khác
nào đưa con mình vào con đường tội lỗi.
Qua việc trao đổi thẳng thắn, phân tích với học sinh và phụ huynh, nhiều em
đã tiến bộ rất nhanh, ngăn chặn được nhiều em theo chiều hướng xấu. Một số phụ

15


huynh đã nhận ra những sai lầm của mình. Họ càng lo lắng quan tâm theo dõi các
em sát sao hơn và phối hợp tốt với nhà trường để giáo dục.
Nhóm 2: Dạng học sinh chưa tích cực do gia đình bỏ rơi thiếu quan tâm:
Trong cuộc sống có nhiều gia đình chỉ biết lo làm ăn kinh tế, thiếu quan tâm,

kiểm tra, đôn đốc việc học hành của con cái. Chuyện học của con được chăng hay
chớ. Có thể do quá bận công việc làm ăn, buôn bán, thường phải đi xa nhà để con
tự lập sinh sống, năm bảy hôm đi làm ăn xa mới về nhà hoặc bn bán bận rộn q
khơng có thời gian quan tâm đến con… Dạng học sinh này thực ra do không có
người quản lý, quan tâm nên mới chưa ngoan (hiện nay dạng học sinh này khá phổ
biến). Lúc đầu các em lơ là việc học, học yếu dần rồi chán học. Khi bố mẹ phát
hiện ra con mình hư hỏng mới quan tâm rồi la mắng, đánh đập, trút giận lên thân
con. Nhưng thực ra lại gây áp lực thêm cho con. Bởi ở trường bạn bè, thầy cô rầy
la, quở trách vì làm ảnh hưởng đến thi đua của tập thể lớp, về nhà bố mẹ lại gắt
gỏng, giận dữ, thậm chí cịn trút lên mình con những trận địn roi vơ cớ…, cho nên
các em này đang hư hỏng trở nên lì lợm, bướng bỉnh, quậy phá…
* Biện pháp xử lý:
* Đối với học sinh:
Bản thân tôi trực tiếp gặp gỡ trao đổi, tâm sự, phân tích việc sai trái của các
em, chỉ rõ cho các em thấy việc bố mẹ bận rộn lo làm ăn kinh tế để xây dựng gia
đình mà mình lơ là việc học là sai trái, thiếu trách nhiệm với gia đình, là người con
bất hiếu. Bên cạnh đó tơi sẽ ln đồng hành cùng các em, quan tâm các em cả ở
trường và ở nhà, vừa làm bạn, làm thầy và làm cha mẹ để các em thấy có niềm tin
mà phấn đấu. Phần lớn các em nhận ra lỗi và sữa chữa.
* Đối với phụ huynh:
Bản thân tôi gặp gỡ và trao đổi phân tích từng cá tính học sinh và chỉ ra cho
phụ huynh thấy được việc con mình chưa ngoan là hậu quả của việc thờ ơ vô trách
nhiệm, thiếu quan tâm, chu đáo, khoán trắng việc học hành cho các em.
Giúp họ nhận ra việc thiếu sót của mình và định hướng cho họ cần phải phối
kết hợp với nhà trường để theo dõi và giáo dục các em. Cần tránh dùng những biện
pháp mạnh, thô bạo như đánh đập, chửi mắng mà nên “lạt mềm buộc chặt”, lấy
tình cảm và sự quan tâm để cảm hóa giáo dục các em trở thành người tốt. Chớ vội
thất vọng, chán nản mà buông thả các em. Nhiều phụ huynh đã nhận ra và kết hợp
với nhà trường làm rất tốt nên các em tiến bộ rất rõ.
Nhóm 3: Dạng học sinh chưa tích cực có hồn cảnh khá đặc biệt:

Nói đến hồn cảnh đặc biệt ở đây tơi muốn đề cập đến một số em sống và lớn
lên trong một gia đình bất hạnh như bố mẹ li dị, bố mẹ mất sớm phải ở với người
thân, bố mẹ bất hoà hay đánh đập, chửi mắng hoặc sinh ra khơng biết bố.... Học
sinh chưa tích cực ở dạng này thường tỏ ra lạnh lùng, bất cần, tự ti, mặc cảm
16


khơng muốn ai quan tâm chia sẻ đến mình, cho rằng sự quan tâm của người khác là
sự thương hại, bố thí.... Chính vì vậy các em ln có tâm trạng ấm ức, uất hận...
đời sống tinh thần và vật chất của các em gặp nhiều khó khăn. Đây là học sinh có
cá tính mạnh, ngoan cố rất đáng lo; nếu khơng giáo dục tốt các em thì sẽ là gánh
nặng cho xã hội sau này. Việc cảm hoá được học sinh này là một quá trình gian
khổ đầy thử thách.
* Biện pháp xử lí:
* Đối với học sinh:
Đối với dạng học sinh này chúng ta cần lấy tấm lòng chân thật, tìm cách gần
gũi để chia sẻ tình cảm với các em. Điều tế nhị không nên động chạm đến tình cảm
đau thương của các em. Tránh dùng những hình thức kỉ luật nặng gây tổn thương
tình cảm dẫn đến các em dể hiểu nhầm trên đời này không có ai thương mình hoặc
mình là thứ bỏ đi... Phải làm sao cho các em tin tưởng ở mình và cảm thấy mình là
chỗ dựa tinh thần của các em. Cần phân tích, định hướng cho các em phải có nghị
lực phấn đấu vượt lên trên số phận. Gieo vào lòng các em suy nghĩ và hành động
đúng đắn tránh bng xi, chán chường vì hồn cảnh, yếu hèn nhút nhát là đáng
chê trách.
* Đối với phụ huynh (hoặc người đỡ đầu):
Tuỳ thuộc vào hồn cảnh của mỗi em tơi tìm cách tiếp xúc đến phụ huynh.
Đối với những phụ huynh là người đỡ đầu (Ơng bà, chú, bác....) tơi động viên họ
cố gắng quan tâm giáo dục các em thật nhiều, đem hết trái tim yêu thương để quản
lí dạy bảo các em; tránh đừng để các em đau lịng qua lời nói vì trong lịng các em
đã sẵn nỗi đau rồi. Riêng đối với học sinh chỉ còn cha hoặc mẹ hay vì lí do nào đó

cha mẹ khơng chung sống với nhau thì tơi khun phụ huynh nên quan tâm chăm
sóc tinh thần cho các em; hãy phân tích cho các em hiểu để chia sẻ hoặc nhờ người
thân trong gia đình khuyên nhủ động viên các em.
Đối với những học sinh thuộc nhóm này tơi rất chú ý đến đời sống vật chất
của các em. Nếu các em thực sự gặp khó khăn về vật chất tơi đề nghị lên lãnh đạo
nhà trường, đồn trường quan tâm chiếu cố miễn giảm tất cả các khoản thu cho các
em. Bên cạnh đó, tơi tâm sự và kêu gọi tập thể lớp đùm bọc chia sẻ các em một
cách kín đáo, tế nhị.
2. Đừng phân biệt các em quá rõ ràng, đừng để các em bị cô lập trong
lớp:
Điều tối kỵ nhất trong giáo dục học sinh chưa tích cực là làm các em rơi vào
trạng thái thấy mình là kẻ cá biệt và cơ lập trong lớp rồi nảy sinh những phản ứng
tiêu cực. Vậy nên những cách xưng hô như “học sinh cá biệt”, “vô học”, “vô trị”,
“hư hỏng”, “hết thuốc chữa” rất dễ làm các em tổn thương và phản ứng mạnh hơn.
Bởi khi bước sang độ tuổi này, học sinh rất dễ tự ti và mặc cảm về bản thân, hình
17


thành nên suy nghĩ thầy cô, bạn bè đều ghét bỏ mình. Từ đó khoảng cách giữa thầy
và trị càng lớn hơn, các em sẽ tự cơ lập mình lại, ít giao lưu, tiếp xúc với tập thể.
Khi lớp có một hoạt động gì đó để cả lớp tham gia thì giáo viên hay phân
biệt và ít cho các em này tham gia vì sợ hỏng cơng việc. Và cịn nhiều nữa các vấn
đề khác mà đôi khi chúng ta quá tách biệt các em ra khỏi tập thể lớp.
Thay vì chăm chăm vào khuyết điểm và vi phạm của học sinh, giáo viên nên
cố gắng tìm hiểu để phát hiện ra những điểm mạnh của trò như năng khiếu thể
thao,văn nghệ... tạo cơ hội và điều kiện để học sinh được thể hiện năng khiếu của
mình. Từ đó làm cho các em tự tin hơn trong việc hòa đồng với thầy cô và tập thể
lớp.

Tổ chức hoạt động tập thể, hoạt động nhân đạo để tạo điều kiện cho các em

học sinh chưa tích cực này tham gia, xây dựng mơi trường lành mạnh, tích cực để
các em có cơ hội tự thể hiện mình. Cơng tác này thực sự đặc biệt có ý nghĩa đối
với học sinh trầm cảm, tự ti. Các em sẽ mạnh bạo, tích cực hơn trong học tập và
rèn luyện cho các em tham gia và thực hiện tốt các chuyên đề ngoại khóa, rèn
luyện kỹ năng sống để các em tiến bộ.
Có một số học sinh tự ti, sống khép kín, ngại tiếp xúc, tôi đã cùng các em
trong lớp giúp đỡ, quan tâm, kéo em vào các hoạt động vui chơi, thi đua học để
dần dần phá vỡ vỏ ốc mà các em ẩn mình.
18


Các bậc phụ huynh và giáo viên cần quan tâm tới các em này nhiều hơn
những em khác. Thay vì tách biệt chúng ta hãy gần gũi, tạo ra mối quan hệ thân
thuộc với các em để dễ dàng lắng nghe em nói và khuyên dạy các em. Khi cảm
thấy sự quan tâm, sự tôn trọng các em sẽ thay đổi.
Học sinh chưa tích cực rất ít ưu điểm nhưng lại nhiều khuyết điểm, do đó các
em thường bị phê bình và rất hiếm được tuyên dương. Hãy khen thưởng động viên
nếu các em làm được một điều gì đó cho lớp (dù lớn hay nhỏ). Nếu thầy cô xa
lánh, tách biệt hoặc dùng những từ ngữ không hay để nói các em thì các em sẽ rất
dễ bị tổn thương. Từ đó các em sẽ càng chống đối và nổi loạn hơn vì biết chẳng có
ai hiểu mình được. Bên cạnh đó, giáo viên chủ nhiệm khơng nên lạm dụng hình
thức thơng báo với gia đình học sinh về những việc làm vi phạm kỷ luật trường,
lớp của các em, hay xử phạt quá khắt khe, nhắc đi nhắc lại nhiều lần lỗi vi phạm.
Như vậy sẽ làm chai lì cảm xúc của những học sinh và các em sẽ thể hiện sự
chống đối quyết liệt hơn.
3. Biện pháp kiên trì tạo niềm tin, dùng tình yêu thương để thay đổi một
con người:
Việc giáo dục học sinh chưa tích cực thực sự là một cuộc thử thách về trình
độ, về bản lĩnh, về năng lực sư phạm, về lòng yêu nghề và tình yêu thương con
người của người thầy. Chỉ có những người thầy có tính kiên nhẫn, có lịng u

nghề, u thương học sinh hết mực thì mới có thể cảm hóa được những em học
sinh chưa tích cực này.
Xử lí các tình huống phải có tính nghệ thuật sư phạm cao. Có khi phải hịa
mình vào các em, cùng trao đổi, cùng chơi… với các em để cảm hóa các em. Tránh
thành kiến, nóng giận như khi có sự việc xảy ra, chưa biết rõ nguyên nhân đã vội
mắng chửi, hăm dọa các em. Cần kiên nhẫn giáo dục các em. Để bỏ được một tật
xấu cần phải có thời gian dài chứ khơng thể một sớm một chiều được. Chúng ta
thử hịa mình vào phong cách của các em xem sao!. Thỉnh thoảng sử dụng “thuật
ngữ” của các em bàn về những đề tài các em thích. Đó là cách mang các em đến
gần mình hơn. Khi mối quan hệ đủ thân thiện, khi niềm tin đủ lớn, người thầy sẽ
thuận lợi trong việc uốn nắn hành vi, khai sáng tư duy, định hướng nhận thức….
Để điều hành được các em học sinh chưa tích cực, người thầy phải sắm đủ vai. Khi
thì nhà mơ phạm nghiêm khắc, lúc lại là cái vai cho các em gục đầu vào. Khi lại là
nhà tâm lý, lúc lại là bác sĩ trị liệu, rồi thì là ơng trọng tài, lúc khác lại là người cố
vấn... Cứ như thế, kiên trì cho đến khi các em tự nhận ra tại sao mình phải thay đổi.
Từ cảm giác thầy cơ đã khơng chối bỏ mình, khơng chê mình, ln khen ngợi,
động viên, và tặng trái tim ghi điểm thưởng hay hạnh kiểm tốt trong tuần khi mình
có sự tiến bộ… Các em dần phát hiện ra giá trị của bản thân, cảm thấy mình hữu
ích và được việc… thế là tinh thần học tập được nhân lên, tạo ra sự tương tác và
công hưởng.
19


Giáo viên thường xuyên trò chuyện, quan tâm gần gũi, nhắc nhở động viên
học sinh học tập, có thái độ thân thiện với học sinh. Tạo cho học sinh nhìn mình là
cảm thấy gần gũi, chứ khơng phải là gặp mình là sợ bị la, sợ bị mắng. Như vậy học
sinh sẽ có tâm lý bất cần “Thầy cơ kệ thầy cô, ta là ta”. Ta phải làm sao để tạo cho
học sinh có cảm giác thầy cơ như một người bạn thân, bạn tâm tình, sẵn sàng lắng
nghe ý kiến của mình, khi mình vui, buồn đều có thể chia sẻ với thầy cơ, khích lệ
mình khi mình gặp khó khăn trong gia đình, bế tắc trong học tập hay trong cuộc

sống hằng ngày.

Giáo dục từng bước chậm rãi từ những công việc nhỏ. Chẳng hạn phải thức
dậy sớm một chút để khơng phải đi trễ, mình học yếu thì nên chịu khó, siêng làm
bài tập hơn các bạn, khi nào làm bài tập mệt thì nên giải lao để tinh thần thoải mái
rồi làm tiếp, không nên gắng quá sức. Giáo viên không nên giáo dục ào ạt, chưa
hỏi han lý do gì hết mà đã la mắng học sinh cho dù học sinh đó vi phạm nhẹ, như
vậy sẽ mất hiệu quả giáo dục. Bởi vì đấy là những học sinh chưa ngoan, tính tình
ương ngạnh, tâm lý bất cần, học hay không đối với bản thân không quan trọng mà
học sinh vào lớp chỉ là được “lãnh lương” hàng ngày, không phải làm những việc
nặng nhọc bằng tay chân ở nhà. Với những học sinh nhác học này ngoài động viên,
nhắc nhở, khuyên bảo, giáo viên còn phải nhờ bạn bè và bản thân giáo viên phải nỗ
lực giúp đỡ các em có ý thức vươn lên để học và rèn luyện.
20


Bên cạnh đó ta cịn phải biết chấp nhận và yêu thương. Có một câu chuyện kể
về Frank Mc.Court, một thầy giáo người Mĩ (được phong tặng danh hiệu Nhà giáo
của năm). Trong hồi ức “Người Thầy” thầy kể: Trường hướng nghiệp nơi thầy dạy
được xem là “bãi rác” cho những học sinh khơng đủ trình độ vào trường học. Ngày
nhận lớp cũng là ngày thầy đứng quan sát chúng quậy phá, la ó…. đủ kiểu. Cao
điểm là lấy bánh mì ném nhau và một học sinh lên tiếng “Để xem tay thầy giáo
mới này sẽ làm gì!”. Frank Mc.Court nói, ơng cố nghĩ về những kiến thức được
học ở Trường Đại học sư phạm New York để tìm cách đối phó. Tiếc là chỉ những
triết lý giáo dục, các mệnh lệnh đạo đức và ln lý, mà khơng có cách giải quyết
tình huống…“ném bánh mì”. Cuối cùng ơng quyết định “ăn bánh mì”. Ơng viết
“Đó là cách hành xử đầu tiên trong lớp- Cái miệng đầy bánh mì của tơi trong lớp.
Cái miệng đầy bánh mì của tơi thu hút sự chú ý của cả lớp. Chúng trố mắt nhìn tơi
đầy nét thán phục. “Tơi nghĩ, tơi đã nắm được chúng trong tay”.
Sự kiên trì, chấp nhận và tình u thương chính là chìa khóa để mở ra một

cánh cửa mới cho sự tiến bộ, tạo niềm tin cho các em thay đổi. (“Nếu bạn nhìn ai
đó với ánh mắt u thương bạn sẽ khơng nhìn thấy nét xấu xa mà bạn sẽ chỉ
nhìn thấy tồn những nét đẹp mà thơi”-Danh ngơn)
Thực tế cho thấy, những
học sinh chưa tích cực phần lớn
đều bị thu phục bởi cái tâm, cái
tình của người thầy. Khi học
sinh vi phạm, giáo viên phải tìm
hiểu lý do qua nhiều kênh như
trị chuyện chân tình với học
sinh, tìm hiểu qua bạn bè, hàng
xóm, đặc biệt là với cha mẹ học
sinh. Việc tìm hiểu, gần gũi,
quan tâm học sinh phải thật sự
xuất phát từ tình yêu thương của
người thầy. Khi học sinh hiểu
được tình cảm đó của thầy cơ thì
việc cảm hóa, giáo dục các em
cũng dễ dàng hơn nhiều.
Để thay đổi được một con
người giáo viên chủ nhiệm phải
có chữ tâm và chữ nhẫn. Hãy gặp riêng học sinh chưa tích cực, bằng tình cảm chân
thành của mình, giáo viên chủ nhiệm bình tĩnh, nhẹ nhàng, tế nhị phân tích có lý,
có tình, mức độ nguy hại của khuyết điểm. Giáo viên chủ nhiệm có thể thức tỉnh
học sinh bằng những câu chuyện đạo đức để cảm hóa học sinh.

21


Tổ chức cho tập thể lớp quan tâm tận tình giúp đỡ các em này dưới mọi hình

thức như thăm hỏi, đơi bạn, nhóm bạn cùng tiến. Giáo viên chủ nhiệm có thể lấy
tấm gương tốt trong tập thể, hoặc chính một học sinh chưa tích cực đã tiến bộ để
cảm hóa học sinh chưa tích cực khác.

Tổ chức bữa tiệc sinh nhật nhỏ bất ngờ mà cả lớp cùng giáo viên chủ nhiệm
dành cho em học sinh chưa tích cực. Chính tình cảm chân thành này sẽ làm cho các
em này phải suy nghĩ, cảm nhận được tình cảm yêu thương mà mọi người dành
cho mình. Dần dần sẽ làm tan chảy tảng băng trong lòng các em.
Nhiều em học sinh từ nghịch phá, hư hỏng, nổi loạn... nhưng đã thay đổi
trước những bậc thầy cơ có sự u thương khi dạy tụi nó. Sự yêu thương và chân
thành sẽ đụng chạm được tới các em bởi “Chỉ có tấm lòng mới đánh thức được
tấm lòng”.
Giáo viên đừng quá tức giận, bực bội mà ghét các em; điều này sẽ càng khó
để khuyên bảo và cảm hóa được những học sinh này. Biết chấp nhận và yêu
thương các em vơ điều kiện. Nên xử lý mềm mỏng, thậm chí dịu ngọt đối với học
sinh chưa tích cực này, nếu khơng sẽ khơng có hiệu quả, có khi gặp phản ứng
khơng tốt ngược trở lại về phía học sinh. Khi xảy ra một sự việc liên quan tới hành
vi của những học sinh có cá tính nổi trội, người thầy không đáp lại bằng phản ứng
tức thời, không tạo ra xung đột, phân thắng thua giữa thầy với trò mà cần tạo một
“khoảng lặng” trước hành vi sai trái của các em nhằm hạn chế tối đa những sai lầm
trong hành động của mình và cũng để các em có cơ hội, thời gian bình tĩnh, tự
nhận, tự đánh giá. Tuy nhiên cũng có lúc ta cũng phải cứng rắn, chẳng hạn trong
vấn đề xử phạt “mềm nắn rắn buông”.
22


Áp dụng quy định thưởng, phạt “phân minh, nghiêm túc, cơng bằng…” để
học sinh chưa tích cực có động lực, mục tiêu phấn đấu. Nếu học sinh có thói hư tật
xấu, phạm lỗi trầm trọng cũng có thể tùy trường hợp hay tùy đối tượng mà xử lý
chứ không xử lý một cách cứng nhắc. Học sinh tuổi trung học phổ thơng tự ái rất

cao, các em ln nghĩ mình là người lớn. Vì vậy thầy cơ giáo phải tơn trọng các
em, không thể tùy tiện la mắng các em trước mặt các bạn cùng lớp, cùng trường.
Người thầy cư xử làm sao mà để học sinh của mình mắc cỡ với bạn bè rồi dẫn đến
bất mãn thì các em sẽ chống trả quyết liệt, không thể giáo dục được.
Tóm lại, tơi vẫn cho rằng thầy cơ cần gần gũi, yêu thương học sinh đặc biệt là
học sinh chưa tích cực để hiểu các em hơn, sẵn sàng bỏ qua những lỗi lầm để uốn
nắn từ từ, giáo dục các em thành người tốt. Hãy yêu thương các em nhiều hơn, làm
cho các em cảm nhận được tình thương của thầy cơ dành cho mình. Người thầy
giáo vừa là thầy vừa là bạn tâm tình để các em thổ lộ mọi suy nghĩ, là chỗ dựa
đáng tin cậy mỗi khi các em gặp khó khăn. Thái độ vừa dịu mềm, vừa nghiêm
khắc, dám chấp nhận mọi hành vi chưa ngoan của học sinh để tìm ra phương pháp
giáo dục cảm hóa. Nếu làm được như vậy chắc chắn thầy cơ sẽ thành cơng. Với
tình u thương, sự chân thành mà các em thấy từ thầy cơ của mình thì các em cịn
bướng làm gì nữa.
4. Biện pháp giao nhiệm vụ, kiểm tra kết quả và yêu cầu các em viết nhật
ký:
Học sinh chưa tích cực thường khơng chiếm được tình cảm của các thầy cơ
giáo và sự tín nhiệm của cả lớp. Nhưng thực sự các em cũng có một năng lực nhất
định. Hãy tin tưởng và giao trọng trách cho các em sẽ phát huy thế mạnh của các
em học sinh này, giúp các em ý thức được trách nhiệm của mình, có cảm giác được
giáo viên chủ nhiệm đánh giá cao, khích lệ các em vươn lên đồng thời tạo được
ảnh hưởng tích cực lên các học sinh chưa tích cực khác.
Đối với học sinh chưa tích cực tuy ngỗ nghịch nhưng khi giao công việc các
em rất thích và hồn thành tốt nhiệm vụ. Những cơng việc khi giao cho các em cần
phải lựa chọn cho phù hợp và thường xuyên kiểm tra, động viên, khen thưởng kịp
thời để khích lệ tinh thần. Tơi nghĩ rằng một lời khen động viên các em chưa tích
cực này sẽ có tác dụng hơn một tờ tự kiểm điểm. Khen học trò là cả một nghệ
thuật, nếu biết khen đúng người, đúng lúc, đúng chỗ thì sẽ rất hiệu quả. Đôi khi
một hành động nhỏ xuất phát từ cái tâm của người thầy cũng đủ làm thay đổi số
phận một con người.

Áp dụng phương pháp “lấy độc trị độc”. Tôi thường lấy em chưa ngoan nhất
lên làm lớp trưởng. Điều này hơi mạo hiểm nhưng nếu chúng ta gắn các em vào
trách nhiệm lớn, tin tưởng các em, đồng thời động viên em kịp thời, luôn đồng
hành giúp em trên cương vị mới mang đến cơn gió mới thức tỉnh em buộc em phải
cố gắng để tiến bộ.
23


×