Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Thu hoạch tập TRUNG dân CHỦ NGUYÊN tắc cơ bản của ĐẢNG QUÁN TRIỆT THỰC HIỆN NGUYÊN tắc tập TRUNG dân CHỦ TRONG ĐẢNG bộ QUÂN đội HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.53 KB, 22 trang )

1

TẬP TRUNG DÂN CHỦ NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA
ĐẢNG QUÁN TRIỆT THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC TẬP
TRUNG DÂN CHỦ TRONG ĐẢNG BỘ QUÂN ĐỘI HIỆN
NAY

Mở đầu
Tập trung dân chủ (TTDC) là nguyên tắc cơ bản chỉ đạo xây
dựng tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng kiểu mới của
GCCN. Là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng, bảo đảm sự nhất trí
về tư tưởng và tổ chức, tăng cường đoàn kết nội bộ Đảng, làm cho
Đảng trở thành một đội ngũ có tổ chức chặt chẽ và sức chiến đấu
cao. Nhằm phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo của các tổ
chức đảng và từng đảng viên, tạo nên sức mạnh vô địch của Đảng.
TTDC là tiêu chuẩn để phân biệt chính Đảng cách mạng của
GCCN, phân biệt Đảng Cộng sản chân chính với các Đảng phái
khác. Vì vậy, từ khi ra đời cho đến nay nguyên tắc TTDC luôn luôn
là mục tiêu mà các thế lực thù địch thường cơng kích nhằm phủ
nhận vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay, một trong
những vấn đề Đảng Cộng sản Việt Nam quan tâm là nghiên cứu lý
luận, quán triệt và tổ chức thực hiện nguyên tắc TTDC, là vấn đề mà
Đảng ta đã khẳng định nếu coi nhẹ hay từ bỏ nó sẽ dẫn đến nguy cơ
tan rã Đảng về mặt tổ chức. Với ý nghĩa đó, vấn đề nhận thức và thực


2

hiện đúng đắn nguyên tắc TTDC trong công tác xây dựng Đảng có vị
trí đặc biệt quan trọng.


Để có cơ sở quán triệt, thực hiện nguyên tắc TTDC trong Đảng bộ
quân đội hiện nay, trước hết cần phải hiểu rõ nguồn gốc hình thành và
phát triển của nguyên tắc TTDC của Đảng, với bản chất, nội dung của
nó, theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Xung quanh vấn đề này có
nhiều cách trình bày khác nhau. Trong phạm vi bài luận này, xin đề cập
2 nội dung:
I. Tập trung dân chủ nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng Cộng
sản
II. Quán triệt, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong
Đảng bộ quân đội hiện nay.
I. TẬP TRUNG DÂN CHỦ NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC CƠ BẢN
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công
nhân (GCCN) Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của GCCN, nhân
dân lao động và của cả dân tộc, Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành
động, Đảng lấy nguyên tắc TTDC làm nguyên tắc tổ chức cơ bản,
thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tự phê bình và phê bình
làm quy luật phát triển; Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân; Đảng kết
hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng
của GCCN. Những nguyên lý cơ bản đó, đã được Đảng ta vận dụng,


3

thực hiện sáng tạo trong tồn bộ q trình xây dựng và hoạt động lãnh
đạo của Đảng.
1. Thực hiện nguyên tắc TTDC là tất yếu khách quan trong
xây dựng tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng Cộng sản.

Quan điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ
rõ phải thực hiện chế độ TTDC là địi hỏi khách quan của phong
trào vơ sản. Xuất phát từ địa vị của GCCN trong nền sản xuất xã
hội, gắn liền với nền đại công nghiệp cho nên GCCN hướng tới sự
tổ chức và tập trung thành hàng ngũ của mình. Trong cuộc đấu tranh
để tự giải phóng, GCCN phải đương đầu với một kẻ thù có tổ chức,
có bộ máy nhà nước đồ sộ, đó là giai cấp tư sản. Địi hỏi GCCN
phải có sự đồn kết thống nhất. Ngồi ra, trong cuộc đấu tranh đó
GCCN tin tưởng rằng, lực lượng của mình sẽ lớn mạnh cùng với
việc nâng cao trình độ tổ chức và hướng tồn thể nhân dân lao động
vào mục tiêu đấu tranh để xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa. Từ
những điều kiện đó, tất yếu dẫn đến việc thành lập một chính Đảng
cách mạng của GCCN.
Xét về bản chất, GCCN có tính dân chủ sâu sắc, quan hệ giai cấp
của họ là quan hệ bình đẳng. Sau khi chiến thắng tư bản, GCCN tạo
điều kiện cho toàn thể nhân dân lao động tham gia rộng rãi vào hoạt
động xã hội. GCCN thành lập chính Đảng cách mạng trong đội ngũ của
mình để lãnh đạo cuộc đấu tranh đó, Đảng có những đặc điểm và
phẩm chất cơ bản hoàn toàn phù hợp với GCCN, Đảng là lãnh tụ của
giai cấp và là bộ phận tiên phong của GCCN, đại biểu trung thành lợi


4

ích của GCCN, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Chính bản chất và
những nhiệm vụ lịch sử của Đảng đòi hỏi phải xây dựng tổ chức, sinh
hoạt và hoạt động trên cơ sở nguyên tắc TTDC.
Tư tưởng về TTDC đã được C.Mác và Ph.Ăngghen, những
người sáng tạo ra chủ nghĩa cộng sản khoa học, đưa vào "Điều lệ
của Liên đoàn những người cộng sản" và nhiều văn kiện khác.

Trong Điều lệ Liên đoàn những người cộng sản C.Mác và
Ph.Ph.Ăngghen viết: "Mỗi hội viên và Liên đoàn phải liên lạc ít
nhất ba tháng một lần, cịn mỗi chi bộ phải liên lạc mỗi tháng một
lần với Ban Chấp hành khu bộ của mình. ít nhất cứ hai tháng một
lần, mỗi khu bộ phải báo cáo tình hình cơng tác của địa phương
mình với Ban Chấp hành Trung ương"(1). Điều lệ cũng xác định cả
cơ cấu tổ chức của Liên đồn, nhiều chi bộ cơ sở hợp thành một
cơng xã gồm từ 3 đến 20 thành viên. Đó là cơ sở của Đảng, là trung
tâm và hạt nhân của cơng tác chính trị của Đảng trong quần chúng
lao động. Nhiều công xã hợp thành một quận, đứng đầu là quận ủy
của Đảng. Cơ quan cao nhất của Liên đoàn là Đại hội hàng năm và
giữa hai kỳ Đại hội là Ban Chấp hành Trung ương. Cơ cấu đó thấm
nhuần tinh thần TTDC.
Liên đoàn được xây dựng trên trên cơ sở dân chủ triệt để, mọi
đảng viên đều bình đẳng, các cơ quan lãnh đạo của Đảng được bầu
ra, có thể
_________________


5

(1) (C.Mác và Ph.Ăngghen, Tuyển tập, tập 1, Nxb sự thật Hà Nội,
1970, tr. 493.
bị thay thế hoặc bãi miễn; đảng viên được tự do thảo luận những
vấn đề về sinh hoạt đảng; tranh luận trong khn khổ tính đảng.v.v.
Cơ cấu của Liên đoàn là thật sự dân chủ, các Ban Chấp hành được
bầu ra và có thể bị thay thế bất cứ lúc nào. Do đó ngăn chặn được
âm mưu và thủ đoạn chiếm độc quyền trong Liên đoàn. C.Mác và
Ph.Ăngghen nhấn mạnh dân chủ phải thống nhất với tập trung, với
kỷ luật chặt chẽ, bộ phận phải phục tùng toàn thể, thiểu số phải phục

tùng đa số.
Trong điều kiện lịch sử mới, khi cách mạng vô sản đã trở thành
nhiệm vụ trực tiếp. V.I.Lênin kế tục sự nghiệp của C.Mác và
Ph.Ăngghen, đã phát triển và làm sâu sắc thêm tư tưởng TTDC của hai
ông và xây dựng nguyên tắc TTDC làm nguyên tắc tất yếu trong xây
dựng Đảng kiểu mới về mặt tổ chức. Theo V.I.Lênin Đảng là đội tiên
phong và là tổ chức cao nhất của GCCN, Đảng vô sản kiểu mới phải
được tổ chức theo chế độ TTDC. Thực hiện chế độ TTDC trong
Đảng sẽ làm cho Đảng thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Nhằm củng cố và tăng cường sức mạnh của Đảng, làm cho đường
lối của Đảng được thực hiện một cách có hiệu lực. Mặt khác, thực
hiện tốt chế độ TTDC sẽ góp phần ngăn ngừa các phần tử khơng
kiên định, vơ chính phủ, cơ hội chủ nghĩa trong Đảng. Trong tác
phẩm "Một bước tiến hai bước lùi" V.I.Lênin viết: "Trước kia Đảng
ta chưa phải là một khối chính thức có tổ chức, mà chỉ là một tổng


6

số những nhóm riêng biệt và do đó, giữa các nhóm ấy khơng thể có
những quan hệ nào khác ngồi sự tác động về mặt tư tưởng hiện
nay, chúng ta đã trở thành một Đảng có tổ chức, điều đó có nghĩa là
chúng ta đã tạo ra một quyền lực, kiến cấp dưới phải phục tùng cấp
trên của Đảng" (1). V.I.Lênin cho rằng, Đảng muốn lãnh đạo GCCN và
quần chúng lao động trong cuộc _____________
(1). V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, mát-xcơva, 1980, tập 8, tr.
429.
đấu tranh chống lại giai cấp tư sản, muốn có sức mạnh Đảng phải có sự
thống nhất về ý chí và hành động. Đảng phải có sự thống nhất về ý chí
và hành động. Điều kiện cho sự thống nhất của Đảng trước hết, phải có

cương lĩnh chính trị và phải có tổ chức chặt chẽ, làm được điều đó tức là
tránh được tình trạng chia rẽ, phân tán trong Đảng. Tổ chức là cái bảo
đảm cho sự thống nhất về chính trị, tư tưởng và hành động. Ngồi
Cương lĩnh chính trị và hệ thống tổ chức chặt chẽ. Để thực hiện nguyên
tắc TTDC một cách đúng đắn, Đảng phải có một điều lệ thống nhất, một
cơ quan lãnh đạo thống nhất do Đại hội Đảng bầu ra, Đảng phải có kỷ
luật tự giác nhưng nghiêm minh.
TTDC là nguyên tắc tổ chức cơ bản trong công tác xây dựng
đảng, nếu chủ thể nhận thức không có bản lĩnh chính trị và động cơ
khơng trong sáng thì nguyên tắc TTDC sẽ phản tác dụng. Theo
V.I.Lênin, tập trung đi liền với dân chủ, tập trung càng cao thì dân
chủ càng được mở rộng, khơng thể có dân chủ mà thiếu tập trung và
ngược lại. "Không được quên rằng khi bênh vực chế độ tập trung,


7

chúng ta chỉ bênh vực chế độ TTDC thôi" (1). Điều đó có nghĩa là tập
trung quan liêu, độc đốn hoặc dân chủ tự do vô tổ chức đều xa lạ
với tư tưởng của Người và Lênin đã từng phê phán: " Ở ta, người ta
luôn luôn lẫn lộn chế độ tập trung với chế độ độc đoán và chế độ
quan liêu, lẽ tự nhiên là lịch sử nước Nga phải đẻ ra một sự lẫn lộn
như thế, nhưng dù sao đối với người mác xít, điều đó vẫn là một điều
dứt khốt khơng thể dung thứ được" (2).
Tư tưởng trên đây của V.I.Lênin đặt nền móng cho việc xây
dựng chính Đảng cách mạng của GCCN ở nước Nga, sau đó đã
được các Đảng trong Quốc tế cộng sản thừa nhận. Điều kiện gia
nhập Quốc tế cộng sản là các Đảng phải được xây dựng theo
nguyên tắc TTDC.
_____________

(1), (2). V.I.Lênin: Toàn tập, S đd, tập 24, tr. 183, 184.
Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng
lập, giáo dục và rèn luyện Đảng ta đã vận dụng sáng tạo học thuyết
Mác - Lênin về Đảng kiểu mới của GCCN vào điều kiện cụ thể ở Việt
Nam, để giải quyết đúng đắn những vấn đề trong cơng tác xây dựng
đảng. Hồ Chí Minh cho rằng TTDC là nguyên tắc tổ chức cơ bản của
Đảng. Người đã chỉ ra thế nào là tập trung, thế nào là dân chủ và mối
quan hệ giữa tập trung và dân chủ. Hồ Chí Minh viết: "để làm cho
Đảng mạnh thì phải mở rộng dân chủ, thực hành lãnh đạo tập trung,
nâng cao tính tổ chức và tính kỷ luật " (1).


8

Thực tiễn hơn 75 năm xây dựng và hoạt động của Đảng Cộng
sản Việt Nam, và từ những kinh nghiệm trong phong trào cộng sản
và công nhân quốc tế. Đảng ta luôn luôn khẳng định tầm quan trọng
của nguyên tắc TTDC, và đã kiên trì vận dụng nguyên tắc này cả
trong điều kiện khi chưa có chính quyền, cũng như khi có chính
quyền; cả trong điều kiện lãnh đạo chiến tranh, cũng như trong lãnh
đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, trong bất kỳ hồn cảnh nào
Đảng cũng ln ln là một khối thống nhất về ý chí và hành động.
Đảng thực sự là một khối thống nhất, đủ sức lãnh đạo cách mạng
Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Điều này, khẳng
định năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng ta là sức mạnh tổng
hợp của nhiều yếu tố, nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân
quan trọng là do Đảng Cộng sản Việt Nam kiên trì vận dụng đúng
đắn, sáng tạo nguyên tắc TTDC.
Trong khi chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch ln ln tìm
mọi cách xun tạc nguyên tắc TTDC của Đảng, làm cho các Đảng Cộng

sản từ bỏ nguyên tắc TTDC, nhằm mục đích làm cho Đảng suy yếu
không đủ sức lãnh đạo và dẫn đến sự tan rã, như một số Đảng Cộng sản
ở Đông Âu và Liên Xơ.
_____________
(1). Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H. 1995, tập 7,
tr. 241.
2. Bản chất, nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ


9

Nguyên tắc TTDC là thuộc tính bản chất tổ chức của GCCN. Đó
là sự thống nhất tác động biện chứng giữa hai thành tố tập trung và dân
chủ, hai thành tố này là thuộc tính bản chất của GCCN trong sản xuất
cơng nghiệp và đấu tranh cách mạng. Thuộc tính tập trung và dân chủ
được hình thành cùng với sự ra đời và hoạt động của GCCN; từ yêu
cầu của nền sản xuất cơng nghiệp. Qua đó đã từng bước tơi luyện cho
GCCN có những thuộc tính cơ bản như: tính tập trung hóa cao độ, ý
thức và trình độ tổ chức chặt chẽ, tính kỷ luật nghiêm minh, có tinh
thần đồn kết, tính dân chủ tập thể cao.
Hai thành tố tập trung và dân chủ hồn tồn khơng mâu thuẩn
với nhau, mà nó ln thống nhất tác động bổ sung cho nhau. Trong
đó tập trung trên cơ sở dân chủ và dân chủ có sự bảo đảm của tập
trung, tập trung là điều kiện, tiền đề cho sự vận động phát triển của
dân chủ và ngược lại. Như vậy, thực hiện nguyên tắc TTDC trong
Đảng thực chất là giải quyết mối quan hệ giữa tập trung và dân chủ,
yêu cầu tối cao của nguyên tắc TTDC là tăng cường tập trung phải
trên cơ sở dân chủ mở rộng và thực hiện dân chủ phải có sự bảo đảm
của tập trung, hướng tới tăng cường tập trung làm cho tập trung trong
Đảng càng vững chắc. Tập trung càng vững chắc thì dân chủ càng

phát triển rộng rãi.
Mối quan hệ thống nhất giữa tập trung và dân chủ không phải là
ngẫu nhiên hay gán ghép tùy tiện, mà nó được quy định bởi những
nhân tố khách quan của quá trình sản xuất và đấu tranh cách mạng của


10

GCCN và bởi Đảng Cộng sản phải lãnh đạo đến mục tiêu giành thắng
lợi cuối cùng.
Tập trung có nghĩa là tồn Đảng có một cương lĩnh, trong đó nêu
lên mục tiêu chung của cách mạng và được toàn thể đảng viên quán
triệt thực hiện. Đảng phải có một Điều lệ thống nhất, quy định tiêu
chuẩn sinh hoạt mà tất cả các tổ chức đảng và toàn thể đảng viên phải
chấp hành. Tập trung còn thể hiện sự lãnh đạo các tổ chức đảng, các
công tác của Đảng do Đại hội đại biểu toàn quốc thực hiện, giữa hai
kỳ Đại hội là Ban Chấp hành trung ương Đảng. Các nghị quyết của
Đảng, và cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng với tính cách là biểu
hiện ý chí của Đảng, bắt buộc tất cả các tổ chức đảng và toàn thể đảng
viên phải chấp hành. Tập trung địi hỏi phải có kỷ luật thống nhất, tinh
thần tuân thủ những tiêu chuẩn sinh hoạt Đảng, ý thức phục tùng nghị
quyết của Đảng. Do đó việc phục tùng nghị quyết của Đảng chính là
phục tùng ý chí nguyện vọng của đảng viên. Trong Đảng thiểu số
phục tùng đa số, cá nhân phục tùng tổ chức nhưng nó được thực hiện
trên cơ sở nghiêm ngặt thống nhất về mục tiêu, lợi ích.
Bản chất của tập trung trên cơ sở dân chủ là sự tập trung trí tuệ
của đa số mà thiểu số phải phục tùng. Đó là tập trung có mục đích
hướng tới bảo vệ lợi ích của Đảng của GCCN và quần chúng lao
động, có nguồn gốc từ chế độ cơng hữu về tư liệu sản xuất. Sự tập
trung đó gắn liền với cơ sở và chịu sự kiểm tra và quyết định của cơ

sở. Đối lập với sự tập trung quyền lực của thiểu số thuộc giai cấp bóc
lột buộc đa số quần chúng nhân dân phải phục tùng, đó là sự tập


11

trung để duy trì chế độ bóc lột, bảo vệ lợi ích của giai cấp bóc lột, là
sự tập trung dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Sự tập trung
ấy nhằm trấn áp quyền làm chủ của nhân dân lao động, là sự tập
trung thoát ly dân chủ, bóp nghẹt dân chủ.
Thực tiễn xây dựng và hoạt động của Đảng ta và kinh nghiệm của
các Đảng cộng sản trên thế giới đã khẳng định thực hiện tốt nguyên tắc
TTDC là vấn đề sống còn của Đảng.
Dân chủ trong Đảng, thực chất là quyền làm chủ của đảng viên,
tồn thể đảng viên tích cực tham gia xây dựng đường lối chủ trương,
chính sách của Đảng, kể cả tham gia vào việc thành lập cơ quan lãnh
đạo các cấp của Đảng. Với điều kiện phải có tính tổ chức cao, tính kỷ
luật chặt chẽ, thừa nhận sự lãnh đạo thống nhất. (Tức là dân chủ có sự
bảo đảm của tập trung, dân chủ có lãnh đạo) thì đảng viên mới có thể
thực hiện được nghĩa vụ và quyền hạn của mình. Đảng là một tổ chức
chính trị tự nguyện, độc lập, sức mạnh của Đảng là do tính tích cực tự
giác của tồn thể đảng viên. Mọi sinh hoạt của Đảng đều phải được tiến
hành trên cơ sở thật sự dân chủ, mọi đảng viên đều có quyền trình bày
hết ý kiến của mình tham gia vào giải quyết tất cả mọi vấn đề trong
công tác xây dựng Đảng, những ý kiến thuộc về thiểu số được quyền
bảo lưu. Mọi hoạt động Đảng đều phải được tiến hành một cách có tổ
chức và có sự chỉ đạo chặt chẽ của các cấp ủy đảng. Thực hiện dân chủ
trong Đảng thì phát huy được tính tích cực của đảng viên và mới có
điều kiện rèn luyện, giáo dục đảng viên, nâng cao năng lực của họ



12

trong việc tham gia xây dựng và thực hiện đường lối chính sách, nghị
quyết của Đảng.
Mọi hoạt động lãnh đạo của Đảng phải tuân theo nguyên tắc tập
thể lãnh đạo đi đơi với cá nhân phụ trách. Đó là biểu hiện của dân chủ
có sự bảo đảm của tập trung hồn tồn đối lập với hiện tượng dân chủ
hình thức, dân chủ tự do vô kỷ luật, dân chủ tràn lan khơng giới hạn.
Dân chủ có bảo đảm của tập trung là dân chủ có mục đích, có định
hướng, đó là dân chủ trên cơ sở bình đẳng thống nhất về mục tiêu lợi
ích, nó hồn tồn khác với dân chủ dựa trên dựa trên sự bất bình đẳng
mang bản chất của giai cấp bóc lột, một thứ dân chủ chỉ thực sự đối
với bộ phận thiểu số trong xã hội và hồn tồn là hình thức đối với
quần chúng lao động chiếm đa số trong xã hội.
Dân chủ trong Đảng là dân chủ mang bản chất GCCN, là dân
chủ của GCCN và quần chúng nhân dân lao động đó là dân chủ
được xây dựng trên trên cơ sở chế độ xã hội cơng bằng, bình đẳng
bác ái khơng có bóc lột, dân chủ có mục đích nhằm tạo ra sức mạnh
đồn kết tập trung thống nhất. Đó khơng phải là thứ dân chủ tràn lan
vơ chính phủ, tạo ra hiện tượng chia rẽ , bè phái phá vỡ sự tập trung
thống nhất.
Nội dung cơ bản của nguyên tắc TTDC, được ghi trong điều 9
chương II, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, do Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX của Đảng thông qua xác định cụ thể: "Đảng Cộng sản
Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc TTDC. Nội dung cơ bản của nguyên
tắc đó là:


13


1. Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập
thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
2. Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc.
Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên.
Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành
Trung ương, ở mỗi cấp là ban chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp
ủy).
3. Cấp ủy các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình
trước đại hội cùng cấp, trước cấp ủy cấp trên và cấp dưới; định kỳ thơng
báo hoạt động của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện tự phê
bình và phê bình.
4. Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng.
Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên các tổ chức đảng
trong toàn Đảng phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc và Ban Chấp
hành Trung ương.
5. Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi
hành khi có hơn một nửa số thành viên trong cơ quan đó tán thành.
Trước khi biểu quyết, mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình.
Đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo
lên cấp ủy cấp trên cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp
hành nghiêm chỉnh nghị quyết, không được truyền bá ý kiến trái với
nghị quyết của Đảng. Cấp ủy có thẩm quyền nghiên cứu xem xét ý kiến
đó; khơng phân biệt đối xử với đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số.


14

6. Tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của
mình, song khơng được trái với nguyên tắc, đường lối, chính sách của

Đảng, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên".
Nội dung nguyên tắc TTDC của Đảng thể hiện sự giải quyết đúng
đắn mối quan hệ hòa quện giữa hai thành tố tập trung và dân chủ.
Đó là sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo tổng hợp các nguyên lý xây
dựng dựng đảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
trong công tác xây dựng đảng của Đảng ta. Đặc biệt là sự vận dụng
nguyên tắc TTDC đã tạo nên sức mạnh lãnh đạo cách mạng nước ta
giành thắng lợi.
Nhận thức đúng đắn bản chất, nội dung nguyên tắc TTDC là cơ
sở để quán triệt, thực hiện nguyên tắc TTDC một cách có hiệu quả
trong sinh hoạt và hoạt động lãnh đạo của Đảng.
II. QUÁN TRIỆT, THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG
DÂN CHỦ TRONG ĐẢNG BỘ QUÂN ĐỘI HIỆN NAY
1. Thực trạng việc chấp hành nguyên tắc TTDC của Đảng
trong Đảng bộ quân đội:
"Tổ chức đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam ... hoạt động
theo Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của
Đảng và pháp luật của Nhà nước"

(1)

. Đảng bộ Quân đội là một bộ

phận của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì vậy, thực hiện nguyên tắc


15

TTDC trong Đảng bộ Quân đội phải tuân thủ quy định của Điều lệ
Đảng.

Hiện nay, quân đội ta đang duy trì, thực hiện chế độ một người
chỉ huy ở tất cả các cấp trong quân đội. Đây là biểu hiện sự vận
dụng, cụ thể hóa nguyên tắc TTDC trong quân đội là tập thể cấp ủy
lãnh đạo, người chỉ huy tổ chức quản lý, điều hành đơn vị thực hiện
nhiệm vụ theo chức trách. Đó là sự cụ thể hóa nguyên tắc TTDC,
tập thể lãnh đạo đi đôi với phân công cá nhân phụ trách vào lĩnh vực
quân sự - một tổ chức mà sự _____________
(1). Điều lệ Đảng Cộng sản Việt nam, Nxb CTQG, Hà Nội, 2001, tr.
38.
lãnh đạo của tập thể cấp ủy không thể tách rời với người chỉ huy và
người chỉ huy không thể tách khỏi sự lãnh đạo của tập thể cấp ủy.
Hay nói cách khác là người chỉ huy khơng thể đứng ngồi sự lãnh
đạo đó, hay đứng trên tập thể cấp ủy cùng cấp để quyết định các vấn
đề thực hiện nhiệm vụ. Như vậy vai trò lãnh đạo thuộc về cấp ủy,
còn tổ chức quản lý, chỉ huy điều hành đơn vị là thuộc về người chỉ
huy. Đây là sự thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa sự lãnh đạo
của tập thể cấp ủy với chỉ huy quản lý, điều hành đơn vị. Trên cơ sở
cấp ủy lãnh đạo về mọi mặt, người chỉ huy phải cụ thể hóa các nghị
quyết, chủ trương lãnh đạo của cấp ủy thành kế hoạch, chỉ thị, mệnh
lệnh để tổ chức chỉ huy điều hành đơn vị thực hiện nhiệm vụ. Mọi
hoạt động của người chỉ huy trong đơn vị phải đặt dưới sự lãnh đạo
của cấp ủy, tuân theo nghị quyết của tập thể lãnh đạo. Đòi hỏi người


16

chỉ huy nêu cao tinh thần trách nhiệm, phát huy tính chủ động sáng
tạo, quyết đốn, giám chịu trách nhiệm cá nhân trước tổ chức đảng,
trước đơn vị về kết quả tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng; góp
phần tăng cường sự lãnh đạo của đảng. Đối với tổ chức đảng phải

thường xuyên nâng cao năng lực và sức chiến đấu , bảo đảm có nghị
quyết đúng đắn, kịp thời tổ chức triển khai thực hiện nghị quyết
lãnh đạo và thường xuyên kiểm tra việc tổ chức thực hiện của người
chỉ huy, tạo điều kiện thuận lợi, để người chỉ huy hồn thành tốt
nhiệm vụ. Thơng qua các tổ chức trong đơn vị (tổ chức đảng, tổ
chức chỉ huy, Đồn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, hội đồng
qn nhân) để quán triệt giáo dục cho mọi quân nhân trong đơn vị
tự giác chấp hành triệt để mệnh lệnh của người chỉ huy.
Quá trình tổ chức thực hiện cần khắc phục các biểu hiện tổ
chức đảng, cấp ủy buông lỏng sự lãnh đạo, bao biện làm thay công
việc của người chỉ huy, cũng như phải kiên quyết đấu tranh loại bỏ
các hiện tượng độc đoán, chuyên quyền của người chỉ huy hoặc biểu
hiện dựa dẩm ỷ lại vào tập thể, thiếu quyết đốn trong q trình tổ
chức chỉ huy đơn vị, nhất là khi thực hiện nhiệm vụ trong những
điều kiện gặp nhiều khó khăn, phức tạp.
Hiện nay,việc thực hiện nguyên tắc TTDC trong Đảng bộ quân
đội với không khí thảo luận cởi mở, thẳng thắn, khai thác và tập hợp
được trí tuệ của đơng đảo cán bộ, đảng viên trong việc chuẩn bị
nghị quyết, cũng như trong việc bầu cử các cơ quan lãnh đạo của
Đảng. Các cấp ủy duy trì thực hiện chế độ tự phê bình và phê bình


17

trong sinh hoạt đã tạo nên sự lãnh đạo của các tổ chức đảng có
chuyển biến rõ rệt, từng bước có sự đổi mới phương pháp, tác
phong cơng tác đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong
thời kỳ phát triển kinh tế, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Bước đầu hình thành những quan điểm mới
về mối quan hệ giữa nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc với nhiệm vụ phát

triển kinh tế xã hội ở nước ta trong thời kỳ mới. Đây là vấn đề có ý
nghĩa hết sức quan trọng khơng những góp phần giữ vững nguyên
tắc TTDC trong Đảng mà cịn và mở rộng trong tồn xã hội.
Tuy nhiên, trên thực tế việc thực hiện nguyên tắc TTDC của
Đảng trong Đảng bộ quân đội vẫn còn bộc lộ nhiều vấn đề cần phải
tiếp tục chấn chỉnh, khắc phục:
Trước hết, trong nhận thức và thực hiện nguyên tắc TTDC còn
nhiều thiếu sót, khuyết điểm, nhận thức của nhiều cấp ủy, tổ chức
đảng và cán bộ, đảng viên chưa đầy đủ về vị trí, bản chất nội dung
nguyên tắc TTDC. Thậm chí có biểu hiện thiếu tơn trọng ngun
tắc. Trong sinh hoạt đảng cịn thiếu những quy định cụ thể có hiệu
lực để bảo đảm phát huy dân chủ, thực hiện đúng nguyên tắc
TTDC, quy chế làm việc của các cấp ủy không được chấp hành
nghiêm túc.vừa thiếu những quy định cụ thể hóa để thực hiện
nguyên tắc lại vừa chấp hành ngun tắc khơng nghiêm túc. Trong
khi tình trạng mất dân chủ hoặc dân chủ hình thức cịn nặng, những
biểu hiện dân chủ cực đoan, tự do vô kỷ luật cũng khơng ít. Tệ bè
cánh, mất đồn kết ở một số cấp ủy và tổ chức đảng rất nghiêm


18

trọng, đã dẫn đến tình trạng quan liêu, mệnh lệnh, dân chủ hình
thức, dân chủ cực đoan, tình trạng chấp hành kỷ luật lỏng lẻo, cục
bộ gây chia rẽ mất đoàn kết trong nội bộ. Trong đội ngũ đảng viên
vẫn còn nhiều biểu hiện coi thường kỷ luật của Đảng, của quân đội,
tự do tùy tiện không chấp hành nghị quyết của Đảng làm suy giảm
tính đồn kết thống nhất về tư tưởng và tổ chức trong Đảng, chất
lượng sinh hoạt đảng giảm sút nhất là tổ chức đảng ở cơ sở. Vấn đề
nghiên cứu, tổng kết, công tác hướng dẫn, kiểm tra và chỉ đạo thực

hiện nguyên tắc TTDC cho phù hợp với đặc điểm nhiệm vụ của
từng cấp ủy, từng tổ chức đảng cịn nhiều yếu kém.
Ngồi ngun nhân về nhận thức cũng như quy mơ, trình độ tổ
chức và kinh nghiệm thực tiễn. Cịn có một ngun nhân trực tiếp gây
cản trở việc thực hiện nguyên tắc TTDC đó là trong đội ngũ cán bộ,
đảng viên có khơng ít người mang nặng tư tưởng cá nhân . Khơng ít
cấp ủy và tổ chức đảng thiếu tơn trọng và phát huy quyền hạn của đảng
viên, ít lắng nghe ý kiến cấp dưới. Khơng ít cán bộ lãnh đạo, chỉ huy
chưa quen với những thông tin ngược chiều. Không thích nghe ý kiến
khác với ý kiến của mình; chưa gương mẫu tu dưỡng rèn luyện bản
thân để chấp hành tốt nghị quyết của Đảng, vẫn còn tượng cán bộ lãnh
đạo độc đốn, mệnh lệnh, trù dập cấp dưới.
Khơng những vậy, mà công tác kiểm tra chưa thường xuyên chặt
chẽ, nhiều lúc thiếu sắc bén, chưa kịp thời, còn hữu khuynh trong đấu
tranh chống tiêu cực và các quan điểm sai lệch. Vẫn cịn tình trạng, bao
che khuyết điểm làm cho việc xử lý kỷ luật không nghiêm đối với cán


19

bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật đảng, kỷ luật quân đội và pháp luật Nhà
nước. Đó là những sơ hở cho các hiện tượng tiêu cực phát triển, gây
thắc mắc, bất bình trong nội bộ tổ chức đảng và trong đơn vị.
Trong khi đó các thế lực thù địch ln ln tìm mọi cách để chống
phá Đảng, chống phá quân đội, trong đó có nguyên tắc TTDC chúng
đưa ra những luận điệu nhằm xuyên tạc, chúng cho rằng việc thực hiện
nguyên tắc TTDC của Đảng ta là cực quyền, là chế độ đảng trị ... sẽ
dẫn đến mất dân chủ đó là chế độ độc tài, quân phiệt, nó ra sức ca ngợi
và khuyến khích thực hiện dân chủ tự do, dân chủ cực đoan... trong
Đảng nên có nhiều phe nhóm đối lập để đấu tranh và sử dụng triệt để

những chiêu bài "dân chủ", "đa nguyên". Cổ vũ sự bất đồng ý kiến về
quan điểm trong nội bộ Đảng, rồi lợi dụng sự bất đồng đó để chia rẽ sự
đoàn kết thống nhất của Đảng. Với những phần tử cơ hội, hữu khuynh
có những quan điểm và hành động trái ngược chống đối lại quan điểm
đường lối của Đảng, thì chúng tâng bốc lơi kéo, mời chào, tặng cho đủ
thứ gọi là "danh hiệu"... Còn những đảng viên chân chính, kiên quyết
đấu tranh bảo vệ lợi ích của Đảng thì bị chúng nhạo báng, chế giễu là
bảo thủ trì trệ. Nó đối lập những người lãnh đạo với đông đảo đảng
viên, chúng mưu toan gây sự chia rẽ trong nội bộ của tổ chức đảng,
chia rẽ đội ngũ cán bộ đảng viên nhằm mục đích phủ nhận nguyên tắc
TTDC - nguyên tắc tổ chức của Đảng. Với mục đích cuối cùng của
chúng là vơ hiệu hóa sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội.
2. Một số vấn đề giữ vững và tăng cường nguyên tắc tập
trung dân chủ của Đảng trong Đảng bộ quân đội hiện nay.


20

Đứng trước thực trạng chấp hành nguyên tắc TTDC của Đảng
trong Đảng bộ quân đội và những âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù
địch cơng kích phủ nhận nguyên tắc TTDC. Hiện nay, để thực hiện và
tăng cường nguyên tắc TTDC của Đảng trong Đảng bộ quân đội hiện
nay vấn đề đặt ra là phải nghiên cứu nhận thức đúng đắn về bản chất
nội dung nguyên tắc TTDC của Đảng, đồng thời có những quy định cụ
thể hóa để bảo đảm thực hiện nghiêm ngặt nguyên tắc TTDC.
Ngoài vấn đề nhận thức đúng đắn và thống nhất về yêu cầu, nội
dung nguyên tắc TTDC, điều quyết định, cái bảo đảm trong thực tế là
phải có cơ chế đúng, và những quy định cụ thể và phải có tinh thần đấu
tranh kiên quyết để thực hiện các quy chế, quy định đó. Tức là nội dung
nguyên tắc TTDC phải được "thể chế hóa", Trước hết phải bảo đảm

thực hiện quyền của đảng viên, nhất là quyền được thảo luận một cách
thẳng thắn các vấn đề về đường lối, chính sách của Đảng, quyền được
phê bình, chất vấn trong phạm vi tổ chức, về hoạt động của tổ chức
đảng và đảng viên ở mọi cấp. Đảng viên có quyền được thơng tin,
quyền được bảo lưu ý kiến của mình như quy định của Điều lệ Đảng.
Những quy định đó sẽ tạo điều kiện để khắc phục tình trạng cấp ủy
vi phạm quyền của đảng viên, cịn đảng viên thì khắc phục tính thụ
động, tiêu cực. Mọi đảng viên phải chấp hành nghiêm túc các quy định
về chế độ tự phê bình và phê bình. Các cấp ủy phải chịu sự giám sát
của tổ chức đảng và đảng viên, phải báo cáo hoạt động trước các tổ
chức đảng thuộc quyền, thường xun thơng báo tình hình và hoạt


21

động của mình đến các tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên. quy định
thời gian tiến hành tự phê bình và phê bình, tổ chức để quần chúng
trong đơn vị thuộc phạm vi quyền hạn lãnh đạo tham gia phê bình. Xử
lý nghiêm khắc những người có thái độ trấn áp, trù dập người phê bình
hoặc lợi dụng phê bình để đả kích, vu cáo người khác, gây chia rẽ mất
đồn kết nội bộ.
Để tăng cường vai trị kiểm tra, giám sát của tổ chức đảng và đảng
viên đối với hoạt động của cấp ủy cần phải kịp thời bổ sung, điều
chỉnh chủ trương, chính sách, thay thế những cán bộ không đảm đương
được nhiệm vụ và thường xuyên kiện tồn cấp ủy. Nâng cao vai trị
trách nhiệm, quyền hạn của ủy ban kiểm tra các cấp. Ủy ban kiểm tra
có chức năng kiểm tra việc thực hiện các nguyên tắc tổ chức và sinh
hoạt đảng, kiểm tra việc chấp hành quy chế làm việc của tổ chức đảng
cấp dưới, kiểm tra việc giữ gìn phẩm chất, đạo đức cách mạng của
đảng viên, xem xét và xử lý kỷ luật các tổ chức đảng và đảng viên theo

quy định của Điều lệ Đảng và kỷ luật của quân đội.
Trong công tác cán bộ, cần quy định cụ thể tiêu chuẩn cho từng
chức danh cán bộ. Việc giới thiệu để bầu vào cấp ủy phải được tiến
hành từ cơ sở. Bổ nhiệm cán bộ phải hỏi ý kiến của cơ sở và lấy phiếu
tín nhiệm từ cơ sở. Khi đánh giá, nhận xét cán bộ phải hỏi ý kiến cấp
quản lý cán bộ. Quy định thành chế độ cán bộ lãnh đạo các cấp xuống
làm việc trực tiếp ở cơ sở, tiếp xúc với cấp dưới, đối thoại với quần
chúng ở đơn vị, kịp thời giải quyết có hiệu quả những vấn đề cấp bách
cơ sở đặt ra.


22

Đương nhiên, cũng khơng phải có cơ chế, quy định là mọi việc
được thực hiện. Muốn thực hiện được quy chế, trước hết cán bộ cấp
trên, cán bộ lãnh đạo phải gương mẫu, các cơ quan kiểm tra, giám sát
phải tích cực hoạt động. Bên cạnh đó, vấn đề cực kỳ quan trọng là phải
có sự giám sát thường xuyên của quần chúng, có sự đấu tranh của cơng
luận, dư luận. Tùy từng vấn đề và ở tính chất, mức độ, phạm vi thích
hợp phải thực hiện cơng khai các hoạt động của tổ chức đảng, của cấp
ủy đảng, của người lãnh đạo, chỉ huy các cấp.
Nhận thức và chấp hành nguyên tắc TTDC của Đảng trên thực tế,
không những là ý thức trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên mà còn
là sự biểu hiện nguyên tắc đạo đức lối sống của người cộng sản.



×