Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

CƠ sở lí LUẬN của VIỆC GIÁO dục bảo vệ môi TRƯỜNG CHO TRẺ 5 6 TUỔI ở TRƯỜNG mầm NON THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.88 KB, 36 trang )

CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VIỆC GIÁO DỤC BẢO VỆ MÔI
TRƯỜNG CHO TRẺ 5-6 TUỔI Ở TRƯỜNG MẦM NON
THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM

Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trên thế giới
Thế giới ngày càng phát triển với trình độ khoa học,
cơng nghệ ngày càng tối tân góp phần nâng cao đời sống,
kinh tế của mỗi con người mỗi quốc gia, tuy nhiên đi kèm
với nó chính là hành tinh xanh của chúng ta đang bị suy
thoái nghiêm trọng với những hậu quả vô cùng nặng nề mà
con người phải gánh chịu. năm 1948, lần đầu tiên trong lịch
sử, tại cuộc họp Liên hợp quốc về bảo vệ MT và tài nguyên
thiên nhiên ở Paris, thuật ngữ “GDMT” được sử dụng.
Nhận thức rõ tình trạng MT bị biến đổi ngày càng xấu
đi, ngày 5/6/1972 Liên hợp quốc đã tổ chức “Hội nghị Quốc
tế về con người và MT” tại Stockolm (Thụy Điển). Tại đây,
người ta đã nhất trí nhận định rằng việc bảo vệ tài nguyên
và MT là một trong hai nhiệm vụ hàng đầu của toàn nhân
loại . Sau hội nghị đó thì GDMT đã được đưa vào các
trường học từ năm 1973.Tuy nhiên, về mục đích, nội dung


và phương pháp GDMT vẫn chưa được giải quyết và hồn
thiện.
Tiếp theo sau đó là hàng loạt các cơng trình nghiên
cứu, các hội nghị mang tính tồn cầu được tổ chức nhằm
giải quyết vấn nạn này:
Năm 1972, Hội nghị Liên hợp quốc về “Môi trường và
con người” đã nêu rõ
Tháng 10-1975, tại Belgrade (Nam Tư) đã diễn ra Hội


nghị toàn thế giới đầu tiên về GDMT, Hội nghị đã công bố
Hiến chương về giáo dục BVMT, hiến chương đã nêu lên
nhu cầu cấp thiết của vấn đề GDBVMT.
Tại Hội nghị liên chính phủ lần đầu tiên về GDBVMT
do UNESCO tổ chức tại Tbilisi (Liên Xơ) năm 1977 có 66
thành viên các nước tham dự. Tại đây đã nêu ra các ý kiến
đóng góp cho việc áp dụng rộng rãi hơn nữa GDBVMT
trong chương trình giáo dục chính thức và khơng chính
thức. Sự kiện quan trọng này và những cơng bố liên tiếp
theo dự kiến của hội nghị đã tiếp tục đóng góp cho hệ thống
nguyên tắc của sự phát triển GDBVMT trên thế giới cho
đến ngày nay.


Năm 1980, Chiến lược về bảo tồn thế giới đã được
công bố (IUCN), đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giữ
gìn tài ngun thơng qua “Sự phát triển mang tính chất suy
trì” và ý nghĩa của mối quan hệ tương tác giữa bảo tồn và
phát triển. Chiến lược này có một chương về GDBVMT với
nội dung được tóm tắt như sau:
+ Nhiệm vụ lâu dài của GDBVMT là khuyến khích
hoặc củng cố các hành vi, thái độ mang tính đạo đức mới.
+ Từ năm 1986, các hoạt động quốc tế tiếp tục bổ
sung, đóng góp cho chiến lược bảo tồn thế giới, nhằm giải
quyết các vấn đề về GDBVMT, đạo đức và văn hóa.
+ Năm 1987 là năm đánh dấu kỉ niệm 10 năm Hội
nghị Tbilisi dầu tiên và đưa ra một loạt các vấn đề cơ bản để
thảo luận, trong đó có tầm quan trọng đặc biệt của
GDBVMT, với nội dung: sẽ khơng có gì giảm được mối đe
dọa mang tính tồn cầu đối với mơi trường trừ khi nâng cao

ý thức của đại đa số quần chúng về mối tương quan thiết
yếu giữa đặc trưng môi trường và tiếp tục thỏa mãn các nhu
cầu của con người được thức tỉnh. Hoạt động của con người
phụ thuộc vào nhu cầu, động cơ mà động cơ lại phụ thuộc
vào chính sự hiểu biết của con người về chúng. Vì thế,


chúng ta hiểu được tầm quan trọng rằng tại sao mỗi người
phải tự nhận thức được việc BVMT thông qua các hoạt
động giáo dục.
Cũng trong năm, 1987, Ủy ban Thế giới về mơi trường
và sự phát triển đã có báo cáo “Tương lai của chúng ta”
(WCED,1987). Bản báo cáo đã đưa ra một cơng bố chính
thức “Chương trình nghị sự tồn cầu” để nhất trí vấn đề mơi
trường với sụ phát triển, chính vì vậy đã tăng cường và mở
rộng thực chất cuộc bảo tồn thế giới năm 1980. Giáo dục
được coi là tâm điểm cốt lõi của chương trình này. Các cuộc
tranh luận xuất phát từ báo cáo trên đã đưa đến sự thành lập
của một hội nghị quan trọng thứ hai – Hội nghị Stockholm 20
năm, Hội nghị Liên hiệp quốc về môi trường và sự phát triển
Hội nghị Thượng đỉnh Brazil (1992).
Hội nghị diễn ra ở Rio de Janero năm 1992, hội thảo
trên một phạm vi rộng về các đề tài và vấn đề về mơi
trường. Có nhiều công bố dành cho GDBVMT thông qua
suốt văn kiện. Một trong những kết quả chính của hội nghị
là sự nhất trí rằng phát triển giáo dục và mơi trường là một
bộ phận thống nhất của quá trình học tập.


Nhìn chung các nước trên thế giới đều coi giáo dục là

công cụ để thay đổi xã hội và GDBVMT đã được sử dụng
chung các nguyên lí sau đây:
+ Tiếp cận thực tế.
+ Tăng cường tri thức, hiểu biết.
+ Kiểm nghiệm cách ứng xử và các giá trị.
+ Hình thành trách nhiệm.
+ Cung cấp những kĩ năng và kinh nghiệm.
+ Khuyến khích hành động thay vì lời nói.
Một số nội dung GDBVMT trong chương trình chăm
sóc – giáo dục trẻ ở một số nước:
+ Ở Nga: Quan tâm đến giáo dục sinh thái cho trẻ.
Mục đích giáo dục sinh thái cho trẻ là: Hình thành tiền đề
của văn hóa sinh thái – hình thành mối quan hệ nhận thức
đúng đắn với thiên nhiên trong sự đa dạng của nó, với con
nguoif, với bản thân trẻ. Với quan điểm trẻ học thơng qua
các hoạt động trải nghiệm và tìm tịi khám phá, cho nên
chương trình đã đưa ra các dạng hoạt động của trẻ: Trò chơi


đóng vai, hoạt động thực tiễn, hoạt động sáng tạo, tiếp xúc
với các đối tượng của thế giới động, thực vật, thí nghiệm,…
+ Ở Australia: Quan tâm đến việc xây dựng các MT
cho trẻ được hoạt động. Trong đó, MT sinh thái và MT các
nguyên vật liệu để trẻ hoạt động sáng tạo. MT sinh thái yêu
cầu cung cấp một MT có hệ thực vật và động vật khác nhau,
một MT cần cân bằng về thẩm mỹ và cung cấp những hiểu
biết về cảm giác của trẻ, đánh giá các nguyên vật liệu thiên
nhiên. MT nguyên vật liệu là để trẻ hoạt động sáng tạo, sử
dụng các vật liệu qua sử dụng hoặc các vật liệu tái chế để
trẻ làm đồ dùng, đồ chơi trong hoạt động tạo hình.

+ Ở Hàn Quốc: Nội dung của GDBVMT đều được trải
đều trong các lĩnh vực khác nhau ví dụ: Hiểu được giá trị
của môi trường trong lành; quan tâm đến MT xung quanh,
bảo vệ MT, vệ sinh MT; sống tiết kiệm; phân loại rác và
biết thế nào để làm giảm thiểu rác thải;…
Qua nghiên cứu chương trình chăm sóc – giáo dục
mầm non ở một số quốc gia cho thấy họ đều quan tâm tới
GDBVMT cho trẻ ngay từ khi còn nhỏ. Với mục đích hình
thành ở trẻ nhỏ những kĩ năng, sự hiểu biết về MT, thân
thiện với MT và BVMT.


Ở Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, thuộc nhóm
các quốc gia nghèo trên thế giới, có nguồn tài nguyên đa
dạng nhưng lại hạn chế về cả số lượng và chất lượng, vốn
đầu tư và các phương tiện khoa học, kĩ thuật chưa thực sự
phát triển và cịn nhiều hạn chế MT đang suy thối sau
nhiều năm chiến tranh kéo dài, thậm chí Việt Nam cịn đang
chịu sức ép nặng nề do dân số tăng nhanh mà ¾ dân số lại
sống chủ yếu dựa vào việc khai thác các nguồn tài ngun
sẵn có của đất nước (nơng nghiệp, ngư ghiệp,…)
Chính vì vậy, việc BVMT và phát triển bền vững cần
phải có một kế hoạch hành động thích hợp với quy mô quốc
gia để giải quyết những vấn nạn và thách thức do suy thóai
MT gây ra. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn thấy trước vấn đề
cùng với tầm vqua trọng và ý nghĩa có tính xã hội của cây
xanh trong việc góp phần BVMT từ trước Hội nghị thế giới
đầu tiên về MT. Năm 1966, Bác Hồ đã khai sinh Tết trồng
cây và đến nay thì phong trào đó vẫn được thực thi cả về

quy mơ, chiều rộng lẫn chiều sâu. Song song với đó, đã có
một giai đoạn tìm tịi, định hướng GDBVMT trong chương
trình phổ thông.


Từ năm 1991, Đảng và Nhà nước ta đã rất quan tâm
chú trọng nhiều đến việc tổ chức quản lí, đưa công tác
GDBVMT áp dụng vào thực tiễn cuộc sống, xây dựng hệ
thống pháp luật, nâng cao nhận thức của người dân, tăng
cường đầu tư cho công tác BVMT.
Năm 1993, Nhà nước và Chính phủ đã cho ra đời và
thực hiện Luật Bảo vệ Môi trường (1/1994). Tại điều 4 đã
ghi rõ: “Nhà nước có trách nhiệm tổ chức thục hiện việc
giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học và công nghệ, phổ
biến kiến thức khoa học và pháp luật về BVMT”.
Sự nỗ lực cải thiện MT và BVMT của Đảng và Nhà
nước đã được thể hiện thông qua việc tích cự tham gia các
chương trình qc tế về MT. Từ đó hoạch định và thực hiện
các chương trình thành các đề án giáo dục, gồm có:
+ Dự án thử nghiệm đưa GDBVMT vào trường MN
(Trường CĐSP NT – MG TW1).
+ Dự án thiết kế và thử nghiệm nội dung GDBVMT ở
mẫu giáo và tiểu học (Viện khoa học GD năm 1996).
+ Dự án thiết kế và thử nghiệm chương trình bồi
dưỡng nâng cao kiến thức cho cán bộ GV ngành học MN về
MT (Trường CĐSP NT – MG TW1).


Như vậy, thực tế cho thấy GDBVMT là một vấn đề rất
được quan tâm ở nhiều cấp học, quản lí khác nhau. Điều

này một lần nữa cho thấy BVMT là vấn đề sống cịn của đất
nước nói riêng và thế giới nói chung. Đây là một trong
những yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới sự phát triển bền
vững về kinh tế, chính trị và ổn định xã hội.
Đã có rất nhiều các cơng trình nghiên cứu khoa học về
GDBVMT ở lứa tuổi mầm non trong cả nước. Trước khi
thực hiện dự án tổng thể đưa GDBVMT vào cac trường
mầm non và sư phạm mầm non, các cơ sở đào tạo và nghiên
cứu GDBVMT đã tiến hành một số các công trình chuẩn bị
như sau:
Dự án thiết kế và thử nghiệm nội dung GDBVMT ở
mẫu giáo và tiểu học (Viện khoa học GD năm 1996) nhằm
thiết kế các nội dung GDBVMT bước đầu ở trường mầm
non trong những năm 1996.
Dự án thử nghiệm đưa GDBVMT vào trường mầm
non với nội dung “Thời tiết và cuộc sống của chúng ta”
(Trường CĐSP NT – MG TW1) – Trần Thị Phương Thảo.
Đề tài “Xây dựng nội dung BVMT cho trẻ mẫu giáo 5
tuổi trong trường mầm non” (Trung tâm nghiên cứu GDMN


– Viện KHGD, 1998-2000) đã hình thành phương pháp,
cách thức để GDBVMT cho trẻ 5-6 tuổi và cho trẻ làm quen
với MTXQ thông qua các đề tài về MT.
Dự án thiết kế thử nghiệm chương trình bồi dưỡng
nâng cao kiến thức cho cán bộ giáo viên ngành học mầm
non về MT (Trường CĐSP NT – MG TW1, 1998-1999)
nhằm cung cấp các kiến thức, kỹ năng chuyên môn cho
GVMN để nâng cao hiệu quả GDBVMT ở trường mầm non
vì GV chính là mắt xích quan trọng truyền đạt kiến thức cho

trẻ.
GDBVMT cho trẻ 3-6 tuổi trong trường mầm non theo
quan điểm tích hợp (Đề tài nghiên cứu cấp Bộ - TS.Lê Thanh
Vân – Khoa GDMN – Trường Đại học Sư phạm Hà Nội,
2003-2004) với mong muốn đưa GDBVMT vào tất cả các
giờ học, các mơn học khác nhau để trẻ có thể tiếp xúc với MT
mọi lúc, mọi nơi.
Một số khái niệm cơ bản
Môi trường
Khái niệm MT là một trong những khái niệm được
đưa ra làm đề tài tranh luận, bàn cãi từ lâu và được hiểu


theo nhiều cách khác nhau, nhiều lĩnh vực, góc độ, khía
cạnh và chun mơn khác nhau.
Các nhà khoa học nơng nghiệp cho rằng: MT là điều
kiện cần thiết cho sự di truyền những tính chất đặc biệt của
sinh vật và ngược lại, đó cũng là nơi và điều kiện để tạo ra
những biến dị mới, những loài mới.
Các nhà địa lý thì cho rằng: MT địa lý là một bộ phận
tự nhiên của bề mặt Trái đất bao quanh xã hội loài người, bị
thay đổi bởi xã hội loài người ở các ức độ khác nhau, ở
những thời điểm nhất định có quan hệ trực tiếp với bộ phận
đó trong thời gian sinh sống và hoaatj động sản xuất của
mình. Nhà Bác học vĩ đại Anhxtanh cho rằng: “MT là tất cả
những gì ngồi tơi ra”. Theo Joe Witeney (1993), ơng cho
rằng “MT là tất cả những gì ngồi cơ thể, có liên quan mật
thiết và có ảnh hưởng đến sự tồn tại của con người như: đất,
nước, khơng khí, ánh sáng mặt trời, rừng, biển tầng ozone,
sự đa dạng của các loài”.

MT sống của con người theo nghĩa rộng được chia
thành MT tự nhiên và MT xã hội. MT tự nhiên gồm các
nhân tố vật lý, hóa học như đất, nước, khơng khí, cây cối,
đất, gió, mây, động vật, thực vật. MT xã hội bao gồm tổng


thể các mối quan hệ giữa con người với nhau như luật lệ,
thể chế, cam kết quy luật. Không những thế, theo Allaby
(1994), MT của con người bao gồm cả các lĩnh vực tự
nhiên, xã hội, công nghệ, kinh tế, chính trị, đạo đức, văn
hóa, lịch sử,…
MT theo nghĩa hẹp bao gồm các nhân tố tự nhiên và
xã hội có tác động qua lại trực tiếp đến cuộc sống, chất
lượng sinh hoạt của con người. Và mỗi hoạt động, mỗi cá
nhân sẽ có MT tác động khác nhau trong từng hoàn cảnh
riêng biệt và MT của trẻ cũng sẽ được hiểu theo nghĩa hẹp,
đó là những gì xung quanh ảnh hưởng, tác động đến trẻ từ
khi sinh ra đến lớn lên và trưởng thành. [5]
Bảo vệ môi trường
Bảo vệ môi trường là những hoạt động giữ cho môi
trường trong lành, sạch đẹp, cải thiện môi trường, đảm bảo
cân bằng sinh thái, ngăn chặn, khắc phục các hậu quả xấu
do con người và thiên nhiên gây ra cho môi trường, khai
thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên. [4]
Giáo dục bảo vệ môi trường.
Giáo dục


Định nghĩa cơ bản của giáo dục được đưa ra nhằm
nhấn mạnh về sự truyền đạt và lĩnh hội giữa các thế hê,

nhấn mạnh đến yếu tố dạy và học đó là “Giáo dục là hiện
tượng xã hội đặc biệt, bản chất của nó là sự truyền đạt và
lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử - xã hội của các thế hệ lồi
người”. [10]
Giáo dục được hiểu là q trình hình thành và phát
triển nhân cách người giáo dục dưới quan hệ của những tác
động sư phạm trong nhà trường, chỉ liên quan đến các mặt
giáo dục như: trí học, đức học, mĩ dục, thể dục, giáo dục lao
động. Mặt khác, sự phát triển của giáo dục luôn chịu sự quy
định của xã hội thông qua những yêu cầu ngày càng cao và
những điều kiện ngày càng thuận lợi do sự phát triển của xã
hội đem lại. Chính vì vậy, tình độ phát triển của giáo dục
phản ảnh những đặc điểm phát triển của xã hội.
Giáo dục bảo vệ môi trường
Giáo dục bảo vệ môi trường nhằm giúp cho mỗi cá
nhân và cộng đồng có sự hiểu biết và nhạy cảm về mơi
trường cùng các vấn đề của nó (nhận thức); những khái
niệm cơ bản về môi trường và bảo vệ mơi trường (kiến
thức); những tình cảm, mối quan tâm trong việc cải thiện và


bảo vệ môi trường (thái độ, hành vi); những kĩ năng giải
quyết cũng như cách thuyết phục các thành viên khác cùng
tham gia (kĩ năng); tinh thần trách nhiệm trước những vấn
đề về mơi trường và có những hành động thích hợp giải
quyết vấn đề. [5]
Giáo dục bảo vệ mơi trường nhằm làm cho các em hiểu
và hình thành, phát triển ở các em thói quen, hành vi ứng xử
văn minh, lịch sự và thân thiện với môi trường. Bồi dưỡng
tình yêu thiên nhiên, những xúc cảm, xây dựng cái thiện.

Hoạt động trải nghiệm.
Khái niệm “Trải nghiệm
Qua nghiên cứu các tài liệu triết học, ta có thể thấy
được một số cách để định nghĩa về trải nghiệm:
Trải nghiệm là một phạm trù của triết học, được đúc
rút từ toàn bộ các hoạt động của con người ở mọi mặt, như
một thể thống nhất giữa kiến thức, kĩ năng, tình cảm và ý
chí. Đặc trưng bằng cơ chế kế thừa di sản xã hội, lịch sử,
văn hóa. Trải nghiệm là một phạm trù của nhận thức luận,
được đúc kết từ sự thống nhất của hoạt động tình cảm –
nhận thức. Trải nghiệm là kiến thức mà ngay lập tức cho
chủ thể ý thức được và có cảm giác tiếp xúc trực tiếp với


thực tế cho dù đó là một thực tế bên ngồi của các đối
tượng và tình huống (nhận thức), hoặc các thực tại của trạng
thái ý thức (quan niệm, những kỷ niệm, xúc động…),
(Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin)
Trong các nghiên cứu tâm lý học, kinh nghiệm thường
được coi là năng lực của cá nhân. Trong các tài liệu sư
phạm học, lý thuyết về trải nghiệm trở thành đối tượng
nghiên cứu, trải nghiệm dưới góc nhìn sư phạm được hiểu
theo một vài ý nghĩa sau: Trải nghiệm trong đào tạo là một
hệ thống kiến thức và kỹ năng có được trong q trình giáo
dục và đào tạo chính quy; Trải nghiệm là kiến thức, kỹ năng
mà trẻ nhận được bên ngồi các cơ sở giáo dục; thơng qua
sự giao tiếp với nhau, với người lớn, hay qua những tài liệu
tham khảo không được giảng dạy trong nhà trường… Trải
nghiệm (qua thực nghiệm, thử nghiệm) là một trong những
phương pháp đào tạo, trong điều kiện thực tế hay lý thuyết

nhất định, để thiết lập hoặc minh họa cho một quan điểm lý
luận cụ thể.
Trải nghiệm là kiến thức hay sự thành thạo một sự
kiện hoặc một chủ đề bằng cách tham gia hoặc chiếm lĩnh
nó. Trong triết học, thuật ngữ “Kiến thức qua thực nghiệm”
chính là kiến thức có được thơng qua trải nghiệm. Khái


niệm “Trải nghiệm” dùng để chỉ phương pháp làm ra kiến
thức hay quy trình làm ra kiến thức chứ khơng phải kiến
thúc thuần túy được đưa ra, là kiến thức dừng để đào tạo
nghề nghiệp chứ không phải là kiến thức trong sách vở.
Nhận thức luận có bản chất là “trải nghiệm”. Những
người tham gia vào các hoạt động du lịch, thể thao mạo
hiểm thường sử dụng ma túy cũng nhấn mạnh vai trò quan
trọng của trải nghiệm. Một số nhà nghiên cứu cho rằng bản
chất trải nghiệm của con người có sự thay đổi về chất từ
thời kì tiền hiện đại đến thời kì hiện đại và hậu hiện đại. [6]
Hoạt động trải nghiệm
Hoạt động trải nghiệm là một cách học thông qua
thực hành, với quan niệm là việc học là quá trình đào tạo ra
tri thức mới trên cơ sở trải nghiệm thực tế, dựa trên những
phân tích, đánh giá trên kinh nghiệm, kiến thức có sẵn.
Như vậy thông qua các hoạt động trải nghiệm, trẻ được
cung cấp các kiến thức và kĩ năng bổ ích từ đó hình thành
những năng lực, phẩm chất và kinh nghiệm. Có thể nói
rằng hoạt động trải nghiệm là một trong những hoạt động
có tác động rất lớn đến tới việc dạy trẻ thu nhận kiến thức
mới, tạo ra niềm say mê tìm hiểu, thích khám phá và biết



cách lĩnh hội nhưng tri thức mới thông qua những gì mà trẻ
đã tự mình thực hiện, tự mình được tạo ra. Học bằng cách
khám phá và biết cách lĩnh hội những kiến thức mới giúp
trẻ được trải nghiệm và tự phát hiện ra những điều kì diệu,
lí thú. (Nguyễn Thị Hương Liên, 2017, Hoạt động trải
nghiệm sáng tạo).
Biện pháp
Biện pháp được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau.
Theo nghĩa chung nhất, biện pháp là cách làm, cách giải
quyết một vấn đề cụ thể. Biện pháp là một phạm trù mang
tính biện pháp biện chứng, nó ln thay đổi theo sự thay đổi
của thực tiễn để đáp ứng các nhu cầu, đòi hỏi của thực tiễn.
(Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin).
Khi sử dụng biện pháp trong quá trình sư phạm nhằm
mục đích giáo dục trẻ thì biện pháp trở thành một thành tố
của quá trình giáo dục. Do đó nó phải tuân theo các quy luật
chung của việc tổ chức quá trình giáo dục như:
Biện pháp giáo dục có mục đích hướng tới sự hình
thành nhân cách trẻ.
Biện pháp giáo dục gắn liền với nội dung hoạt động
của trẻ.


Biện pháp giáo dục có liên hệ chặt chẽ với các điều
kiện, phương tiện trong hoàn cảnh cụ thể.
Biện pháp giáo dục có liên quan đến hình thức tổ chức
hoạt động của trẻ.
Qua đó có thể xác định: Biện pháp là tổ hợp những
cách thức hay cách làm cụ thể trong các hoạt động nhằm

hình thành những hiểu biết cơ bản phù hợp với lứa tuổi
được thể hiện qua tri thức, thái độ, kĩ năng, hành vi và trách
nhiệm của con người. (Những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác-Lênin).
Biện pháp GDBVMT thông qua hoạt động trải
nghiệm.
Như vậy, Biện pháp GDBVMT thông qua hoạt động
trải nghiệm là cách tác động có mục đích, có kế hoạch của
nhà giáo dục nhằm hình thành ở trẻ cách ứng xử tích cực
đối với MT, giữ cho MT trong sạch, lành mạnh, sử dụng tiết
kiệm nguồn tài nguyên thiên nhiên, đồng thời tham gia vào
việc tài tạo MT thông qua các hoạt động phù hợp với lứa
tuổi. ( />

Trong quá trình GDBVMT cho trẻ, người lớn cần chú
ý lựa chọn và phối hợp linh hoạt các phương pháp sao cho
phát huy được hết khả năng hoạt động và nhận thức tích cực
của trẻ. Đặc trưng của GDBVMT khơng chỉ dừng lại ở việc
cung cấp kiến thức mà quan trọng là phải hình thành thái
độ, hành vi, thói quen tích cực của trẻ đối với MT. Cho nên
trong quá trình GDBVMT cho trẻ thơng qua các hoạt động
trải nghiệm cần tăng cường sử dụng các biện pháp tích cực
và tạo cơ hội cho trẻ trải nghiệm càng nhiều càng tốt, khám
phá và rèn luyện hành vi thường xuyên. Mỗi phương pháp
đều có những ưu điểm và hạn chế riêng, chúng ta không thể
sử dụng riêng lẻ từng phương pháp mà phải biết phối hợp
tùy theo điều kiên về cơ sở vật chất, khả năng nhận thức của
trẻ cũng như tính chất phức tạp của vấn đề cần cho trẻ tìm
hiểu, khám phá. Có như thế thì hiệu quả GDBVMT mới đạt
được tối ưu nhất.

GDBVMT cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non
Bản chất GDBVMT cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm
non
GDBVMT cho trẻ mầm non với mục đích chính là
cung cấp cho trẻ những kiến thức sơ đẳng về môi trường


phù hợp với khả năng nhận thức của trẻ (đặc biệt là trẻ 5-6
tuổi) nhằm tạo ra thái độ, hành vi đúng của trẻ đối với môi
trường xung quanh. Khác với động vật, hành vi và thái độ
của con người là cách ứng xử theo nguyên tắc gián tiếp,
thông qua tâm lí, ý thức mà thể hiện hành vi mình đối với
thế giới bên ngồi. Do đó, muốn trẻ thể hiện hành vi và thái
độ đối với một đối tượng nào đó cần phải có một động lực
bên trong đủ để thúc đẩy cho nó thể hiện, đó chính là động
cơ của hành vi và thái độ. Thái độ và hành vi của trẻ phụ
thuộc rất nhiều vào động cơ bên trong. Bên cạnh đó, hình
thái bên ngồi của thái độ và hành vi lại có vai trị quan
trọng vì nó trực tiếp tác động đến đối tượng và được biểu
hiện rõ ràng bằng những vận động, cử chỉ, lời nói, tức là
bằng hành động mà mọi người nhìn vào sẽ thấy trước khi
nhận ra mặt tâm lí bên trong của trẻ. Một đứa trẻ biết quan
tâm đến thực vật bao nhiêu thì khi thấy cây khơ héo sẽ càng
chăm sóc chu đáo hơn bấy nhiêu và ngược lại. Một khi trẻ
đã thích thú với cảnh vật quanh mình bao nhiêu thì trẻ sẽ
khơng thích những người vứt rác bừa bãi bấy nhiêu và càng
có ý thức giữ gìn vệ sinh môi trường.
Mục tiêu GDBVMT cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm
non



Việc khám phá quy luật của tự nhiên nhằm mục đích
BVMT có thể bắt đầu từ lứa tuổi mầm non. Trẻ 5-6 tuổi có
nhu cầu rất lớn về tìm hiểu, khám phá MTXQ để chiếm lĩnh
tri thức cho mình. Hệ thống nhu cầu cá nhân của trẻ rất đa
dạng từ nhu cầu ăn, ngủ, vui chơi, giải trí, đáp ứng nhu cầu
của trẻ. Nhu cầu tham gia các hoạt động BVMT chỉ là một
trong những nhu cầu cá nhân của trẻ và trong một hồn
cảnh nào đó, nó sẽ rất mờ nhạt và không đủ mạnh mẽ để
vượt lên khỏi hệ thống nhu cầu cá nhân hình thành động cơ
thái độ, và hành vi BVMT. Khi đó các hoạt động thực tiễn
diễn ra được lồng ghép vào các môn học sẽ thu hút trẻ thì
những nhu cầu cá nhân này sẽ trỗi dậy mạnh mẽ. Cho nên,
để kích thích trẻ biết quan tâm đến vấn đề BVMT thông qua
các hoạt động trải nghiệm thì trước hết người lớn phải giáo
dục nhu cầu BVMT cho trẻ. Để đạt được mục đích đó, khi
cho trẻ tham gia các hoạt động trải nghiệm thì cần phải sử
dụng các biện pháp tác động đến ý thức của trẻ như các
hình thức biểu dương, khen ngợi trẻ, tạo MT hấp dẫn để
hình thành động cơ thái độ và hành vi tích cực cho trẻ đối
với MT. Tích hợp lồng ghép nội dung giáo dục bảo vệ môi
trường qua các giờ học. Đưa giáo dục bảo vệ môi trường trở
thành một nội dung của hoạt động ngồi giờ lên lớp. Quan
tâm tới mơi trường địa phương, thiết thực cải thiện môi trư-


ờng địa phương, hình thành và phát triển thói quen ứng xử
thân thiện với môi trường. [6]
Để đảm bảo cho con người được sống trong một MT
lành mạnh thì việc giáo dục ý thức BVMT cho trẻ ngay từ

lứa tuổi mầm non để giúp trẻ có những khái niệm ban đầu
về MT sống của bản thân mình nói riêng và con người trên
trái đất nói chung là rất cần thiết. Từ đó trẻ biết sống tích
cực vơi MT nhằm đảm bảo sự phát triển lành mạnh của cơ
thể và trí tuệ. [6]
Nội dung GDBVMT cho trẻ 5-6 tuổi thông qua hoạt
động trải nghiệm.
Việc giáo dục thái độ và hành vi BVMT cho trẻ dù tiến
hành bằng bất cứ phương tiện giáo dục nào cũng đòi hỏi
nhà giáo dục phải cẩn thận, ln chú ý đến những yếu tố có
thể ảnh hưởng đến hiệu quả giáo dục hoặc hạn chế khả năng
hoạt động của trẻ. Để quá trình GDBVMT cho trẻ 5-6 tuổi
thông qua các hoạt động trải nghiệm đạt được hiệu quả cao,
giáo viên cần phải lưu ý những nội dung sau đây:
Bản chất của hoạt động trải nghiệm là việc tạo điều
kiện tối đa để trẻ được “học” bằng cách sử dụng toàn bộ
giác quan, được tác nghiệp, tác động trực tiếp tới đối tượng


trong nhiều khơng gian khác nhau qua đó làm sâu sắc kinh
nghiệm, nhận thức, phẩm chất, năng lực của bản thân.
Mặc dù hoạt động trải nghiệm rất phong phú bao gồm
nhiều lĩnh vực nhưng khi xây dựng chủ đề cho trẻ thì cần
dựa trên những tiêu chí, tiêu chuẩn nhất định để xây dựng
các chủ đề thích hợp ví dụ như:
+ Chủ đề xuất hiện từ mối quan tâm, hứng thú của trẻ.
+ Chủ đề phải có mối liên hệ mật thiết hoặc xuất phát
từ chính cuộc sống, trải nghiệm của trẻ.
+ Chủ đề phải đảm bảo được sự an toàn của trẻ và giáo
viên khi thực hiện.

+ Chủ đề phải huy động được sự hợp tác giữa các giáo
viên ở các chủ đề khác nhau.
+ Chủ đề phải phù hợp với nhận thức, tâm lí lứa tuổi,
sức khỏe của trẻ.
+ Chủ đề phải có tính hợp lí trong mối quan hệ với
mùa và sự sắp xếp chương trình của nhà trường.
Để biết chủ đề định lựa chọn, thiết kế có phù hợp với
các tiêu chí thì giáo viên tiến hành quan sát trực tiếp và tiến


hành điều tra bằng nhiều hình thức khác nhau cũng như
nghiên cứu tài liệu nhiều nguồn để nắm chắc tình hình địa
phương, trường học, và trẻ.Làm cho trẻ bước đầu hiểu và
biết:
+ Các thành phần môi trường đất, nước, không khí,
ánh sáng, động thực vật. và quan hệ giữa chúng.
Khảo sát điền dã, điều tra xã hội học, phỏng vấn, trao
đổi với phụ huynh sau khi đã xác định được tiêu chuẩn lựa
chọn chủ đề, giáo viên sẽ xác định được chủ đề cần thực
hiện và xây dựng. Các bước tiến hành xây dựng và thực
hiện hoạt động:
+ Tìm hiểu, thu thập thơng tin có liên quan bao gồm cả
thực địa về chủ đề và việc tổ chức hoạt động trải nghiệm.
+ Khảo sát về vấn đề mà trẻ đang quan tam và lí do tại
sao trẻ lại quan tâm đến vấn đề đó.
+ Tham chiếu nguồn lực vật chất, năng lực giáo viên,
đặc điểm tâm sinh lí của trẻ và điều kiện nhà trường đối với
thông tin thu thập được để dự kiến nội dung hoạt động. Xác
định chủ đề (đặt tên cho chủ đề).



+ Viết nội dung và kế hoạch thực hiện chương trình
hoạt động trải nghiệm (mục tiêu, nội dung, phương pháp
tiến hành, cách thức đánh giá, chuẩn bị của giáo viên, trẻ,
phụ huynh, các nguồn lực hỗ trợ bên ngoài…)
+ Thảo luận với đồng nghiệp, chuyên gia để chỉnh sửa
chương trình, đến thực địa để quan sát, thí nghiệm, dự kiến
các hoạt động đã soạn ra và dự đốn các tình huống bất
thường có thể xảy ra để bổ sung và chuẩn bị phương án xử
lí.
+ Hồn thiện chủ đề và kế hoạch thực hiện chủ đề.
Quy trình tổ chức hoạt động trải nghiệm có thể được
thực hiện bằng các bước sau:
Bước 1: Phổ biến trước cho trẻ và những người có liên
quan về nội dung và kế hoạch tổ chức hoạt động trải
nghiệm.
Bước 2: Nhắc nhở trẻ những điều đặc biệt lưu ý khi
tiến hành hoạt động trải nghiệm như các quy tắc an toàn,…
Bước 3: Tổ chức hoạt động trải nghiệm theo như kế
hoạch.


×