1
CHƯƠNG 1
o0o
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DỰ ÁN ĐẦU TƯ VÀ
CHẤT LƯỢNG CHO VAY DỰ ÁN ĐẦU TƯ
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Tổng quan về DAĐT và cho vay DAĐT của NHTM
1.1.1. Những vấn đề cơ bản về DAĐT
1.1.1.1. Khái niệm
Đầu tư được coi là động lực của sự phát triển nói chung và sự phát triển kinh tế
nói riêng của mọi quốc gia trên thế giới. Có thể hiểu đầu tư là việc huy động nguồn
lực để biến các lợi ích dự kiến thành hiện thực trong một khoảng thời gian đủ dài
trong tương lai. Trong đó: các nguồn lực chính là vốn, chất xám, tài nguyên thiên
nhiên, thời gian…; lợi ích dự kiến có thể lượng hoá được (hay đo được hiệu quả
bằng tiền như sự tăng lên của sản lượng, lợi nhuận..) mà cũng có thể không lượng
hoá được (như sự phát triển trong các lĩnh vực giáo dục, giải quyết các vấn đề xã
hội, quốc phòng..). Đối với doanh nghiệp, đầu tư hiểu đơn giản là việc bỏ vốn kinh
doanh để mong thu được lợi nhuận trong tương lai. Còn trên quan điểm xã hội thì
đầu tư là hoạt động bỏ vốn để từ đó thu được các hiệu quả kinh tế xã hội, vì mục
tiêu phát triển quốc gia. Nhưng cho dù đứng từ góc độ nào đi chăng nữa, muốn tối
đa hoá hiệu quả của đầu tư thì trước khi quyết định đầu tư, nhất thiết phải có
DAĐT. Vậy DAĐT là gì?
DAĐT là một tập hợp những đề xuất về việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc
cải tạo những đối tượng nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng về khối lượng, cải
tiến hoặc nâng cao chất lượng của sản phẩm hay dịch vụ nào đó trong một khoảng
thời gian xác định. DAĐT chính là cơ sở quan trọng để chủ đầu tư và các nhà đầu
tư liên quan xem xét ra quyết định đầu tư.
1.1.1.2. Vai trò của DAĐT
- DAĐT là phương tiện để chuyển dịch và phát triển cơ cấu kinh tế.
2
- DAĐT giải quyết quan hệ cung – cầu về vốn trong phát triển.
- DAĐT góp phần xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật, nguồn lực mới cho phát
triển.
- DAĐT giải quyết quan hệ cung – cầu về sản phẩm, dịch vụ trên thị trường, cân
đối quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng trong xã hội.
- DAĐT góp phần không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân
dân, cải biến bộ mặt kinh tế – xã hội của đất nước.
1.1.1.3. Ý nghĩa của DAĐT
- Đối với cơ quan nhà nước, DAĐT là cơ sở đầu tiên, là tài liệu cơ bản để cơ
quan quản lý nhà nước xem xét, phê chuẩn, cấp giấy phép đầu tư.
- Đối với chủ đầu tư, đó là căn cứ quan trọng để quyết định việc bỏ vốn đầu tư,
thu hút đối tác cùng tham gia liên doanh bỏ vốn đầu tư, là phương tiện thuyết
phục các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước tài trợ cho vay vốn.
- DAĐT là cơ sở để xây dựng kế hoạch thực hiện đầu tư, theo dõi đôn đốc và
kiểm tra quá trình thực hiện. Từ đó đánh giá chính xác và điều chỉnh kịp thời
những vướng mắc trong quá trình xây dựng và hoạt động của dự án.
1.1.1.4. Tính khả thi của DAĐT
Tính khả thi là một yêu cầu đặc biệt quan trọng của DAĐT. Người lập dự án
cũng như người thẩm định dự án đều phải quan tâm trước hết đến tính khả thi của
dự án. Một DAĐT được gọi là khả thi nếu nó hội đủ các tính chất sau:
Ø Tính hợp pháp:
+ Phải phù hợp với pháp luật.
+ Có đủ các căn cứ pháp lý: tư cách pháp nhân của các đối tác, giấy phép hành
nghề, khả năng tài chính, sở trường kinh doanh, các thông tin khác liên quan
đến các đối tác; các hợp đồng liên quan; các văn bản xác nhận về quy hoạch,
đất đai, định giá tài sản góp vốn, giá cả áp dụng,…
Ø Tính hợp lý:
+ Phù hợp với đường lối, chủ trương, chính sách phát triển kinh tế xã hội của
quốc gia, của các ngành kinh tế, vùng kinh tế cũng như của các địa phương.
3
+ Các giải pháp đầu tư đều được lựa chọn hợp lý về kỹ thuật cũng như về kinh
tế.
+ Các phương án lựa chọn phải phù hợp với các điều kiện cụ thể của dự án,
phù hợp với truyền thống, tập quán của quốc gia, địa phương.
+ Nội dung, hình thức trình bày phải phù hợp với các quy định, hướng dẫn, chỉ
dẫn của các cơ quan có trách nhiệm liên quan.
Ø Tính hiện thực:
+ Mọi phương án, giải pháp được lựa chọn phải phù hợp với thực tế, có tính
hiện thực, có khả năng thực hiện được trong điều kiện cụ thể của quốc gia.
+ Các giải pháp nêu ra trong dự án phải được cân nhắc kỹ lưỡng và không quá
ảo tưởng.
Ø Tính hiệu quả:
+ Trong dự án phải có các chỉ tiêu cụ thể chứng minh hiệu quả của dự án về
mặt tài chính cũng như về mặt kinh tế xã hội. Tránh tình trạng phóng đại các
chỉ tiêu về hiệu quả làm cho dự án mất tính trung thực.
1.1.2. Cho vay DAĐT của NHTM
1.1.2.1. Khái niệm
Cho vay DAĐT là việc tổ chức tín dụng đồng ý cấp một hạn mức tín dụng cho
chủ đầu tư thực hiện dự án trong một thời gian và điều kiện được thỏa thuận trong
hợp đồng tín dụng sau khi đã tổ chức thẩm định tính khả thi và hiệu quả của
DAĐT. Chủ đầu tư có trách nhiệm thực hiện đúng, đầy đủ các điều khoản đã cam
kết trong hợp đồng tín dụng và hoàn trả cả gốc và lãi cho tổ chức tín dụng đúng
hạn.
1.1.2.2. Đặc điểm của cho vay DAĐT
v Vốn đầu tư lớn, thời gian cho vay dài, thu hồi vốn chậm
Hoạt động cho vay DAĐT của các NHTM chủ yếu là tài trợ vốn cho khách
hàng để thực hiện việc đầu tư thêm tài sản cố định, đổi mới công nghệ, trang thiết
bị, xây dựng, mở rộng nhà xưởng… do đó thường đòi hỏi một lượng vốn khá lớn
4
và thời gian cho vay tương đối dài. Hơn nữa, nguồn trả nợ chính của dự án là từ
khấu hao và lợi nhuận mà dự án đem lại, điều này có nghĩa là ngân hàng chỉ có thể
thu hồi nợ khi dự án đã đi vào hoạt động, từ đó dẫn đến thời gian thu hồi vốn của
ngân hàng chậm.
v Độ rủi ro cao
Do thời gian đầu tư tương đối dài trong khi thời gian thu hồi vốn lại chậm nên
mức độ rủi ro trong hoạt động cho vay DAĐT của ngân hàng tương đối cao. Một
DAĐT từ lúc bắt đầu triển khai thực hiện cho đến lúc đi vào sản xuất, hoạt động
tiềm ẩn rất nhiều rủi ro, chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố khác nhau. Các sự thay
đổi về môi trường kinh tế, cơ chế chính sách, thiên tai…đều có thể ảnh hưởng rất
lớn đến hiệu quả, nguồn trả nợ của dự án do đó đòi hỏi các ngân hàng khi quyết
định tài trợ vốn cho dự án phải thẩm định thật kỹ lưỡng, nhận biết được các rủi ro
có thể xảy ra để có biện pháp phòng ngừa kịp thời.
v Lợi nhuận nhiều
Khi độ rủi ro của các dự án càng cao thì lợi nhuận kỳ vọng mà các chủ đầu tư
mong đợi các nhiều. Không nằm ngoài quy luật này, các khoản cho vay DAĐT
thường mang lại cho các ngân hàng nguồn thu nhập lớn, biểu hiện cụ thể là lãi suất
cho vay đầu tư dự án thường khá cao. Có đặc điểm này là do để bù đắp chi phí
trong việc huy động những nguồn vốn phục vụ cho hoạt động cho vay dự án, chi
phí bù đắp rủi ro.
1.1.2.3. Thẩm định DAĐT
Thẩm định DAĐT là việc tổ chức xem xét một cách khách quan, toàn diện các
nội dung cơ bản liên quan đến DAĐT có ảnh hưởng trực tiếp đến tính khả thi và
khả năng hoàn trả vốn đầu tư của dự án để phục vụ cho việc xem xét quyết định
cho khách hàng vay vốn đầu tư dự án. Thẩm định DAĐT là một mắt xích quan
trọng trong quy trình cho vay DAĐT của ngân hàng.
Với tư cách là đơn vị cho vay vốn, việc thẩm định DAĐT của ngân hàng sẽ tập
trung chủ yếu vào phân tích, đánh giá về khía cạnh hiệu quả tài chính và khả năng
5
trả nợ của dự án. Các khía cạnh khác như hiệu quả về mặt xã hội, hiệu quả kinh tế
nói chung cũng sẽ được đề cập tới tuỳ theo đặc điểm và yêu cầu của từng dự án.
Các nội dung chính khi thẩm định dự án bao gồm:
v Xem xét, đánh giá sơ bộ theo các nội dung quan trọng của dự án
+ Mục tiêu đầu tư của dự án
+ Sự cần thiết đầu tư dự án
+ Quy mô đầu tư
+ Quy mô vốn đầu tư
+ Dự kiến tiến độ triển khai thực hiện dự án
v Phân tích về thị trường và khả năng tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ đầu ra của
dự án
Ø Về nhu cầu sản phẩm dự án: đánh giá tổng quan về sản phẩm của dự án;
tình hình sản xuất, tiêu thụ các sản phẩm, dịch vụ thay thế đến thời điểm thẩm định;
ước tính tổng nhu cầu hiện tại về sản phẩm, dịch vụ đầu ra của dự án; dự tính tổng
nhu cầu trong tương lai đối với sản phẩm, dịch vụ đầu ra của dự án;…
Ø Về cung sản phẩm: xác định năng lực sản xuất, cung cấp đáp ứng nhu cầu
trong nước hiện tại của sản phẩm dự án; dự đoán biến động của thị trường trong
tương lai; sản lượng nhập khẩu trong những năm qua, dự kiến khả năng nhập khẩu
trong thời gian tới; dự đoán ảnh hưởng của các chính sách xuất nhập khẩu đến thị
trường sản phẩm của dự án;…
Ø Thị trường mục tiêu và khả năng cạnh tranh của sản phẩm dự án: cần
xem xét đánh giá các mặt như:
+ Thị trường nội địa: Hình thức, mẫu mã, chất lượng sản phẩm của dự án so
với các sản phẩm cùng loại trên thị trường thế nào, có ưu điểm gì không; sản
phẩm có phù hợp với thị hiếu của người tiêu thụ, xu hướng tiêu thụ hay
không; giá cả so với các sản phẩm cùng loại trên thị trường thế nào, có rẻ
hơn không, có phù hợp với xu hướng thu nhập, khả năng tiêu thụ không;…
6
+ Thị trường nước ngoài: sản phẩm có khả năng đạt các yêu cầu về tiêu chuẩn
để xuất khẩu hay không (tiêu chuẩn chất lượng, vệ sinh...); quy cách, chất
lượng, mẫu mã, giá cả có những ưu thế như thế nào so với các sản phẩm
cùng loại trên thị trường dự kiến xuất khẩu; thị trường dự kiến xuất khẩu có
bị hạn chế bởi hạn ngạch không;…
Ø Phương thức tiêu thụ và mạng lưới phân phối: xem xét, đánh giá xem sản
phẩm của dự án dự kiến được tiêu thụ theo phương thức nào, có cần hệ thống phân
phối không; mạng lưới phân phối của sản phẩm dự án đã được xác lập chưa, mạng
lưới phân phối có phù hợp với đặc điểm của thị trường không; phương thức bán
hàng trả chậm hay trả ngay;…
Ø Khả năng tiêu thụ sản phẩm của dự án: đánh giá, dự kiến sản lượng sản
xuất, tiêu thụ hàng năm; diễn biến giá bán sản phẩm, dịch vụ đầu ra hàng năm;…
v Đánh giá khả năng cung cấp nguyên vật liệu và các yếu tố đầu vào của dự án
+ Nhu cầu về nguyên nhiên liệu đầu vào để phục vụ sản xuất hàng năm.
+ Các nhà cung ứng nguyên liệu đầu vào.
+ Chính sách nhập khẩu đối với các nguyên nhiên liệu đầu vào (nếu có).
+ Biến động về giá mua, nhập khẩu nguyên nhiên liệu đầu vào, tỷ giá trong
trường hợp phải nhập khẩu.
+ Đối với các dự án phải gắn với vùng nguyên liệu thì khả năng xây dựng
vùng nguyên liệu như thế nào?
v Đánh giá, nhận xét các nội dung về phương diện kỹ thuật
Ø Địa điểm xây dựng: xem xét, đánh giá địa điểm có thuận lợi về mặt giao
thông, có gần các nguồn cung cấp: nguyên vật liệu, điện, nước và thị trường tiêu
thụ, có nằm trong quy hoạch hay không; cơ sở vật chất, hạ tầng hiện có của địa
điểm đầu tư như thế nào; đánh giá so sánh về chi phí đầu tư so với các dự án tương
tự ở địa điểm khác;…
Ø Quy mô sản xuất và sản phẩm của dự án: xem xét, đánh giá công suất
thiết kế dự kiến của dự án là bao nhiêu, có phù hợp với khả năng tài chính, trình độ
7
quản lý, địa điểm, thị trường tiêu thụ... hay không; sản phẩm của dự án là sản phẩm
mới hay đã có sẵn trên thị trường; quy cách, phẩm chất, mẫu mã của sản phẩm như
thế nào;…
Ø Công nghệ, thiết bị: xem xét, đánh giá quy trình công nghệ có tiên tiến,
hiện đại không; công nghệ có phù hợp với trình độ hiện tại của Việt Nam không;
trình độ tiên tiến của thiết bị, khi cần thiết phải thay đổi sản phẩm thì thiết bị này có
đáp ứng được không; giá cả thiết bị và phương thức thanh toán; thời gian giao hàng
và lắp đặt thiết bị có phù hợp với tiến độ thực hiện dự án dự kiến; uy tín của các
nhà cung cấp thiết bị;…
Ø Quy mô, giải pháp xây dựng: xem xét quy mô xây dựng, giải pháp kiến
trúc có phù hợp với dự án không, có tận dụng được các cơ sở vật chất hiện có hay
không; tiến độ thi công có phù hợp với việc cung cấp máy móc thiết bị, có phù hợp
với thực tế;…
Ø Môi trường, phòng cháy chữa cháy: xem xét, đánh giá các giải pháp về
môi trường, phòng cháy chữa cháy của dự án có đầy đủ, phù hợp chưa, đã được cơ
quan có thẩm quyền chấp thuận trong trường hợp yêu cầu phải có hay chưa.
v Đánh giá về phương diện tổ chức, quản lý thực hiện dự án
+ Xem xét kinh nghiệm, trình độ tổ chức vận hành của chủ đầu tư dự án.
+ Xem xét năng lực, uy tín các nhà thầu: tư vấn, thi công, cung cấp thiết bị,
công nghệ...
+ Đánh giá về nguồn nhân lực của dự án: số lượng lao động dự án cần, đòi hỏi
về tay nghề, trình độ kỹ thuật, kế hoạch đào tạo và khả năng cung ứng nguồn
nhân lực cho dự án;…
v Thẩm định tổng vốn đầu tư và tính khả thi phương án nguồn vốn
Ø Tổng vốn đầu tư dự án: đánh giá tổng vốn đầu tư đã được tính toán hợp lý
hay chưa, đã tính đủ các khoản cần thiết chưa; tính toán, xác định xem nhu cầu vốn
lưu động cần thiết ban đầu để đảm bảo hoạt động của dự án, từ đó có cơ sở thẩm
định giải pháp nguồn vốn và tính toán hiệu quả tài chính sau này.
8
Ø Xác định nhu cầu vốn đầu tư theo tiến độ thực hiện dự án: xem xét, đánh
giá về tiến độ thực hiện dự án và nhu cầu vốn cho từng giai đoạn như thế nào, có
hợp lý không; khả năng đáp ứng nhu cầu vốn trong từng giai đoạn thực hiện dự án
để đảm bảo tiến độ thi công.
Ø Nguồn vốn đầu tư: cân đối giữa nhu cầu vốn đầu tư và khả năng tham gia
tài trợ của các nguồn vốn dự kiến để đánh giá tính khả thi của các nguồn vốn thực
hiện dự án.
v Đánh giá hiệu quả về mặt tài chính của dự án
Từ những đánh giá về tính khả thi của nguồn vốn, cơ cấu vốn đầu tư; đánh giá
về mặt thị trường, khả năng tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ đầu ra của dự án, phương án
tiêu thụ sản phẩm; đánh giá về khả năng cung cấp vật tư, nguyên liệu đầu vào cùng
với đặc tính của dây chuyền công nghệ; tốc độ luân chuyển vốn lưu động hàng năm
của dự án, của các doanh nghiệp cùng ngành nghề và mức vốn lưu động tự có của
chủ dự án; các chế độ thuế hiện hành, các văn bản ưu đãi riêng đối với dự án để xác
định phần trách nhiệm của chủ dự án đối với ngân sách;…sẽ thiết lập được các
bảng tính toán hiệu quả tài chính dự án làm cơ sở cho việc đánh giá hiệu quả và khả
năng trả nợ vốn vay của khách hàng.
1.1.2.4. Phân tích rủi ro của DAĐT
Một DAĐT từ khâu chuẩn bị đến khâu thực hiện và đi vào sản xuất đều tiềm ẩn
rất nhiều loại rủi ro khác nhau, vì vậy để tăng tính khả thi, hiệu quả của dự án cũng
như có biện pháp phòng ngừa, khắc phục rủi ro kịp thời thì việc đánh giá, phân tích
và dự đoán các rủi ro có thể xảy ra là một việc làm rất quan trọng, đồng thời có ý
nghĩa rất lớn trong việc xem xét, quyết định cho vay của ngân hàng. Một DAĐT
thường tiềm ẩn những rủi ro chủ yếu sau:
Ø Rủi ro về kinh tế vĩ mô: đây là những rủi ro phát sinh từ môi trường kinh tế
vĩ mô như tỷ giá hối đoái, lạm phát, lãi suất… Các yếu tố này biến động sẽ ảnh
hưởng đến tổng vốn đầu tư, làm tăng chi phí và giảm hiệu quả của dự án.
Ø Rủi ro về cơ chế chính sách: bao gồm tất cả những bất ổn về tài chính và
chính sách của nơi/địa điểm xây dựng dự án như: các sắc thuế mới, hạn chế về
9
chuyển tiền, các luật, nghị định…làm ảnh hưởng đến tính khả thi, dòng tiền của dự
án.
Ø Rủi ro về tiến độ thực hiện: rủi ro này phát sinh khi dự án thực hiện không
đúng thời gian quy định, việc kéo dài thời gian thực hiện dự án có thể làm phát sinh
thêm chi phí đầu tư do tăng giá vật liệu hay các chi phí phát sinh khác từ đó ảnh
hưởng đến hiệu quả và khả năng cạnh tranh của dự án.
Ø Rủi ro về nguồn cung cấp (đầu vào): rủi ro này xảy ra khi dự án không có
được nguồn cung cấp nguyên vật liệu (đầu vào chính/quan trọng của dự án) với số
lượng, giá cả, chất lượng như dự kiến ban đầu.
Ø Rủi ro về thị trường tiêu thụ (đầu ra): rủi ro này xảy ra khi hàng hoá, sản
phẩm của dự án sản xuất ra không phù hợp với nhu cầu của thị trường, thị hiếu của
người tiêu dùng, thiếu sự cạnh tranh về chất lượng, giá cả, mẫu mã, công dụng,..
Ø Rủi ro về kỹ thuật, vận hành, bảo trì: đây là những rủi ro về việc dự án
không được vận hành, bảo trì theo đúng như thiết kế dự kiến ban đầu từ đó làm ảnh
hưởng đến công suất, hiệu quả của dự án.
Ø Rủi ro về môi trường và xã hội: rủi ro này phát sinh khi dự án có những tác
động tiêu cực đến môi trường và đời sống của người dân xung quanh.
1.2. Chất lượng cho vay DAĐT tại NHTM
1.2.1. Khái niệm
Theo khái niệm tổng quát nhất thì chất lượng là tập hợp các đặc tính của một
thực thể, đối tượng tạo cho thực thể, đối tượng đó khả năng thỏa mãn những nhu
cầu đã nêu ra hoặc tiềm ẩn.
Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh như hiện nay, bất kỳ doanh nghiệp nào
muốn đứng vững và phát triển đều phải quan tâm đến yếu tố chất lượng bao gồm
chất lượng hoạt động, chất lượng sản phẩm, chất lượng dịch vụ,… Việc nâng cao
chất lượng không chỉ giúp doanh nghiệp tạo được uy tín, niềm tin với khách hàng,
tăng khả năng cạnh tranh mà còn giúp doanh nghiệp từng bước chiếm lĩnh và mở
rộng thị trường.
10
Ngân hàng với tư cách là một trung gian tài chính trong nền kinh tế, hoạt động
chủ yếu và thường xuyên nhất là nhận tiền gửi và cho vay, nên để có thể bảo đảm
sự tồn tại và phát triển thì chất lượng của các khoản vay luôn là mối quan tâm hàng
đầu của các NHTM.
Chất lượng của một khoản vay có thể được hiểu là hiệu quả kinh tế mà khoản
vay đó mang lại cho cả người đi vay (khách hàng) và người cho vay. Một khoản
vay được coi là có chất lượng tốt nếu nó mang lại hiệu quả kinh tế cao cho cả ngân
hàng và khách hàng, tức là vốn vay được người vay đưa vào quá trình đầu tư tạo ra
một số tiền lớn hơn vừa để hoàn trả nợ gốc và lãi vay, vừa trang trải các chi phí
khác mà vẫn bảo đảm có lợi nhuận qua đó đóng góp vào sự tăng trưởng chung của
nền kinh tế. Xét một cách tổng thể khoản vay đó vừa tạo ra hiệu quả kinh tế vừa tạo
ra hiệu quả xã hội.
Chất lượng cho vay là một khái niệm tương đối, nó vừa mang tính cụ thể, vừa
mang tính trừu tượng. Chất lượng cho vay phản ánh mức độ thích nghi của ngân
hàng với sự thay đổi của môi trường bên ngoài đồng thời thể hiện sức mạnh của
ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại.
Phân tích và đánh giá đúng chất lượng cho vay, xác định được nguyên nhân của
những tồn tại trong lĩnh vực này sẽ giúp ngân hàng tìm được những biện pháp quản
lý thích hợp.
1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng cho vay DAĐT
Hoạt động cho vay DAĐT là hoạt động quan trọng và mang lại thu nhập lớn
nhất cho ngân hàng. Mặt khác hoạt động cho vay DAĐT của ngân hàng cũng mang
lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế, giúp cho nguồn vốn của nền kinh tế được sử dụng
hiệu quả hơn. Do đó việc nâng cao chất lượng cho vay DAĐT không chỉ là mục
tiêu của ngân hàng mà nó còn là mong muốn của các cá nhân, doanh nghiệp là
khách hàng của ngân hàng. Có nhiều cách đánh giá chất lượng cho vay DAĐT, tuy
nhiên dưới góc độ ngân hàng thì chất lượng cho vay DAĐT có thể được đánh giá
qua các chỉ tiêu sau:
11
1.2.2.1. Các chỉ tiêu định tính
v Khả năng đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng
Chất lượng cho vay của ngân hàng được thể hiện ở khả năng đáp ứng tốt nhu
cầu của khách hàng. Đối với khách hàng thì điều này được biểu hiện trước hết ở thủ
tục đơn giản thuận tiện, cung cấp vốn nhanh chóng, kịp thời từ đó giúp cho khách
hàng tiết kiệm được thời gian, chi phí giao dịch và nhất là không bỏ lỡ cơ hội đầu
tư tốt. Tuy nhiên như vậy vẫn chưa đủ, mà bên cạnh đó ngân hàng còn phải trở
thành bạn của khách hàng, sẵn sàng giúp đỡ, chia sẻ khó khăn đối với khách hàng.
Chẳng hạn, trong quá trình xét duyệt cho vay nếu thấy dự án vay vốn của doanh
nghiệp có những điểm chưa hợp lý, không khả thi thì thay vì từ chối cho vay, ngân
hàng có thể góp ý, tư vấn cho khách hàng để họ xem xét lại một cách hợp lý. Ngoài
ra, ngân hàng cũng có thể là người cung cấp thông tin bổ ích về thị trường, về tiến
bộ khoa học công nghệ cho khách hàng. Có làm được như vậy thì nguồn vốn của
doanh nghiệp mới thực sự phát huy được vai trò đòn bẩy kinh tế cả đối với ngân
hàng và khách hàng. Như vậy rõ ràng chỉ riêng việc đáp ứng nhu cầu của khách
hàng cũng không phải là một nhiệm vụ dễ dàng đối với các NHTM nhằm nâng cao
chất lượng cho vay của mình.
v Bảo đảm được sự tồn tại và phát triển của ngân hàng
Đây cũng là một yêu cầu quan trọng trong việc đánh giá chất lượng cho vay của
NHTM. Hoạt động cho vay phải mang lại cho ngân hàng thu nhập đủ để trang trải
cho các chi phí liên quan và có lãi, đồng thời hạn chế thấp nhất nguy cơ xảy ra rủi
ro, tuy nhiên điều này không chỉ phụ thuộc vào ngân hàng mà nó còn phụ thuộc vào
khách hàng (những người vay vốn để đầu tư).
Một khoản cho vay chỉ có thể coi là có chất lượng khi các nguyên tắc cho vay
được tuân thủ triệt để: sử dụng vốn vay đúng mục đích và có hiệu quả; hoàn trả nợ
gốc và lãi đúng hạn. Việc tuân thủ chặt chẽ các nguyên tắc cho vay vừa là điều kiện
cần thiết vừa là sự biểu hiện của chất lượng một khoản vay. Bên cạnh đó, việc sử
dụng vốn vay đúng mục đích, cùng với sự năng động, nhạy bén trong kinh doanh
của khách hàng và sự giúp đỡ có hiệu quả của ngân hàng từ việc cấp phát vốn sẽ
tạo điều kiện để khách hàng đạt được hiệu quả đầu tư cao nhất và đó chính là tiền
12
đề để khách hàng thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ, bảo đảm được sự tồn tại và phát
triển của ngân hàng.
v Đóng góp vào sự phát triển kinh tế xã hội của vùng, của ngành, địa phương
và của cả nước
Đây là hệ quả tất yếu đạt được khi cả nhà đầu tư và ngân hàng cùng đạt được
hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của mình. Nó được biểu hiện ở sự ổn định của
nền tài chính tiền tệ quốc gia, giúp nâng cao năng lực sản xuất, năng lực công nghệ
của khách hàng, giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập, nâng cao mức sống dân
cư. Tuy nhiên khi đánh giá tiêu thức này cần căn cứ vào từng trường hợp cụ thể
trong từng thời kỳ chứ không có một tiêu chuẩn đánh giá cụ thể cho từng trường
hợp. Chẳng hạn các dự án cải tạo nâng cấp trang thiết bị, đổi mới công nghệ giúp
doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh nhưng đồng thời lại thu hẹp
công ăn việc làm của người lao động; hoặc những dự án hiệu quả hiện tại và cả
trước mắt không cao nhưng lại có ý nghĩa về mặt xã hội thì để đánh giá chính xác
hiệu quả cho vay của dự án cần phải cân nhắc kỹ lưỡng nhiều mặt liên quan.
Tóm lại chất lượng cho vay DAĐT là một chỉ tiêu rất tổng hợp và được đánh
giá trên quan điểm của cả ba chủ thể: ngân hàng, khách hàng và nền kinh tế. Tuy
nhiên, các chỉ tiêu định tính chỉ là những căn cứ để đánh giá chất lượng cho vay
DAĐT một cách khái quát. Để có những kết luận chính xác hơn cần phải dựa vào
một hệ thống các chỉ tiêu định lượng cụ thể.
1.2.2.2. Các chỉ tiêu định lượng
v Chỉ tiêu dư nợ
Dư nợ cho vay DAĐT
Chỉ tiêu dư nợ =
Tổng dư nợ cho vay
Chỉ tiêu này phản ánh tỷ trọng dư nợ cho vay DAĐT so với tổng dư nợ cho vay
của ngân hàng, phản ánh quy mô của việc cho vay dự án đối với các loại hình cho
vay khác. Tỷ lệ này cao và ngày càng tăng thể hiện sự chú trọng của ngân hàng đến
hoạt động cho vay DAĐT. Việc đẩy mạnh cho vay DAĐT không chỉ giúp các
13
NHTM thu được nhiều lợi nhuận hơn so với các hoạt động cho vay khác mà nó còn
giúp các NHTM nâng cao uy tín và mở rộng thị trường tín dụng ngắn hạn. Tuy
nhiên, do đặc tính rủi ro cao nên các ngân hàng sẽ căn cứ vào những đặc điểm riêng
về nguồn vốn, về khả năng quản lý, trình độ chuyên môn của mình để xác định tỷ lệ
này cho phù hợp.
v Chỉ tiêu cân đối vốn
Dư nợ cho vay DAĐT
Chỉ tiêu cân đối vốn =
Tổng nguồn vốn huy động
Chỉ tiêu này phản ánh quy mô, khả năng tận dụng nguồn vốn trong cho vay
DAĐT của các NHTM. Hầu hết các NHTM đều sử dụng nguồn vốn trung dài hạn
để tài trợ cho ba loại tài sản: tài sản cố định, cho vay và đầu tư. Tuy nhiên do đặc
điểm các nguồn vốn ngắn hạn của ngân hàng có sự gối đầu nhất định nên ngân
hàng có thể tận dụng nguồn này một cách hợp lý để cho vay dự án. Do đó trong
thực tế tỷ lệ cân đối vốn nói trên cụ thể như thế nào thì mỗi ngân hàng sẽ có một
mức riêng phù hợp với điều kiện của mình. Ngoài ra, khi xem xét chỉ tiêu này cần
kết hợp với chỉ tiêu dư nợ ở trên để có kết luận chính xác hơn về khả năng nguồn
vốn của ngân hàng.
v Chỉ tiêu về vòng quay vốn
Doanh số cho vay DAĐT
Chỉ tiêu vòng quay vốn =
Dư nợ cho vay DAĐT bình quân
Chỉ tiêu này phản ánh tỷ lệ giữa doanh số cho vay DAĐT với dư nợ cho vay
DAĐT bình quân, qua đó có thể thấy được khả năng mở rộng cho vay DAĐT cũng
như hiệu quả công tác thu nợ của ngân hàng. Chỉ tiêu này thông thường nhỏ hơn 1
do thời hạn vay của các dự án khá dài nên dư nợ bình quân trong một năm sẽ lớn
hơn doanh số cho vay trong cùng năm đó. Chỉ tiêu này càng gần 1 càng chứng tỏ
14
hoạt động cho vay và công tác thu nợ của ngân hàng đối với các khoản cho vay
DAĐT có chất lượng tốt, bởi lẽ điều đó chỉ đạt được khi quy mô cho vay được mở
rộng và hầu hết các khoản cho vay đến hạn trong năm đó đều được thu hồi đầy đủ.
Ngược lại nếu tỷ lệ này thấp chứng tỏ hoạt động cho vay hay thu nợ hoặc cả hai
đều gặp khó khăn.
v Chỉ tiêu đánh giá tình trạng nợ quá hạn:
Dư nợ cho vay DAĐT quá hạn
· Chỉ tiêu 1: Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ =
Dư nợ cho vay DAĐT
Dư nợ cho vay DAĐT quá hạn
· Chỉ tiêu 2: Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ quá hạn =
Dư nợ cho vay quá hạn
Nợ quá hạn là những khoản nợ khi đến kỳ hạn trả nợ hoặc hết thời hạn vay vốn
cộng với thời gian được gia hạn thêm (nếu có) nhưng khách hàng vẫn chưa trả được
nợ. Trong trường hợp này khách hàng sẽ phải chịu lãi suất quá hạn cao hơn nhiều
so với lãi suất đã được thoả thuận trong hợp đồng tín dụng, mặc dù vậy có thể thấy
rõ là không ngân hàng nào mong muốn nhận được khoản lãi cao này. Nợ quá hạn là
một trong những chỉ tiêu quan trọng nhất đánh giá chất lượng tín dụng, chất lượng
cho vay của ngân hàng, đồng thời phản ánh những rủi ro mà ngân hàng đang phải
đối mặt.
Chỉ tiêu đầu tiên phản ánh khái quát về tình hình nợ quá hạn của ngân hàng
trong cho vay DAĐT. Tỷ lệ này tỷ lệ nghịch với chất lượng cho vay của ngân hàng.
Tỷ lệ này cao cho thấy chất lượng cho vay của ngân hàng càng thấp và ngược lại,
do dó tất cả các ngân hàng đều mong muốn hạ thấp tỷ lệ này xuống đến mức thấp
nhất có thể. Tuy nhiên trên thực tế do những rủi ro trong kinh doanh là không thể
tránh khỏi nên các ngân hàng thường chấp nhận một tỷ lệ nợ quá hạn nhất định
15
trong giới hạn an toàn. Theo một số chuyên gia thì nếu duy trì tỷ lệ nợ quá hạn ở
mức dưới 3% là có thể chấp nhận được còn nếu dưới 1% thì có thể coi là lý tưởng.
Chỉ tiêu thứ hai phản ánh tình hình nợ quá hạn trong cho vay DAĐT so với tổng
nợ quá hạn trong hoạt động cho vay của ngân hàng. Tỷ lệ này cho thấy mức độ rủi
ro của cho vay DAĐT, tỷ lệ này càng cao chứng tỏ hoạt động cho vay DAĐT của
ngân hàng ngày càng rủi ro hơn so với các hoạt động cho vay khác.
v Chỉ tiêu đánh giá lợi nhuận:
Lợi nhuận từ hoạt động cho vay DAĐT
· Chỉ tiêu 1 =
Dư nợ cho vay DAĐT
Lợi nhuận từ hoạt động cho vay DAĐT
· Chỉ tiêu 2 =
Tổng lợi nhuận của ngân hàng
Hầu hết các khách hàng khi tiến hành hoạt động đầu tư, kinh doanh đều hướng
đến mục tiêu quan trọng nhất là lợi nhuận và các NHTM cũng không phải là ngoại
lệ. Cho dù với tư cách là một trung gian tài chính quan trọng trong nền kinh tế, giữ
vai trò là đòn bẩy thúc đẩy hoạt động kinh tế phát triển, các NHTM trong quá trình
kinh doanh vẫn phải chú trọng đến hiệu quả hoạt động. Lợi nhuận vẫn là điều kiện
cần thiết để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng do vậy không thể bỏ qua
tiêu chí này khi đánh giá hiệu quả hoạt động cho vay DAĐT của ngân hàng. Chất
lượng hoạt động cho vay của ngân hàng không thể nói là tốt nếu lợi nhuận do hoạt
động này mang lại thấp.
Chỉ tiêu thứ nhất phản ánh khả năng sinh lời của các khoản cho vay dự án của
ngân hàng. Nó cho biết một đồng dư nợ cho vay DAĐT mang lại bao nhiêu đồng
lợi nhuận. Tỷ lệ này càng cao chứng tỏ lợi nhuận do hoạt động cho vay dự án mang
lại càng lớn, đó là một trong những nhân tố tạo nên chất lượng, hiệu quả hoạt động
cho vay DAĐT của ngân hàng.
16
Chỉ tiêu thứ hai cho phép đánh giá tầm quan trọng của hoạt động cho vay
DAĐT trong mối quan hệ với toàn bộ hoạt động của ngân hàng. Tỷ lệ này cao
chứng tỏ phần lớn lợi nhuận mà ngân hàng đạt được là từ hoạt động cho vay
DAĐT. Tuy nhiên, điều đó cũng đồng nghĩa với việc ngân hàng đang phải chấp
nhận đối mặt với những nguy cơ rủi ro tiềm tàng. Do đó đòi hỏi hoạt động cho vay
dự án phải được quản lý một cách khoa học và chặt chẽ.
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng cho vay DAĐT
1.2.3.1. Các nhân tố chủ quan
v Các nhân tố thuộc về phía ngân hàng
ü Quy mô và cơ cấu kỳ hạn nguồn vốn của các NHTM
Bất kỳ ngân hàng nào muốn cho vay cũng phải có vốn, đây là điều kiện bắt
buộc. Tuy nhiên, do yêu cầu phải bảo đảm khả năng thanh toán thường xuyên nên
không phải nguồn vốn nào huy động được ngân hàng cũng có thể đem đi tài trợ vốn
cho các DAĐT.
Các khoản vay dành cho đầu tư dự án của ngân hàng cần phải được tài trợ chủ
yếu bởi nguồn vốn trung và dài hạn (bao gồm nguồn vốn có thời hạn từ một năm
trở lên và các nguồn vốn có thời hạn dưới một năm nhưng có tính ổn định cao trong
thời gian dài). Nếu một ngân hàng có nguồn vốn dồi dào nhưng lại chủ yếu là vốn
ngắn hạn, thì không thể và cũng không nên tìm cách mở rộng cho vay DAĐT. Các
nguồn vốn mà ngân hàng có thể sử dụng để cho vay DAĐT bao gồm: vốn tự có của
ngân hàng; vốn vay trung, dài hạn trong và ngoài nước; vốn uỷ thác và một bộ phận
nhất định vốn vay ngắn hạn. Quy mô các nguồn vốn này là khác nhau nhưng chúng
là một trong những nhân tố quyết định tới chất lượng cho vay DAĐT của ngân
hàng.
ü Năng lực của ngân hàng trong việc thẩm định DAĐT, thẩm định khách hàng
Một trong những tiêu chí đánh giá chất lượng hoạt động cho vay DAĐT của
một ngân hàng là vốn và lãi vay được thanh toán đầy đủ và đúng hạn. Điều này sẽ
không thể có được nếu như việc thực hiện dự án không đạt hiệu quả mong muốn,
hoặc doanh nghiệp không có thiện chí, cố tình lừa đảo ngân hàng. Để hạn chế nguy
17
cơ đó ngân hàng cần phải thực hiện tốt công tác thẩm định dự án, thẩm định khách
hàng. Thông thường công tác thẩm định khách hàng được tiến hành trước và chủ
yếu tập trung xem xét các mặt: khả năng quản lý, khả năng điều hành, năng lực sản
xuất kinh doanh, mức độ tín nhiệm. Những khách hàng đáp ứng được đầy đủ những
yêu cầu do ngân hàng đề ra thì DAĐT sẽ được xem xét để ra quyết định có cho vay
hay không. Đây là một khâu rất quan trọng trong quy trình cho vay DAĐT và ảnh
hưởng rất lớn đến chất lượng cho vay của ngân hàng. Chính vì vậy trong quá trình
hoạt động, các ngân hàng phải không ngừng cải tiến nâng cao trình độ thẩm định
của mình. Điều đó sẽ giúp ngân hàng lựa chọn được chính xác những khách hàng
thực sự đáng tin cậy, những dự án thực sự khả thi và đó cũng chính là tiền đề để
nâng cao chất lượng cho vay của ngân hàng.
ü Năng lực giám sát và xử lý các tình huống cho vay của ngân hàng
Cho dù công tác thẩm định dự án, thẩm định khách hàng được thực hiện tốt,
giúp cho ngân hàng lựa chọn được những khách hàng đáng tin cậy, những dự án
khả thi, có khả năng sinh lời cao thì đó cũng không phải là những điều kiện chắc
chắn để có thể nói chất lượng cho vay dự án của ngân hàng đạt mức cao, bởi lẽ hoạt
động đầu tư, sản xuất kinh doanh trong thời gian dài luôn ẩn chứa trong nó những
rủi ro không thể lường trước được. Bản thân dự án trong quá trình thực hiện cũng
sẽ nảy sinh những tình huống ngoài dự kiến. Chính vì vậy mà công tác giám sát và
xử lý các tình huống tín dụng sau khi cho vay trở nên thực sự cần thiết. Hoạt động
giám sát chủ yếu tập trung vào một số vấn đề như: sự tuân thủ việc sử dụng vốn
đúng mục đích của khách hàng; tình hình hoạt động thực tế của dự án; tiến độ trả
nợ; quá trình sử dụng, bảo quản và biến động tài sản của doanh nghiệp; những vấn
đề mới nảy sinh trong quá trình thực hiện dự án. Làm tốt công tác này sẽ giúp ngân
hàng phát hiện và ngăn chặn kịp thời những biểu hiện tiêu cực như sử dụng vốn sai
mục đích, âm mưu tẩu tán tài sản, lừa đảo ngân hàng. Đồng thời qua việc luôn bám
sát hoạt động của khách hàng thì ngân hàng có thể có biện pháp giúp đỡ khách
hàng thông qua việc cung cấp những lời khuyên, những thông tin bổ ích, kịp thời,
hoặc trực tiếp giúp đỡ khách hàng khi họ gặp khó khăn bằng cách gia hạn nợ, cho
vay thêm nhằm giúp cho việc thực hiện dự án của khách hàng đạt hiệu quả cao
nhất, qua đó góp phần nâng cao chất lượng cho vay DAĐT của ngân hàng.
18
ü Chính sách tín dụng ngân hàng
Hoạt động tín dụng là hoạt động bao trùm của ngân hàng. Với tầm quan trọng
và quy mô lớn, hoạt động này được thực hiện theo một chính sách rõ ràng được xây
dựng và hoàn thiện qua nhiều năm, đó là chính sách tín dụng. Chính sách tín dụng
là một hệ thống các biện pháp liên quan đến việc mở rộng hoặc hạn chế tín dụng
nhằm đạt được các mục tiêu của ngân hàng trong từng thời kỳ cụ thể. Với ý nghĩa
như vậy, rõ ràng chính sách tín dụng có tác động rất lớn đến chất lượng tín dụng
ngân hàng nói chung và chất lượng cho vay DAĐT nói riêng. Trước hết là về mặt
quy mô tín dụng, nếu chính sách tín dụng của ngân hàng trong một thời kỳ nào đó
hạn chế tín dụng trung và dài hạn cũng có nghĩa là quy mô cho vay DAĐT của
ngân hàng đó sẽ có nguy cơ bị thu hẹp. Qua đó có thể cho thấy chất lượng cho vay
dự án của ngân hàng đang gặp vấn đề hay ít ra xét về quy mô cũng không thể nói
chất lượng cho vay dự án của ngân hàng trong giai đoạn đó là tốt. Ngoài ra, chính
sách tín dụng của ngân hàng còn bao gồm hàng loạt các vấn đề như: những quy
định về điều kiện, tiêu chuẩn tín dụng đối với khách hàng; lĩnh vực tài trợ; biện
pháp bảo đảm tiền vay; quy trình quản lý tín dụng; lãi suất… có tác dụng trực tiếp
hay gián tiếp đến chất lượng tín dụng cũng như chất lượng cho vay dự án của ngân
hàng. Nếu các vấn đề đó được xây dựng một cách khoa học và chặt chẽ, kết hợp hài
hoà lợi ích của ngân hàng, khách hàng và của toàn xã hội thì chắc chắn chất lượng
cho vay dự án sẽ được nâng lên và ngược lại.
ü Thông tin tín dụng
Thông tin luôn là yếu tố cơ bản cần thiết cho công tác quản lý dù ở bất kỳ lĩnh
vực nào, hoạt động ngân hàng cũng không loại trừ điều đó. Để thẩm định dự án,
thẩm định khách hàng trước hết phải có thông tin về dự án, về khách hàng đó; để
làm tốt công tác giám sát khách hàng cũng cần phải có thông tin. Thông tin càng
chính xác, kịp thời thì càng thuận lợi cho ngân hàng trong việc đưa ra quyết định
cho vay, theo dõi việc sử dụng vốn vay và tiến độ trả nợ. Thông tin chính xác, kịp
thời và đầy đủ còn giúp ngân hàng xây dựng hoặc điều chỉnh kế hoạch kinh doanh,
chính sách tín dụng một cách linh hoạt cho phù hợp với tình hình thực tế. Tất cả
những điều trên góp phần nâng cao chất lượng cho vay DAĐT của mỗi ngân hàng.
19
ü Công nghệ ngân hàng
Công nghệ ngân hàng và trang thiết bị kỹ thuật cũng là một trong những nhân
tố tác động đến chất lượng cho vay dự án của các ngân hàng nhất là trong thời đại
khoa học công nghệ đang phát triển như vũ bão hiện nay. Một ngân hàng sử dụng
công nghệ hiện đại, được trang bị các phương tiện kỹ thuật cao sẽ tạo điều kiện đơn
giản hoá các thủ tục, rút ngắn thời gian giao dịch, đem lại sự tiện lợi tối đa cho
khách hàng vay vốn. Sự hỗ trợ của các phương tiện kỹ thuật hiện đại còn giúp cho
việc thu thập thông tin nhanh chóng, chính xác, công tác lập kế hoạch và xây dựng
chính sách tín dụng cũng đạt hiệu quả cao hơn.
ü Chất lượng đội ngũ nhân viên
Hoạt động cho vay nói chung và hoạt động cho vay DAĐT của ngân hàng đều
được thực hiện bởi con người, do vậy nhân tố con người mà cụ thể là cán bộ tín
dụng có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc nâng cao chất lượng tín dụng, chất
lượng cho vay của ngân hàng. Dù ngân hàng có một chính sách tín dụng và quy
trình phân tích tín dụng tốt mà cán bộ tín dụng thiếu trình độ chuyên môn hoặc cố
tình cấu kết với người vay lừa đảo ngân hàng thì rủi ro trong cho vay chắc chắn sẽ
xảy ra. Vấn đề yếu kém về năng lực thì có thể bồi dưỡng thêm, nhưng nếu một cán
bộ tha hóa về đạo đức mà lại giỏi về mặt nghiệp vụ thì thật vô cùng nguy hiểm cho
ngân hàng khi được bố trí trong công tác thẩm định cho vay.
v Các nhân tố thuộc về phía khách hàng
ü Nhu cầu đầu tư
Bất kỳ một loại hàng hoá, dịch vụ nào muốn tiêu thụ được cũng cần
phải có người mua và có nhu cầu sử dụng chúng, tín dụng ngân hàng cũng vậy,
ngân hàng không thể cho vay nếu không có người đi vay. Xét trong phạm vi toàn
bộ nền kinh tế thì nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển luôn luôn cần thiết nhưng với
từng NHTM thì không phải lúc nào nhu cầu ấy cũng hiện hữu. Do số lượng khách
hàng thường xuyên quan hệ với ngân hàng có hạn và không phải lúc nào tình hình
sản xuất kinh doanh của họ cũng tiến triển một cách khả quan nên nhu cầu đầu tư
của họ không thường xuyên lớn.
20
ü Khả năng đáp ứng các yêu cầu, điều kiện và tiêu chuẩn tín dụng của ngân
hàng
Để đảm bảo an toàn, tránh rủi ro khi cho vay các NHTM thường đặt ra những
điều kiện, tiêu chuẩn tín dụng nhằm phân loại và lựa chọn những đối tượng khách
hàng cụ thể. Chỉ những khách hàng đáp ứng đầy đủ các điều kiện của ngân hàng thì
mới được xem xét cho vay. Những điều kiện, tiêu chuẩn này có thể rất khác nhau
tuỳ theo đặc thù của từng ngân hàng cụ thể, tuy nhiên nhìn chung các ngân hàng
đều quan tâm đến những vấn đề như mục đích sử dụng vốn của khách hàng, năng
lực tài chính, năng lực sản xuất kinh doanh, tính khả thi của dự án, các biện pháp
bảo đảm tiền vay…
Khả năng đáp ứng các điều kiện, tiêu chuẩn tín dụng của khách hàng sẽ ảnh
hưởng trực tiếp đến hoạt động tín dụng đặc biệt là hoạt động cho vay DAĐT của
ngân hàng. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra ở đây là các điều kiện, tiêu chuẩn được sử
dụng làm căn cứ để đánh giá khách hàng và DAĐT có hợp lý hay không. Nếu các
điều kiện, tiêu chuẩn đặt ra quá khắt khe, không phù hợp với thức tế sẽ làm nản
lòng khách hàng hoặc có rất ít khách hàng thoả mãn được yêu cầu của ngân hàng.
Điều đó gây cản trở cho ngân hàng trong việc thu hút thêm khách hàng, mở rộng tín
dụng. Ngược lại, nếu điều kiện, tiêu chuẩn đặt ra không chặt chẽ có thể khiến ngân
hàng mắc những sai lầm đáng tiếc trong việc ra quyết định cho vay, dẫn đến rủi ro
và ảnh hưởng đến chất lượng cho vay của ngân hàng.
ü Khả năng quản lý, sử dụng vốn vay
DAĐT có được thực hiện đúng như kế hoạch hay không, có hiệu quả hay không
phụ thuộc rất lớn vào khả năng quản lý và sử dụng vốn vay của khách hàng. Trong
điều kiện nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt và đầy biến động như hiện nay
thì vai trò của công tác quản lý, giám sát ngày càng trở nên quan trọng, ảnh hưởng
rất lớn đến sự thành công hay thất bại của dự án. Việc quản lý, sử dụng vốn vay tốt
không chỉ giúp cho DAĐT nhanh chóng mang lại hiệu quả mà còn giúp giảm được
những chi phí không cần thiết trong quá trình đầu tư. Ngược lại nếu khách hàng
không có khả năng quản lý, sử dụng nguồn vốn vay ngân hàng thì sẽ làm nguồn
vốn này không thể phát huy được hiệu quả như dự kiến ban đầu, ảnh hưởng đến
21
dòng tiền của dự án và khả năng trả nợ của khách hàng, từ đó làm cho chất lượng
cho vay của ngân hàng cũng bị ảnh hưởng theo.
ü Đạo đức, thiện chí của khách hàng
Trong quan hệ tín dụng, muốn có hiệu quả cao đòi hỏi phải có sự hợp tác từ cả
hai phía người cho vay và người đi vay. Nếu như khách hàng không có thiện chí thì
sẽ rất khó khăn cho ngân hàng trong việc thu hồi nợ. Sự thiếu thiện chí của khách
hàng có thể biểu hiện trực tiếp trong quá trình quan hệ tín dụng với ngân hàng như
cố tình sử dụng vốn sai mục đích, tìm cách lừa đảo ngân hàng, hoặc cũng có thể là
các hành vi gián tiếp ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng ngân hàng như kinh doanh
trái pháp luật, lừa đảo chiếm dụng vốn lẫn nhau. Tất cả các hành vi đó đều mang lại
rủi ro cho ngân hàng.
Tóm lại với tư cách là một trung gian tài chính trong nền kinh tế, hoạt động tín
dụng của ngân hàng có liên quan đến nhiều đối tượng trong nhiều lĩnh vực khác
nhau. Do đó, chất lượng tín dụng ngân hàng nói chung và chất lượng cho vay
DAĐT nói riêng sẽ phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố. Có những nhân tố chủ quan
thuộc bản thân ngân hàng, có những nhân tố thuộc khách hàng, cũng có những
nhân tố khách quan nằm ngoài tầm kiểm soát của cả hai. Việc nghiên cứu nắm rõ
vai trò và cơ chế tác động của từng nhân tố sẽ giúp các ngân hàng có biện pháp
thích hợp để nâng cao hơn nữa chất lượng tín dụng, chất lượng cho vay đồng thời
phát huy tối đa vai trò đòn bẩy kinh tế của mình.
1.2.3.2. Các nhân tố khách quan
v Môi trường tự nhiên
Trên thực tế, môi trường tự nhiên không ảnh hưởng đến hoạt động cho vay của
ngân hàng mà vai trò của nó thể hiện qua sự tác động đến hoạt động đầu tư của
khách hàng, đặc biệt các là các hoạt động phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên
như các công trình xây dựng, cầu cống, cảng biển, những hoạt động đầu tư có liên
quan đến nông nghiệp, ngư nghiệp…Điều kiện tự nhiên diễn biến thuận lợi hay bất
lợi sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động đầu tư của khách hàng qua đó trực tiếp
ảnh hưởng đến khả năng trả nợ cho ngân hàng.
22
v Môi trường kinh tế
ü Sự biến động của thị trường thế giới
Nền kinh tế Việt Nam còn lệ thuộc nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu quan trọng
như sắt thép, xăng dầu, phân bón…cũng như các mặt hàng xuất khẩu chủ lực như
dệt may, da giày, nông sản hay bị ảnh hưởng bởi chính sách bảo hộ của các nước
nhập khẩu (hạn ngạch, kiện bán phá giá, đánh thuế…).
Bên cạnh đó, mục tiêu phát triển kinh tế được đề ra quá cao đã tạo sức ép đầu tư
ồ ạt trong khi nền kinh tế lại thiếu vốn trầm trọng, đặc biệt là vốn trung và dài hạn.
Điều này dẫn đến một số tổ chức hoặc doanh nghiệp với số vốn khá khiêm tốn phải
đi vay ngắn hạn để sử dụng vào những công trình đầu tư mang tính chất trung và
dài hạn như: đầu tư vào cơ sở hạ tầng, tài sản cố định…
ü Quá trình tự do hoá tài chính, hội nhập quốc tế
Quá trình tự do hoá tài chính và hội nhập quốc tế có thể làm cho nợ xấu gia tăng
khi tạo ra một môi trường cạnh tranh gay gắt, khiến hầu hết những khách hàng của
ngân hàng phải đối mặt với nguy cơ thua lỗ và quy luật chọn lọc khắc nghiệt của thị
trường. Bên cạnh đó, bản thân sự cạnh tranh của các NHTM trong nước và quốc tế
trong môi trường hội nhập kinh tế cũng khiến cho các ngân hàng trong nước với hệ
thống quản lý yếu kém gặp phải nguy cơ rủi ro nợ xấu tăng lên bởi hầu hết các
khách hàng có tiềm lực tài chính lớn sẽ bị các ngân hàng nước ngoài thu hút.
ü Sự quy hoạch, phân bổ đầu tư của Nhà nước, Chính phủ
Nền kinh tế thị trường tất yếu sẽ dẫn đến cạnh tranh, các nhà kinh doanh sẽ tìm
kiếm ngành nào có lợi nhuận nhiều nhất để đầu tư và sẽ rời bỏ những ngành không
đem lại lợi nhuận cho họ, từ đó sẽ tạo ra sự chuyển dịch vốn từ ngành này qua
ngành khác và đây cũng là một hiện tượng khách quan. Tuy nhiên ở nước ta thời
gian qua, sự cạnh tranh đã phát triển một cách tự phát, hoàn toàn không đi kèm với
sự quy hoạch hợp lý, hợp tác, phân công lao động, chuyên môn hoá lao động, sự
bất lực trong vai trò của các Hiệp hội và sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Điều này
dẫn đến sự gia tăng quá đáng vốn đầu tư vào một số ngành, dẫn đến khủng hoảng
thừa, lãng phí tài nguyên quốc gia.
23
v Môi trường chính trị xã hội
Sự ổn định của môi trường chính trị, xã hội là một tiêu chí quan trọng để ra
quyết định của các nhà đầu tư. Nếu môi trường này ổn định thì các doanh nghiệp sẽ
yên tâm thực hiện việc mở rộng đầu tư và do đó nhu cầu vốn tín dụng ngân hàng sẽ
tăng lên. Ngược lại nếu môi trường bất ổn thì các doanh nghiệp sẽ thu hẹp sản xuất
để bảo toàn vốn, hạn chế rủi ro khi đó nhu cầu vốn cho vay dự án cũng giảm sút
theo.
v Môi trường pháp lý
Môi trường pháp lý không chặt chẽ, nhiều khe hở và bất cập sẽ tạo cơ hội cho
các doanh nghiệp yếu kém làm ăn bất chính, lừa đảo lẫn nhau và lừa đảo ngân
hàng. Bên cạnh đó nó cũng khiến các nhà đầu tư trung thực e dè, không dám mạnh
dạn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh do đó hạn chế nhu cầu vay vốn tín dụng
ngân hàng.
v Sự quản lý vĩ mô của nhà nước và các cơ quan chức năng.
Sự ổn định và hợp lý của các đường lối, chính sách, các quy định, thể lệ của nhà
nước và các cơ quan chức năng sẽ tạo hành lang thuận lợi cho hoạt động của ngân
hàng cũng như doanh nghiệp, đó là tiền đề rất quan trọng để ngân hàng nâng cao
chất lượng tín dụng của mình. Tuy nhiên, hiện nay các chính sách quản lý vĩ mô
của Nhà nước đang trong quá trình hoàn thiện nên vẫn còn nhiều vấn đề bất cập.
Nhiều doanh nghiệp chưa thể điều chỉnh kế hoạch kinh doanh phù hợp với sự thay
đổi chính sách kinh tế. Vì thế, có không ít doanh nghiệp bị thua lỗ mà hậu quả là
ngân hàng phải gánh chịu.
v Hệ thống thông tin quản lý
Thông tin về khách hàng là điều rất cần thiết cho ngân hàng trong quá trình
thẩm định cho vay, tuy nhiên hiện nay ở nước ta chưa có một cơ chế công bố thông
tin đầy đủ về khách hàng. Trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng (CIC) của
NHNN hoạt động đã quá một thập niên và đã đạt được những kết quả bước đầu rất
đáng khích lệ trong việc cung cấp thông tin kịp thời về tình hình hoạt động tín dụng
nhưng chưa phải là cơ quan định mức tín nhiệm doanh nghiệp một cách độc lập và
24
hiệu quả, thông tin cung cấp còn đơn điệu, thiếu cập nhật chưa đáp ứng được đầy
đủ yêu cầu tra cứu thông tin của các ngân hàng. Đó cũng là thách thức cho các ngân
hàng trong việc mở rộng và kiểm soát tín dụng cho nền kinh tế trong điều kiện
thiếu một hệ thống thông tin tương xứng.
1.2.4. Ý nghĩa và sự cần thiết của việc nâng cao chất lượng cho vay DAĐT của
NHTM
Cùng với sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá thì hoạt động cho
vay cũng ngày càng phát triển nhằm cung cấp các phương tiện giao dịch để đáp ứng
mọi nhu cầu sản suất kinh doanh của xã hội. Trong điều kiện đó, chất lượng cho
vay của ngân hàng là vấn đề ngày càng được quan tâm.
Cho vay DAĐT là công cụ thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát
triển kinh tế xã hội theo từng ngành, từng lĩnh vực. Thông qua sự đánh giá, phân
tích hiệu quả của các DAĐT đã góp phần khai thác mọi tiềm năng về tài nguyên,
lao động và tiền vốn để tăng năng lực sản xuất, cung cấp ngày càng nhiều sản phẩm
cho xã hội, giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động … Do đó
chất lượng cho vay DAĐT được nâng cao sẽ góp phần tăng hiệu quả sản xuất xã
hội, đảm bảo sự phát triển cân đối giữa các vùng, các ngành trong cả nước, ổn định
và phát triển kinh tế.
Bên cạnh đó, việc nâng cao chất lượng cho vay DAĐT còn là điều kiện để ngân
hàng làm tốt vai trò trung tâm thanh toán. Khi chất lượng cho vay được đảm bảo sẽ
tăng vòng quay vốn cho vay, với một lượng tiền như cũ có thể thực hiện số lần giao
dịch lớn hơn, tạo điều kiện tiết kiệm tiền trong lưu thông, củng cố sức mua của
đồng tiền. Đồng thời việc nâng cao chất lượng cho vay DAĐT còn là điều kiện cần
thiết cho sự tồn tại và phát triển lâu dài của các NHTM.
25
Kết luận chương 1
Phần nội dung của Chương 1 đã khái quát những lý luận cơ bản về DAĐT và
cho vay DAĐT, đặc biệt là cơ sở lý luận về thẩm định DAĐT, về các chỉ tiêu đánh
giá chất lượng cho vay DAĐT tại các NHTM và các nhân tố ảnh hưởng đến chất
lượng cho vay DAĐT. Cơ sở lý luận này chính là nền tảng cho việc phân tích, đánh
giá thực trạng chất lượng cho vay DAĐT tại NHCT – CN TP.HCM ở chương 2
cũng như cơ sở để đề ra các giải pháp nâng cao chất lượng cho vay DAĐT ở
chương 3.