Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Phát triển tư duy độc lâp cho học sinh trong việc hương dẫn dạy học bài thơ nhà của nguyễn bỉnh khiêm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.11 MB, 23 trang )

MỤC LỤC
Mục

Trang

I. MỞ ĐẦU

2

1. Lí do chọn đề tài

2

2. Mục đích nghiên cứu

3

3. Đối tượng nghiên cứu

3

4. Phương pháp nghiên cứu

3

II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

3

1. Cơ sở lí luận:
1.1. Xuất phát từ yêu cầu của việc dạy học Ngữ văn


1.2. Xuất phát từ yêu cầu đổi mới về dạy học
1.3. Xuất phát từ yêu cầu về đổi mới dạy học

3

2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.

5

3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
3.1 Lí thuyết chung về việc phát triển tư duy độc lập cho học sinh

6

3.2. Thực hiện phát triển tư duy độc cho học sinh khi dạy học bài
thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
3.3 Kết quả chung của hình thức tổ chức phát triển tư duy độc lập,
khả năng phản biện của người học.
3.4. Những chú ý trong quá trình dạy học phát triển tư duy độc
lập cho học sinh.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo 13
dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

14

1 Kết luận:

14


2. Kiến nghị:
2.1. Với giáo viên
2.2. Với các cấp quản lí

15

TÀI LIỆU THAM KHẢO

15

I. MỞ ĐẦU

1


1. Lí do chọn đề tài
Đem đến tri thức, bồi đắp tâm hồn, đó là sứ mệnh, là vinh dự, là khả năng
đặc biệt của văn chương, nhưng đem đến hứng thú, sức hấp dẫn để thu hút ánh
nhìn, cảm xúc, nhận thức của học sinh với văn chương trong thời buổi mà vật
chất lên ngôi, niềm tin vào cái đẹp, cái tốt, vào giá trị văn hố ít nhiều lung lay
lại là trách nhiệm và tài năng của người thầy. Dạy văn là làm khoa học và nghệ
thuật. Nó đòi hỏi sự sáng tạo, đòi hỏi tâm huyết và nỗ lực không ngừng của
người thầy.
Nhưng trong thời đại mới, với xu hướng phát triển và hội nhập, tư tưởng,
khát vọng, niềm tin, quan niệm, tình u và việc tơn vinh những giá trị của đời
sống có khác đi so với trước đây, việc người thầy làm cho môn văn hấp dẫn, thu
hút trong giờ học văn là chưa đủ, mà phải tiếp cận với nhu cầu, xu hướng, của
học trò, của con người trong thế kỉ mới, để dạy làm người và dạy cách sống tốt
nhất cho người học, đó cũng là cách phát triển ý nghĩa của việc dạy học môn
ngữ văn trong nhà trường. Thời đại mà cơng nghệ bùng nổ, con người khát khao

vượt thốt những giới hạn của bản thân, tìm kiếm cái mới, nỗ lực trong hành
động sẽ đòi hỏi mỗi người trong hành trình sống phải có những cuộc dấn thân
mới, con người phải chủ động, phải tích cực, phải sáng tạo. Một bài học ngữ văn
không chỉ đem đến cho các em tri thức, nhận thức về thiên nhiên, xã hội, con
người, bồi đắp cho học sinh những vẻ đẹp trong tâm hồn, trong tư tưởng và cảm
xúc, quan trọng hơn, nó cũng tham ra trong quá trình phát triển con người sáng
tạo, con người với cách nghĩ riêng, độc lập, tự chủ, tự tin chính vào bản thân
mình. Chúng ta có thể đem đến cho các em không chỉ niềm vui và hứng thú ở
việc cảm nhận, mà cịn có thể giúp các em khám phá con người bên trong, con
người tiềm năng của chính mình, đáp ứng nhu cầu thời đại mới.
Qua thực tiễn giảng dạy, tôi nhận thấy một thực tế, ở nhà trường, môn ngữ
văn vẫn được xem như môn học mà người dạy phải mang đến cho các em hệ
thống kiến thức hàn lâm, các thầy cô về cơ bản vẫn yêu cầu các em phải bắt
buộc thuộc những kiến thức cơ bản, hiểu theo ý nghĩa sao cho chung nhất, để
khi thi cử, không đi lệch với đáp án. Nghĩa là học để thi. Tất nhiên, đề thi những
năm gần đây đã là dạng đề mở, có sự thay đổi linh hoạt, hướng đến sự phát triển
năng lực của người học, nhưng tôi vẫn thấy, học sinh vẫn rơi vào tình trạng học
cơng thức. Đối với việc thi cử, và nhất là với đối tượng học sinh ít có sự tìm tịi,
sáng tạo, việc dạy như thế, học như thế là “an tồn”. Tuy nhiên, tơi vẫn muốn,
bên cạnh việc đảm bảo cho các em về vấn đề học – thi – lấy điểm, chúng ta, mỗi
thầy cô giáo phải biết khai thác tối đa những ưu thế của mơn mình, để khơng chỉ
đáp ứng nhu cầu mang tính chất “thời vụ”, mà cịn “trồng người” bằng cách khơi
dậy những vẻ đẹp đáp ứng với nhu cầu của tương lai: con người chủ động, năng
động, độc lập.
Từ thực trạng cuộc sống hiện đại với những đòi hỏi mới, từ thực tế dạy
học học sinh còn thụ động, phụ thuộc vào thầy cô, từ sự thật nhiều thầy cơ vẫn
cịn muốn có tư tưởng áp đặt với người học, tơi mạnh dạn đề xuất một khía cạnh
liên quan tới việc giáo dục tư duy tích cực đối với người học từ một tiết giảng
văn cụ thể. Tôi nghĩ, đây là một việc làm cần thiết.


2


Trong phạm vi nhỏ hẹp của đề tài, tôi xin trình bày quan điểm của mình
về việc “Phát triển tư duy độc lập cho học sinh trong việc hướng dẫn dạy học
bài thơ Nhàn của Nguyễn Bình Khiêm”.
2. Mục đích nghiên cứu
Học văn, muốn đem đến bất cứ một điều gì, đầu tiên cũng là giải mã văn
bản. Phải tìm con đường giải mã văn bản đơn giản, khoa học, hiệu quả, để đem
lại hứng thú, rèn cho học sinh kĩ năng đọc hiểu văn thơ trữ tình, văn xi, kịch,
văn bản nghị luận, chính luận… Khi đọc văn, các em khơng chỉ chiếm lĩnh tri
thức, mà cịn tự bồi đắp tâm hồn, có thể vận dụng tri thức, đem các bài học nhân
sinh rút ra từ văn bản để làm giàu cho cuộc sống. Mục đích của bài đọc này là
đem đến cho học sinh những cái nhìn và tư duy độc lập để hướng tới cách ứng
xử, cách sống có văn hóa, bảo tồn cái đẹp trong con người vốn dĩ có từ xa xưa,
theo quan niệm của thanh niên hiện đại.
3. Đối tượng nghiên cứu
Từ một bài đọc văn cụ thể, từ kinh nghiệm trong quá trình giáo dục, đề tài
này nghiên cứu và tổng kết về việc cần thiết biết vận dụng những hiểu biết về
văn chương để sống đẹp – sống có đạo đức và văn hóa trong đời thực, sống năng
động, sáng tạo và biết cống hiến.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, tôi sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp chính: Nghiên cứu, thực nghiệm:
+ Sưu tầm, tập hợp các tư liệu về mục tiêu giáo dục, các bài viết về thực
trạng lối sống thụ động của con người, về nhu cầu đổi mới con người hiện đại,
các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực; Tổng hợp các tài liệu sau khi đọc,
vận dụng vào việc xây dựng cơ sở lí thuyết cho đề tài.
+ Điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin sau khi đã vận dụng vào
bài đọc văn các cách thức để khơi dậy nhận thức về trách nhiệm, về lối sống cần

có, về việc ni dưỡng con người năng động, văn hóa ở các lớp đề án, lớp đại
trà…tại trường THPT Lê Hồng Phong – Bỉm Sơn – Thanh Hóa.
+ Thống kê, xử lý số liệu: tổng hợp và đưa ra kết luận trên cơ sở các
thông tin và số liệu đã có.
- Những phương pháp kết hợp : Phân tích, suy luận logic ; So sánh ; Diễn
dịch; Quy nạp.
Ở đề tài này chúng tôi tiến hành theo các bước như sau:
Bước 1: Tiến hành khảo sát niệm về lẽ sống, lí tưởng, cách ứng xử của học sinh
qua các tình huống thực tế tại trường học.
Bước 2: Dạy thể nghiệm theo bài học theo theo hướng phát triển tư duy độc lập
của học sinh ở một số lớp.
Bước 3: Khảo sát và lấy kết quả sau mỗi tiết học.
Bước 4: Đối chiếu kết quả và kết luận.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

3


1. Cơ sở lí luận:
1.1. Xuất phát từ yêu cầu của việc dạy học ngữ văn:
Dạy học văn phải bắm sát đặc trưng thể loại văn bản. Nghiên cứu đặc
trưng thể loại văn học là một trong những cách tiếp cận tác phẩm văn học của thi
pháp học.Theo Từ điển thuật ngữ văn học ( PGS. Lê Bá Hán, GS. TS Trần Đình
Sử, GS Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên): “ Thể loại văn học là dạng thức của
tác phẩm văn học được hình thành và tồn tại tương đối ổn định trong quá trình
phát triển lịch sử của văn học, thể hiện ở sự giống nhau về cách thức tổ chức tác
phẩm, về đặc điểm của các loại hiện tượng đời sống được miêu tả và về tính chất
của mối quan hệ, của nhà văn đối với các hiện tượng của đời sống ấy”
Là hình thức tồn tại chỉnh thể của tác phẩm văn học, thể loại văn học
chính là sự thống nhất giữa một loại nội dung và một dạng hình thức văn bản,

một phương thức chiếm lĩnh đời sống. Đây là một trong những phạm trù cơ bản
nhất của sáng tác, nghiên cứu, phê bình và giảng dạy văn học. Người sáng tác
muốn thể hiện quan điểm, tư tưởng của mình trước đời sống phải lựa chọn, một
cách thức tổ chức nào đó phù hợp. Người tiếp nhận muốn giải mã được tầng
hàm nghĩa, thông điệp tư tưởng của nhà văn cũng không thể không xuất phát từ
đặc trưng của thể loại.
Môn Văn là môn học đặc biệt và đặc thù. Nó vừa là khoa học vừa là nghệ
thuật (nghệ thuật ngôn từ). Việc cảm nhận, đánh giá một vấn đề văn học có thể
thay đổi theo thời gian và theo thị hiếu thẩm mĩ của mỗi người, mỗi thời đại. Có
những vấn đề hơm nay là đúng nhưng ngay mai thì chưa chắc, ngược lại, có
những vấn đề ngày trước sai nhưng bây giờ lại đúng. Nhiều vấn đề có nhiều
cách hiểu, gây tranh cãi nhiều thập kỉ mà khơng tìm ra chân lí. Vì vậy trong
học văn, rất cần có cái nhìn mới, cách cảm mới để tìm ra những giá trị mới. Học
sinh là những bạn đọc sáng tạo có thể lập luận để đưa ra chân lí đúng đắn hơn
cho vấn đề. Đặt trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay, mục tiêu đào tạo con
người toàn diện, năng động, sáng tạo trong cơng việc và phải có nền tảng đạo
đức và văn hóa vững chắc thì việc khơi dậy những thức nhận về trách nhiệm, về
mục tiêu phát triển năng lực bản thân cho học sinh là vô cùng cần thiết.
1.2. Xuất phát mục tiêu dạy học đối với THPT: Dự thảo chương trình giáo dục
phổ thơng nêu rõ:
- Mục tiêu của bậc THPT là “giúp học sinh tiếp tục phát triển những
phẩm chất, năng lực cần thiết đối với người lao động, ý thức và nhân cách công
dân; khả năng tự học và ý thức học tập suốt đời; khả năng lựa chọn nghề nghiệp
phù hợp với năng lực và sở thích, điều kiện và hồn cảnh của bản thân để tiếp
tục học lên, học nghề hoặc tham gia vào cuộc sống lao động; khả năng thích ứng
với những đổi thay trong bối cảnh tồn cầu hóa và cách mạng cơng nghiệp mới”.
- Hướng tới hình thành 5 phẩm chất, 10 năng lực chủ yếu của người học:
+ Những phẩm chất chủ yếu : yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực,
trách nhiệm.


4


+ Những năng lực cốt lõi gồm: Những năng lực chung, được tất cả các
môn học và hoạt động giáo dục góp phần hình thành, phát triển: năng lực tự chủ
và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo;
1.3. Xuất phát từ yêu cầu về đổi mới dạy học:
- Phương tiện dạy học, phương pháp dạy học, kĩ thuật dạy học, cách thức
dạy học là những yếu tố căn bản quyết định đến chất lượng giờ dạy, đến hiệu
quả tác động với học sinh, giúp học sinh phát triển năng lực tư duy, năng lực
giao tiếp…Lựa chọn PPDH, phương tiện dạy học, hình thức tổ chức dạy học và
cách thức đánh giá thích hợp nhằm giúp HS học tập tích cực, chủ động, sáng
tạo.
- Phương tiện cần thiết và phù hợp: SGK, TLTK, SGV, máy chiếu, giáo
án điện tử, bảng…
- “Phương pháp – theo giáo sư Trần Đình Sử - nói chung là cách thức tác
động vào một đối tượng nào đó để đạt đến mục đích. Phương pháp dạy học là
một yếu tố trong quá trình dạy học phụ thuộc vào bản chất của hoạt động dạy
học. Phương pháp được (…) hình dung như một hệ thống các nguyên tắc, cách
thức, biện pháp được sử dụng trong quá trình dạy học. Trong quan niệm dạy học
hiện đại theo mô hình lấy học sinh làm trung tâm, học sinh là chủ thể, nhóm
hoạt động thực hành có vị trí chủ đạo, nhóm lời nói và trực quan là phụ trợ”.
Việc tổ chức các bước lên lớp, vận dụng phương pháp, kĩ thuật dạy học phải
sáng tạo, phù hợp với yêu cầu của bài học, khơng thể máy móc áp dụng theo
một thứ tiêu chuẩn cứng nhắc, hướng học sinh tới mục tiêu giáo dục hiện đại:
Phẩm chất và năng lực của con người.
1.4. Xuất phát từ nhu cầu học tập, bộc lộ của học sinh hiện nay:
- Nhu cầu bộc lộ bản thân của học sinh là một cơ sở quan trọng để phát
huy tiềm năng học tập, khả năng phản biện vấn đề. Học sinh ngày nay ln có
nhu cầu tự bộc lộ mình, nhất là trong những tình huống được động viên, khích

lệ, có hứng thú. Các em khơng thích lối tư duy thụ động, phụ thuộc vào người
khác. Cũng không muốn bị áp đặt bởi cách hiểu của người khác. Các em thích
tìm lí lẽ của riêng mình, có cách nghĩ của bản thân, thậm chí có khi đó là cách
cảm, cách nghĩ táo bạo, vượt khỏi khuôn khổ. Nhưng do quan niệm truyền
thống, lạc hậu nên nhiều khi vơ tình chúng ta đã cản bước tiến của các em. Cũng
có thể, lối suy nghĩ của các em chịu ảnh hưởng và tác động của thực tế cuộc
sống hiện đại, nhiều khi rất thực dụng. Nhiệm vụ của người dạy văn là dẫn dắt,
định hướng, thuyết phục để học sinh hiểu, chấp nhận và tự tìm giải pháp đúng
đắn, hành động đúng đắn
=>Với đặc thù của bộ môn ngữ văn, với yêu cầu của thực tiễn khách
quan, yêu cầu về con người, yêu cầu về mục tiếu giáo dục…mỗi thầy cô giáo
cần phải phát huy những điểm mạnh của bộ mơn mình và hướng tới mục đích
giáo dục toàn diện.
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
- Từ quá trình khảo sát tài liệu sách giáo khoa, từ quá trình giảng dạy các ở
cả ba khối, dự giờ đồng nghiệp, tôi nhận thấy:
+ Trong chương trình ngữ văn THPT, các bài đọc văn thuộc đủ thể loại và
các kiểu dạng: văn bản nghệ thuật (thơ, văn xi, kịch); văn bản chính luận, văn
5


bản nhật dụng, văn bản phê bình…Khi dạy học các bài đọc văn, các thầy cô giáo
chủ yếu hướng học sinh đi tìm hiểu nội dung, ý nghĩa của văn bản, từ đó mà
hướng tới mục tiêu giáo dục nhận thức, ý thức ở người học là chính.
+ Nhiều thầy cô giáo chỉ chú ý đến việc truyền thụ kiến thức, hướng học
sinh đến việc hiểu văn bản, thể hiện việc học tập, vận dụng kiến thức đã học để
viết bài kiểm tra, thể hiện lại việc nắm kiến thức, hiểu bài…chứ chưa có mấy
thầy cơ chú ý đặc biệt tới việc rèn luyện các kĩ năng khác như đọc, giao tiếp, làm
việc nhóm, thể hiện suy nghĩ cá nhân khác với những gì quen nhìn, quen hiểu,
thành ra, tính sáng tạo ở người học, sự phát hiện riêng ở mỗi cá nhân chưa được

khai thác đầy đủ, các em bị nghĩ theo một lối tư duy, ép phải “thấy” như “người
ta thấy”, mà thực sự không thoải mái, không hài lịng, vì các em chưa được đi
tìm, chỉ là công nhận kết quả. Cái này một phần ở hệ thống kiến thức phải tiếp
nhận cịn nặng nề, tâm lí học để thi cử, một phần do lối mòn dạy học tạo nên.
+ Việc dạy học ngữ văn còn vấp phải những rào cản lớn khơng thể khơng
kể đến, đó là thói quen thụ động trong học tập và chiếm lĩnh kiến thức của học
sinh, đặc biệt, sự lép vế của các môn xã hội trong xu hướng chọn ngành nghề
dấn đến khơng có nhiều học sinh thật sự u thích, đam mê mơn Văn.
+ Trong khi đó, tư duy độc lập, góc nhìn con người cá nhân, ý kiến riêng của
người viết lại vô cùng cần thiết, trước hết là ở ngay trong chính những bài thi, đề
thi, đáp ứng với việc đổi mới kiểm tra, đánh giá. Trong những năm gần đây, Bộ
GD&ĐT yêu cầu toàn ngành phải có những đổi mới kiểm tra, đánh giá học sinh.
Theo đó, hướng kiểm tra, đánh giá, ra đề thi của mơn Ngữ văn có mấy điểm tích
cực sau đây :
* Đề thi mở : đây là hướng ra đề nhằm phát huy tính tích cực, chủ động
trong suy nghĩ, luận giải của học sinh. Khơng có một đáp án duy nhất, chỉ cần
học sinh trình bày, lập luận vấn đề, thuyết phục được người đọc theo cách nghĩ
của mình một cách hợp lí, đều được chấp nhận và đánh giá cao.
* Đề thi yêu cầu tính phản biện : đây là dạng đề thi mới, với yêu cầu chống
việc học vẹt, học tủ, ghi nhớ kiến thức máy móc. Học sinh có kiến thức cũng
chưa chắc đã làm tốt được mà địi hỏi phải có khả năng vận dụng kiến thức
một cách linh hoạt sáng tạo.
+ Thực tế cuộc sống cũng cho chúng ta thấy một điều, học sinh dám nghĩ,
dám nói những điều mà các em thấy, các em hiểu, thậm chí có thể thấy và hiểu
sai lệch, vẫn dám thẳng thắn ra ý kiến, lập luận cho bằng thuyết phục điều mà
các em cho là đúng. Nhiều khi, nó đi ngược lai với những giá trị truyền thống.
Nhiệm vụ của chúng ta là phát huy suy nghĩ độc lập của các em, nhưng dẫn dắt
và định hướng để các em nghĩ theo chiều hướng tích cực nhất, bảo vệ những giá
trị cơ bản của cuộc sống được phản ánh trong văn chương và cũng từ những
hiểu biết trong tác phẩm, các em bước ra ngoài cuộc sống tốt hơn, tích cực hơn.

- Là giáo viên trực tiếp đứng lớp, tơi ln trăn trở, kiếm tìm những giải
pháp cho mỗi giờ học, nhằm kéo học sinh trở về với niềm u thích mơn văn,
truyền cho các em hứng thú tìm hiểu các giá trị tư tưởng, thẩm mĩ của một văn
bản văn học, gắn văn chương với đời sống, không chỉ học để thi, không biến giờ
học chỉ để “tải đạo”, “ngơn chí” mà để sống trong đời thực sao cho vừa hiện đại,
vừa gìn giữ được những tiêu chí căn cốt của con người trên cơ sở những giá trị
6


đạo đức tốt đẹp. Ở phạm vi của đề tài, tơi cố gắng chuyển hố ý tưởng bằng việc
lồng ghép mục tiêu dạy học, hình thành cho học sinh những năng lực tư duy độc
lập bồi đắp ở học sinh những quan điểm, tư tưởng tích cực, góp phần hình thành
phẩm chất người học hiện đại trong một thiết kế giờ dạy đọc văn. Tôi vận dụng
kết hợp các phương pháp, phương tiện, kĩ thuật, kiến thức liên môn trong từng
phần của thiết kế. Tôi chú trọng khai thác tư duy độc lập của học sinh và hướng
các em tới những giá trị văn hóa ứng xử trong một vài điểm nhấn của bài đọc
văn. Bước đầu, tôi đã thu nhận được những kết quả đáng ghi nhận từ đối tượng
là học sinh của trường THPT Lê Hồng Phong – Bỉm Sơn.
3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
- Tạo tâm thế nhập cuộc cho học sinh thơng qua tình huống phản biện, Tạo
khơng khí đối thoại tự do, dân chủ.
- Tổ chức cho học sinh tranh luận, phản biện: Vận dụng các phương pháp dạy
học tích cực trong tiết đọc văn cụ thể, hướng tới các mục tiêu khác nhau, trong
đó có mục tiêu rèn luyện tư duy độc lập, khả năng phản biện của học sinh. Các
phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực như: nêu vấn đề, nêu câu hỏi, kĩ thuật
mảnh ghép, khăn phủ bàn, động não (hay công não), bể cá, hay tia chớp…
Trong giới hạn của đề tài này, tôi muốn đi sâu vào khai thác bài học Nhàn của
Nguyễn Bỉnh Khiêm trên cơ sở phát triển duy độc lập của học sinh để kéo gần
khoảng cách thời đại giữa thi phẩm trung đại với con người hiện đại, để vừa
khơi dậy được con người độc lập, con người cá nhan trong quan điểm, cách nhìn

vừa hướng các em tới cách sống trách nhiệm, cách ứng xử văn hóa, tích cực mà
khơng mang tính giáo huấn khơ khan
- Bồi dưỡng cho học sinh ý thức học văn là học cách tư duy, học cách thể hiện
con người nhân cách, bản lĩnh , học đời sống, học cách ứng xử văn hóa, học đạo
đức làm người hiện đại bên cạnh những năng lực khác mà con người hướng tới.
- Xây dựng hệ thống bài tập, đề kiểm tra phát triển con người độc lập, con người
sẵn sàng nhập cuộc, con người văn hóa, con người đạo đức phẩm chất tốt đẹp
trong mỗi học sinh.
3.1 Lí thuyết chung về việc phát triển tư duy độc lập cho học sinh
* Tư duy độc lập:
- Tư duy độc lập là lối tư duy khơng dập khn theo lối mịn; là khả năng
tự nghiên cứu, tự tìm hiểu học hỏi và đúc kết lại như một kinh nghiệm.
- Tư duy độc lập là một dạng kỹ năng tư duy phân tích, tư duy phản biện
* Ý nghĩa của tư duy độc lập
- Giúp mỗi người có thể đối diện và xử lý hàng loạt các vấn đề luôn chờ
trực xảy ra trong thế giới mà biến động tính theo từng giây.
Tư duy độc lập thể hiện rõ cái tơi của một người về chính bản thân mỗi
người trong cuộc sống, giúp khẳng định được con người cá nhân, cá tính, độc
đáo và duy nhất; giúp cho việc đưa ra các thông tin thực sự hợp lý và đúng đắn
theo nhận thức riêng của mỗi người, khơng bị chi phối và lệ thuộc.
Những người có tư duy độc lập thường nhận được những khả năng tiềm
ẩn nơi mình; họ biết phát huy khả năng vốn có và đạt đến thành cơng trong cuộc
sống.

7


=> Phát triển, phát huy tư duy độc lập của học sinh là nhằm phát triển
lòng tự trọng, tự tin và khả năng suy nghĩ độc lập để giải quyết vấn đề khó khăn
gặp phải trong cuộc sống.

3.2. Thực hiện phát triển tư duy độc cho học sinh khi dạy học bài thơ Nhàn
của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
- Tiến hành bài học theo giáo án đã soạn với các bước của một giáo án
hướng tới sự phát triển năng lực tư duy độc lập của người học ( Phụ lục đính
kèm)
Các hoạt động tổ chức giờ dạy học nhằm mục tiêu chung: Phân tích
bản chất của chữ Nhàn, triết lí sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài
thơ.
GV đặt câu hỏi:
Câu hỏi chung : Nhan đề của bài thơ là “Nhàn”, anh chị hãy cắt nghĩa về
chữ nhàn theo cách hiểu của mình?
HS phân tích, suy luận trả lời câu hỏi.
GV khơi gợi vấn đề phản biện, phát triển tư duy độc lập:
? Có bạn nào nhận thấy ở cái nhan đề, có vẻ nhà thơ cổ vũ cho lối sống hưởng
thụ khơng?
+ Với câu gợi ý này, học sinh có thể nhìn nhận ra nhiều vấn đề: Nhàn rõ
ràng là liên quan tới sự nhàn hạ, rảnh rỗi, thư thả, nghĩa là được thảnh thơi, được
hưởng thụ, không phải vất vả, cực nhọc, nghĩ ngợi…
+ Với câu hỏi này, học sinh có thể phát hiện được vấn đề ngược lại: một
nhà thơ, một ông trạng đã từng từ quan, từ chối bổng lộc, về cày ruộng, cuốc
vườn hẳn không thể là người cổ súy cho lối sống hưởng thụ thuần túy, độc thiện
kì thân.
Các em đã có một cuộc thảo luận sôi nổi về quan điểm sống của tác giả,
mỗi em đều có thể đưa ra cách nghĩ riêng của mình, lí giải bằng lí lẽ những cơ
sở của việc em hiểu, em cho rằng…từ đó mà bày tỏ quan niệm nên hay không
nên sống nhàn kiểu hưởng thụ, sống chậm.
(Khi các em thảo luận, cắt nghĩa, giáo viên gợi ý cách ứng xử và thái độ
cần có của mỗi chúng trong cuộc sống, trong công việc lao động, trong các mối
quan hệ, trong học tập…trên cơ sở hiểu về chữ nhàn theo nghĩa hưởng thụ.
Mỗi học sinh trong nhóm đưa ra các kiến giải của mình, lắng nghe bạn học

trình bày ý kiến, ghi chép phân tích và đi đến kết luận về quan điểm của Nguyễn
Bỉnh Khiêm qua nhan đề Nhàn.
GV củng cố lại bằng cách hỏi một vài học sinh những kết luận cơ bản
Kết quả hs rút ra trên phiếu học tập của học sinh sau quá trình thảo luận

8


Giáo viên chia lớp thành 4 nhóm, mỗi nhóm đọc và tìm lời giải đáp
cho câu hỏi tình huống của mình. Mỗi câu hỏi đặt ra, đều có những gợi ý
trong quá trình học sinh trình bày.
- Tiến hành thảo luận Socratic trong các tình huống sau:
Nhóm 1
- Ở hai câu đề, tác giả nói về cuộc sống khi về vườn của một lão nơng tri điền?
Từ đó có thể hiểu nhàn là gì?
HS phân tích, suy luận trả lời câu hỏi.
GV khơi gợi vấn đề phản biện, phát triển tư duy độc lập:
* Hai câu thơ đầu nói về cuộc sống bám với ruộng vườn, lao động chân tay của
tác giả. Thế đâu phải là nhàn?
- Các em học sinh lí trả lời câu hỏi của cơ giáo, các học sinh khác bày tỏ băn
khoăn bằng câu hỏi, tìm cách lí giải. Vấn đề dần được làm sáng tỏ khi các em
chỉ ra biểu hiện của sự nhàn trong cuộc sống ấy.
- Sau khi thảo luận, học sinh rút ra kết luận và tập trung đến cách hiểu câu hỏi
tình huống.
- Kết quả thảo luận học trị tự rút ra trên phiếu học tập
Kết quả cần đạt sau quá trình thảo luận:

9



Nhóm 2: Trong hai câu thực, nhà thơ đã thể hiện quan điểm và thái độ
sống như thế nào? Cách biểu hiện có gì đặc biệt. Ở đó, ta hiểu nhàn là gì?
GV khơi gợi vấn đề phản biện, phát triển tư duy độc lập:
- Có ý kiến cho rằng, ở đời người ta ai chẳng thích cơng danh, phú quý, lợi lộc,
ăn sung mặc sướng. tác giả đúng là dại thật. Anh chị hiểu như thế nào?
Hs đã thảo luận bày tỏ quan điểm, đi tìm chân lí bằng cách lắng nghe, sàng lọc,
phân tích và rút ra kết luận chung
GV gọi học sinh trình bày kết luận. Kết quả trên phếu học tập của học
sinh.
Kết quả cần đạt được sau thảo luận:

Nhóm 3: Nhận xét về cuộc sống và cách sinh hoạt của nhà thơ. Tác giả
phát biểu sống nhàn như thế nào qua hai câu này?

10


GV khơi gợi vấn đề phản biện, phát triển tư duy độc lập:
- Có ý kiến cho rằng sống thế này nhàn thế nào được, khổ quá, nghèo quá, cực
quá? Ý kiến của anh chị?
- Với bài kiểm tra nhỏ này, các em có thể trình bày lập luận phản biện, trình bày
quan điểm, ý kiến riêng, có thể đồng tình với khía cạnh nào đó, có thể bổ sung
cho ý tưởng thêm rõ ràng, có thể phát triển thêm những khía cạnh mới.
- Kết quả bài tập của học sinh: Trình bày trên phiếu học tập.
Kết quả cần đạt sau thảo luận nhóm

Nhóm 4: Quan niệm sống nhàn, triết lí sống nhàn cịn thể hiện ở hai câu
thơ kết như thế nào?
GV khơi gợi vấn đề phản biện, phát triển tư duy độc lập:
- Nhà thơ cho rằng: phú q tựa chiêm bao. Điều này liệu có cịn phù hợp

với quan điểm và cuộc sống của con người hiện đại khơng?
- Với câu hỏi này, học sinh có thể thoải mái đưa ra ý kiến tranh luận, có
em sẽ thấy nó mâu thuẫn, có em sẽ hiểu nó là thái độ ta nên học tập bởi thực tế
coi trong vật chất hiện nay… Dù các em nhìn nhận theo hướng nào, giáo viên
đều phải tôn trọng và hướng tới cắt nghĩa lí giải theo ý kiến chủ quan như một
kênh tham khảo cho người học.
- Kết quả bài tập của học sinh: Trên phiếu học tập
Kết quả đạt cần đạt sau thảo luận:

11


Sau khi giáo viên hướng dẫn 4 nhóm với 4 câu hỏi làm việc chung
theo nhóm và các gợi ý mang tính chất tình huống bắt buộc các em phải
động não, phải phản ứng nhanh, khi tổng kết và củng cố bài học, câu hỏi
tình huống tiếp tục được đặt ra cho cả lớp, mỗi em phải suy nghĩ và trả lời
trực tiếp
Câu hỏi tình huống 1: Có người cho rằng, chữ Nhàn trong quan niệm
sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm là ích kỉ, tiêu cực, chỉ lo cho mình, “ độc thiện kì
thân”. Theo em, có đúng khơng? vì sao?

Với câu hỏi này, hs có thể nhận ra điểm chung của tư tưởng sống nhàn của
nhà nho trung đại. Để các em thoải mái trao đổi, nhưng định hướng học sinh đến
thự chất của chữ Nhàn: nhàn thân ( rảnh rỗi, khơng có việc; làm việc mà như đi
thưởng thức lộc trời, thủng thẳng, đủng đỉnh, đầy hứng thú) và nhàn tâm: vơ lo,
vơ sự trong lịng, khơng phải vướng bận gì; điểm khác biệt giữa hai nhà nho ở
nhàn: là cái ung dung, nhàn tản gượng ép mình trong tâm thế ở nhàn bất đắc dĩ,
bên kia là cái thoải mái, nhàn nhã thực sự vì khơng cịn vướng bận khi thời cuộc

12



đã nhiều rối ren, thanh thản về vườn, giữ gìn khí tiết. Nói cho đến cùng, nhàn
thật hay nhàn bất đắc dĩ cũng là xuất phát từ dân, từ cuộc đời của dân tộc.
Câu hỏi tình huống 2: Trong cuộc sống hôm nay, quan điểm sống Nhàn
của Nguyễn Bỉnh Khiêm liệu có cịn phù hợp?
Hs suy nghĩ độc lập, trả lời theo cách hiểu cá nhân, miễn là lập luận chặt
chẽ, hợp lí, khơng vi phạm đạo đức, pháp luật. Tuy nhiên, gv hướng hs đến với
phẩm chất của con người trong hồn cảnh mới:
+ Phù hợp: khơng q coi trọng vật chất, khơng quỳ gối trước danh vọng,
khơng ích kỉ, khơng lao vào toan tính dành giật lợi lộc cho bản thân mình để tự
đánh mất nhân cách,
+ Khơng hoàn toàn phù hợp: phải đối diện với cuộc sống, phải chạy đua
với thời gian. Nếu hiểu nhàn là nhàn thân thì đó là lười biếng và ỉ lại. Trong khi
cuộc sống hiện đại đòi hỏi mỗi người mỗi ngày đều phải nỗ lực hết mình, cống
hiến hết mình.

3.3 Kết quả chung của hình thức tổ chức phát triển tư duy độc lập, khả
năng phản biện của người học.
- Học sinh làm việc sơi nổi, tích cực, giờ học sinh động, thoải mái, cởi
mở.
- Mỗi học sinh đều cố gắng đưa quan điểm của cá nhân, chất vấn, đối
thoại, lí giải, phân tích để cùng tìm kiếm những giá trị của văn bản
- Những học sinh nhút nhát, ít bộc lộ cũng tích cực tham gia. Việc bày tỏ
quan điểm riêng, nhìn nhận lại vấn đề trở thành nhiệm vụ của người học.
- Các em nhận ra mình có quyền được nhìn nhận khác biệt và quan trọng
là dám đưa ra những suy ngẫm của bản thân, chia sẻ để được lắng nghe và rút ra
kết luận trên cơ sở tôn trọng và khai thác ý kiến của những người xung quanh.
3.4. Những chú ý trong quá trình dạy học phát triển tư duy độc lập cho học
sinh.

- Khi kết thúc tiết học, ngoài hướng dẫn củng cố, giáo viên cần khắc sâu
cho học sinh hiểu, việc nhận thức văn bản, đọc hiểu văn bản rất cần tư duy, vốn
13


sống, năng lực của cá nhân. Cần phải đặt văn bản vào những tình huống có vấn
đề, đi tìm lời giải đáp cho những vấn đề ấy. Quá trình chất vấn, lập luận, phân
tích sẽ giúp mỗi chúng ta tự ngộ ra chân lí và khơng có cảm giác phải hiểu văn
bản một cách khiên cưỡng, ép buộc. Có cái nhìn khác biệt, biết cách đặt ngược
lại vấn đề chính là nhìn đối tượng đa chiều, điều này vừa giúp các em chính xác
trong nhận thức, vừa giúp các em rèn luyên các năng lực giao tiếp, năng lực làm
việc nhóm, năng lực tổ chức…Khi tiếp cận với các văn bản, các em cần phải
nhìn ra được những bài học đạo đức, những giá trị tốt đẹp để phát huy, rèn rũa,
biết dùng tiếng nói cá nhân của mình để mạnh mẽ lên án cái xấu, cái ác, cái bất
công tàn nhẫn.
- Khi kết thúc tiết đọc văn, cũng không nên quên hỏi học trò những câu
hỏi bên lề như: giờ học hơm nay các em có thấy thoải mái khơng? Có cịn điều
gì, chỗ nào khiến em băn khoăn và cần phải làm sáng tỏ hơn nữa? Cần nghĩ
thêm để vào thời điểm khác chúng ta sẽ cùng quay lại? Đặc biệt nhấn mạnh để
các em quan tâm đến cánh sống nên có, cách ứng xử tích cự, tốt đẹp trong cuộc
sống hiện đại.
- Khi dạy học các giờ đọc văn khác, có thể gợi ý và tổ chức để các em
quay lại những tình huống có vấn đề liên quan đến bài học mới để so sánh, liên
hệ, cắt nghĩa làm sáng tỏ.
- Trong các giờ làm văn,cần đưa ra tình huống có vấn đề, để các em được
quyền bày tỏ cái nhìn và nhận thức riêng, chú ý hướng dẫn các em cách tổ chức
lập luận để trình bày góc nhìn khác biệt, thậm chí đối lập với cái nhìn “phổ
thơng” của số đơng, số nhiều. Ln nhớ đến việc hướng học sinh đến những
mục tiêu giáo dục nhân cách và quan tâm đặc biệt đến lối sống, lối ứng xử văn
hóa được gợi ra trong bài học này.

4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường
- Chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu và khảo sát với học sinh 3 lớp 10 A1,
A3, A2 , năm học 2020 - 2021 sau khi các em học Nhàn của Nguyễn Bỉnh
Khiêm. Lớp 10 A1 dạy học thông thường; lớp A3, A2 dạy học tiếp cận văn bản
Trên cơ sở tư duy độc lập của học sinh hướng tới cách sống văn hóa và đạo
đức.
+ Với lớp 10 A1, lớp đại trà, khối A, sĩ số 37 khi học văn bản, các em tiếp
nhận với thái độ dò xét, rất chăm chú lắng nghe, ghi chép, học tốt nội dung kiến
thức nhưng ít sơi nổi vì tạp trung vào tiếp nhận và phân tích kiến thức trọng tâm
cơ bản.
+ Với lớp 10 A2, 10A3 học sinh được tạo một khơng khí cởi mở, giờ học
mang tính trao đổi, tranh biện, các em rất hứng thú lắng nghe, hứng thú bày tỏ,
hứng thú phân tích và tổng hợp từ các ý kiến để rút ra kết luận.
Kết quả:
Lớp
Lắng

10 A3(24 hs)
100%

10 A2 (36 học sinh) 10A1 (37 học sinh)
100%
96%

nghe
14


Hỏi, tranh (73%)


(67,6%)

(11%)

luận.
Thống

78%

71%

nhất

100%


hài

lịng

với

kết

quả
Trên đây là những việc tơi áp dụng vào thực tiễn giảng dạy của mình
trong một tiết học văn. Qua thực tế thao giảng lớp 10 A1, giờ dạy lớp 10 A2, 10
A3 cũng trong năm học 2020 -2021, tôi nhận thấy kết quả giờ học đã đổi thay rõ
rệt. Cụ thể, những câu hỏi tôi đặt ra khi chưa thực hiện đề tài và khi thực hiện đề

tài (như thống kê ở phần đầu SKKN) đã có kết quả là câu trả lời khác biệt. Sự
thay đổi thể hiện rõ trong quá trình theo dõi giờ học khi thực hiện giáo án thử
nghiệm:
- Về tâm lí, thái độ: Học sinh từ ít hứng thú với giờ văn ... sang háo hức,
thích thú
- Về nhận thức: Từ chưa thấy được giá trị của việc học giờ văn, chỉ quan
tâm đến điểm số, chỉ chú ý các bài học để kiểm tra... sang quan tâm đến những
giá trị khác ngoài văn bản, thấy được cái hay cái đẹp trong thế giới của sự sống.
Học sinh thấy rõ việc học một tác phẩm không chỉ học để biết, mà học để sống,
để rèn luyện.
- Hành vi: Từ ngần ngại chờ đợi thầy cơ giảng giải, phân tích, khơng vận
dụng kiến thức đã học vào thực tế giao tiếp sang tích cực tham gia các hoạt động
xây dựng giờ học, chủ động thể hiện năng lực cá nhân qua việc bàn luận, nhận
xét, đánh giá, sáng tạo, các em chủ động chiếm lĩnh kiến thức, viết bài.
Kết quả kiểm tra bài văn được tổ chức dạy học tích cực cũng thay đổi rõ
rệt. Có thể so sánh kết quả của 10 A2, 10 A3 - các lớp khối C với chất lượng mặt
bằng tương đối đồng đều ( khi chưa thực hiện giáo án thử nghiệm) - với lớp 10
A1 (khi thực hiện giờ dạy với giáo án thử nghiệm – tiết thao giảng)
Lớp
10 A1
Đối chứng
10 A2
Đối chứng
10 A3
Thực

Sĩ số

Kết quả bài kiểm tra bài
Điểm khá Điểm tr.b Điểm yếu, kém

14
16
4

36

Điểm giỏi
2

37

( 5,5%)
1

(38,8%)
17

(44,5%)
10

24

(2,7%)
5

(45,9%)
14

(27%)
5


(20,1%)

(58,8%)

(20,1%)

(11%)
9
(24,3%)
0

15


nghiệm
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
I. Kết luận:
Với những suy nghĩ và định hướng về cách dạy học từ một bài đọc cụ
thể như đã trình bày ở trên, tơi nhận thấy việc học văn với các em khơng q
khó, q nhọc nhằn. Việc dạy văn, “học văn trở thành niềm vui chiếm lĩnh sự
sống chứ không phải gánh nặng trau dồi tri thức”. Tiếp cận văn bản trên cơ sở
rèn luyện tư duy độc lập hướng tới giáo dục văn hóa, đạo đức, hành vi ứng xử để
dạy cho học trị khơng chỉ hiểu biết mà cịn ni dưỡng trưởng thành, vận dụng
trong cuộc sống là nhiệm vụ rất đặc biệt của dạy học văn. Tất nhiên, phải biết
vận dụng tốt các phương pháp dạy học. Ở bài học này, tôi đã vận dụng tốt các
phương pháp dạy học, các thiết bị cần thiết, các kiến thức liên môn vừa đáp ứng
được yêu cầu về đổi mới, đảm bảo nguyên lí học đi đơi với hành, vừa phát triển
được năng lực cá nhân theo hướng bồi dưỡng trí tuệ cảm xúc và rèn kĩ năng nói,
viết, giao tiếp một cách linh hoạt. Dạy đọc – hiểu một văn bản theo đặc trưng thể

loại, vận dụng tích hợp các kiến thức, ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy
học, đặc biệt là hình thức tổ chức thảo luận Socratic phát huy tư duy phản biện,
tư duy độc lập đem lại hứng thú khám phá cho người học là nỗi niềm trăn trở
của đại đa số những ai đã sống với nghiệp văn chương, không chỉ là tôi. Tôi tin,
các thầy cô giáo đứng trước mỗi bài học đều có cách thức, phương pháp để đem
đến sức hấp dẫn và hiệu quả cao nhất cho bài dạy mà mục đích là đem đến cho
học sinh những giá trị tích cực nhất để sống, để làm người đúng nghĩa. Đề tài
của tôi không phải là bước đột phá hay độc đáo, nhưng nó là kinh nghiệm dạy
học mà tơi rút ra cho chính mình, với mong muốn đem đến những thay đổi trong
cảm xúc và nhận thức của học sinh ở giờ học văn trong bối cảnh hiện nay.
2. Kiến nghị:
2.1. Với giáo viên:
Với mỗi văn bản, giáo viên có thể linh hoạt trong cách tổ chức giờ đọc
hiểu và sáng tạo trong thiết kế giáo án, khơng nên áp dụng máy móc, cứng nhắc
các phương pháp tránh gây ra sự phản cảm cho việc tiếp nhận tri thức thẩm mĩ ở
học sinh. Giáo viên cần khuyến khích, đồng hành để học sinh tự tin hơn, biết
phản biện các vấn đề học tập và trong cuộc sống. Để cách làm này được thành
công, giáo viên giảng dạy bộ mơn Ngữ văn cần có một lộ trình cụ thể và kiên trì
thực hiện. Có làm được như thế thì học sinh mới có đủ tự tin và mạnh dạn phản
biện để bộ môn Ngữ văn ngày càng thu hút hơn, thực sự là phương tiện ngôn
ngữ để học sinh tự tin và biết phản biện cho tất cả các môn học khác.
2.2. Với các cấp quản lí giáo dục:
- Trường học nên mua thêm các sách tham khảo về đổi mới phương pháp dạy
học, các tài liệu chuyên ngành chuyên sâu để phục vụ tốt công tác dạy và học
- Cần sớm thay đổi chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn theo hướng thiết
thực, hiệu quả hơn, hướng đến phát triển năng lực người học và phẩm chất
người học
- Nhà trường cần quan tâm hơn đến công tác này.
16



Trên đây là một số đề xuất của chúng tôi. Đề tài cịn nhiều hạn chế, mong nhận
được sự góp ý, xây dựng của đồng nghiệp để được phát triển khoa học hơn, có
tính khả thi cao hơn.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG Thanh Hóa, ngày 16 tháng 5 năm
ĐƠN VỊ
2021
TƠI XIN CAM KẾT KHÔNG COPY
Người viết sáng kiến

Nguyễn Thị Hằng

17


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa Ngữ văn 10 (Tập 1, Chương trình cơ bản), Nhà xuất
bản Giáo dục
2. Sách giáo viên Ngữ văn 10 (Tập 1, Chương trình cơ bản), Nhà xuất bản
Giáo dục
3. Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Ngữ văn lớp 10,
Nxb Giáo dục.
4. Tài liệu Skkn phát huy khả năng phản biện của học sinh thpt trong dạy
học văn ( Nguồn Internet)
5. Phan Trọng Luận ( chủ biên), Thiết kế bài học Ngữ văn 10, tập 1, Nxb
Giáo Dục Việt Nam.
6. Trần Đình Sử, Vấn đề đổi mới phương pháp dạy học ngữ văn,
7. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi, Từ điển thuật ngữ Văn
học, Nxb Giáo dục.
8. Lại Nguyên Ân, 150 thuật ngữ văn học, Nxb Quốc gia Hà Nội

9. Phát triển tư duy phản biện trong dạy học văn qua hình thức thảo luận
Socratic ( Nguồn Internet)
10. Một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ Văn THPT
Nguyễn Thúy Hồng Nguyễn Quang Ninh, Nhà xuất bản Giáo Dục 2008
11. Một số vấn đề về phương pháp dạy học văn trong nhà trường Nguyễn
Huy Quát - Hoàng Hữu Bội, Nhà xuất bản Giáo Dục- 2001.
12. Tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa- Lê Nguyên Cẩn – Nhà xuất
bản Đại học Quốc gia

18


Phụ lục đính kèm Giáo án điện tử Nhàn – Nguyễn Bỉnh Khiêm

19


20


21


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH
GIÁO
DỤC
ĐÀO
TẠO
HUYỆN,

TỈNH VÀ CÁC
SỞ GIÁO
DỤC
VÀVÀ
ĐÀO
TẠO
THANH
HOÁ
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN

TRƯỜNG THPT LÊ HỒNG PHONG
Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Hằng

Chức vụ và đơn vị công tác: TPCM, giáo viên giảng dạy.
Trường THPT Lê Hồng Phong.

TT

Kết quả
đánh giá
Tên đề tài SKKN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
xếp loại
(Ngành GD cấp
Cấp đánh giá
xếp loại

huyện/tỉnh; Tỉnh...)

1.


2.

Ứng dụng CNTT, tích hợp
Ngành GD Tỉnh
KTLM vào dạy đọc hiểu một
văn bản văn học nước ngoài:
Tại lầu Hoàng Hạc tiến Mahj
Hạo Nhiên đi Quảng Lăng.TÊN ĐỀ TÀI

(A, B, hoặc C)

C

Năm học
đánh giá
xếp loại

2014-2015

Rèn luyện một số kĩ năng Ngành GD Tỉnh C
2016-2017
PHÁT TRIỂN TƯ DUY ĐỘC LẬP CHO HỌC SINH
thực hành về biện pháp tu từ
TRONG
VIỆC
DẪN DẠY HỌC BÀI THƠ NHÀN
Tiếng Việt:
ThựcHƯỚNG
hành một số

phép tu từ ngữ CỦA
âm
NGUYỄN BỈNH KHIÊM
3. Tích hợp kiên thức Địa lí Lịch
Ngành GD Tỉnh B
2016-2017
sử Cơng dân và văn hóa địa
phương vào đọc hiểu văn bản
Tuyên Ngôn Độc lập. số
1112QĐ/ SGD&ĐT

4.

5.

Vận dụng kĩ thuật dạy học
Ngành GD Tỉnh C
2018-2019
tích cực để khai thác và rèn
luyện tư duy, kĩ năng phản
biện của người học trong mộtNgười thực hiện: Nguyễn Thị Hằng
bài đọc văn: “ Tỏ lòng” Chức vụ: TPCM, Giáo viên giảng dạy
Phạm Ngũ lão
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Ngữ văn
Hướng dẫn học sinh tiếp cận Ngành GD Tỉnh C
2019văn bản Đọc văn ( Tiết 2)
2020
“Hạnh phúc của một tang
gia” _ Trích Số đỏ_ Vũ Trọng
Phụng từ góc nhìn văn hóa

và bài học ứng xử.

THANH HOÁ NĂM 2020 -2021
22


23



×