Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Myanmar - Cơ hội và thách thức đối với doanh nghiệp Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (947.49 KB, 14 trang )

234

HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TỒN CẦU HĨA

MYANMAR - CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
Nhữ Trọng Bách*
Đào Duy Thuần, Cao Minh Hạnh**
TÓM TẮT: Từ khi mở cửa đất nước, Myanmar đang giống như “miếng mồi” béo bở, được khát khao bởi các
nhà đầu tư nước ngoài. Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) dự báo, kinh tế Myanmar sẽ đạt nhịp độ tăng
trưởng bình quân hàng năm khoảng 9,5% vào năm 2030. Đây là một con số tăng trưởng đáng mơ ước
của nhiều quốc gia. Khơng phải ngẫu nhiên mà các tổ chức có uy tín lại kỳ vọng lớn vào kinh tế Myanmar,
từ khi mở cửa đất nước, Myanmar đang giống như “miếng mồi” béo bở, được khát khao bởi các nhà đầu
tư nước ngồi nói chung và Việt Nam nói riêng, tuy cịn nhiều khó khăn thách thức cả về chính sách pháp
luật, những rủi ro của nền kinh tế Myanmar cho đến những phong tục tập quán có phần kỳ lạ tại đây,
nhưng với những bước tiến trong cả quan hệ ngoại giao và kinh tế song phương, các doanh nghiệp Việt
đã sẵn sàng cạnh tranh tại Myanmar với nhiều ngành kinh tế mũi nhọn.
Từ khóa: FDI vào Myanmar, Myanmar mảnh đất vàng, FDI của doanh nghiệp Việt
ABTRACT: Since opening the country, Myanmar is like atasty “bait”, desired by foreign investors. The
Asian Development Bank (ADB) forecasts that Myanmar’s economy will achieve an average annual
growth rate at about 9.5% in 2030. This is a desirable figure of growth to many countries. It is not
accidental that reliable organizations have great expectations on Myanmar’s economy, since opening
up the economy, Myanmar is like a tasty “bait”, attractive to foreign investors in general and Vietnam in
particular, although there are many challenges in both policies of laws, risks of the Myanmar’s economy
to the strange customs and practices here, but with advancements in both diplomatic relations and
bilateral economic relations, Vietnamese enterprises are ready to penetrate and compete in Myanmar
with many key economic fields.
Key words: FDI into Myanmar, Myanmar - golden land, FDI of Vietnamese enterprises

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Myanmar là một thị trường lớn nhưng vẫn còn hoang sơ, với dân số trên 60 triệu người, 90%
hàng công nghiệp và tiêu dùng phải nhập khẩu, nhiều lĩnh vực công nghiệp, sản xuất, dịch vụ, y


tế… còn thiếu.
Từ khi mở cửa đất nước, Myanmar đang giống như “miếng mồi” béo bở, được khát khao
bởi các nhà đầu tư nước ngoài. Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) dự báo, kinh tế Myanmar sẽ
* Học viện Tài chính, Đức Thắng, Bắc Từ Liêm, Hà Nội, Việt Nam. Email: - Điện thoại: 0947776688
** Học viện Tài chính, Đức Thắng, Bắc Từ Liêm, Hà Nội, Việt Nam.


HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TỒN CẦU HĨA

235

đạt nhịp độ tăng trưởng bình quân hàng năm khoảng 9,5% vào năm 2030. Đây là một con số tăng
trưởng đáng mơ ước của nhiều quốc gia.
Các nhà đầu tư nước ngoài đang gấp rút xâm nhập Myanmar để tận dụng các cơ hội lớn tại
đây. Hồi tháng 4/2013, hãng xe hơi Mỹ Ford Motor Co đã thông báo quyết định mở chi nhánh
bán hàng và cung cấp dịch vụ tại Myanmar, và nhiều cơng ty có tên tuổi khác cũng đã ký thỏa
thuận phân phối sản phẩm tại đây như PepsiCo, Coca-Cola, GE, Caterpillar và hãng bia Đan Mạch
Carlsberg.
Công ty Semen Indonesia đang đầu tư 200 triệu USD để xây dựng một nhà máy sản xuất
ximăng tại Maynamar vào năm tới.
Đồng minh lâu năm Trung Quốc là một trong những người ủng hộ quốc tế lớn nhất của
Myanmar trong nhiều năm qua, đã đổ hàng tỷ USD vào khai thác đá quý, gỗ, và dầu khí. Thái Lan
cũng là một nhà đầu tư đáng kể. Còn Nhật Bản - đang đẩy mạnh đầu tư vào Myanmar, mới đây đã
tuyên bố xóa hàng tỷ USD nợ cũ và cấp các khoản tín dụng lãi suất ưu đãi cho nước này.
Chớp cơ hội này, từ năm 2012, nhiều đoàn doanh nghiệp Việt Nam đã sang Myanmar tìm
cơ hội đầu tư, chủ yếu tại các lĩnh vực như bất động sản, viễn thông, công nghệ thông tin, nông
nghiệp...
Để tận dụng được nơi được coi như “mỏ vàng cuối cùng của Châu Á” , là con mồi béo bở
đối với các nhà đầu tư nước ngoài nhưng để tận dụng được cơ hội này, các nhà đầu tư còn phải gặp
rất nhiều thách thức, những khó khăn tại đất nước Phật giáo này. Trong bài viết tác giả sẽ đi đánh

giá thực trạng đầu tư của các doanh nghiệp Việt tại đây, nhằm chỉ ra những hạn chế, khó khăn cịn
tồn tại khi đầu tư vào Myanmar và đưa ra một vài khuyến nghị nhằm tăng cường hoạt động đầu tư
của các doanh nghiệp Việt sang Myanmar.
2. THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT VÀO MYANMAR NHỮNG NĂM VỪA QUA
2.1. Sơ lược về kinh tế Myamar và mối quan hệ với Việt Nam
Myanmar là một trong những nước nghèo nhất thế giới với hàng thập kỷ ở trong tình trạng trì
trệ, quản lý kém và bị cô lập. Các ngành công nghiệp mang lại lợi nhuận như ngọc, dầu khí và lâm
nghiệp vẫn bị kiểm soát chặt chẽ. Gần đây những ngành này đã được một số tập đoàn nước ngoài
liên doanh cùng chính phủ tham gia khai thác. Myanmar bị liệt vào hạng nước kém phát triển nhất
năm 1987. Từ năm 1992, khi Than Shwe lên lãnh đạo quốc gia, chính phủ đã khuyến khích du lịch.
Trong những năm gần đây, cả Trung Quốc và Ấn Độ đều nỗ lực phát triển quan hệ với chính phủ
nước này vì mục tiêu lợi ích kinh tế. Nhiều quốc gia khác, trong đó gồm cả Hoa Kỳ, Canada và
Liên minh châu Âu, đã áp đặt các lệnh cấm vận thương mại và đầu tư đối với Myanmar.
Đầu tư nước ngoài chủ yếu từ Trung Quốc, Singapore, Hàn Quốc, Ấn Độ và Thái Lan. Ở thời
thuộc địa Anh, Myanmar là một trong những nước giàu có nhất vùng Đơng Nam Á. Đây là nước
xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới và là nước cung cấp dầu khí thơng qua Cơng ty Dầu khí Miến Điện.
Miến Điện cũng có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và nhân lực dồi dào. Họ sản xuất 75%
lượng gỗ tếch của thế giới, và dân cư có tỷ lệ biết đọc biết viết cao. Nước này từng được tin tưởng
sẽ có tương lai phát triển nhanh chóng. Ngày nay, Myanmar thiếu cơ sở hạ tầng cần thiết. Trao đổi
hàng hóa chủ yếu qua biên giới với Thái Lan.


236

HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TỒN CẦU HĨA

Kể từ khi đổi mới vào năm 2011, Mynamar đã đại tu nền kinh tế nhằm thu hút đầu tư nước
ngoài và hịa nhập kinh tế tồn cầu. Với tài ngun phong phú, lực lượng lao động trẻ, Myanmar
đã thu hút FDI trong các lĩnh vực như năng lượng, dệt may, IT, thực phẩm và đồ uống. Việc ban
hành Luật Đầu tư Nước ngoài mới vào năm 2012 đã giúp Myanmar thu hút thêm nhiều FDI, FDI

tăng từ 1.9 tỉ USD năm 2011 lên 4.5 tỷ USD tính đến tháng 9/2019. Cải cách kinh tế bao gồm việc
thả nổi đồng tiền Kyat vào năm 2012, cấp giấy hoạt động độc lập cho Ngân hàng Trung ương vào
2013, và ban hành luật phòng chống Tham nhũng năm 2013. Chính phủ cam kết cải cách, và sự
nới lỏng về trừng phạt của phương Tây đã mang lại lợi ích đáng kể. Nền kinh tế tăng tốc mạnh
vào năm 2013 và 2014. Myanmar đã cấp giấy phép cho 09 ngân hàng nước ngoài vào năm 2014
và thêm 04 ngân hàng nước ngoài nữa vào năm 2016. Mặc dù đã có những tiến bộ rõ rệt, mức
sống của đại đa số người dân tại vùng nông thôn không được cải thiện. Myanmar vẫn là một trong
những quốc gia nghèo nhất Châu Á - hơn 1/4 dân số 60 triệu người sống trong nghèo đói. Những
chính sách và cách quản lý kinh tế của chính phủ trước đã làm Myanmar có hệ thống hạ tầng cơ
sở kém, tham nhũng, kém phát triển nguồn nhân lực, không tiếp cận được với nguồn vốn. Để phát
triển bền vững, Myanmar cần hiện đại hóa và mở cửa lĩnh vực tài chính, tăng phân bổ ngân sách
cho các dịch vụ xã hội, và đẩy mạnh cải cách nơng nghiệp và đất.
Chính phủ mới được bầu sẽ tập trung vào đẩy mạnh cải cách năng suất và đất nơng nghiệp,
hiện đại hóa và mở cửa khu vực tài chính, cũng như cải thiện quản lý tài chính. Năm 2015, tăng
trưởng của Myanmar chậm lại vì bất ổn chính trị trong năm bầu cử, lũ lụt và các yếu tố bên ngoài,
bao gồm việc Trung Quốc tăng trưởng chậm lại và giá cả hàng hóa giảm. Vào tháng 10 năm 2016,
Myanmar đã thơng qua luật đầu tư nước ngoài sửa đổi hợp nhất các quy định về đầu tư và làm
thuận lợi hóa q trình phê duyệt đầu tư và năm 2017 thơng qua luật về các công ty làm giảm các
quy tắc về sở hữu nước ngoài của doanh nghiệp.
Theo số liệu thống kê của Tổng Cục quản lý Đầu tư và Doanh nghiệp, vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) được Chính phủ Myanmar phê duyệt đạt 2.3 tỷ USD trong nửa đầu năm 2019,
tăng 77% so với cùng kỳ năm ngối, từ mức 1.3 tỷ USD. Trong đó, Singapore đứng đầu danh sách
các nhà đầu tư nước ngoài tại Myanmar với 13 dự án đã được phê duyệt, tổng vốn FDI đạt 1.3 tỷ
USD. Trung Quốc đứng vị trí thứ 2 với hơn 60 dự án được phê duyệt, tổng FDI đạt 330 triệu USD.
Một số chỉ tiêu kinh tế cơ bản
Bảng 2.1: Myanmar qua các năm GDP

Nguồn: VCCI, 2018



HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TỒN CẦU HĨA

237

Hình 2.1: GDP theo ngành và lực lượng lao động tại Myanmar hiện nay

Nguồn: VCCI, 2018

Trong đó cơ cấu nhập khẩu các mặt hàng của Myanmar từ các quốc gia như sau: 40,6% đến
từ Trung Quốc, Thailand 19,1%; Ấn Độ 8,8%; Singapore 7,6%; Nhật Bản 5,7% và còn lại là các
quốc gia khác. Trong đó Việt Nam xuất khẩu sang Myanmar mới chỉ chiếm 0,7% trong cơ cấu
hàng nhập của Myanmar, một con số cực kỳ khiêm tốn với quan hệ song phương giữa hai quốc gia.


238

HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TỒN CẦU HĨA

Biểu đồ 2.1: Xuất nhập khẩu của Myanmar giai đoạn 2010-2017

Nguồn: VCCI, 2018
Qua những số liệu trên cho thấy nền kinh tế Myanmar đang trong chu kỳ tăng trưởng kinh tế
cao, mức độ mở cửa ngày càng mở rộng. Theo nhiều dự báo đến từ nhiều tổ chức quốc tế có uy tín
đều có chung nhận định đến năm 2030, quy mơ nền kinh tế Myanmar sẽ đạt 200 tỷ USD, tăng gấp
4 lần so với hiện nay. Đây sẽ là cơ hội rất lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam với nhiều ngành
nghề, lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế.
Một số chỉ tiêu trong quan hệ kinh tế với Việt Nam
Bảng 2.2. Kim ngạch thương mại Việt Nam - Myanmar giai đoạn 2008 - 2018
Đơn vị tính: Triệu USD
Năm


Việt Nam xuất

Việt Nam nhập

Tổng KN

2008

32

75

107

2009

33

64

97

Mức tăng XNK

XK chiếm
29,91%

-9,35%


34,02%


HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TỒN CẦU HĨA

239

2010

49

102

151

55,67%

32,45%

2011

82

84

166

9,93%

49,40%


2012

117

109

226

36,14%

51,77%

2013

227

123

350

54,87%

64,86%

2014

345

134


479

36,86%

72,03%

2015

378

56

434

-9,39%

87,10%

2016

462

89

551

26,96%

83,85%


2017

701

128

829

50,45%

84,56%

2018

702

161

863

4,10%

81,34%

Nguồn: Tổng cục thống kê 2018


240


HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TỒN CẦU HĨA

Biểu đồ 2.3. Tổng kim ngạch XNK giữa Việt Nam và Myanmar giai đoạn 2008-2018
Cơ cấu mặt hàng XNK chính trong năm 2017

Nguồn: VCCI, 2018
Thời gian qua, quan hệ giữa hai nước Việt Nam, Myanmar đã có những bước phát triển nhanh
chóng và mạnh mẽ, đặc biệt là việc hai nước đã nâng cấp quan hệ lên tầm “Đối tác hợp tác toàn
diện” nhân chuyến thăm cấp Nhà nước tới Myanmar của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (8/2017).
Đặc biệt, quan hệ hợp tác giữa hai nước trong lĩnh vực kinh tế - thương mại - đầu tư đã trở thành
một trong những trụ cột quan trọng, mang lại nhiều kết quả rất tích cực. Việt Nam đã vươn lên trở
thành nhà đầu tư nước ngoài lớn thứ 7 tại Myanmar với hơn 70 dự án, tổng số vốn đăng ký đạt gần
2,2 tỷ USD.
2.2. Thực trạng đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam vào Myanmar
Trong thời gian gần đây các doanh nghiệp Việt Nam có nhiều thuận lợi khi xâm nhập vào thị
trường Myanmar do hai nước có mối quan hệ chính trị tốt đẹp và Myanmar đang chuyển đổi từ nền
kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế định hướng thị trường, có chính sách khuyến khích
khu vực tư nhân phát triển ngoại thương và hỗ trợ trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu…
Thu nhập bình qn đầu người của người dân Myanmar khơng cao, nhưng với dân số đơng, sản
xuất trong nước cịn hạn chế nên nhu tiêu dùng và sức mua rất lớn. Trong đó, có rất nhiều sản phẩm
mà Myanmar có nhu cầu lớn và có thể đầu tư hiệu quả như khai thác khống sản, lâm sản, chế biến
nơng, lâm, thủy sản, chế biến thức ăn gia súc, thức ăn thủy sản, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật,
giống cây ăn trái, ni trồng thủy sản, đóng tàu, viễn thơng, du lịch, các nhà hàng phục vụ món
ăn Việt Nam, thủy sản, nhiệt điện... Vì vậy, đây là cơ hội khả quan cho các nhà đầu tư Việt Nam.
Ngoài ra các nhà đầu tư nước ngoài vào Myanmar sẽ được đầu tư 100% vốn, không bị khống
chế mức tối đa nhưng bị khống chế mức tối thiểu, nghĩa là không được đầu tư dưới 35%. Myanmar
cịn có lợi thế là giá lao động thấp cùng với nguyên liệu chế biến nông nghiệp lẫn công nghiệp ở
Myanmar rất nhiều nên đầu tư vào ngành sản xuất ở Myanmar có nhiều triển vọng. Bên cạnh đó,
do nhu cầu hàng hóa hiện tại đang rất lớn cho nên các doanh nghiệp đầu tư có thể đẩy mạnh các
hoạt động thương mại. Chẳng hạn như mặt hàng xi măng, mỗi năm Myanmar đang cần hơn 6 triệu



HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TỒN CẦU HĨA

241

tấn, nhưng trong nước mới sản xuất được 1,5 triệu tấn. Trong thời gian tới, nhu cầu sẽ còn tăng lên
cao hơn nữa do nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng của Myanmar rất lớn. Với đặc điểm là nền kinh
tế Myanmar mới mở cửa, nếu không nhanh chân đi trước một bước, khi Myanmar mở cửa mạnh
hơn thì doanh nghiệp Việt Nam rất khó chen chân cạnh tranh với các nhà đầu tư các nước khác.
Theo số liệu chính thức của Ủy Ban Đầu tư nước ngồi Myanmar, tính từ năm 1988 đến năm
2019, với 70 dự án và tổng vốn đăng ký đạt gần 2,2 tỷ, Việt Nam đã vươn lên trở thành nhà đầu
tư nước ngoài lớn thứ 7 của Myanmar. Trong đó, nổi bật nhất là dự án đầu tư của Tập đồn Cơng
nghệ Viễn thơng Qn đội (Viettel).
Bảng 2.3. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam vào
Myanmar giai đoạn 2010 - 2018

Năm
2010
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018

Số dự án
1
2

6
14
15
18
19
20

Vốn đầu tư của dự án
ở nước ngồi

Vốn đầu tư của nhà
đầu tư Việt Nam

( nghìn USD)

( nghìn USD)

10.000
20.050
311.537
6.864
45.454
1.845.951
7.954
7.613

10.000
5.650
305.873
6.489

11.918
960.077
7.954
7.613

Nguồn: Cục Đầu tư nước ngồi - Bộ KH&ĐT 2018
Năm 2012, sau khi kí kết hiệp định thương mại song phương mở ra một cánh cửa mới cho
nền kinh tế của 2 nước, mặc dù vậy lượng FDI của Việt nam đầu tư vào Myanmar vẫn chững lại
bởi ban đầu các doanh nghiệp Việt Nam chưa mặn mà với thị trường này, khơng phải vì mơi trường
đầu tư Myanmar khơng hấp dẫn, hay do các rào cản về chính sách, mà xuất phát từ khó khăn của
nội tại doanh nghiệp trong nước (khả năng cạnh tranh thấp, chi phí vốn cao và chịu ảnh hưởng của
khó khăn kinh tế trong nước) và cách tiếp cận thị trường của doanh nghiệp (thiếu vắng các dự án
đầu tư có tầm nhìn trung và dài hạn). Sau làn sóng sang Myanmar để khảo sát, các doanh nghiệp
Việt Nam đã nhận thấy sự khác biệt giữa lĩnh vực đầu tư có nhu cầu thu hút vốn hoặc thực sự tiềm
năng của Myanma và lĩnh vực doanh nghiệp Việt Nam quan tâm.
Nếu từ năm 2010 - 2012 vốn FDI của DN Việt Nam vào Myanmar chỉ 03 dự án với số vốn
đăng ký 30 triệu USD thì đến các năm sau đó các dự án đã tăng dần đều, ngay kế năm sau 2013 số
vốn đăng ký đã lên tới 311 triệu USD, và tăng đến cực đại vào năm 2016 với 1,8 tỷ USD vốn đăng
ký cùng 18 dự án lớn. Trong đó, lớn nhất là dự án tổ hợp khách sạn, văn phịng nhà ở cao cấp của
Tập đồn Hồng Anh Gia Lai với tổng mức đầu tư 440 triệu USD. Việt Nam đứng thứ 8 trong các
nước đối tác và chiếm 1,3% tổng vốn FDI của Myanmar. Ngoài dự án đầu tư của các tập đoàn lớn
như Hoàng Anh Gia Lai, Ngân hàng đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV)…, hiện nay nhiều các


242

HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TỒN CẦU HĨA

doanh nghiệp khác của Việt Nam cũng có kế hoạch mở rộng đầu tư vào Myanmar như FPT, VNPT,
Đông Á, Minh Đức, Eurowindow...

Tính đến thời điểm hiện nay, Việt Nam đã có 4 tổ chức tài chính có văn phịng đại diện hoặc
văn phịng chi nhánh tại Myanmar.
Ngồi ra, hiện có 35 doanh nghiệp Việt Nam thành lập cơng ty, văn phịng đại diện tại
Myanmar.
Myanmar là một thị trường mới nổi, giàu tiềm năng, nhất là đối với hàng tiêu dùng và nông
nghiệp, công nghệ chế biến. Bên cạnh xuất khẩu hàng hóa, các doanh nghiệp Việt Nam đã chú ý
phát triển xuất khẩu dịch vụ sang Myanmar. Một số dự án lớn của doanh nghiệp Myanmar đã có sự
tham gia của đối tác Việt Nam cung cấp dịch vụ. Tuy nhiên, có điểm bất cập đó là thủ tục hải quan,
kiểm dịch của Myanmar vẫn còn chậm và nhiều thủ tục. Vận chuyển tàu mất 2 tuần, đến Myanmar
còn phải làm những thủ tục để nhập hàng về kho thêm 2-3 tuần. Điều này gây khó khăn cho DN
nhập khẩu thực phẩm chế biến ăn liền có hạn sử dụng ngắn (khoảng 3-4 tháng). Chi phí vận chuyển
hàng từ Việt Nam đi Myanmar cao nên khó cạnh tranh giá với hàng hóa từ Ấn Độ, Trung Quốc.
DN tại Myanmar kinh doanh chưa theo thơng lệ quốc tế; giao dịch thanh tốn phải thơng qua một
ngân hàng nước ngồi khác.
Các dự án tiêu biểu
- Dự án trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản:
Lĩnh vực sản xuất giống và kinh doanh nông nghiệp: Công ty xuất nhập khẩu Việt Trang
(viettranimex) liên doanh với cơng ty Sann Shwe, diện tích 10.000ha, tại NayPyiTaw với tổng số
vốn đầu tư dự kiến là 15 triệu USD.
- Dự án trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ:
Dự án đầu tư mạng viễn thông của công ty cổ phần quốc tế Viettel đầu tư vào công ty viễn
thông tại Myanmar với tổng số vốn dự kiến từ Việt Nam là 0,8 tỷ USD.
- Dự án trong lĩnh vực cơng nghiệp - xây dựng:
• Cơng ty CP xây dựng và phát triển nhà Hoàng Anh đầu tư xây dựng, vận hành và khai thác
khu phức hợp gồm trung tâm thương mại, tòa nhà văn phòng, khách sạn năm sao và khu căn hộ
dịch vụ với diện tích 8 ha tại thành phố Yangon, Myanmar. Dự án đã được Chính phủ Myanmar
cấp phép với tổng mức đầu tư lên đến 440 triệu USD và hiện đã đi vào hoạt động.
• Dự án khai thác và chế biến đá cẩm thạch trắng tại Nayputaung của SimCo Sông Đà với
tổng mức đầu tư là 50 triệu USD
• Dự án thăm dị khai thác dầu khí của tổng cơng ty thăm dị, khai thác dầu khí PVEP với tổng

số vốn đầu tư 136 triệu USD.
• Tập đồn ASV Pharma liên doanh với công ty Myanmar Entrepreneur Invertment sản xuất
dược phẩm tại Yangon với tổng mức đầu tư ước tính là 20 triệu USD.
• Dự án liên doanh giữa cơng ty đóng tàu Đơng Á ( thuộc tập đồn Thép Việt-Nhật) và nhà
máy đóng tàu Myanmar với tổng số vốn 175,4 triệu USD trong đó Việt Nam đầu tư 49% tương
ứng với 85,95 triệu USD.


HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TỒN CẦU HĨA

243

• Dự án dầu khí ở vùng biển Tây Nam có tổng số vốn đầu tư là 135,9 triệu USD.
• Dự án khai thác đá màu tại bang Rakhine do công ty cổ phần Simco Sông Đà đầu tư với
tổng số vốn là 18,1 triệu USD.
3. NHỮNG HẠN CHẾ, KHÓ KHĂN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT KHI ĐẦU TƯ VÀO MYANMAR
Được xem là “ mảnh đất vàng”, là thị trường triển vọng, tiềm năng trong tương lai, Myanmar
đã hấp dẫn khơng ít doanh nghiệp quốc tế cũng như doanh nghiệp Việt Nam đầu tư vào thị trường
của mình. Dù thu nhập bình quân đầu người của người dân Myanmar không cao, nhưng với dân
số trên 60 triệu dân, sản xuất trong nước còn hạn chế nên nhu tiêu dùng và sức mua rất lớn. Trong
đó, có rất nhiều sản phẩm mà Myanmar có nhu cầu lớn và có thể đầu tư hiệu quả như khai thác
khống sản, lâm sản, chế biến nơng, lâm, thủy sản, chế biến thức ăn gia súc, thức ăn thủy sản, phân
bón, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây ăn trái, ni trồng thủy sản, đóng tàu, viễn thơng, du lịch,
các nhà hàng phục vụ món ăn Việt Nam, thủy sản, nhiệt điện... đó sẽ là những thuận lợi cho các
doanh nghiệp Việt Nam.
Tuy nhiên, việc đầu tư vào Myanmar của các DN Việt gặp khơng ít những hạn chế đến từ cả
hai phía. Cụ thể như sau:
* Khó khăn đến từ Myanmar
Thứ nhất: cơ chế chính sách, pháp luật của Myanmar còn chưa đồng bộ, nhiều bất cập
- Hiện nay nền kinh tế Myanmar vẫn đang mang nặng cơ chế quản lý hành chính tập trung,

quan liêu, bao cấp, cơ chế thuế quan chưa thơng thống và vẫn cịn bao cấp giá đối với một số hàng
hóa tiêu dùng thiết yếu như, nhà ở cho công chức, điện nước sinh hoạt, cước phí điện thoại, giá
xăng dầu, vận tải... Đặc biệt, Chính phủ Myanmar vẫn cịn thực hiện chế độ hai giá đối với người
dân trong nước và nước ngoài ở một số mặt hàng như cước phí điện thoại, giá điện, xăng, giá nước
sinh hoạt, giá dịch vụ khách sạn, giá thuê nhà, giá một số dịch vụ vận tải với giá chên lệch cao gấp
nhiều lần so với người dân trong nước, nhất là thủ tục pháp lý cịn nặng nề, cổ hũ và trì trệ, các
điều luật cịn cứng nhắc, chi phí thành lập doanh nghiệp khá cao.
Có thể kể đến trường hợp của Viettel khi đầu tư vào Myanmar, nếu như, ở Việt Nam để xây
một trạm thu và phát sóng di động (BTS) chỉ cần có 2-3 giấy phép của sở thơng tin truyền thơng,
sở xây dựng. Cịn để làm được điều này ở Myanmar, doanh nghiệp phải xin tới bảy giấy phép, từ
người dân đến các cơ quan có thẩm quyền từ thấp đến cao, do đó để hồn thiện giấy phép triển
khai một trạm BTS phải mất nhiều tháng. Tương tự, các thủ tục khác cũng lâu như vậy. Ngoài ra,
ở Myamar, ngồi sự chấp thuận của chính phủ và bộ, ban, ngành chủ quản, doanh nghiệp nước
ngồi dù có đầu tư lớn vẫn phải tiếp tục làm việc ở các bang, quận huyện để hoàn thành hàng loạt
thủ tục phép tắc khác.
Thứ hai: Chất lượng nguồn nhân lực yếu và chi phí đắt đỏ
- Về chi phí kinh doanh tại Myanmar đắt đỏ hơn so với trong nước.
Ví dụ như trường hợp của một số dự án điển hình:
Ơng Nguyễn Thanh Nam cho biết chi phí kinh doanh của Viettel tại Myanmar đắt đỏ hơn
so với trong nước. Myanmar tuy có diện tích gấp đơi Việt Nam nhưng dân số chỉ hơn một nửa và


244

HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TỒN CẦU HĨA

phân bổ thưa thớt, đường sá đi lại khó khăn. Gần 60% dân số Myanmar chưa có điện lưới... Và do
khơng có điện nên rất nhiều trạm BTS của Viettel phải chạy bằng máy nổ, làm cho giá thành mạng
di động của Viettel ở Myanmar cao hơn so với các thị trường khác, trong khi giá cước thì phải rẻ
để thu hút khách.

Cịn ơng Cao Duy Thịnh, Giám đốc điều hành Hồng Anh Gia Lai Myanmar, cũng cho biết
doanh nghiệp này có dự án đầu tư bất động sản 440 triệu đô la Mỹ trên diện tích 7,5 héc ta tại
Yangon. Để đảm bảo chất lượng và đẩy nhanh tiến độ dự án, Hồng Anh Gia Lai khơng thể sử
dụng nhà thầu địa phương mà chọn cách tự xây và đưa lao động Việt Nam sang. Việc này làm chi
phí xây dựng tăng hơn 30% so với trong nước. Ông cho biết việc xây dựng giai đoạn 1 của dự án
chỉ mất hai năm rưỡi, nhưng nếu sử dụng dịch vụ xây dựng địa phương thì có thể phải kéo dài gấp
đơi thời gian, thậm chí gấp 3.
Mặt khác, chi phí thuê mặt bằng tại Myanmar rất đắt đỏ, giá thuê văn phịng trung bình đạt 62
USD mỗi m2 một tháng, tương đối cao so với các trung tâm kinh tế khu vực như Bangkok (Thái
Lan), Kuala Lumpur (Malaysia), Jakarta (Indonesia), TP HCM (Việt Nam).
- Nguồn nhân lực của Myanmar cho trình độ thấp, có ít người có kinh nghiệm quản lý công ty
cũng như thiếu những chuyên gia kỹ thuật bậc cao nên doanh nghiệp phải thuê người nước ngoài
với chi phí cao. Năng suất của lao động phổ thơng thấp hơn người Việt, tay nghề chưa cao, chưa
được đào tạo… Một phân tích gần đây của Ngân hàng Thế giới cho thấy năng suất nông nghiệp
thấp ở Myanmar là một ngày làm việc chỉ tạo ra 23kg gạo so với 547 kg ở Thái Lan, 429 ở Việt
Nam và 62 kg ở Campuchia. Điều này là do khoảng cách về kiến ​​thức và khả năng tiếp cận cơng
nghệ có thể được giải quyết khi tiếp cận với kiến thức
​​
và công nghệ đẳng cấp thế giới.
Thứ ba: Myanmar thiếu cơ sở hạ tầng cần thiết. Trao đổi hàng hóa chủ yếu qua biên giới với
Thái Lan, và đó cũng là đầu mối xuất khẩu ma tuý lớn nhất, và dọc theo Sông Ayeyarwady. Đường
sắt cũ kỹ và mới ở mức kỹ thuật sơ khai, hiếm khi được sửa chữa từ khi được xây dựng trong thập
niên 1800. Đường giao thông thường không được trải nhựa, trừ tại các thành phố lớn. Thiếu hụt
năng lượng, nhiều nơi khơng có hệ thống điện lưới, đây là điều thường thấy trong nước, kể cả tại
Yangon.
* Hạn chế đến từ chính bản thân doanh nghiệp Việt
- Thứ nhất: hình thức đầu tư cịn hạn chế, mới chỉ dừng lại ở doanh nghiệp 100% vốn và liên
doanh, mặc dù các doanh nghiệp Việt đầu tư vào Myanmar ở khá nhiều lĩnh vực nhưng các dự án
đầu tư cịn nhỏ lẻ, phân tán. Trong đó chủ yếu là hình thức liên doanh. Một phần cũng do chính
sách của Chính phủ Myanmar mặc dù đang thực hiện chính sách mở cửa kêu gọi đầu tư, tuy nhiên,

trong lĩnh vực lưu thông phân phối hầu hết hoạt động thương mại chỉ dành cho DN trong nước.
Nếu muốn tiếp thị hàng hóa vào Myanmar, các DN chỉ có thể thực hiện thơng qua hình thức hợp
đồng đại lý, hoặc hợp tác với các nhà phân phối địa phương.
- Thứ hai: chưa thể đầu tư vào nhiều tỉnh thành tại Myanmar. Hiện nay, các doanh nghiệp Việt
mới chỉ đầu tư tập trung vào thủ đô Yangon chiếm tới 98% tổng số vốn đăng ký đầu tư, ngồi ra
cũng chỉ có ít dự án đầu tư ở các tỉnh khác như Hlaing Township, Nay Pyi Taw, Mayangone. Cịn
lại khơng có dự án nào ở các tỉnh thành khác.
- Thứ ba: doanh nghiệp Việt chưa cập nhật kịp thời sự thay đổi trong hệ thống chính sách


HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TỒN CẦU HĨA

245

pháp luật của Myanmar dẫn tới sự thiếu hụt thông tin và khó khăn trong triển khai hoạt động đầu
tư. Thời gian xin cấp giấy phép thường bị kéo dài dẫn tới sự chậm trễ trong triển khai thực hiện dự
án, do đó hiệu quả của dự án khơng cao.
- Thứ tư: Tiềm lực tài chính của các doanh nghiệp cịn hạn hẹp, sức cạnh tranh và khoa học
cơng nghệ cịn yếu so với các đối thủ cạnh tranh.
Mặc dù một số DN Việt Nam đã có đủ tiềm lực tài chính để đáp ứng nhu cầu đầu tư trực tiếp
ra nước ngồi (ĐTRNN) nhưng nhìn chung tiềm lực tài chính của các DN Việt Nam trong thời
gian qua vẫn còn hạn chế nhất định. Điều này dẫn tới số lượng dự án ĐTRNN cũng như quy mô
của các dự án ĐTRNN còn hạn chế.
4. Một số giải pháp thúc đẩy đầu tư của các doanh nghiệp Việt vào thị trường Myanmar
Tuy cịn có nhiều khó khăn thách thức khi đầu tư vào Myanmar, nhưng với đất nước đang
trong quá trình đổi mới, còn nhiều tiềm năng phát triển, nhiều lĩnh vực chưa được khai phá, trong
khi đó nhu cầu trong nước rất mạnh mẽ. Đây có thể coi là cơ hội để các doanh nghiệp Việt tiến vào
chiếm lĩnh thị trường Myanmar, để làm được điều đó cần có những biện pháp cụ thể mang tính
chất dài hạn, có chiến lược lâu dài mới có thể tồn tại và phát triển ở thị trường béo bở và cũng đầy
kì lạ này. Nhóm tác giả xin đề xuất một số giải pháp cần thiết dưới đây:

Một là, để dễ dàng nhận được giấy phép đầu tư kinh doanh ở Myanmar, doanh nghiệp Việt
Nam cần quan tâm các vấn đề lợi ích kinh tế - xã hội, công ăn việc làm cho người địa phương; cần
có đối tác địa phương vì việc “tự vật lộn” sẽ rất khó khăn. Ví như, việc vay vốn tại đây, các ngân
hàng địa phương được yêu cầu theo chính sách của Ngân hàng Trung ương chỉ cho vay các khoản
vay có bảo đảm mà trong hầu hết các trường hợp là hình thức thế chấp bất động sản. Vì các chi
nhánh của các cơng ty nước ngồi và các cơng ty có vốn đầu tư nước ngồi không thể sở hữu đất
nên các khoản vay từ các ngân hàng trong nước do đó thường khơng phải là lựa chọn. Nếu đầu tư
dưới hình thức liên doanh thì có thể vay được từ một ngân hàng địa phương nếu đối tác liên doanh
ở địa phương đưa đất của mình làm bảo đảm.
Hai là, các doanh nghiệp Việt nên chủ động hơn trong việc tìm hiểu đầy đủ hệ thống chính
sách pháp luật của Myanmar. Myanmar là một quốc gia cịn cổ hủ và lạc hậu, hệ thống chính sách
pháp luật chưa đầy đủ, còn nhiều bất cập do vẫn cịn bao cấp, do đó có rất nhiều hạn chế đối với
nhà đầu tư nước ngoài tại nhiều lĩnh vực, vì thế việc tìm hiểu kỹ các vấn đề liên quan đến chính
sách pháp luật tại đây là cơ hội để các doanh nghiệp Việt có thể tìm kiếm những cơ hội mới, những
lĩnh vực mới phù hợp với chính sách của Chính phủ Myanmar.
Ba là, Doanh nghiệp cần chủ động xây dựng chiến lược kinh doanh đáp ứng yêu cầu hội nhập
đủ sức cạnh tranh
Trong điều kiện đầu tư ở thị trường nước ngồi thì địi hỏi năng lực cạnh tranh của DN phải
cao hơn đầu tư trong nước vì phải cạnh tranh với nhiều đối thủ quốc tế có tiềm lực mạnh. Sau 20
năm hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới, đến nay mức độ hội nhập của Việt Nam đã sâu, rộng
hơn rất nhiều. Từ cuối năm 2015, Cộng đồng kinh tế ASEAN đã hình thành, cùng với CPTPP, EV
FTA, VCU FTA,… với nhiều nội dung hợp tác, đầu tư có mức độ tự do hóa cao, mức độ ưu đãi
trong nội khối cũng khá cao. Trong bối cảnh đó các DN phải nắm chắc các quy định liên quan đến
lĩnh vực kinh doanh, đầu tư của mình. Trên cơ sở đó các DN cần chủ động xây dựng chiến lược


246

HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TỒN CẦU HĨA


kinh doanh phù hợp với các cam kết hội nhập trong các hiệp định thương mại mà Việt Nam đã
tham gia.
Chiến lược kinh doanh của các DN vừa phải đòi hỏi đáp ứng tốt các yêu cầu hội nhập vừa
phải đảm bảo có đủ năng lực cạnh tranh trong điều kiện cạnh tranh quốc tế. Trong đó, các DN phải
chú trọng nâng cao trình độ cơng nghệ, trình độ quản trị DN, trình độ người lao động theo các tiêu
chuẩn quốc tế. Bên cạnh đó các DN cịn phải nâng cao năng lực tài chính thơng qua việc huy động
lượng vố đủ lớn từ nhiều nguồn khác nhau. Và một vấn đề rất quan trọng là phải nâng cao chất
lượng sản phẩm dịch vụ cung ứng với mức giá cạnh tranh cùng với sự độc đáo, khác biệt của sản
phẩm so với đối thủ cạnh tranh.
Bốn là, về phía Chính phủ cần tăng cường vai trị của Chính phủ trong định hướng, cung cấp
các dịch vụ, thông tin tới các doanh nghiệp. Tăng cường cung cấp các loại dịch vụ hỗ trợ cho doanh
nghiệp ĐTRNN như: Tổ chức các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc định kỳ hoặc khơng định kỳ giữa Chính
phủ với các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp hiện đang có dự án triển khai ở nước ngồi
để tìm hiểu những khó khăn và nguyện vọng của doanh nghiệp khi tiến hành đầu tư; Khuyến khích
phát triển đồng bộ các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư ra nước ngồi, trong đó đặc biệt quan
tâm đến dịch vụ cung cấp thơng tin.
Mặt khác, Chính phủ nên tiến tới việc hình thành Quỹ thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam đầu
tư ra nước ngồi để có thể hỗ trợ về vốn cho các doanh nghiệp một cách nhanh chóng và thuận tiện
hơn, góp phần nâng cao hiệu quả dịng vốn đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam.
Đặc biệt, cơ quan ngoại giao Việt Nam ở nước ngồi có trách nhiệm hỗ trợ các DN đầu tư về
chính sách của các nước sở tại, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc mà họ gặp phải. Đồng thời, tích cực
hỗ trợ về mặt pháp lý, chủ động phối hợp cùng DN tham gia xử lý các vấn đề phát sinh, các tranh
chấp trong quá trình đầu tư tại nước sở tại.
Năm là, đảm bảo định hướng đúng đắn và vai trò của Câu lạc bộ doanh nghiệp Việt Nam tại
Myanmar theo đúng mục đích hoạt động của Câu lạc bộ Doanh nghiệp Việt Nam tại Myanmar
là gắn kết, tăng cường phối hợp hoạt động, hợp tác nâng cao khả năng cạnh tranh và hiệu quả
kinh doanh, đại diện và bảo vệ lợi ích kinh tế chính đáng, hợp pháp của các hội viên; phối hợp
triển khai các hoạt động chung của Đại sứ quán Việt Nam; gắn kết cộng đồng người Việt Nam tại
Myanmar; góp phần thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư giữa hai nước Việt
Nam và Myanmar; nâng cao uy tín, hình ảnh của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam tại Myanmar

nói riêng./
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tổng cục thống kê, web: />2. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI)
Website: />3. Bài báo: “ 9 nỗi hoài nghi về kinh tế Myanmar”, An Huy, 2018, website: http://vneconomy.
vn/the-gioi/9-noi-hoai-nghi-ve-kinh-te-myanmar-20170308101644999.htm


HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TỒN CẦU HĨA

247

4. Báo cơng thương Việt Nam, website: />5. Tạp chí tài chính, “Vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam”,
Nguyễn Thị Kiều Oanh,2017, website: />


×