Tải bản đầy đủ (.docx) (49 trang)

skkn thực trạng, giải pháp nâng cao kỹ năng giao tiếp của học sinh dân tộc thiểu số ở trường THPT kỳ sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.91 MB, 49 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN
TRƯỜNG THPT KỲ SƠN

------

THỰC TRẠNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO KỸ NĂNG
GIAO TIẾP CỦA HỌC SINH DÂN TỘC THIỂU SỐ
Ở TRƯỜNG THPT KỲ SƠN, TỈNH NGHỆ AN

Họ và tên tác giả: Thái Khắc Hoàn;
Cao Thị Hải Yến
Lĩnh vực:

Kỹ năng sống

Kỳ Sơn, tháng 03/2021
MỤC LỤC


Phần I. Đặt Vấn đề

3

Phần II. Nội dung nghiên cứu
I. TỔNG QT TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1.

Kỹ năng giao tiếp

4


1.2. Vai trò của giao tiếp

4

1.3. Phương tiện trong giao tiếp

5

1.4. Một số kĩ năng giao tiếp cơ bản

7

II. THỰC TRẠNG KỸ NĂNG GIAO TIẾP CỦA HỌC SINH DÂN TỘC
THIỂU SỐ Ở TRƯỜNG THPT KỲ SƠN
2.1. Khái quát về thực trạng 8
2.2. Tổ chức điều tra khảo sát

9

2.3. Thực trạng kĩ năng giao tiếp của HSDTTS ở trường THPT Kỳ Sơn
2.4. Nguyên nhân
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO KỸ NĂNG GIAO TIẾP CHO HỌC
SINH DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở TRƯỜNG THPT KỲ SƠN
3.1. Phân loại được khả năng giao tiếp của các em trong lớp:

26

3.2. Tạo mơi trường học tập hịa đồng thân thiện giữa học sinh các dân tộc.
27
3.3. Xác định những kỹ năng cơ bản trong giao tiếp cần rèn luyện cho học

sinh dân tộc thiểu số.
31
3.4. Rèn luyện kỹ năng giao tiếp thông qua hoạt động học tập.

33

3.5. Rèn luyện kỹ năng giao tiếp qua hoạt động ngoài giờ lên lớp. 35
3.6. Mở rộng mơi trường giao tiếp ở gia đình và cộng đồng.

39

3.7. Tổ chức thi đua, động viên khen thưởng

39

IV. KHẢO SÁT THỰC NGHIỆM
4.1. Mục đích của khảo nghiệm

40

4.2. Nội dung thực nghiệm

40

4.3. Đối tượng thực nghiệm

40

4.4. Cách thức thực nghiệm


40

4.5. Xử lý, phân tích và đánh giá kết quả thực nghiệm

44

Phần III. Kết luận

44

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

2


STT

VIẾT TẮT

VIẾT ĐẦY ĐỦ

1

ĐC

Đối chứng

2

KNGT


Kỹ năng giao tiếp

3

KN

Kỹ năng

4

THCS & THPT

Trung học cơ sở và Trung học phổ thông

5

TN

Thực nghiệm

6

HSDTTS

Học sinh dân tộc thiểu số

7

DTTS


Dân tộc thiểu số

Phần I. Đặt Vấn đề
3


Giáo dục con người là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của mỗi quốc gia, dân
tộc. Xã hội ngày càng phát triển, thì giáo dục càng được chú trọng và nâng cao.
Hầu hết các nước trên thế giới đều nhận thức được tầm quan trọng của giáo dục mà
đầu tư cho giáo dục một cách toàn diện nhất. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư có lãi
nhất đối với một con người, nhà trường, gia đình và xã hội. Chính vì vậy, trong
những năm gần đây, Đảng và nhà nước ta đã có những chính sách thiết thực, có
những phương pháp để đổi mới nền giáo dục nước nhà. Chiến lược phát triển giáo
dục giai đoạn 2011 - 2020, Chính phủ đã xác định "Đến năm 2020 nền giáo dục
nước ta được đổi mới căn bản và toàn diện theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa,
xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế; chất lượng giáo dục được nâng cao
một cách toàn diện gồm: giáo dục đạo đức, kỹ năng sống, năng lực sáng tạo,
năng lực thực hành... đặc biệt là chất lượng giáo dục, văn hóa, đạo đức, kỹ năng
sống, pháp luật, ngoại ngữ, tin học,...". Để phát triển giáo dục một cách tồn diện,
địi hỏi nhà trường, thầy cơ giáo, gia đình, các tổ chức đoàn thể phải phối hợp chặt
chẽ với nhau để giáo dục học sinh. Giáo dục không chỉ là cung cấp kiến thức trên
sách vở mà qua đó giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, giúp học sinh biến tri thức
thành hành động, thái độ thành hành vi, kỹ năng để sống an tồn, khỏe mạnh,
thành cơng và hiệu quả.
Tuy nhiên, việc tổ chức giáo dục, phát triển kỹ năng giao tiếp cho học sinh
bậc trung học, đặc biệt là học sinh đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn nhiều bất cập.
Các trường học, các cơ sở giáo dục đa phần đều chưa chú trọng đến việc phát triển
kỹ năng giao tiếp cho học sinh, các kỹ năng này chủ yếu được hình thành tự phát
thơng qua việc tự rèn luyện, qua các hoạt động của học sinh, qua sự giáo dục của

nhà trường, gia đình và xã hội.
Kỳ Sơn là một trong ba huyện của Nghệ An được xếp vào các huyện nghèo,
là một trong 9 huyện khó khăn nhất của cả nước. Người dân trong huyện vẫn mang
nặng tâm lý trông chờ, ỷ lại vào các chính sách trợ cấp của Nhà nước. Đây cũng là
lực cản không nhỏ đối với công cuộc đi lên của huyện. Xác định rõ những khó
khăn trên con đường phát triển, trong những năm qua, Đảng bộ, Chính quyền và
Nhân dân Kỳ Sơn đã phấn đấu không ngừng, đưa Kỳ Sơn khơng chỉ vững mạnh về
an ninh - quốc phịng mà kinh tế - xã hội cũng có nhiều tiến bộ.
Là giáo viên lâu năm, qua thực tiễn chúng tôi cảm nhận thấy tầm quan trọng
của giao tiếp, đặc biệt về kỹ năng giao tiếp của các em học sinh đồng bào dân tộc
thiểu số trong trường. Do đó, việc nghiên cứu về kỹ năng giao tiếp của học sinh
dân tộc thiểu số là một việc làm cần thiết góp phần nâng cao chất lượng giáo dục
và học tập ở trường THCS&THPT hiện nay. Từ những phân tích trên, tơi chọn
nghiên cứu đề tài: “Thực trạng, giải pháp nâng cao kỹ năng giao tiếp của học
sinh dân tộc thiểu số ở trường THPT Kỳ Sơn”
Phần II. Nội dung nghiên cứu
4


I. Một số khái niệm cơ bản của đề tài
1.1. Kĩ năng giao tiếp
Nghiên cứu về kỹ năng giao tiếp, tác giả Hoàng Anh quan niệm về kỹ năng
giao tiếp là năng lực của con người biểu hiện trong quá trình giao tiếp. Đó là các
khả năng sử dụng hợp lý các phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ... là hệ thống
các thao tác cử chỉ, điệu bộ hành vi được chủ thể giao tiếp phối hợp hài hòa.
Tác giả Ngơ Cơng Hồn đã coi kỹ năng giao tiếp "là khả năng tri giác hiểu
được những biểu hiện bên ngoài cũng như những diễn biến bên trong của các hiện
tượng, trạng thái, phẩm chất tâm lý của đối tượng giao tiếp". Như vậy, ta thấy
rằng: Kỹ năng giao tiếp của mỗi người bao hàm cả khả năng vận dụng vốn tri thức,
vốn kinh nghiệm của bản thân chủ thể giao tiếp, khả năng điều khiển đối tượng

giao tiếp.
Kỹ năng giao tiếp của con người trong xã hội bao gồm kỹ năng lắng nghe,
thấu hiểu, chia sẻ, kỹ năng nhận và truyền thông tin, kỹ năng biểu đạt thái độ và cử
chỉ hành vi phi ngôn ngữ, kỹ năng tự nhận thức về bản thân, kỹ năng từ chối lời
yêu cầu đề nghị của người khác, kỹ năng thương lượng và xử lý tình huống, kỹ
năng hợp tác, kỹ năng chào hỏi, nói lời cảm ơn xin lỗi, kỹ năng thiết lập mối quan
hệ với đối tượng... Học sinh trong trường trung học, đặc biệt là học sinh dân tộc
thiểu số cần phải thực hiện có hiệu quả các kỹ năng giao tiếp trong nhà trường, gia
đình và xã hội nhằm thực hiện các mục đích học tập, vui chơi, rèn luyện để phát
triển nhân cách. Nói cách khác, kỹ năng giao tiếp của học sinh dân tộc thiểu số
được hình thành và phát triển trong một mơi trường rộng lớn và quan hệ chặt chẽ
với nhau là: Nhà trường, gia đình và xã hội.
1.2. Vai trị của giao tiếp
Thơng qua giao tiếp, con người trao đổi thông tin, tư tưởng, tình cảm,
xúc cảm, kinh nghiệm sống...để biến nó thành tri thức, kỹ năng sống của mỗi
người. Kỹ năng giao tiếp giúp con người thành công trong giao tiếp và từ đó,
con người hình thành, phát triển nhân cách, tạo nên hệ giá trị sống tích cực và
tạo lập các mối quan hệ tốt đẹp trong cuộc sống. Trong xã hội, con người là
tổng hòa các mối quan hệ và vì vậy, kỹ năng giao tiếp giữ vai trị quan trọng.
1.2.1. Giao tiếp trong sự hình thành và phát triển nhân cách.
Giao tiếp là nhu cầu của cuộc sống, là điều kiện tồn tại, phát triển của
con người và xã hội. Thông qua giao tiếp, cá nhân gia nhập vào các mối quan hệ xã
hội, tiếp thu nền văn hoá xã hội - lịch sử biến nó thành cái riêng của mình, cũng
qua quá trình giao tiếp con người truyền đạt lại những kinh nghiệm xã hội - lịch sử
của bản thân cho người khác, cho xã hội, đồng thời tiếp thu các kinh nghiệm xã hội
- lịch sử của loài người chuyển thành kinh nghiệm của bản thân.
Giao tiếp là điều kiện của sự hình thành và phát triển nhân cách. Ở mỗi
cá nhân, các nét tính cách chỉ được hình thành thơng qua kinh nghiệm giao
5



tiếp, thông qua việc tiếp xúc của cá nhân với mọi người trong gia đình, ở nhà
trường và ngồi xã hội. Qua giao tiếp cá nhân có thể so sánh mình với người
khác, biết được các giá trị xã hội của người khác, trên cơ sở đó tự
điều chỉnh bản thân theo các chuẩn mực xã hội để tự hoàn thiện mình.
Học sinh dân tộc thiểu số được mở rộng mơi trường giao tiếp từ gia đình
sang trường học với phạm vi rộng lớn hơn, vì vậy giáo dục kỹ năng giao tiếp cho
học sinh là việc làm có ý nghĩa, giúp các em tự tin trong học tập, tự chủ trong quan
hệ xã hội, mạnh dạn và tự tin trong khi tham gia hoạt động giáo dục và hoạt động
tập thể. Trong các mối quan hệ đó các em biết nói lời yêu cầu đề nghị, nói lời cảm
ơn, xin lỗi, biết chia sẻ niềm vui, nỗi buồn cùng người khác, dạy cho các em biết
cách nhận thức đúng đắn về mình, nhận biết về đối tượng giao tiếp, biết cách tiếp
cận với đối tượng giao tiếp và biết bày tỏ thái độ, quan điểm của mình bằng lời nói
cử chỉ, điệu bộ, nét mặt và bằng cả những việc làm khi cần thiết. Kỹ năng giao tiếp
giúp cho học sinh biết cách giải quyết những tình huống trong cuộc sống hàng
ngày, giúp các em nói những điều muốn nói, làm những việc nên làm, đồng thời
biết lắng nghe và thấu hiểu người khác, giúp các em tự tin, mạnh dạn hơn trong
cuộc sống.
Từ đó giúp các em có kỹ năng bày tỏ thái độ, quan điểm của mình trước các
vấn đề của cuộc sống, đặt ra trong các quan hệ ở gia đình, nhà trường và xã hội.
Đồng thời giúp các em biết nhìn nhận và đánh giá đúng về bản thân, trên cơ sở đó
có những biện pháp tự điều khiển, tự điều chỉnh cho phù hợp, và thích ứng được dễ
dàng với các quan hệ xã hội.
Nếu các em thiếu hoặc "nghèo nàn giao tiếp" sẽ có những khiếm khuyết
trong sự hình thành và phát triển nhân cách. Xuất phát từ vai trò của kỹ năng giao
tiếp đối với quá trình phát triển nhân cách học sinh địi hỏi nhà trường, giáo viên
cần có nhận thức đúng về kỹ năng giao tiếp và tiến hành giáo dục kỹ năng giao tiếp
cho học sinh dân tộc thiểu số.
1.2.2. Giao tiếp tạo nên giá trị sống tích cực
Giao tiếp và kĩ năng giao tiếp phản ánh trình độ văn hóa, trình độ giáo dục

của con người. Chính năng lực giao tiếp, kỹ năng giao tiếp của học sinh góp phần
tạo nên chất lượng giáo dục và đào tạo.
Phát triển kỹ năng giao tiếp là hướng tới giá trị văn hóa và giá trị sống tích
cực, sống hiệu quả của con người. Phát triển kỹ năng giao tiếp cho học sinh dân tộc
thiểu số sẽ giúp các em hướng tới giá trị sống tích cực, hành vi văn hóa ứng xử và
giá trị sống tích cực; đó là giá trị đạo đức, giá trị thẩm mỹ, giá trị về lịng khoan
dung, đức độ, giá trị về trí tuệ, sáng tạo.....
Nâng cao kỹ năng giao tiếp cho giữ vai trò rất to lớn trong việc bắt đầu tạo
nên hệ giá trị sống cho các em, giúp các em thể hiện được giá trị của bản thân vào
cuộc sống và từ đó, các em trưởng thành với một hệ thống giá trị tích cực bởi thành
quả của q trình giáo dục. Bên cạnh đó, việc giáo dục kỹ năng giao tiếp còn xây
6


dựng và tạo nên nét văn hóa trong nhà trường. Đó là văn hóa ứng xử và văn hóa
giao tiếp.
1.2.3. Giao tiếp giúp cho học sinh dân tộc tạo lập các mối quan hệ tốt đẹp trong
cuộc sống.
Một yếu tố ảnh hưởng rất lớn tới các mối quan hệ giao tiếp trong cuộc sống
là điều kiện sống, môi trường hoạt động của chủ thể. Nếu môi trường giao tiếp của
cá nhân được mở rộng thì đối tượng giao tiếp của họ sẽ cũng phong phú, đa dạng
hơn và ngược lại. Người sống ở miền núi thì phạm vi giao tiếp thường rất hẹp, chỉ
quang quẩn trong thơn, bản. Chính vì vậy đối với học sinh đồng bào dân tộc thiểu
số thì giao tiếp giúp cho các em học sinh trao đổi thông tin, tri thức trong học tập,
rèn luyện, chia sẻ các vấn đề trong cuộc sống... Nhờ có giao tiếp, học sinh biết
cách bày tỏ thái độ và quan điểm của mình trong quan hệ gia đình, nhà trường và
xã hội. Những tiếp xúc rộng rãi với bạn bè, quan hệ với các thầy cô giáo thông qua
việc học, sinh hoạt, vui chơi... mà các em đã xuất hiện nhu cầu giao tiếp, hình
thành các mối quan hệ xã hội mới trong lớp, trong trường. Yêu quý thầy cô, thân
thiết với bạn bè, chia sẻ, khám phá... đã làm cho các mối quan hệ của các em trở

thành rộng hơn, sinh động hơn.
Giao tiếp là một nhu cầu không thể thiếu của mỗi con người và có vai trị
quan trọng, tích cực trong hoạt động xã hội, trong hình thành và phát triển nhân
cách, tạo lập các mối quan hệ tốt trong cuộc sống. Nhờ có kỹ năng giao tiếp mà
con người có thể chung sống và hịa nhập trong một xã hội không ngừng vận động
và phát triển.
1.3. Phương tiện trong giao tiếp
Trong quá trình giao tiếp chúng ta phải sử dụng các phương tiện giao tiếp
khác nhau. Phương tiện giao tiếp là tất cả những yếu tố mà chúng ta sử dụng để
thể hiện thái độ, tình cảm, mối quan hệ, tâm lý trong hoạt động giao tiếp. Phương
tiện giao tiếp hết sức phong phú và đa dạng, có thể chia làm 2 nhóm: ngơn ngữ và
phi ngơn ngữ. Hai nhóm phương tiện giao tiếp này có mối quan hệ mật thiết với
nhau.
1.3.1. Phương tiện giao tiếp ngôn ngữ
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp chủ yếu của con người. Bằng ngơn ngữ
chúng ta có thể truyền đi bất cứ thơng tin nào như diễn tả tình cảm, ám chỉ hoặc
miêu tả sự vật….Hiệu quả giao tiếp ở chừng mực nào đó là do trình độ của người
sử dụng ngôn ngữ. Nếu việc diễn đạt ngôn ngữ rõ ràng, dễ hiểu, thích hợp với
người nghe, diễn đạt được tình cảm thái độ mà mình muốn thể hiện thì đạt được
mục đích giao tiếp. Việc sử dụng ngơn ngữ giao tiếp của cá nhân thể hiện được
thông tin chính về tính cách, trạng thái, đặc điểm tâm lý của cá nhân đó.
Khi sử dụng phương tiện giao tiếp bằng ngôn ngữ cần thể hiện sự thiện cảm
và phù hợp với khơng gian thì mới đem lại hiệu quả tích cực. Trong khi nói chúng
ta cần chú ý đến giọng điệu, ngữ điệu. Giọng điệu phản ánh được tính chân thật về
7


tình cảm, có thể động viên, khuyến khích tạo lập mối quan hệ tốt hoặc sự răn đe,
làm kìm hãm mối quan hệ. Chính vì vậy chúng ta cần rèn luyện ngôn ngữ để giao
tiếp.

1.3.2. Phương tiện phi ngôn ngữ
Phương tiện phi ngơn ngữ là phương tiện giao tiếp ngồi ngơn ngữ. Bên
cạnh phương tiện ngơn ngữ thì tín hiệu phi ngôn ngữ giúp cho đối tượng giao tiếp
cho đi rất nhiều thơng điệp ý nghĩa. Tín hiệu phi ngơn ngữ đó là những cử chỉ, điệu
bộ (nhún vai, chỉ tay, vẫy tay), ánh mắt, nụ cười, thái độ (ân cần, cởi mở, thân
thiện, thờ ơ, lãnh đạm,..), nheo mắt, tư thế. Chính vì vậy cử chỉ, điệu bộ… của con
người trong lúc nói chuyện đã nói lên một phần bản chất của câu chuyện được giao
tiếp.
Trong giao tiếp, cử chỉ, điệu bộ mang lại hiệu quả rất lớn. Đôi khi trong cuộc
sống giao tiếp, chúng ta sử dụng hai phương tiện giao tiếp cùng một lúc. Bên cạnh
đó có những vấn đề khó nói được bằng ngơn ngữ thì chúng ta sử dụng cử chỉ, điệu
bộ để thể hiện nội dung, vấn đề cần thể hiện. Cử chỉ, điệu bộ giúp chúng ta diễn
đạt vấn đề sinh động hơn, thuyết phục hơn.
1.4. Một số kĩ năng giao tiếp cơ bản
1.4.1. Kỹ năng giao tiếp qua lớp từ xưng hô
Khi giao tiếp hàng ngày, xưng hô là kỹ năng đầu tiên cần chú ý. Khi gặp một
người bạn cần có một cách nhìn nhận đánh giá nhanh về độ tuổi để xưng hơ hợp lý.
Khi đánh giá cần chính xác về độ tuổi, sẽ dễ dàng để xưng hô. Đối với những
người lớn tuổi hơn một chút có thể xưng hơ bằng anh, chị. Với những người lớn
tuổi hơn thì xưng hơ là chú, bác, o, gì. Với những người lớn tuổi hơn nữa thì có thể
xưng hơ thưa bà, ông, xưng cháu. Còn với những người đánh giá là ít tuổi hơn thì
xưng hơ là em. Nếu trong trường hợp đoán sai tuổi người giao tiếp, hãy khéo léo
sử dụng các câu mang tính chất vừa khen vừa bào chữa như: “Nhìn anh trẻ hơn so
với tuổi nên tơi…”, “Ồ, chị trẻ thật đấy, em cứ tưởng chị phải nhiều tuổi hơn…”,
“Xin lỗi anh, em cứ nghĩ chị sinh năm…”… Nhưng tuyệt đối đừng khiến người
nghe cảm thấy như đang nói mát hay mỉa mai họ. Mặc dù mỗi con người chúng ta
được giáo dục ngay từ lúc còn nhỏ, ngay khi bắt đầu biết nói. Song nhận thức về
mức độ hiểu biết và áp dụng vào thực tế cuộc sống nó lại khác nhau. Học sinh đi
học, được giáo viên giáo dục trong các tiết học, trong các hoạt động ngoài giờ lên
lớp. Nhưng hiệu quả cũng khác nhau.

1.4.2. Kỹ năng ứng xử
Ứng xử là một biểu hiện của giao tiếp, là sự phản ứng của con người trước sự
tác động của người khác với mình trong một tình huống nhất định được thể hiện
qua thái độ, hành vi, cử chỉ, cách nói năng của con người nhằm đạt kết quả tốt
trong mối quan hệ giữa con người với nhau.

8


Tuy nhiên hành vi ứng xử văn hóa của mỗi cá nhân là khác nhau, nó được
hình thành qua q trình học tập, rèn luyện và trưởng thành của mỗi cá nhân đó
trong một mơi trường gia đình và xã hội nhất định. Hành vi ứng xử văn hóa được
coi là các giá trị văn hóa, đạo đức, thẩm mỹ của mỗi cá nhân. Nó được biểu hiện
trong mối quan hệ với những người chung quanh, trong học tập, công tác, với bạn
bè và thậm chí ngay cả với chính bản thân mình.
II. THỰC TRẠNG KỸ NĂNG GIAO TIẾP CỦA HỌC SINH DÂN TỘC
THIỂU SỐ Ở TRƯỜNG THPT KỲ SƠN
2.1. Khái quát về thực trạng
2.1.1. Về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội
Kỳ Sơn là một huyện nằm trong 64 huyện nghèo, khó khăn nhất của cả
nước. Diện tích tự nhiên 209.484 ha, địa hình hiểm trở, đất bằng chỉ có 1% tổng
diện tích tự nhiên cịn lại là đất đồi núi có độ dốc trên 30 0. Huyện có đường biên
giới dài 203,409 km (trong đó có 65 km đường biên giới trên sông) tiếp giáp với 5
huyện thuộc 3 tỉnh Xiêng Khoảng, Hủa Phăn, Bô Ly Khăm Xay của nước Cộng
hòa Dân chủ nhân dân Lào; có Cửa khẩu quốc tế Nậm Cắn và nhiều lối mở qua
biên giới; tồn huyện có 21 xã, thị trấn, trong đó có 11 xã biên giới; có 172 bản
thuộc diện đặc biệt khó khăn. Tồn huyện có 20 xã, 01 thị trấn (trong đó có 11 xã
biên giới). Dân số tồn huyện (đến tháng 8/2018): 79.111 người. Trong đó: dân tộc
Khơ mú có 28.697 người, chiếm 36,3%; dân tộc Mơng có 26.166 người, chiếm
33,1%; dân tộc Thái 20.781 người, chiếm 26,3%; dân tộc Kinh và Hoa có 3.428

người, chiếm 4,3%. Tổng số hộ: 16.175 hộ, trong đó có 56,03% hộ nghèo. Số bản
có điện lưới quốc gia: 94/193 bản (chiếm 48,7%).
Với những nét khái quát về tự nhiên, với điều kiện kinh tế thấp, trình độ dân
trí khơng cao, chịu ảnh hưởng nhiều về phong tục, tập quán của người dân tộc, mà
lối sống và quan hệ giao tiếp cũng có những nét riêng biệt. Họ sống thật thà, chất
phác, tự nhiên... trong mối quan hệ không rộng, hạn hẹp trong làng bản thưa thớt,
thậm chí trong một vài gia đình sống gần nhau. Quan hệ giao tiếp về cơ bản chịu
sự chi phối của tình cảm làng bản, tình bà con thân thuộc. Họ ln đồng cảm, đồng
lịng, xuề xòa và sẵn sàng chia sẻ. Do những đặc tính này mà người dân tộc ít va
chạm và ngại va chạm, ngại ngùng trong quan hệ xã hội. Như vậy điều đó đã cho
thấy những ảnh hưởng, tác động to lớn của môi trường và điều kiện sống tới sự
hình thành và phát triển nhân cách, tạo nên những đặc điểm tâm lý đặc trưng của
con người trong từng dân tộc. Đó cũng là những điều kiện cần chú ý trong công tác
giáo dục, trong dạy học hiện nay sao cho phù hợp và có những giải pháp cụ thể để
giáo dục học sinh nơi đây phát triển toàn diện hơn, trong đó có giáo dục kỹ năng
giao tiếp cho học sinh nói chung và học sinh dân tộc thiếu số nói riêng một cách có
hiệu quả.
2.1.2. Khái quát về trường THPT Kỳ Sơn và học sinh.
* Về nhà trường
9


Tháng 7 năm 1967 với tên gọi “trường Thanh thiếu nhi Rẻo Cao Kỳ Sơn”,
trường được xem như là ngôi nhà chung của con em các đồng bào dân tộc thiểu số
Kỳ Sơn.
Năm học 1973 - 1974: trường có đầy đủ 3 cấp học (bắt đầu có một lớp 10
gồm 19 HS ). Số học sinh ngày càng đông thêm, để phù hợp cho công tác quản lý,
năm 1975 UBND tỉnh Nghệ Tĩnh đã ra Quyết định tách hệ cấp 1 ra khỏi trường và
thành lập trường Phổ thông Cấp 3 Rẻo cao Kỳ Sơn. gồm Cấp 2 và cấp 3. Số lượng
học sinh trong những năm 1975 – 1990 tốc độ phát triển chậm, gần như chững lại

do phong tục lạc hậu của người dân tộc không cho phụ nữ đến trường.
Từ sau 1995 học sinh tăng đều từ 15 – 20% so với năm trước. Sở dĩ có sự
tăng số học sinh ở giai đoạn này là do số học sinh Mông đến trường ngày một tăng,
đặc biệt là học sinh nữ. Đây chính là thành cơng to lớn mà biết bao năm trời thầy
cô vận động, khuyến khích mới làm thay đổi được cách nhìn về giáo dục của người
dân vùng cao.
Phát triển nhanh về quy mô lớp học, sự cần thiết của việc tách các cấp học.
Tháng 9 năm 2000, UBND tỉnh Nghệ An quyết định tách trường thành hai cấp và
đổi tên thành trường THPT DTNT Kỳ Sơn.
Tháng 8 năm 2013 theo quyết định của UBND tỉnh học sinh nội trú cấp 3
được tập trung về trường nội trú tỉnh, trường chính thức đổi tên thành trường
THPT Kỳ Sơn.
* Về học sinh
Số học sinh dân tộc thiểu số qua các năm học đều đạt hơn 94% trở lên. Với
trọng trách lớn lao, cao cả là đào tạo các thế hệ học sinh chủ yếu là người dân tộc
thiểu số trưởng thành, là nguồn nhân lực vừa có tri thức vừa có sức khỏe để xây
dựng quê hương Kỳ Sơn ngày càng tiến bộ và phát triển.
Năm học 2020–2021 vẫn giữ mức tương đối ổn định so với các năm học
trước là 1303 học sinh. Trong đó, học sinh dân tộc thiểu số 1233 học sinh chiếm
hơn 94,6% học sinh toàn trường. Tổng số lớp là 39. Số học sinh dân tộc thiểu số
được phân bổ theo từng khối lớp cụ thể như sau: khối 10 có 483/519 học sinh, khối
11 có 391/407 học sinh, khối 12 có 359/377 học sinh. Về cơ cấu dân tộc, số lượng
học sinh dân tộc chủ yếu là: H’mông: 492 em; dân tộc Khơ mú: 330 em; Thái:
409 em; Hoa: 1 em; Kinh: 70 em. Nhiều nhất là dân tộc H’mơng. Về giới tính, tỷ lệ
học sinh nam nhiều hơn học sinh nữ từ 15% đến 20%, do nhận thức yếu kém cùng
quan niệm “hủ tục” của dân tộc nên một số em bỏ học lấy chồng(tảo hơn), một số
thì bỏ đi Lào, đi Trung quốc. Đây được xem là vấn đề nhức nhối cho cả xã hội trên
địa bàn Kỳ sơn trong những năm qua.
2.2. Tổ chức điều tra khảo sát
2.2.1. Mục tiêu khảo sát


10


Nhằm đánh giá đúng thực trạng khách quan kỹ năng giao tiếp của học sinh
dân tộc thiểu số thiểu số của Trường THPT Kỳ Sơn, chỉ ra nguyên nhân dẫn tới
thực trạng và rút ra kết luận có tính khái quát.
2.2.2. Phương pháp điều tra khảo sát và xử lí kết quả
Đề tài sử dụng phương pháp điều tra bằng alket kết hợp với phương pháp
phỏng vấn, trò chuyện và quan sát hoạt động của các em học sinh để tường minh
thực trạng.
2.3. Thực trạng kỹ năng giao tiếp của học sinh dân tộc thiểu số ở trường
THPT Kỳ Sơn.
2.3.1. Thực trạng về kỹ năng giao tiếp của học sinh qua đánh giá của cán bộ,
giáo viên nhà trường.
Trong thực tế cho thấy, để giao tiếp thành công và hiệu quả mỗi học sinh cần
có kỹ năng giao tiếp. Kỹ năng giao tiếp khơng tự có mà được hình thành trong quá
trình trải nghiệm cuộc sống, trong học tập và giao lưu. Hoạt động giáo dục kỹ năng
giao tiếp cho học sinh cũng đã được giáo viên yêu nghề, tận tụy với công việc, tâm
huyết với chuyên môn trong nhà trường chăm lo thường xun. Tuy nhiên cịn có
nhiều giáo viên cịn gặp khó khăn trong việc tìm ra biện pháp rèn luyện kỹ năng
giao tiếp cho học sinh nói chung và HSDTTS nói riêng. Một số giáo viên chỉ chú
trọng công tác giảng dạy truyền thụ kiến thức cho các em mà không quan tâm đến
việc rèn luyện kỹ năng giao tiếp. Nếu nói rằng thầy cơ khơng quan tâm đến việc
dạy rèn kỹ năng giao tiếp là không đúng, nhưng việc này rất hạn chế, nhất là việc
lồng ghép vào trong tất cả các môn học cũng như lồng ghép vào các hoạt động
ngoại khóa, ngồi giờ lên lớp...thì giáo viên cịn mơ hồ, chưa nắm rõ các biện
pháp. Đặc biệt trong một lớp có nhiều thành phần dân tộc thì có sự nhận thức khác
nhau nên hiệu quả giao tiếp cũng có sự khác nhau giữa các đối tượng học sinh này.
Để đánh giá thực trạng trên, chúng tôi đã tiến hành khảo sát trên 50 giáo viên và

nhân viên trong nhà trường về mức độ nhận thức, kỹ năng giao tiếp của học sinh
dân tộc thiểu số của trường. Qua khảo sát đề tài đã thu được kết quả như bảng như
sau.
Bảng 2.1. Nhận thức về mức độ cần thiết của các kỹ năng giao tiếp đối với học
sinh dân tộc thiểu số của trường THPT Kỳ Sơn.
Câu hỏi 1: Theo thầy/cô, những kỹ năng giao tiếp nào sau đây là cần thiết đối với
học sinh DTTS của Trường THPT Kỳ Sơn?
ST
T

Những kỹ năng cần thiết Rất cần Cần
đối với học sinh dân tộc thiết(% thiết
thiểu số của trường.
)
(%)

Đơi
khi
(%)

Khơng
cần thiết

1

Chào hỏi

95,0

5,0


0

0

2

Nói lời cảm ơn, xin lỗi

92,4

7,6

0

0

(%)

11


3

Lắng nghe

96,3

3,7


0

0

4

Chia sẻ, cảm thơng

68,4

27,8

3,8

0

5

Thuyết trình

86,3

11,0

2,7

0

6


Làm việc hợp tác

77

20

2

0

7

Xử lý tình huống

67,5

25,5

7

0

8

Nói lời u cầu đề nghị

85,6

12,2


2,2

0

9

Từ chối u cầu đề nghị

80,2

15,2

4,6

0

Qua kết quả khảo sát cho thấy, theo nhận thức và đánh giá của giáo viên,
công nhân viên trong nhà trường thì tất cả các kỹ năng giao tiếp đều ở mức độ rất
cần thiết và cần thiết. Kỹ năng Chào hỏi (95,0%), Nói lời cảm ơn, xin lỗi (92,4%),
Lắng nghe (96,3%), Cảm thơng chia sẻ (68.4%), Thuyết trình (86,3%), Làm việc
hợp tác (77,0%), Xử lý tình huống (67,5%), Nói lời yêu cầu đề nghị (85,6%), Từ
chối yêu cầu đề nghị ( 80,2%). Những kỹ năng giao tiếp đó vơ cùng cần thiết bởi vì
nó có ý nghĩa quan trọng trong q trình trao đổi thơng tin, chia sẻ cảm xúc, giúp
học sinh biết bộc lộ bản thân và cảm nhận về mình cũng như người khác.
Như vậy, giáo viên, nhân viên trong nhà trường có sự nhìn nhận đánh giá rất
cao sự cần thiết của những kỹ năng giao tiếp đối với học sinh DTTS, trong trường
phải có những kỹ năng giao tiếp cơ bản. Chính vì sự nhận thức rất cần thiết về kỹ
năng giao tiếp đối với học sinh DTTS của trường nên tôi đã tiến hành khảo sát thực
trạng mà cán bộ, giáo viên, công nhân viên trong nhà trường đã tiến hành giáo dục
kỹ năng giao tiếp cho học sinh dân tộc thiểu số của trường THPT Kỳ Sơn như sau.

Bảng 2.2. Biện pháp giáo dục kỹ năng giao tiếp cho học sinh dân tộc thiểu số
trường THPT Kỳ Sơn.
Câu hỏi 2: Các biện pháp nào sau đây được thầy/cô tiến hành giáo dục kỹ
năng giao tiếp cho học sinh DTTS của trường THPT Kỳ Sơn?
Thườn Đơi
g xun khi

Khơng
thường
xun

ST
T

Biện pháp

1

Tích hợp nội dung bài học với nội
48,3
dung giáo dục kỹ năng giao tiếp

51,7

0

2

Xây dựng các bài tập thực hành để rèn
47,6

kỹ năng giao tiếp cho học sinh

52,4

0

3

Tăng cường mối quan hệ tương tác 59,8
giữa giáo viên với học sinh, học sinh

40,2

0

12


với học sinh.
4

Tạo môi trường tập luyện rèn luyện kỹ
45,7
năng giao tiếp cho học sinh

5

Các biện pháp khác

54,3


0

Qua bảng thống kê ta thấy, vận dụng các biện pháp giáo dục kỹ năng giao
tiếp đã được những giáo viên tâm huyết, nhiệt tình quan tâm sử dụng nhưng cơ bản
chưa cao: Tích hợp nội dung bài học với nội dung giáo dục kỹ năng giao tiếp
mới chỉ (48,3%), trong khi đó thỉnh thoảng được đưa vào chiếm (51,7%). Xây
dựng các bài tập thực hành để rèn kỹ năng giao tiếp cho học sinh (47,6%), Tăng
cường mối quan hệ tương tác giữa giáo viên với học sinh, học sinh với học sinh
(59,8%). Tạo mơi trường tập luyện chỉ chiếm (45,7%). Bởi vì nhiều giáo viên quan
niệm và lo tập trung thực hiện mục tiêu, nội dung chương trình nên khơng cịn thời
lượng để tiến hành giáo dục kỹ năng cho các em thực hiện thường xuyên, liên tục
được.
Bảng 2.3. Thực trạng kỹ năng giao tiếp của học sinh dân tộc thiểu số qua đánh
giá của cán bộ, giáo viên, công nhân viên trường THPT Kỳ Sơn
Câu hỏi 3: Thầy cô đánh giá về kỹ năng giao tiếp của HSDTTS của trường THPT
Kỳ Sơn như thế nào qua các tiêu chí sau?

STT Kỹ năng giao tiếp

Mức độ có hay
chưa có kỹ năng
Có kỹ Chưa có
năng
kỹ năng

1

Chào hỏi: Tự chủ, tự tin, ngơn ngữ rõ ràng, mạch
lạc, chào hỏi đúng lúc, đúng chỗ, phù hợp với hồn 56,6

cảnh.

43,4

Nói lời cảm ơn xin lỗi: Tự tin cảm ơn khi nhận
2

được sự giúp đỡ của người khác, mạnh dạn xin 52,3
lỗi khi làm phiền người khác

47,7

3

Lắng nghe: Lắng nghe người khác khi trao đổi
57,5
thông tin, hiểu nội dung họ cần truyền đạt với mình

42,5

4

Chia sẻ, cảm thông: Biết chia sẻ buồn vui cùng cha
mẹ, thầy cô, bạn bè và những người xung quanh 48,9
vv..

51,1

5


Thuyết trình: Biết cách trình bày một vấn đề trước 56,2

43,8
13


tập thể rõ ràng, mạch lạc, tự tin.
6

Làm việc hợp tác: Biết làm việc cùng người
48,4
khác, biết chia sẻ thông tin, phối hợp hành động.

51,6

7

Xử lý tình huống: Linh hoạt, sáng tạo trong giải
33,0
quyết vấn đề mà tình huống đặt ra.

67,0

8

Nói lời yêu cầu đề nghị: Mạnh dạn nói lời u
cầu đề nghị, ngơn ngữ trình bày phải rõ ràng, mạch 47,5
lạc.

52,5


9

Từ chối yêu cầu đề nghị: Biết từ chối lời yêu cầu
45,0
đề nghị của người khác khi thấy không hợp lý.

55,0

Qua bảng khảo sát chúng tôi nhận thấy tất cả các kỹ năng giao tiếp: Kỹ năng
chào hỏi, kỹ năng nói lời cảm ơn xin lỗi, lắng nghe, chia sẻ cảm thơng, thuyết
trình, làm việc hợp tác, xử lý tình huống, nói lời u cầu đề nghị và từ chối yêu cầu
đề nghị,…đều là những kỹ năng rất cần thiết đối với một học sinh phát triển toàn
diện. Nhưng qua bảng số liệu chúng ta nhận thấy rằng: Các em HSDTTS của
trường có những kỹ năng đó song chiểm tỉ lệ thấp. Cán bộ, giáo viên, công nhân
viên trong nhà trường đánh giá là kỹ năng chào hỏi chỉ đạt được (56,5%), kỹ năng
nói lời cảm ơn xin lỗi (52,3%), kỹ năng lắng nghe chỉ có (57,5%)…Cịn một số kỹ
năng rất cần thiết cho một người học sinh cần phải có trong xu thế học tập hiện nay
cũng rất thấp, như kỹ năng thuyết trình chỉ có (36,2%), kỹ năng xử lý tình huống
chỉ có (33,0%), kỹ năng nói, từ chối lời yêu cầu đề nghị cũng rất thấp chỉ có
(47,2%) và (45,0%).
Nguyên nhân của thực trạng này là do bản tính nhút nhát rụt rè, khơng dám
giao tiếp, khơng muốn thể hiện. Các em cứ nghĩ nói ra sẽ bị sai, nhiều từ ngữ các
em phát âm chưa rõ.....sẽ bị các bạn khác chê cười. Một phần do các em học sinh
dân tộc học chung lớp với học sinh người kinh nên trong những tiết học thì học
sinh người kinh hầu như đã làm việc hết. Nếu như thảo luận nhóm thì học sinh
người kinh nhanh nhạy hơn nên sẽ đưa ra ý kiến nhanh hơn nên các em học sinh
dân tộc chưa có thời gian để đưa ra ý kiến. Cứ như vậy mà các em dân tộc ỉ lại vào
các em người kinh, để rồi bản tính nhút nhát, rụt rè, lười tư duy, lười làm việc,…cứ
thế mà tồn tại trong bản thân.

2.3.2. Thực trạng kỹ năng giao tiếp của học sinh dân tộc thiểu số ở Trường
THPT Kỳ Sơn
Kỹ năng giao tiếp của con người trong xã hội bao gồm kỹ năng lắng nghe,
thấu hiểu, chia sẻ, kỹ năng nhận và truyền tải thông tin, kỹ năng biểu đạt thái độ và
cử chỉ hành vi phi ngôn ngữ, kỹ năng tự nhận thức về bản thân, kỹ năng từ chối lời
yêu cầu đề nghị của người khác, kỹ năng thương lượng và xử lý tình huống, kỹ
năng hợp tác, kỹ năng chào hỏi, nói lời cảm ơn xin lỗi, kỹ năng thiết lập mối quan
14


hệ với đối tượng vv... còn trong đề tài này tơi chỉ tập trung đi sâu tìm hiểu nghiên
cứu một số kỹ năng giao tiếp cơ bản, sát thực với đối tượng là các em HSDTTS
trường THPT Kỳ Sơn. Cụ thể một số kỹ năng hướng đến là: Kỹ năng giao tiếp qua
lớp từ xưng hô, Kỹ năng chào hỏi, Kỹ năng nói lời cảm ơn, xin lỗi, Kỹ năng trật tự
lắng nghe, Kỹ năng cảm thông chia sẻ, Kỹ năng thuyết trình trước đám đơng, Kỹ
năng làm việc hợp tác, Kỹ năng xử lý tình huống.
2.3.2.1. Kĩ năng giao tiếp qua lớp từ xưng hô
Từ ngữ xưng hô trong tiếng Việt rất phong phú và phức tạp. Cuộc giao tiếp
sẽ trở nên tốt đẹp nếu chúng ta tuân thủ các yêu cầu của chuẩn mực giao tiếp như
lịch sự, lễ phép, đúng mực, đúng vai giao tiếp, đúng hoàn cảnh và tuân theo những
ước định, chế định của xã hội và có tính khn mẫu trong văn hóa người Việt.
Từ ngữ xưng hô của người Việt Nam phân biệt rõ ràng giữa mối quan hệ của
người lớn tuổi và người nhỏ tuổi, người có anh em ruột thịt với người ngoài xã hội,
giữa bạn bè với bạn bè, giữa người có địa vị xã hội cao với người có địa vị xã hội
thấp hơn,…Khi chúng ta nhận thức đúng về lớp từ xưng hơ thì chúng ta sẽ sử dụng
nó phù hợp với đối tượng và hồn cảnh giao tiếp. Lúc đó, cuộc giao tiếp của chúng
ta sẽ thành cơng hơn. Nhưng điều này tơi vẫn cịn trăn trở, băn khoăn tại ngơi
trường chúng tơi đang dạy học. Vì chúng tôi thấy, kỹ năng sử dụng từ ngữ xưng hơ
khơng khó, song điều này lại khó đối với chính các em học sinh cũng như người
dân tộc thiểu số nơi đây, đặc biệt là các em đầu năm lớp 10 mới từ trong bản ra.

Ví dụ: Nhiều phụ huynh đến trường nói chuyện với giáo viên hay bất kỳ một người
lớn tuổi nào vẫn cứ tự xưng “bố”..., trò đến trường nói chuyện với thầy hay với bất
kỳ ai vẫn cứ xưng “ta” hoặc các em để trống...các em đi tới gặp ai thì chỉ biết chào
khi gặp đúng người đó, nếu gặp người khác ở cùng phịng các em cũng chẳng biết
chào hay xưng hô thế nào cho phù hợp.
Để tìm hiểu về thực trạng này, chúng tơi đã tiến hành khảo sát đối với 200
HSDTTS gồm các lớp: 11C1, 11C2, 10C3;12A1; 11A2; 11A3; 12A4 được kết quả:
Bảng 2.4: Khảo sát kỹ năng sử dụng lớp từ xưng hô của học sinh người dân
tộc thiểu số của trường THPT Kỳ Sơn
Câu hỏi 4: Các em dùng những cách xưng hô nào với bạn bè cùng lứa tuổi?
Thường xuyên

Thỉnh thoảng

Không bao giờ

(%)

(%)

(%)

38,5

52,6

8,9

tau – mi


76,4

21,3

2,3

Xưng tên

83,8

16,2

0,0

Cặp từ xưng hô
tôi – bạn
(cậu – tớ)

15


Xưng bằng tiếng
68,6
dân tộc mình

31,4

0,0

Từ bảng số liệu trên ta thấy: khi xưng hô với nhau, các em chủ yếu sử dụng

cách gọi tên nhau (83,8%), xưng hô với nhau bằng tiếng dân tộc mình (tiếng mẹ
đẻ) (68,6 %) và xưng hô với nhau (Mi – Tau) rất nhiều, chiếm (76,4%). Nhưng tỉ lệ
xưng hô lịch sự (tôi – bạn, cậu – tớ) lại rất ít, chỉ chiếm (38,5%) thường xuyên sử
dụng. Qua đó, ta thấy sử dụng lớp từ xưng của các em học sinh cùng lứa tuổi với
nhau ở trường THPT Kỳ Sơn chưa được tốt. Mặc dù, chúng ta chấp nhận cách
xưng hô bằng tiếng mẹ đẻ, xưng hô với nhau bằng tên rất tốt. Song các em ít khi sử
dụng cách xưng hơ lịch sự, đúng mực (Bạn – tôi, cậu tớ). Điều này, mặc dù các em
đã được giáo dục trong môi trường học tập và cả mơi trường ở nhà và ngồi xã hội.
Hơn nữa, các em thường xuyên sử dụng cách xưng hô (Tau – mi). Xưng hô (tau –
mi) ngay cả khi họ có mối quan hệ tốt đẹp, khơng mâu thuẫn khi giao tiếp. Qua đó,
chúng ta cần nhìn nhận lại và cần có những hướng khắc phục cụ thể để giáo dục
các em có những kỹ năng sử dụng lớp từ xưng hô cho phù hợp hơn.
2.3.2.2. Kỹ năng giao tiếp qua thái độ ứng xử
2.3.2.2.1. Kỹ năng chào hỏi
Chào hỏi là nghi thức cơ bản và được sử dụng phổ biến nhất trong các nghi
thức giao tiếp. Chào người quen, chào người muốn làm quen, thậm chí là người lạ,
người dưng vẫn chào hỏi nhau. Chào hỏi giúp chúng ta thu hút sự chú ý, bắt đầu
quá trình giao tiếp, rút ngắn khoảng cách với đối tác giao tiếp và tạo bầu khơng khí
cho cả q trình giao tiếp. Chào hỏi nhiều khi chỉ đi qua, cất lên một lời nói, thể
hiện một cử chỉ, là cái gật đầu. Nhưng kỹ năng cơ bản này vẫn còn tồn tại ở học
sinh dân tộc thiểu số của trường THPT Kỳ Sơn. Nhiều khi, các em học sinh người
dân tộc thiểu số đi qua các em, bạn, anh chị trong trường khơng biểu lộ một thái
độ gì, chỉ dửng dưng đi qua. Thậm chí, khi gặp giáo viên giảng dạy trong trường,
không biết chào, không biết thể hiện thái độ chào người lớn. Khi nghe tiếng cịi xe
máy, các em khơng biết tránh đường, nhường đường cho người khác, không biết
nở một nụ cười với người khác.
Để nắm rõ tình hình này, tơi đã có cuộc khảo sát đối với 200 học sinh DTTS
gồm các lớp 11C1, 11C2, 10C3;12A1; 11A2; 11A3; 12A4 như sau:
Bảng 2.5: Thực trạng kỹ năng chào hỏi của học sinh dân tộc thiểu số của
trường THPT Kỳ Sơn

Câu hỏi 5: Khi gặp giáo viên, người lớn các em thường:
Tiêu chí

Tỉ lệ (%)

Lễ phép, chào hỏi

35,7

Đi qua bình thường

35,2
16


Tránh để khỏi chào

29,1

Từ kết quả khảo sát chúng ta nhận thấy kĩ năng chào hỏi của HSDTTS đối
với giáo viên, người lớn trong nhà trường và ngoài xã hội chưa tốt: Kỹ năng chào
hỏi đúng chuẩn mực chỉ chiếm (35,7%), tỉ lên học sinh đi qua bình thường chiếm tỉ
lệ (35,2%), thậm chí cịn có tình trạng học sinh thờ ơ hay tránh xa để khỏi phải
chào chiếm tỉ lệ (29,2%). Qua đó cho thấy kỹ năng chào hỏi của học sinh đồng bào
DTTS của trường còn nhiều hạn chế. Đó là những kỹ năng cơ bản nhất, tối thiểu
nhất thể hiện phép lịch sự, thể hiện sự kính trọng thầy cơ giáo, người lớn trong và
ngồi nhà trường. Đó cũng là một trong những tiêu chí để đánh giá một con người.
Một thực trạng mà chúng ta cần có những biện pháp sát thực hơn để tăng kỹ năng
chào hỏi cho HSDTTS của trường.
2.3.2.2.2. Kỹ năng nói lời cảm ơn, xin lỗi

Cám ơn và xin lỗi là một biểu hiện văn hóa, là thái độ văn minh, lịch sự
trong quan hệ xã hội. Lời cảm ơn và xin lỗi khi được nói một cách chân thành,
chẳng những phản ảnh phẩm chất văn hóa mà cịn làm cho mọi người xích lại gần
nhau hơn. Lời cảm ơn hay lời xin lỗi không chỉ đem niềm vui tới người nhận,
chúng còn giải tỏa những khúc mắc, làm dịu đi những cơn nóng giận, và con người
cũng nhờ đó mà sống vị tha hơn. Trong cuộc sống, để nói “xin lỗi” hay “cảm ơn”
hồn tồn khơng phải là một việc q khó khăn. Thế nhưng những từ ngữ rất đỗi
gần gũi và bình dị ấy lại khó khăn đối với những HSDTTS của trường THPT Kỳ
Sơn. Ví dụ: Khi các em cho bạn mượn sách. Bạn cứ thế là lấy dùng mà khơng biết
nói cảm ơn đối với em cho mượn. Khi các em đi học trễ, ảnh hưởng đến thi đua
lớp. Các em khơng biết nói lời xin lỗi. Ngay cả khi được cô giáo nhắc nhở, các em
cũng chỉ biết im lặng.
Bảng 2.6: Khảo sát thực trạng kỹ năng nói lời cảm ơn, xin lỗi của học sinh
trường THPT Kỳ Sơn
Câu hỏi 6: Các em sử dụng lời nói cảm ơn, xin lỗi như thế nào?
Tiêu chí

Tỉ lệ (%)

Thường xuyên

20

Thỉnh thoảng

45

Không bao giờ

35


Qua bảng khảo sát cho thấy, học sinh người đồng bào DTTS ở trường việc
nói lời cảm ơn, xin lỗi thường xuyên chỉ chiếm 20%, thỉnh thoảng sử dụng chiếm
(45%), thậm chí, có cả những học sinh chưa bao giờ biết nói lời cảm ơn, xin lỗi
(35%). Đây là kỹ năng cần thiết thể hiện sự biết ơn từ người khác, khi nhận thấy
những việc làm sai trái của bản thân. Mặc dù, từ lúc đi học trường mầm non, đến
tiểu học, và ngay cả môi trường giáo dục trung học thầy cô luôn luôn dạy dỗ, giáo
17


dục những kỹ năng đó. Mặc dù, kỹ năng đó HSDTTS nhận thức được, hiểu được,
nhưng vẫn không thực hiện trong khi giao tiếp của bản thân mình. Một mặt do tính
tình khơng thích, thấy khơng cần thiết. Mặt khác, do người thân trong gia đình ít sử
dụng với nhau nên tạo thành thói quen ở các em HSDTTS. Vậy nên, chúng ta cần
phải hướng dẫn, giáo dục sát sao hơn để các em có những lời nói cảm ơn, xin lỗi
thường xuyên hơn, phù hợp hơn.
2.3.2.2.3. Kỹ năng trật tự lắng nghe
Lắng nghe là cả một nghệ thuật. Đó khơng chỉ đơn thuần là nghe qua. Nó
địi hỏi người nghe phải biết chủ động trong buổi nói chuyện cũng như biết cách
kết hợp một số kỹ năng và kỹ thuật nhất định. Kỹ năng lắng nghe đó là lắng nghe
người khác khi trao đổi thông tin, hiểu nội dung họ cần truyền đạt với mình.
Nhưng trong cuộc sống, chỉ là nghe đơn thuần thì rất dễ, nhưng nghe để hiểu, để
đáp lại, để chủ động trong cuộc giao tiếp thì điều đó rất khó. Điều đó sẽ khó khăn
hơn đối với HSDTTS. Đối với một số em nhiều lúc vẫn im lặng, khơng cãi cũng
chẳng nói câu nào trong cả buổi học nhưng khi hỏi lại vấn đề thì chẳng biết là thầy
cơ đã nói gì. Để tìm hiểu thực trạng này của trường, chúng tôi đã tiếp tục có cuộc
khảo sát đối với 200 HSDTTS như sau:
Bảng 2.7: Thực trạng kỹ năng lắng nghe của học sinh dân tộc thiểu số của
trường THPT Kỳ Sơn.
Câu hỏi 7: Khi nghe người khác giao tiếp với mình, các em thường có thái độ như

thế nào?
Khơng
Thường
thường
xun
xun
(%)
(%)

Chưa
thực
hiện

81,8

15,1

2,9

Hiểu nội dung lời nói của người giao tiếp
55,3
với mình rồi mới đáp lại ý kiến

36,1

8,6

Có thể cắt ngang ý kiến của người giao
15,5
tiếp với mình khi cần thiết.


51,5

33,0

Khơng quan tâm đến người giao tiếp với
15,9
mình mà chỉ quan tâm mình định nói gì

44,5

39,6

Tiêu chí

Lắng nghe người giao tiếp với mình nói

(%)

Từ kết quả trên cho thấy đa số HSDTTS đã biết lắng nghe người khác giao
tiếp với mình (81,8%) các em thường xuyên lắng nghe người giao tiếp với mình;
có 55,3 % các em thường xuyên hiểu nội dung lời nói của người giao tiếp với mình
rồi mới đáp lại ý kiến. Nhưng chỉ có 15,5 % học sinh có thể cắt ngang ý kiến của
18


người giao tiếp bất kỳ khi nào muốn. Có 15,9% các em thường xuyên không quan
tâm đến người giao tiếp với mình mà chỉ quan tâm mình định nói gì. Như vậy, về
cơ bản HSDTTS của trường đã biết lắng nghe khi giao tiếp với người khác. Song
khi lắng nghe thì HSDTTS chưa biết thể hiện chứng kiến của mình khi muốn nói

một điều gì đó. Có nghĩa là chưa chủ động khi giao tiếp. Thậm chí nhiều em học
sinh lớp 10 mới vào nói tiếng phổ thơng cũng chưa rõ, nghe nhiều từ cũng không
kịp hiểu nên các em đó rất thụ động. Nếu các em chưa chủ động khi giao tiếp thì
hiệu quả giao tiếp sẽ khơng cao. Các em sẽ không hiểu hết những nội dung mà
người khác nói. Có những nội dung chưa hiểu các em khơng dám hỏi, khơng dám
có ý kiến. Cụ thể, trong các giờ học, giáo viên giảng có những vấn đề các em
không hiểu. Nhưng các em không hỏi giáo viên, các em cũng không hỏi các bạn
học sinh khác. Để rồi dẫn tới việc các em sẽ không hiểu bài học, nên hổng kiến
thức dẫn đến các em chán học.
2.3.2.2.4. Kỹ năng, cảm thông chia sẻ
Kỹ năng chia sẻ là biết chia sẻ buồn vui cùng cha mẹ, thầy cô, bạn bè và
những người xung quanh… Khi chúng ta san sẻ yêu thương, san sẻ niềm vui hay
cùng đồng cảm với nhau trong những nỗi buồn, giúp nhau vượt qua khó khăn thì
chúng ta sẽ nhận lại được rất nhiều thứ. Dù nó khơng phải là những thứ hiển nhiên
nhưng ít nhất bản thân mình sẽ cảm thấy an ủi và vui vẻ hơn. Nhưng để bộc lộ nỗi
lòng, để san sẻ u thương, nỗi buồn thì khơng phải ai cũng thể hiện được điều đó.
Đây cũng là một thực trạng đối với HSDTTS của trường.
Để hiểu được thực trạng đó, tơi đã có cuộc khảo sát đối 200 HSDTTS gồm
các lớp: 11C1, 11C2, 10C3;12A1; 11A2; 11A3; 12A4 được kết quả:
Bảng 2.8: Thực trạng kỹ năng chia sẻ của HSDTTS trường THPT Kỳ Sơn
Câu hỏi 8: Khi có chuyện vui, buồn bạn sẽ chia sẻ với ai?
Kỹ năng chia sẻ

Tỉ lệ (%)

Người thân trong gia đình

38,6

Thầy cơ


10,2

Bạn bè

51,2

Qua bảng khảo sát cho thấy, HSDTTS của trường biết chia sẻ những thơng
tin cần thiết với người thân trong gia đình, với cha mẹ, anh chị em, nhưng chưa cao
(chỉ chiếm 38,6%), chia sẻ thơng tin với bạn bè (51,2%), cịn với thầy cơ chỉ có
(10,2%). Qua đó, thấy rằng, mặc dù là cha mẹ, gần gũi thân thiết với các em trong
gia đình, nhưng các em có một khoảng cách. Các em không muốn tâm sự với cha
mẹ, anh chị em. Các em sợ cha mẹ không hiểu, sợ cha mẹ qt mắng. Khơng có sự
đồng cảm từ người lớn. Nhất là những chuyện liên quan đến tình cảm thì tuyệt đối
các em khơng tâm sự với gia đình. Những bạn bè đồng trang lứa, cùng lớp, cùng
bản thì sẵn sàng tâm sự. Các em tìm thấy sự đồng cảm cho nhau. Còn đối với thầy
19


cơ giáo, thì các em khơng giám nói. Bởi vì giữa thầy cơ và các em có một khoảng
cách q xa, các em sợ thầy cô. Chỉ khi thấy thầy cơ nào thật gần gũi, tin tưởng thì
mới tâm sự, chia sẻ. Như vậy, khi các em HSDTTS hạn chế trong việc tâm tư, chia
sẻ với người lớn trong gia đình, với thầy cơ giáo. Nếu khơng có được sự chia sẻ từ
các em thì người lớn trong gia đình, thầy cơ ít có điều kiến để hiểu, để tâm tư, động
viên các em. Thậm chí một số giáo viên không quan tâm đến sự tiến bộ của các
em, không hiểu đặc điểm tâm lý sẽ liệt kê những em đó vào loại học sinh “lầm lỳ”,
“khó bảo”, “cá biệt”...vơ tình đẩy các em co mình lại, lạc lõng, chán nản trong học
tập và các hoạt động vui chơi của lớp. Nên khoảng cách đó càng xa dần, đẩy các
em lại gần hơn các tật xấu khác và việc giáo dục các em học sinh DTTS càng khó
khăn hơn. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến hiện

tượng nhiều nữ sinh DTTS bỏ học lấy chồng, đi Lào, đi Trung quốc đang gây bức
xúc cho xã hội bấy lâu nay. Đặc biệt là việc bán bào thai cho Trung quốc của nữ
dân tộc Khơ mú đã và đang là điểm nóng tại Kỳ Sơn.
2.3.2.2.5. Kỹ năng thuyết trình trước đám đơng
Kỹ năng thuyết trình trước đám đơng đó là biết cách trình bày một vấn đề
trước tập thể rõ ràng, rành mạch, tự tin, chủ động, thu hút sự chú ý của người khác.
Đây là một kỹ năng rất cần thiết cho học sinh. Kỹ năng thuyết trình trước đám
đơng, trước lớp học của học sinh ở các nước phát triển rất tốt, rất hiệu quả. Song
kỹ năng này lại còn hạn chế đối với học sinh chúng ta nói chung và HSDTTS nói
riêng. Bởi các em cịn hạn chế về mặt ngơn ngữ, cũng như hạn chế về diễn đạt,
trình bày vấn đề. Để tìm hiểu vấn đề này,chúng tôi đã tiếp tục làm việc với 200 em
HSDTTS:
Bảng 2.9: Thực trạng kỹ năng thuyết trình trước đám đông của học
sinh dân tộc thiểu số trường THPT Kỳ Sơn
Câu hỏi 9: Khi phát biểu trước đám đơng các em thường:
Tiêu chí

Tỉ lệ %

Tự tin, chủ động, nói rõ ràng, mạch lạc.

16,8

Bối rối, nói lắp

54,2

Khơng biết nói gì

29,0


Kỹ năng nói trước đám đơng vơ cùng quan trọng đối với việc học tập của
học sinh. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện này, điều đó lại càng quan trọng hơn. Song
qua bảng khảo sát cho thấy, để các HSDTTS tự tin, chủ động, nói rõ ràng, mạch lạc
một vấn đề nào đó chiếm tỉ lệ thấp, chỉ có khoảng (16,8%). Học sinh có đứng dậy
nói nhưng bối rối, nói lắp, nói khơng nên câu, nên lời, nói lại chiếm (54,2%) và
vẫn còn (29,0%) học sinh khi được mời đứng trước lớp, hay trước đám đơng khơng
biết nói gì, chỉ đứng yên một chỗ, và có cả những khi nghe yêu cầu của người khác
nhưng vẫn không chịu đứng lên, ngồi yên một chỗ. Như vậy, học sinh DTTS của
20


trường còn rất hạn chế khi giao tiếp trước lớp, trước đám đông. Sinh hoạt 15 phút
đầu giờ hay một tiết sinh hoạt cuối tuần là điều kiện thuận lợi để các em bày tỏ ý
kiến, để trình bày trước lớp, đó là mơi trường rèn luyện nhỏ hẹp, thân quen nhưng
phần lớn chưa làm được điều đó. Một số em vẫn có thể trình bày tương đối trơi
chảy, lưu lốt. Tuy nhiên, chưa thể hiện được lời nói biểu cảm trong giao tiếp một
cách rõ nét. Nên trước các buổi sinh hoạt tập thể có học sinh tồn khối, tồn
trường, có thầy cơ thì các em khơng giám nói, khơng giám thể hiện. Khơng nói
được, tất nhiên nó sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển giao tiếp. Các em khơng có cơ
hội để bộc lộ chứng kiến của mình, khơng có cơ hội để tìm hiểu ý kiến của mọi
người từ suy nghĩ lời nói của bản thân mình. Để rồi mãi mãi những suy nghĩ đó cứ
ở trong lịng mà khơng một ai có thể hiểu. Như vậy, dẫn đến các em cứ ù lì, khơng
quan tâm đến mọi người, đến môi trường xung quanh, đến học tập thì hiệu quả
giáo dục của các bạn sẽ bị hạn chế.
2.3.2.2.6. Kỹ năng làm việc hợp tác:
Kỹ năng làm việc hợp tác là biết làm việc cùng người khác, biết chia
sẻ thông tin, phối hợp hành động với người khác. Nhìn chung, trong quá trình học
tập với các em HSDTTS từ trước cho đến nay thì tơi nhận thấy kỹ năng làm việc
nhóm, làm việc tập thể chưa tốt. Để tìm hiểu kỹ năng này, chúng tơi đã tiếp tục có

cuộc khảo sát đối với 200 HSDTTS như sau:
Bảng 2.10: Thực trạng kỹ năng làm việc hợp tác của học sinh dân tộc thiểu số
trường THPT Kỳ Sơn
Câu hỏi 10: Khi làm việc nhóm, làm việc cùng với người khác các em thường:
Tiêu chí

Tỉ lệ (%)

Tích cực hợp tác làm việc

27,8

Có hợp tác nhưng ít

62,2

Thờ ơ, khơng bao giờ hợp tác

11,0

Qua bảng số liệu chúng ta thấy: Tỉ lệ các bạn HSDTTS hợp tác tích cực khi
làm việc tập thể chưa cao, chỉ chiếm 27,8%, trong khi đó, có nhiều học sinh cịn
thơ ơ, khơng hợp tác làm việc cao, chiếm 11,0%. Điều đó thể hiện rõ qua các tiết
học, ngoại khóa, lao động,….trong khi làm việc nhóm thì một số học sinh khá giỏi
đưa ra ý kiến để thảo luận, rồi chốt. Còn những học sinh yếu, HSDTTS chỉ ngồi
trong nhóm mà khơng có ý kiến. Nhiều khi thờ ơ với cơng việc của nhóm, xem
như đó là cơng việc của mọi người trong nhóm, trong tập thể đó, khơng phải của
bản thân mình. Khi lao động tập thể, mặc dù là gia đình các em chủ yếu làm rẫy
nhưng các em HSDTTS chưa tham gia tốt công việc lao động, vệ sinh trường lớp.
Các em khơng có ý thức mang dụng cụ đầy đủ, làm việc không nhiệt tình. Có thói ỉ

lại cho các bạn khác. Các hoạt động ngoại khóa, các em HSDTTS chỉ đi cho có
danh sách, các em không tự tin tham gia các cuộc thi, các câu hỏi dành cho khán
21


giả. Điều này không những ảnh hưởng đến kết quả rèn luyện của các em, mà còn
tạo nên những con người khơng có ý thức làm chủ bản thân, làm chủ cuộc sống.
Luôn dựa dẫm, ỉ lại vào người khác. Trong quan hệ giữa gia đình và nhà trường
cũng thế, gia đình các em học sinh là người dân tộc thiểu số nhận thức về việc học
tập của con em mình chưa cao. Họ xem việc học, giáo dục con cái của họ là của
nhà trường, của giáo viên. Nên sự phối hợp giữa phụ huynh và giáo viên trong nhà
trường chưa có hiệu quả cao.
2.3.2.2.7. Kỹ năng xử lý tình huống
Kỹ năng xử lý tình huống là linh hoạt, sáng tạo trong giải quyết vấn đề mà
tình huống đặt ra. Trong cuộc sống, việc giao tiếp hàng ngày con người phải ứng
phó với biết bao tình huống, có lúc dễ dàng xử lý, có lúc phức tạp, khó xử. Xã hội
càng văn minh thì nhu cầu giao tiếp của con người ngày càng cao. Cách xử lý tình
huống trong giao tiếp ứng xử thông minh khôn khéo, tế nhị, kịp thời, có hiệu quả là
điều rất khó đối với mỗi người đặc biệt đối với lứa tuổi học sinh. Để có kỹ năng xử
lý tình huống tốt thì mỗi học sinh, đặc biệt là HSDTTS phải có một quá trình học
tập, rèn luyện hàng ngày.
Để tìm hiểu kỹ năng xử lý tình huống, tơi có bảng khảo sát đối với 200 em
HSDTTS như sau:
Bảng 2.11: Khảo sát kỹ năng xử lý tình huống của học sinh dân tộc thiểu số
của trường THPT Kỳ Sơn
Câu hỏi 11: Khi thấy bạn bị ức hiếp các em thường làm gì?
Mức độ

Tỉ lệ (%)


Báo cho giáo viên nhà trường

14,8

Tìm cách giúp đỡ

7,8

Im lặng, xem đó là chuyên riêng, để bạn tự giải quyêt

77,4

Qua bảng khảo sát cho thấy mức độ xử lý tình huống trong cuộc sống của
HSDTTS của trường như sau: Học sinh im lặng, xem đó là chuyện riêng, để bạn
tự giải quyết, mình khơng quan tâm chiếm tới (77,4%), trong khi đó chỉ có (14,8%)
học sinh biết đi báo cho giáo viên trong nhà trường, để giáo viên giải quyết. Nhưng
chỉ có (7,8%) học sinh biết tìm cách giúp đỡ bạn. Vậy chúng ta thấy rằng, kỹ năng
xử lý tình huống của HSDTTS của trường rất thấp. Các em gặp khó khăn trước
một tình huống nào đó trong cuộc sống. Khơng biết xử lý một tình huống được đặt
ra. Từ việc không biết xử lý kịp thời một vấn đề đặt ra dẫn đến việc các bạn thờ ơ,
lãnh cảm với cuộc sống xung quanh. Thậm chí nhiều trường hợp có chuyện trong
tình cảm các em khơng biết xử lý nên đã tự tìm đến “lá ngón”, xem đó như là điều
giải thoát cho bản thân, đồng thời để trừng phạt gia đình bạn trai đó mà khơng hề
biết tìm cách để trốn hay báo cho chính quyền, bạn bè, người thân.... giúp đỡ. Điều
22


đó, đặt ra một vấn đề đó là chúng ta cần có những giải pháp phù hợp để giúp đỡ
các bạn HSDTTS có cái nhìn nhận đúng và ý nghĩa hơn về cuộc sống.
2.3.2.2.8. Kỹ năng nói lời yêu cầu, đề nghị

Nói lời yêu cầu đề nghị là mạnh dạn nói lên những mong muốn của bản
thân, ngơn ngữ trình bày phải rõ ràng, mạch lạc. Để tìm hiểu kỹ năng nói lời u
cầu đề nghị của HSDTTS, chúng tơi có bảng khảo sát đối với 200 em HSDTTS
như sau:
Bảng 2.12: Khảo sát kỹ năng nói lời yêu cầu đề nghị của học sinh dân tộc
thiểu số ở trường THPT Kỳ Sơn
Câu hỏi 12: Khi mong muốn một điều gì đó, các em thường:
Mức độ

Tỉ lệ (%)

Chủ động nói lời yêu cầu đề nghị

43,5

Thiếu tự tin khi nói lời yêu cầu đề nghị

26,3

Muốn đề nghị nhưng ngại khơng giám nói

30,2

Qua khảo sát, tôi nhận thấy, các em HSDTTS chủ động nói lời yêu cầu đề
nghị là chưa cao. Chỉ có 43,5% chủ động nói lời yêu cầu đề nghị; thiếu tự tin khi
nói lời yêu cầu đề nghị là 26,3%; và muốn đề nghị nhưng ngại khơng dám nói là
30,2%. Ví dụ như, khi hỏi “Các em thường hay nói lời yêu cầu đề nghị với ai?”
Các em đa phần đều trả lời là với bố mẹ, bạn bè, người thân. Đó là người người
thường ngày tiếp xúc, giao tiếp với các em nên đã quen thuộc. Cịn thầy, cơ là
người cũng gần gũi nhưng các em lại không giám nói lời u cầu đề nghị vì sợ, e

ngại, sợ thầy cơ khơng đồng ý.
Ví dụ, khi một bạn HSDTTS bị mệt hay gia đình có việc để trực tiếp gặp
thầy cô và xin được nghỉ học tiết học hôm đó thì các em khơng dám xin. Các em
nhờ bố mẹ, bạn bè gọi điện xin, thậm chí nếu khơng nhờ được thì cứ thế mà đi về
khi chưa có sự đồng ý cuả thầy cô giáo. Như vậy, kỹ năng nói lời yêu cầu đề nghị
của HSDTTS vẫn chưa cao là do tâm lý và môi trường giao tiếp.
2.3.2.2.9. Kỹ năng nói lời từ chối yêu cầu, đề nghị
Từ chối yêu cầu đề nghị là biết từ chối lời yêu cầu đề nghị của người khác
khi thấy không hợp lý. Để tìm hiểu kỹ năng nói lời từ chối yêu cầu đề nghị của học
sinh dân tộc thiểu số, chúng tơi có bảng khảo sát đối với 200 em HSDTTS như sau:
Bảng 2.13: Khảo sát kỹ năng nói lời từ chối yêu đề nghị của học sinh dân tộc
thiểu số ở trường THPT Kỳ Sơn
Câu hỏi 13: Khi có một lời đề nghị, các em thường:
Mức độ

Tỉ lệ (%)
23


Bình tĩnh nói lời từ chối và nêu rõ lý do.

19,6

Từ từ tìm cách nói lời từ chối

15,3

Khơng muốn thực hiện nhưng vì ngại, nể nên làm theo 28,2
miễn cưỡng.
Phản đối ý kiến ngay tức khắc


14,5

Khơng nói gì và khơng thực hiện

22,4

Qua khảo sát, tôi nhận thấy, trước một lời u cầu đề nghị nào đó thì các em
HSDTTS để bình tĩnh nói lời từ chối là chưa cao chỉ có 19,6%; từ từ tìm cách nói
lời từ chối là 15,3%; cịn có những em cịn có thái độ khơng muốn thực hiện nhưng
vì ngại, nể nên làm theo mà khơng biết đúng hay sai chiếm tỉ lệ 28,2%; có những
em thì khơng phân biệt được đó là u cầu đúng hay sai mà từ chối ngay tức khắc
chiếm 14,5%; thậm chí có em cịn thờ ơ trước lời đề nghị của người khác 22,4%.
Như vậy, HSDTTS trường THPT Kỳ Sơn chưa thực sự có kỹ năng nói lời từ chối
yêu cầu, đề nghị của người khác.
2.4. Nguyên nhân
2.4.1. Nguyên nhân chủ quan
- Là người dân tộc thiểu số, các em ít có điều kiện đi ra ngồi xã hội, các em chỉ
được giao tiếp với cha, mẹ, anh chị em, làng bản trong khuôn khổ nhỏ hẹp. Nên
phần nào làm cho các em nhút nhát, rụt rè, ngại giao tiếp, thiếu tự tin của bản thân.
- Học sinh có tính cách ưu tư, rụt rè hay hoạt bát sơi nổi đều ảnh hưởng tới mức độ
và hiệu quả giao tiếp của học sinh. Đa số các cán bộ quản lý, cán bộ giáo viên
trường THPT Kỳ Sơn đều nhận xét rằng, HSDTTS trong trường đều có một số nét
tính cách nổi bật như: trung thực, ngay thẳng, mộc mạc, lễ phép, ưa chuộng cách
giải quyết bằng tình cảm, bằng lời nói nhẹ nhàng. Trong quan hệ với thầy cơ giáo
hoặc với những người mới tiếp xúc, các em thường tỏ ra ít nói, ít bộc lộ mình, cịn
rụt rè, thiếu mạnh dạn, thậm chí là tự ti, bảo thủ, hay tự ái. Học sinh dân tộc thiểu
số trong trường nhìn chung thường tỏ ra ngại giao tiếp, thiếu chủ động trong việc
thiết lập các mối quan hệ với thầy cô giáo, với bạn bè, với mọi người chưa quen
biết.

- Khi HSDTTS học chung trường, chung lớp với học sinh người kinh thì các em
cảm thấy có sự khác biệt giữa mình với các bạn học sinh người kinh, các bạn trắng
trẻo, xinh xắn, cịn mình thì đen, xấu, họ tên khơng đẹp. Hay nói cách khác các em
thấy tự ti, cách biệt.
- Vốn từ ngữ của HSDTTS chưa nhiều. Vì ở làng bản, ơng bà, cha mẹ, anh chị em
khi ở nhà thường giao tiếp với nhau bằng tiếng dân tộc mình là chủ yếu. Nên các
24


em khơng có điều kiện để tiếp xúc nhiều với tiếng phổ thơng. Khả năng diễn đạt
của các em cịn nhiều hạn chế, nhiều khi các em cịn bí từ, chỉ diễn đạt bằng cử chỉ,
ngôn ngữ của cơ thể để minh họa, hoặc dùng tiếng mẹ đẻ để diễn đạt. Nhiều em
khi giao tiếp với người lớn tuổi hoặc với thầy cơ giáo có cách xưng hơ chưa phù
hợp, vẫn cịn tình trạng nói “trống khơng”. Đồng thời, các em lên trường, lớp cũng
ít tiếp xúc với thầy cơ bạn bè nên vốn từ càng hạn hẹp. Cho nên, các em chỉ sử
dụng những từ đơn giản. Khi giao tiếp chỉ quen nói từng từ, mà khơng diễn đạt
được câu văn đầy đủ.
Ví dụ: - Khi giáo viên hỏi “Em học bài chưa?”
- Học sinh trả lời “rồi” thay vì các em phải trả lời là “Dạ, thưa thầy, em học
bài rồi ạ”.
Hay: “Gia đình em có mấy người?” Học sinh trả lời “bốn” thay vì các em phải trả
lời là “Dạ, thưa cơ, gia đình em có bốn người ạ. Có bố, mẹ, em và em gái của em”.
- Đa số HSDTTS có tính ỳ và sự thụ động tương đối lớn. Các em ít khi chủ động
thiết lập các mối quan hệ trong giao tiếp. Điều này ảnh hưởng từ cách sống và môi
trường sống của các em khi ở với gia đình. Tuy nhiên đa phần đều thích tham gia
vào các hoạt động tập thể nhưng do các bạn mặc cảm về bản thân (hoàn cảnh gia
đình, ngơn ngữ, thói quen, điều kiện sống….) hoặc thiếu tự tin khi đứng trước đám
đông nên các em thường né tránh các hoạt động phong trào của nhà trường, chưa
tích cực, chủ động tham gia vào các hoạt động tập thể để rèn luyện và nâng cao
thêm kỹ năng giao tiếp cho bản thân.

2.4.2. Nguyên nhân khách quan
- Gia đình là nền tảng đầu tiên, là cái nơi đặt nền móng cho sự hình thành và phát
triển nhân cách học sinh, góp phần vào việc rèn luyện kĩ năng giao tiếp cho học
sinh. Nếu gia đình có điều kiện kinh tế không tốt, bố mẹ không quan tâm đến con
cái, thì các em đó khơng được định hướng rõ ràng, dẫn đến phát triển không khuôn
phép, hoặc tự ti, e dè, mặc cảm với mọi người. Đặc biệt khi gia đình khơng chú
trọng việc nói tiếng Việt(Kinh), khơng chú trọng việc giao tiếp của mọi người
trong gia đình, khơng chỉ bảo cách ăn nói cho con em mình một cách chu đáo, tỉ mỉ
hoặc họ để con cháu họ tự học hỏi cách nói, giao tiếp. Thì các em có vốn từ đã ít
lại càng ít hơn khi khơng được sử dụng thường xuyên, hàng ngày trong cuộc sống.
Số đông các em ngay từ nhỏ đã phải lên đồi kiếm củi phụ giúp gia đình, các em
khơng có điều kiện trau dồi vốn sống, vốn kinh nghiệm, các em sợ khi đến môi
trường mới, không dám giao tiếp với người lạ, có xu hướng sống co cụm, thu
mình.
- Nhà trường chú trọng việc dạy học kiến thức, giáo dục kỹ năng sống chung cho
tất cả các học sinh trong nhà trường. Nhà trường chưa tổ chức các hoạt động tập
thể phong phú, những buổi hoạt động dã ngoại và chương trình riêng,… dành cho
học sinh dân tộc thiểu số. Mặc dù trong tiết học, trong các hoạt động khác, giáo
viên có chú ý đến học sinh dân tộc thiểu số, kết hợp rèn cho các em kỹ năng chào
25


×