Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Một số giải pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 36 tháng tuổi thông qua hoạt động văn học (truyện kể) ở trường mầm non lộc tân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.43 MB, 28 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HẬU LỘC

TRƯỜNG MẦM NON LỘC TÂN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CHO TRẺ
24 - 36 THÁNG TUỔI THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG VĂN HỌC
(TRUYỆN KỂ) TRƯỜNG MẦM NON LỘC TÂN
NĂM HỌC 2020 - 2021

Họ và Tên: Ngô Thị Duyến
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Mầm non Lộc Tân
SKKN thuộc lĩnh vực: Chuyên môn

HẬU LỘC, NĂM 2021


MỤC LỤC

Trang

1. MỞ ĐẦU……………………………………………………..
……….
1.1.

do
chọn
đề
tài


…………………………………………………...
1.2.
Mục
đích
nghiên
cứu………………………………………………..
1.3.
Đối
tượng
nghiên
cứu
………………………………………………
1.4.
Phương
pháp
nghiên
cứu……………………………………………
2.
NỘI
DUNG…………………………………………………………...
2.1.

sở

luận
………………………………………………………..
2.2.
Thực
trạng
vấn

đề.
………………………………………………….
* Thuận lợi …………………………………………………………..
* Khó khăn …………………………………………………………
2.3. Các giải pháp thực hiện ………………………………
2.4. Hiệu quả SKKN …………………………………………….
3.
KẾT
LUẬN

NGHỊ………………………………………
3.1.
Kết
……………………………………………………………
3.2.
Nghị…………………………………………………………..

1
1
2
2
2
3
3
4
4
4
6
1
6


KIẾN

1
8

luận:

1
8

Kiến

1
9


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài.
Trẻ em hơm nay là thế giới của mai sau, việc bảo vệ và chăm sóc giáo dục
trẻ em là trách nhiệm của nhà nước, của xã hội và của mỗi gia đình. Việc giáo
dục một cách toàn diện cho trẻ là một điều rất quan trọng và cần thiết. Mục tiêu
nội dung chăm sóc giáo dục mầm non hiện nay nhằm phát triển tồn diện, hình
thành cho trẻ những cơ sở ban đầu của nhân cách con người.
Hiện nay chúng ta đang đứng trước một thách thức lớn lao của vận hội
mới trong đó con người đứng ở vị trí trung tâm. Địi hỏi con người phải có tri
thức, thơng minh, năng động, sáng tạo, đây là cốt lõi của sự phát triển xã hội, vì
vậy nền giáo dục cũng khơng ngừng phát triển để đáp ứng những yêu cầu đó. Để
đáp ứng được xu hướng phát triển của một nền giáo dục trong thời kì mới của
đất nước thì giáo dục mầm non ln đóng một vai trị quan trọng bởi “Ngành

học mầm non có một vị trí quan trọng trọng thống giáo dục quốc dân”. Nó là
khâu mở đầu cho tất cả các cấp học tiếp theo. Giáo dục mầm non tốt sẽ mở đầu
cho nền giáo dục tốt. Giáo dục mầm non là cấp học đầu tiên hình thành những
cơ sở ban đầu nhân cách con người Việt Nam. Giáo dục mầm non không chỉ cho
trẻ trở nên hồn nhiên, nhanh nhẹn vui tươi, cơ thể phát triển cân đối mà cịn giúp
trẻ phát triển trí thơng minh sự ham hiểu biết và tích cực hoạt động cũng như
dạy trẻ biết yêu thương quan tâm giúp đỡ mọi người, khám phá ra cái đẹpvà tạo
ra cái đẹp. Để đáp ứng được yêu cầu này, đòi hỏi giáo viên mầm non cần phải
cải tiên phương pháp giảng dạy, hình thức tổ chức sao cho vừa nâng cao lại vừa
phù hợp với đặc điểm cuả trẻ mầm non.
Ở trường mầm non không những hình thành ở trẻ thói quen
nề nếp, lễ phép trong mọi lĩnh vực mà còn hình thành ở trẻ
sự ham muốn thích học, thích chơi. Hình thành cho trẻ sự
hứng thú, ham hiểu biết và nhu cầu nhận thức, những phẩm
chất tâm lý đạo đức bền vững, nhằm giúp trẻ lĩnh hội các
chuẩn mực đạo đức lối sống và hành vi văn minh.


Đối với trẻ mầm non nói chung và trẻ nhà trẻ nói riêng trẻ có nhu cầu rất lớn
là được tiếp xúc làm quen giao tiếp với người lớn, bạn bè và những sự vật hiện
tượng xung quanh. Song sự hiểu biết của trẻ cịn q ít ỏi, ngơn ngữ , nhiều cháu
cịn nói ngọng nói lắp, nói chưa đủ câu đủ nghĩa. Để thực hiện tốt điều chưa phát
triển nhiều giáo viên cần có biện pháp, các thủ thuật dạy học sinh sôi động và
hấp dẫn lôi cuốn trẻ tham gia vào các hoạt động phát triển ngôn ngữ một cách
tích vực, chủ động tự tin sao cho đạt hiệu quả cao nhất.
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một trong những mục tiêu quan trọng nhất
của giáo dục mầm non. Ngôn ngữ là công cụ để trẻ giao tiếp, học tập và vui
chơi. Bên cạnh đó ngơn ngữ còn là phương tiện để giáo dục trẻ một cách toàn
diện bao gồm sự phát triển về đạo đức, tư duy nhận thức và các chuẩn mực hành
vi văn hoá. Văn học là loại hình nghệ thuật là một kho tàng tri thức giữ vai trò

lớn đối với con người nói chung và đặc biệt là đối với trẻ mầm non nói riêng.
Dẫn dắt trẻ vào thế giới văn học là nhiệm vụ quan trọng của các cô giáo trong
trường mầm non. Đó là sự mở cửa, là con đường đầu tiên đưa trẻ bước vào thế
giới ngôn ngữ, tri thức, giá trị tinh thần phong phú chứa đựng trong văn học. Sự
tiếp xúc thường xuyên của trẻ nhà trẻ với hoạt động văn học sẽ kích thích ở trẻ
sự nhạy cảm thẩm mỹ, sự phát triển trí tuệ hình thành tình cảm đạo đức phát huy
tính tích cực cá nhân, tính độc lập sáng tạo. Văn học trong trường mầm non
chính là ngơn ngữ nghệ thuật đầu tiên mở rộng nhận thức của trẻ về thế giới
xung quanh, từng bước tích lũy kinh nghiệm sáng tạo và phát triển trí tuệ thoả
mãn nhu cầu và tinh thần của trẻ gợi cho trẻ những xúc cảm tình cảm đẹp góp
phần giáo dục trẻ phát triển toàn diện về mọi mặt đức - trí - thể - mỹ - tình cảm
xã hội.
Đối với trẻ mầm non nói chung và trẻ 24 - 36 tháng tuổi nói riêng trẻ
khơng chỉ hiểu nghĩa các từ biểu thị các sự vật hành động cụ thể mà cịn có thể
hiểu nghĩa các từ biểu thị tính chất, màu sắc, thời gian và các mối quan hệ.
Chính vì vậy cho trẻ tiếp xúc với văn học và đặc biệt là hoạt động dạy trẻ kể
chuyện là con đường phát triển ngôn ngữ cho trẻ tốt nhất, hiệu quả nhất. Thông
qua hoạt động văn học (truyện kể) sẽ giúp trẻ phát triển năng lực tư duy, óc
tưởng tượng, biết yêu quý cái đẹp, hướng tới cái đẹp. Khi trẻ kể chuyện, ngôn
ngữ của trẻ phát triển, trẻ phát âm rõ ràng mạch lạc, vốn từ phong phú. Trẻ biết
trình bày ý kiến, suy nghĩ, kể về một sự vật hay sự kiện nào đó bằng chính ngơn
ngữ của trẻ.
Xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lý, nhận thức của trẻ là nhận thức trực
quan cảm tính, sự chú ý có chủ định cịn ít, chưa bền vững, trí nhớ khơng bền,
ngơn ngữ cịn hạn chế đang ở thời kì phát triển, mà làm quen văn học lại mang
tính tổng hợp, phát triển về trí tuệ, do đó rất khó cho trẻ trong q trình tiếp
nhận và cảm thụ văn học (truyện kể). Bởi vậy tôi luôn trăn trở làm sao để đưa
văn học (truyện kể) đến với trẻ, làm thế nào để giúp trẻ 24- 36 tháng phát triển
ngôn ngữ một cách tốt nhất thông qua hoạt động văn học (truyện kể), chính vì
vậy tơi đã chọn đề tài: “Một số giải pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 - 36

tháng tuổi thông qua hoạt động văn học (truyện kể) ở trường Mầm non Lộc
Tân ”.


1.2. Mục đích nghiên cứu.
Đề ra một số giải pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 - 36 tháng thông
qua hoạt động văn học (truyện kể) ở trường Mầm non Lộc Tân.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Một số giải pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi thông qua
hoạt động văn học (truyện kể) ở trường Mầm non Lộc Tân.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý luận: là phương pháp trực tiếp tác động vào đối
tượng trong thực tiễn để làm bộc lộ bản chất và qui luật vận động của đối tượng
đó, giúp người nghiên thu thập hoặc làm nảy sinh các ý tưởng nghiên cứu đề
xuất sáng tạo.
- Phương pháp quan sát: Nhóm phương pháp này giúp trẻ quan sát, giao tiếp
với các đối tượng, phương tiện, vật thật, đồ chơi, tranh ảnh, thông qua sử dụng
các giác quan kết hợp với lời nói nhằm tăng cường vốn hiểu biết cho trẻ trong
truyện kể.
- Phương pháp đàm thoại: Nhóm phương pháp này rất quan trọng khi dạy trẻ
dựa trên phương pháp này giúp trẻ phát triển ngôn ngữ trhông qua truyện kể.
- Phương pháp trực quan: Nhóm phương pháp này bao gồm các đồ dùng trực
quan.
- Phương pháp thống kê sử lý số liệu: phương pháp này mơ tả phân tích so
sánh phân loại tổng hợp những kinh nghiệm giáo dục từ đó rút ra những quy luật
chi phối hình thành và phát triển con đường nghiên cứu khoa học giáo dục.
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận.
Giáo dục mầm non là sự đảm bảo phù hợp với sự phát triển tâm sinh lí
của trẻ em, hài hồ giữa ni dưỡng, chăm sóc và giáo dục. Giúp trẻ phát triển

cân đối, khoẻ mạnh, nhanh nhẹn biết kính trọng, yêu mến lễ phép với người lớn,
bạn bè, thật thà mạnh dạn hồn nhiên yêu thích cái đẹp, ham hiểu biết, thích học
hỏi. Chương trình giáo dục mầm non thể hiện mục tiêu giáo dục mầm non, cụ
thể hoá các yêu cầu về ni dưỡng, chăm sóc giáo dục trẻ ở từng độ tuổi, quy
định việc tổ chức các hoạt động nhằm tạo điều kiện để trẻ phát triển về thể chất,
tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ hướng dẫn cách thức đánh giá sự phát triển của trẻ ở
lứa tuổi mầm non. Trong giáo dục hiện nay muốn thực hiện tốt mục tiêu và nội
dung trên đòi hỏi mỗi trường mầm non, mỗi giáo viên mầm non phải nghiên cứu
học tập để nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục ở từng độ tuổi.
Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ là một quá trình từ thấp đến cao với các
giai đoạn mang những đặc trưng khác nhau tuỳ thuộc vào độ tuổi của trẻ. Ngôn
ngữ của trẻ phát triển tốt sẽ giúp cho trẻ nhận thức và giao tiếp tốt góp phần
quan trọng vào việc hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ. Việc phát triển
ngôn ngữ cho trẻ trong giao tiếp sẽ giúp trẻ dễ dàng tiếp cận với các hoạt động
khoa học khác như: Hoạt động nhận biết phân biết, hoạt động âm nhạc, hoạt
động với đồ vật... Nói đến văn học là nói đến nguồn tri thức vơ tận của nhân
loại, mà truyện kể là một trong những hoạt động quan trọng không thể thiếu
trong cuộc sống của con người nói chung và của trẻ mầm non nói riêng, truyện


kể như nguồn sữa mẹ đến với tâm hồn trẻ thơ. Qua các câu truyện trẻ có những
hiểu biết ban đầu về bản thân mình, hiểu được những điều thường sảy ra trong
cuộc sống hàng ngày, từ đó giúp trẻ phát triển trí tưởng tượng của mình. Bởi vì
ở lứa tuổi này trẻ được ví như tờ giấy trắng, trẻ đến lớp như mở đầu trang sách
cô giáo in lên những hình ảnh, những vốn từ, những nhân vật, cử chỉ khác nhau,
thông qua những câu truyện giúp trẻ mở mang kiến thức về xã hội thiên nhiên,
thông qua hoạt động học giúp trẻ phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một nhiệm vụ
quan trọng trong chương trình giáo dục toàn diện trẻ.
Trẻ 24 - 36 tháng tuổi sự phát triển ngơn ngữ chịu ảnh hưởng lớn của việc
tích cực hố vốn từ, ngơn ngữ của trẻ đã trở nên được mở rộng hơn, có trật tự

hơn, mặc dù cấu trúc cịn chưa hồn thiện. Khả năng nói trình bày ý nghĩa, hiểu
ngơn ngữ hồn cảnh của trẻ cũng đã bắt đầu phát triển. Bằng các hình tượng văn
học mở ra cho trẻ cuộc sống với xã hội và thiên nhiên, các mối quan hệ qua lại
của con người. Những hình tượng đó giúp trẻ nhận thức được tính rõ ràng, chính
xác của từ ngữ trong hoạt động văn học.
Ở giai đoạn này chúng ta cần giúp trẻ phát triển và mở rộng các từ loại
trong vốn từ, biết sử dụng nhiều loại câu bằng cách giáo viên thường xuyên trò
chuyện với trẻ về những sự vật, sự việc trẻ nhìn thấy trong sinh hoạt hàng ngày.
Nói cho trẻ biết các từ biểu hiện về đặc điểm, tính chất, cơng dụng của chúng.
Cho trẻ xem tranh, kể cho trẻ nghe các câu chuyện đơn giản. Đặt một số loại câu
hỏi giúp trẻ biết kể chuyện bằng ngơn ngữ của mình.
Với nhiệm vụ khơi dậy ở trẻ tình yêu đối với từ ngữ nghệ thuật thông qua
cách đọc kể diễn cảm, cao hơn nữa là biết sử dụng ngôn ngữ của mình để kể
truyện. u cầu này địi hỏi trẻ phải có vốn từ phong phú, các kỹ năng tổng hợp,
kỹ năng truyền đạt ý nghĩ của mình một cách chính xác, tập trung chú ý và nói
biểu cảm. Những kỹ năng này trẻ lĩnh hội được trong quá trình nhận thức có hệ
thống bằng con đường luyện tập thường xuyên hàng ngày nhằm đáp ứng nhu
cầu nhận thức của trẻ mầm non hiện nay.
2.2. Thực trạng vấn đề.
* Thuận lợi.
Trường mầm non Lộc Tân nhiều năm liền đạt thành tích cao trong công
tác quản lý và giảng dạy trường đạt chuẩn quốc gia mức độ I. Nhà trường được
UBND Huyện - Sở giáo dục và ĐT tặng giấy khen. UBND Tỉnh tặng cờ thi đua.
Trường có diện tích rộng 2.872 m2, cảnh quan thiên nhiên, khuôn viên xanh,
sạch đẹp. Với tổng số 11 nhóm lớp, có khu bếp ăn sạch sẽ đảm bảo phục vụ cho
trẻ ăn bán trú tại trường. Tổng số học sinh là 306 cháu, ăn bán trú 100%. Ban
giám hiệu nhà trường luôn quan tâm, nhiệt tình sâu sát trong việc chỉ đạo chun
mơn. Bên cạnh đó là sự quan tâm của Đảng ủy - HĐND và Ủy Ban nhân dân
Thị Trấn trong việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất khuôn viên cho nhà trường.
Trường có đội ngũ giáo viên có trình độ chun mơn đạt chuẩn 100%,

trong đó có tới 84% giáo viên trên chuẩn, luôn tâm huyết với nghề, yêu nghề
mến trẻ, có nhiều kinh nghiệm trong việc ni dưỡng chăm sóc và giáo dục trẻ.
Cơ sở vật chất trang thiết bị đầy đủ, mơi trường học tập tốt, có đội ngũ giáo viên
trẻ năng nổ và có chun mơn nghiệp vụ sư phạm. Bên cạnh đó phụ huynh ln


sát cánh cùng nhà trường và lớp học cho nên cơng tác phối kết hợp giữa gia đình
và nhà trường đã đạt hiệu quả cao hơn đó là những yếu tố giúp tơi hồn thành tốt
đề tài nghiên cứu của mình.
* Khó khăn.
Năm học 2020 - 2021 tơi được sự phân cơng phụ trách nhóm trẻ 24 - 36
tháng tuổi với tổng số trẻ trong lớp là 15 cháu.
Trong đó có 7 gái và 8 cháu trai .
Nhìn chung mỗi cháu có một đặc đểm, đặc tính khác nhau nhưng có chung
một điểm dễ nhớ chóng quên và quan trọng là vốn ngơn ngữ cịn hạn chế. Vì thế
để thực hiện đề tài này tơi đã gặp khơng ít khó khăn cụ thể như sau :
- Cơ sở vật chất còn hạn chế, đồ dùng đồ chơi chưa đáp ứng với yêu cầu
giáo dục hiện nay.
- Đa số trẻ là con em bố mẹ làm nông nghiệp nên nhận thức về cơng việc
chăm sóc giáo dục trẻ cịn nhiều hạn chế.
- Sự phát triển ngôn ngữ của mỗi trẻ tuy cùng độ tuổi nhưng lại phát triển
khác nhau.
- Đồ dùng tự tạo để phục vụ vào các hoạt động đặc biệt là hoạt động kể
truyện chưa nhiều.
- Việc hướng dẫn và tổ chức một số hoạt động của giáo viên cịn thiếu tự tin
hay gị bó.
* Khảo sát thực trạng
* Bảng 1: Kết quả khảo sát thực trạng.
Kết quả
Nội dung khảo sát


Trẻ hứng thú với hoạt động
văn học (truyện kể)
Trẻ trả lời câu hỏi đàm
thoại rõ ràng, mạch lạc.
Trẻ hiểu nội dung câu
truyện, biết tên nhân vật
trong truyện
Trẻ kể lại truyện diễn cảm,
rõ ràng mạch lạc cùng cô.

Tổng Số trẻ Đạt yêu cầu

Chưa đạt yêu
cầu

15

SL
12

%
80

SL
3

%
20


15

11

73.3

4

26.7

15

11

73.3

4

26.7

15

10

66.7

5

33.3


Nhìn vào bảng khảo sát cho ta thấy: Tỷ lệ trẻ đạt yêu cầu: từ 66.7 - 80%
Tỷ lệ trẻ chưa đạt: 20 - 33.3 %
* Nguyên nhân.
Đối với giáo viên:
- Chưa sáng tạo trong việc làm đồ dùng và sử dụng đồ dùng trực quan tự tạo .


- Giáo viên chưa sáng tạo trong giờ hoạt động văn học, chưa linh hoạt trong
việc đưa các thủ thuật gây hứng thú cho trẻ, chưa đi sâu trong việc khai thác
những ưu, khuyết điểm của từng trẻ để bổ sung những kiến thức kỹ năng cần
thiết cho trẻ dưới nhiều hình thức mà giáo viên vẫn chú trọng vào phương pháp
đưa kiến thức đến trẻ bằng truyền đạt.
Đối với trẻ:
- Trẻ còn chưa mạnh dạn và tự tin trong q trình tham gia thể hiện, nhiều trẻ
cịn nói ngọng, nói chưa đủ câu, chưa rõ ràng và hầu như trẻ cịn hay nói ngang
làm hạn chế trong việc diễn tả nội dung câu chuyện. Đa số trẻ còn phụ thuộc vào
cô giáo, trẻ chủ yếu tiếp thu một cách thụ động.
- Đa số phụ huynh làm nghề nông và đi cơng ty nên thời gian để trị chuyện
với con là rất ít. Bên cạnh đó một số gia đình có điều kiện do q cưng chiều
con, con khơng cần phải xin phép mà luôn được bố mẹ đáp ứng mọi nhu cầu.
Từ những nguyên nhân trên tôi băn khoăn lo lắng tìm tịi làm thế nào để phát
triển ngơn ngữ cho 24 - 36 tháng tuổi thông qua hoạt động văn học (truyện kể )
đạt hiệu quả cao nhất.
2.3. Các giải pháp thực hiện.
* Giải pháp 1: Rèn luyện nề nếp thói quen cho trẻ và tìm hiểu tâm sinh lý trẻ
Nề nếp của trẻ là điểm đầu tiên cho một hoạt động, trẻ khơng có nề nếp tốt
thì sẽ khơng có kết quả tốt trong khi hoạt động. Khi trẻ có nề nếp tốt thì trẻ sẽ say
mê tham gia vào quá trình hoạt động một cách hứng thú và trẻ sẽ bộc lộ hết cảm
xúc, trí tưởng tượng của mình thơng qua hoạt động học, hoạt động chơi.
Ngay từ những tháng đầu của năm học tôi vừa ổn định tổ chức lớp vừa kết

hợp đi sâu vào rèn luyện thói quen cho trẻ, tơi bắt đầu đi sâu vào tìm hiểu tâm lý
của trẻ thì thấy rằng: Các cháu rất hiếu động, đa số các cháu hay nói leo, nói
trống khơng, có những cháu hay ngồi ì, ngồi trong lớp không tập trung. Tuy các
cháu ở cùng một độ tuổi nhưng tâm sinh lý của mỗi cháu lại hồn tồn khác
nhau. Có cháu thì mạnh dạn tự tin có cháu thì lại nhứt nhát, có cháu thì hay giao
tiếp trị chuyện cùng cơ, lại có những cháu ko hay giao tiếp và nói chuyện chính
vì vậy để cho các cháu phát triển về ngôn ngữ thông qua truyện kể thì bắt tơi
phải hiểu rõ đặc điểm tâm sinh lý của trẻ.
Từ thực tế đó tơi rèn luyện cho các cháu giờ nào việc ấy, trong lớp tôi
chia tổ, đặt tên, đặt ký hiệu cho các tổ, trong các tổ tôi chia đều số nam nữ, cháu
mạnh dạn với cháu nhút nhát, xếp những cháu yếu kém ngồi phía trên gần cơ để
tiện theo dõi, tơi tập cho trẻ thói quen trong khi hoạt động muốn nói phải giơ tay,
khơng nói leo. Khi trả lời cơ phải đứng lên, trả lời rõ ràng, đủ câu, đối với trẻ
nhút nhát tôi thường xuyên gần gũi, quan tâm tạo điều kiện cho trẻ lên trả lời,
liên tục như vậy tôi đã thành công trong việc rèn luyện nề nếp cho trẻ và trẻ đã
có nề nếp tốt.
Qua giải pháp trên tơi nhận thấy rất rõ rết đó là đã hình thành cho trẻ một
thói quen nề nếp rất tốt trẻ biết chăm chú lắng nghe cô kể truyện và đã mạnh dạn
tự tin gần gũi và giao tiếp cùng cô biết nói câu dài rõ ràng và mạch lạc, trẻ
khơng ngồi ì hay nói leo như trước nữa.
Hình ảnh 1: Trẻ ngồi chú ý lắng nghe cô kể truyện (phần phụ lục)


* Giải pháp 2: Chuẩn bị nguyên vật liệu, làm đồ dùng, và cách sử dụng đồ
chơi phục vụ cho hoạt động văn học (truyện kể).
Đồ dùng trực quan cũng góp phần quan trọng trong việc tổ chức hoạt
động văn học thể loại truyện kể, đó là yếu tố góp phần quyết định việc giảng dạy
đạt hiệu quả cao. Đồ dùng trực quan có thể là tranh ảnh, mơ hình, vật thật, sa
bàn, rối tay, hình ảnh động… Trong các bài dạy cho trẻ khơng thể khơng có đồ
dùng trực quan vì trẻ mầm non chủ yếu là tư duy hình tượng. Vì vậy tơi ln chú

ý đến việc làm đồ dùng trực quan thế nào cho chính xác, sáng tạo, an toàn và sử
dụng thế nào cho đúng lúc, đúng chỗ.
Ngay từ đầu năm học để có thể làm đồ dùng đồ chơi từ những nguyên vật
liệu phế thải cho trẻ hoạt động một cách có hiệu quả, giúp trẻ hứng thú tích cực
tham gia hoạt động kể chuyện thì tơi phải kiểm tra phân loại đồ dùng phục vụ
hoạt động kể chuyện theo từng chủ đề, xem chủ đề đó cịn thiếu những loại đồ
dùng gì? Cần phải bổ sung thêm những gì? Bằng những kinh nghiệm thực tế từ
đó tơi mới bắt tay xây dựng kế hoạch tìm kiếm nguyên vật liệu để làm đồ dùng
để phục vụ cho hoạt đông kể chuyện ở từng chủ đề lớn. Nhưng làm thế nào để
làm ra được những đồ dùng hấp dẫn trẻ vào hoạt động kẻ chuyện thì tơi phải biết
được câu chuyện đó cần làm gì và ngun vật liệu đó là gì? Những ngun vật
liệu để làm đồ dùng đồ chơi phải là những nguyên vật liệu dễ tìm kiếm và những
đồ dùng tận dụng, đảm bảo vệ sinh và an toàn đối với trẻ. Những nguyên vật
liệu có sẵn như: vải vụn, len, giấy màu, vỏ chai nhựa, lon bia, hột hạt, lá cây, vỏ
cây, rơm rạ, lõi giấy vệ sinh, hộp sữa, ly nhựa, muỗng, gỗ… Nhưng đây lại là
nguồn nguyên vật liệu vô cùng dồi dào để giáo viên khai thác, sáng tạo ra những
đồ dùng đồ chơi đẹp, hấp dẫn. Trên thực tế việc sử dụng đổ dùng trực quan cho
trẻ phải đa dạng và phong phú. Đối với tranh minh họa phải có bố cục đẹp hợp
lí có tính giáo dục thẫm mĩ cho trẻ hoăc có thể dùng mơ hình, sân khấu phù hợp
với nội dung của câu chuyện. Dựa vào từng chủ đề tôi làm đồ dùng phục vụ cho
các hoạt động sao cho phù hợp. Nhưng những đồ dùng phế thải đó phải đảm bảo
được tính an tồn và hợp vệ sinh đối với trẻ. Để nguyên vật vật liệu có nhiều thì
cơ có thể qun góp ngun vật liệu phế thải đó từ phụ huynh để có thể làm ra
nhiều bộ đồ dùng sinh động và hấp dẫn hơn.
* Cách làm đồ dùng đồ chơi
Sau khi tìm kiếm nguyên vật liệu tôi bắt tay vào việc làm đồ dùng tự tạo để
phục vụ vào giờ kể chuyện cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi như sau:
- Cách làm:
Ví dụ: Làm con gà con: tơi cắt vải vụn tạo thành 2 hình trịn (hình trị to và
hình trịn nhỏ) sau đó lấy kim chỉ khâu lại, sau khi khâu xong tôi nhồi bông hoặc

vải vụn để tạo đầu gà và thân gà. Tôi dùng len màu vàng quấn xung quanh hình
trịn để tạo lơng gà, dùng hạt na màu đen để tạo thành mắt gà sau đó các bộ phận
này tôi gắn lại với nhau vậy là đã được một chú gà con thật xinh xắn.
Ví dụ: Làm con thỏ bằng rối tay: Tôi vẽ mảng tai, chán, mặt, cổ, thân sau lên
bìa rơ ki cứng sau đó cắt các hình ra ke lên vải sau đó lấy kim chỉ khâu các
mảng lại với nhau đặc biệt các mảng của từng bộ phận tôi dùng nhiều màu vải


để phân biệt từng bộ phận của con vật. Đặc biệt trẻ nhà trẻ rất thích màu sắc rực
rỡ vì như vậy thì sẽ thu hút trẻ chăm chú và hứng thú hơn khi nghe cô kể truyện.
Từ những quần áo, vải vụn, ống giấy, tôi hướng dẫn trẻ làm ra những con rối
thật xinh xắn từ câu truyện cổ tích trẻ học được, sáng tạo ra những nhân vật trẻ
thích
Ví dục: Làm rối dẹt trong câu truyện Đơi bạn nhỏ tơi in hình con vật và giấy,
sau đó các hình các nhân vật trong câu truyện ke lên bìa cứng và cắt ra, tơi có
thể làm rối dẹt bằng 2 mặt để khi cơ xoay bên nào cùng có hình con vật.
Ví dụ: lá cây, giấy vụn, hột hạt để tạo ra những bức tranh, những hình ảnh phù
hợp với nội dung truyện và mang tính sinh động hơn.
Ví dụ: Truyện “Cây táo” Từ vỏ chai nước ngọt tôi đã cắt và tận dụng phần đáy
của hai cái chai ghép vào nhau thành quả táo sau đó phun sơn màu xanh, đỏ
theo ý thích rồi trang trí lên cây khi trẻ lên bắt chước hành động của nhân vật trẻ
được lên chăm sóc, được cầm, được chơi với chúng, trẻ được nói theo ý hiểu của
trẻ qua đó trẻ có thể dễ dàng tưởng tượng ra cây táo thật.
+ Tôi sử dụng các nguyên liệu mở như: Thanh tre, bìa cứng, gỗ, hộp xốp, đất ...
Để làm thành những con vật xinh xắn, trẻ cũng có thể sử dụng được để kể
chuyện theo ý thích.
* Sử dụng đồ dùng đồ chơi tự tạo vào hoạt động kể chuyện.
Để những đồ dùng tự tạo phục vụ vào giờ kể chuyện có hiệu quả thì bản
thân cơ phải hiểu được rõ được bản chất của nguyên vật liệu, cách làm như thế
nào? Để Cô sử dụng đồ dùng thành thạo, tạo tình huống bí mật để thu hút trẻ vào

hoạt động một cách thoải mái tự tin và kích thích trẻ hứng thú hơn trong giờ
chuyện.
Ví dụ: Câu chuyện Thỏ con không vâng lời tôi đã làm các nhân vật bằng
rối tay cơ khơng thể sử dụng nó trên sa bàn được mà cô phải sử dụng trên một
sân khấu lớn sau đó cơ dùng đơi tay khéo léo của mình để làm các nhân vật,
dùng lời nói để diễn đạt nội dung câu chuyện.
Sau khi sử dụng hình thức kể chuyện bằng rối tay trẻ chăm chú lắng nghe,
mắt không rời khỏi sân khấu và khơng một tiếng nói chuyện nào.
Ví dụ: Khi cơ kể chuyện “Đơi bạn nhỏ” bằng rối dẹt cơ khơng thể tận
dụng mơ hình sân khấu của rối tay được mà cô phải sử dụng bằng sa bàn, hay sa
bàn xoay và sa bàn đó phải để thấp hơn so với tầm mắt của trẻ để trẻ dễ dàng
được quan sát hơn. Các nhân vật trong truyện cơ có thể gắn que dài để di chuyển
hoa có thể gắn lên ơ tơ đồ chơi nhỏ để di chuyển hoặc có thể gắn các nhân vật cố
định theo từng phân cảnh trong truyện để thực hiện (sa bàn xoay).
Sau khi sử dụng mơ hình kể truyện bằng rối dẹt tôi nhận thấy trẻ như
hứng thú hơn và thích nghe kể truyện hơn.
Ví dụ: Khi kể chuyện tơi dùng những tranh ảnh làm từ giấy vụn, lá cây
hay hột hạt thì cơ phải có bìa cứng khi cơ kể cô thể lật từng trang để kể những
bức tranh đó mang màu sắc đẹp để gây hứng thu cho trẻ nghe, xem để trẻ biết
cách sử dụng và giữ gìn đồ chơi...


Việc tổ chức cho trẻ làm quen với hoạt động văn học (truyện kể) trong
trường mầm non là một phương tiện không thể thiếu để hỗ trợ cho việc thành
công của một hoạt động chính là đồ dùng trực quan minh họa, lựa chọn phương
tiện trực quan sao cho phù hợp có tác dụng giáo dục thẩm mỹ, phương pháp này
phù hợp với đặc điểm nhận thức của trẻ mầm non, ngơn ngữ hình thể của cơ
giáo là phương tiện trực quan sinh động nhất. Ngơn ngữ nói, đọc kể diễn cảm rõ
ràng mạch lạc, tình cảm hịa quyện giữa âm thanh, nghĩa từ, giữa giọng điệu và
cử chỉ điệu bộ sẽ làm sống dậy hình ảnh đẹp trong mắt trẻ. Ngồi ngơn ngữ hình

thể thì rối, tranh cũng là biện pháp trực quan sinh động giúp trẻ hứng thú và tạo
kết quả tốt trong giờ học.
Sau khi sử dụng giải pháp làm và sử dụng đồ dùng trực quan tự tạo vào
giờ kể truyện tôi nhận thấy trẻ như yêu thích giờ kể truyện hơn, trẻ nhớ tên
truyện, nhớ tên nhân vật, hiểu nội dung truyện hơn. Đặc biệt sau khi sử dụng đồ
dùng trực quan tự tạo tôi nhận thấy giờ học kể truyện khơng cịn tẻ nhạt và trẻ
phát triển vốn từ nhiều hơn. Nhưng để những đồ dùng đó được sử dụng được
nhiều vào các hoạt động khác thì tơi phải giáo dục trẻ biết giữ gìn, bảo vệ và cất
đồ dùng ngăn nắp và đúng nơi quy định.
Hình ảnh 2: Đồ dùng đồ chơi tự tạo (Phần phụ lục)
* Giải pháp 3 : Chuẩn bị hệ thống câu hỏi đàm thoại phù hợp với trẻ .
Trong hoạt động văn học nói chung và hoạt động truyện kể nói riêng đối
với trẻ 24 - 36 tháng tuổi đàm thoại là một quá trình hỏi đáp, trao đổi giữa cơ và
trẻ, trong đó cơ giữ vai trị chủ đạo giúp trẻ hiểu sâu và nhớ lại nội dung và các
nhân vật trong truyện. Việc đàm thoại kết hợp với giảng giải, gợi mở, giúp trẻ
hiểu các câu truyện một cách đầy đủ có hệ thống, nhờ vậy trẻ có thể dễ dàng nhớ
tác phẩm phát huy tính tích cực, rèn luyện óc tư duy tưởng tượng, khơi dậy
những rung cảm, xúc cảm thẩm mỹ. Đàm thoại là cơ hội tốt để trẻ sử dụng từ và
diễn đạt một cách chính xác biểu cảm, từ đó phát triển ngôn ngữ rõ ràng, mạch
lạc cho trẻ.
Để phát triển ngôn ngữ rõ ràng, mạch lạc cho trẻ qua hoạt động văn học
thơng qua truyện kể thì khơng thể nào thiếu được hệ thống câu hỏi đàm thoại.
Câu hỏi đóng vai trò quan trọng trong trò chuyện, đàm thoại, sử dụng câu hỏi
với trẻ nhằm tăng khả năng ghi nhớ và sự chú ý của trẻ đến sự vật hiện tượng,
khơi gợi tính tị mị ở trẻ. Giúp trẻ tìm hiểu kỹ bản chất của sự vật hiện tượng
xung quanh. Phát triển ngôn ngữ, giúp trẻ nghe hiểu nghĩa của từng loại câu hỏi,
câu trả lời của người khác với câu hỏi trong đời thường. Do đó giáo viên cần
chuẩn bị các câu hỏi trước khi trò chuyện, đàm thoại cùng với trẻ. Câu hỏi được
chuẩn bị trước giúp giáo viên chủ động hỏi trẻ, đưa ra những câu hỏi chính xác
và để hiểu đối với trẻ. Trong q trình trị chuyện, đàm thoại, chúng ta nên sử

dụng các dạng câu hỏi khác nhau.
- Dạng câu hỏi nhận biết.
Giúp trẻ tái tạo nội dung truyện, nhớ lại cách có hệ thống các sự việc diễn ra,
loại câu hỏi này dùng cho những trẻ yếu, trung bình trong lớp.


Ví dụ: Ở chủ đề cây và những bơng hoa đẹp trong câu truyện “Vườn hoa nhà
bé bi” tôi sử dụng các câu hỏi
+ Các con vừa nghe cô kể câu chuyện gì?
+ Trong vườn nhà bé bi có những loại hoa gì?
+ Mỗi sáng ơng và bé bi thường làm gì?
+ Các loại hoa trong vườn như thế nào?
Dạng câu hỏi suy nghĩ:
+ Hoa trong vườn nhà bé Bi như thế nào? (Thi nhau khoe sắc ạ)
- Dạng câu hỏi vận dụng kinh nghiệm.
Trẻ vận dụng khả năng hiểu biết của mình để trả lời nhằm giúp cho trẻ phát
triển trí tưởng tượng, sáng tạo. Loại câu hỏi này dùng cho những trẻ khá hơn
trong lớp.
Ví dụ: Ở chủ đề tết và mùa xuân trong câu truyện “Chiếc áo mới” tơi sử
dụng các câu hỏi
+ Nếu như sóc mặc áo mới của bạn mèo thì sẽ như thế nào ? Vì sao?
+ Cịn nếu như bạn voi mà mặc chiếc áo mới của mèo thì chuyện gì sẽ xảy
ra? Vì sao?
Bên cạnh đó tơi dùng câu hỏi kinh nghiệm nâng cao để giúp trẻ phát triển
ngơn ngữ, kích thích tư duy trẻ phát triển:
Ví dụ: Ở chủ đề thế giới động vật trong câu truyện thỏ ngoan tôi sử dụng các
câu hỏi:
- Bạn Thỏ trắng đã làm gì khi bác Gấu gặp trời mưa?
Khi trẻ trả lời câu hỏi, tôi không bao giờ áp đặt trẻ mà tôi để trẻ tự trả lời
theo ý trẻ tự diễn đạt bằng ngơn ngữ của mình, tạo cho trẻ tự tin, mạnh dạn khi

diễn đạt. Sau đó giáo viên hướng cho trẻ vào nội dung nhất định.
Do nhận thức các cháu trong lớp không đều, khi đưa ra hệ thống câu hỏi,
tôi sẽ đưa ra các dạng câu hỏi, từ câu hỏi nhận biết đến câu hỏi vận dụng kinh
nghiệm. Làm sao cho tất cả trẻ trong lớp đều có thể trả lời câu hỏi tùy theo khả
năng trẻ.
Tất cả trẻ trong lớp đều tham gia tích cực sơi nổi. Khi tơi vừa đặt câu hỏi,
tất cả các cháu đều mạnh dạn giơ tay phát biểu. Những cháu cảm nhận rất tốt trả
lời những câu nâng cao sẽ giúp cho những cháu yếu hơn học hỏi. Đây chính là
cách cho trẻ học qua bạn, dần dần trẻ bắt chước bạn, chịu suy nghĩ trả lời, làm
cho những cháu chậm yếu ngày càng phát triển ngôn ngữ, mở mang kiến thức
hơn, mạnh dạn hơn, đồng thời ngày càng tự tin hơn.
* Giải pháp 4: Linh hoạt, sáng tạo các hình thức tổ chức hoạt động văn học
(truyện kể) theo hướng lấy trẻ làm trung tâm.
Giáo dục lấy trẻ làm trung tâm là hình thức dạy học mà cô giáo chỉ là
người hướng dẫn còn trẻ được thảo luận, tự đặt câu hỏi, thể hiện được sự sáng
tạo của trẻ áp dụng phương pháp này tôi thấy trẻ rất hứng thú với hoạt động làm
quen với tác phẩm văn học thông qua truyện kể cụ thể như tôi đưa ra các câu hỏi
mở về nội dung câu chuyện để trẻ tự thảo luận đưa ra ý kiến về nội dung của câu
chuyện. Giáo viên cần phải dựa vào đặc điểm tâm sinh lý và đặc điểm nhận thức
của từng trẻ để từ đó lập kế hoạch giáo dục phù hợp. Bên cạnh đó giáo viên


mầm non cần hiểu rằng việc đặt câu hỏi “Trẻ hoạt động gì?” chỉ là hình thức bề
ngồi của một vấn đề. Mà cần phải đặt câu hỏi “Trẻ hoạt động như thế nào” ? đó
mới là điều cốt lõi của quá trình giáo dục trẻ.
Để hoạt động văn học (truyện kể) đạt kết quả cao thì việc đầu tiện là
người giáo viên phải chuẩn bị tốt nội dung hoạt động, đồ dùng trực quan đẹp sẽ
thu hút sự chú ý của trẻ. Trước đây giáo viên thường sử dụng tranh minh họa
làm đồ dùng chính cho trẻ làm quen với hoạt động văn học (truyện kể). Song
hiện nay thời đại công nghệ thông tin phát triển nên việc ứng dụng công nghệ

thông tin vào hoạt động văn học (truyện kể) mang lại kết quả cao. Vì vậy ngồi
việc sử dụng tranh minh họa ra cơ có thể cho trẻ quan sát nội dung câu chuyện
trên máy chiếu bằng các giáo án điện tử.
Ví dụ: Ở chủ đề Thế giới thực vật. Đề tài: Truyện “Cây táo”
- Đầu tiên tôi tặng cho trẻ một hộp quà trong đó có quả táo cho trẻ lên mở
quà và cùng quan sát, trò chuyện. Từ việc cho trẻ quan sát trò chuyện về quả táo
tôi dẫn dắt trẻ vào câu truyện cây táo.
- Khi vào nội dung chính, tơi kể cho trẻ nghe câu truyện lần một với ngữ điệu
lời nói theo nội dung câu truyện và hỏi trẻ tên truyện. Tôi kể câu truyện lần 2
kết hợp trình chiếu bằng papoil và giảng nội dung câu chuyện.
- Đến phần đàm thoại cho trẻ lên khám phá chiếc hộp thần kỳ, trong chiếc
hộp là các quả táo cắt bằng giấy màu có chứa hệ thống câu hỏi tôi đã chuẩn bị
sẵn theo nội dung của câu truyện. Tôi cho các trẻ lần lượt sung phong lên khám
phá và trả lời câu hỏi, nếu bạn lên mà khơng trả lời được thì các bạn khác có thể
trả lời hộ hoặc bổ sung. Đồng thời tơi giáo dục trẻ biết u q và chăm sóc cây
xanh.
Tôi kể lại câu truyện lần 3 kết hợp sa bàn, sau đó tơi ngồi cùng chiều với trẻ
và cho trẻ kể câu truyện trên máy chiếu cùng với cô.
+ Khi kết thúc tôi hỏi trẻ củng cố lại tên truyện, tên nhận vật trong truyện.
Nhận xét khen trẻ và cho trẻ đi thăm vườn thiên nhiên.
Việc thay đổi linh hoạt các hình thức hoạt động giúp trẻ tập trung hứng thú
vào hoạt động và hoạt động của cô không bị nhàm chán. Ngoài việc mở bài cho
trẻ hát, đọc thơ, tặng q…Tơi cịn có thể cho trẻ đi thăm siêu thị, thăm quan
vườn bách thú bằng những mơ hình mà tôi đã chuẩn bị sẵn, sẽ tạo cho trẻ sự
hứng khởi khi tham gia vào hoạt động. Các đồ dùng trực quan sử dụng rối tay
cũng rất thu hút sự chú ý của trẻ và giúp trẻ ghi nhớ, khắc sâu về nội dung, diễn
biến của câu chuyện, thể loại tôi đưa ra hệ thống câu hỏi đã chuẩn bị có tính
lơgic mang tính gợi mở để đàm thoại với trẻ với phương châm “Lấy trẻ làm
trung tâm”.
Ví dụ: Ở chủ đề thế gới động vật. Đề tài: Truyện “Đôi bạn tốt”

- Đầu tiên tôi mở nhạc bài một con vịt và cho trẻ đi thăm khu chăn nuôi các
con vật trong đó có con gà, con vịt, tơi cho trẻ trị chuyện về các con vật. Sau đó
tơi dẫn dắt trẻ vào câu chuyện đôi bạn tốt và cho trẻ nhẹ nhàng về vị trí của
mình.


- Khi vào nội dung chính, tơi kể truyện cho trẻ lần một với ngữ điệu lời nói
theo nội dung câu chuyện và hỏi trẻ tên chuyện, các nhân vật trong chuyện. Tôi
kể câu chuyện lần 2 kết hợp với tranh minh họa và giảng nội dung câu chuyện.
- Đến phần đàm thoại tôi cho trẻ quan sát sa bàn quay. Ở mỗi ô của sa bàn là
một ký hiệu và mỗi ký hiệu sẽ tương ứng với một câu hỏi trong hệ thống câu hỏi
tôi đã chuẩn bị sẵn theo nội dung của câu truyện. Tôi cho các trẻ lần lượt sung
phong lên khám phá và trả lời câu hỏi, nếu bạn lên mà khơng trả lời được thì các
bạn khác có thể trả lời hộ hoặc bổ sung.
Tơi kể lại câu truyện lần 3 kết hợp với rối tay trên nền nhạc phù hợp và sau
đó mời một số trẻ lên nhập vai vào các nhân vật còn cô là người điều khiển rối
và dẫn truyện.
- Khi kết thúc tôi hỏi trẻ củng cố lại tên truyện, tên nhận vật trong truyện.
Nhận xét, khen trẻ. Giáo dục trẻ biết u q và chăm sóc các lồi động vật.
Cuối cùng cho trẻ đi lấy mũ múa gà con và cùng làm các chú gà đi ra sân kiếm
ăn.
Để luôn tạo cho trẻ cảm giác mới lạ, gây hứng thú cho trẻ tham gia tích cực
hơn nữa vào hoạt động văn học, tránh tình trạng nhàm chán do lặp đi lặp lại
nhiều lần với cùng một hình thức hay cùng một đề tài tôi đã sử dụng linh hoạt,
sáng tạo các hình thức tổ chức hoat động khác nhau. Đưa ra nhiều hình thức thi
đua, đóng kịch, diễn xuất, hội thi… Đặc biệt là khi tôi tổ chức hoạt động dưới
hình thức hội thi sẽ tạo cho trẻ sự hào hứng và trẻ sẽ được trải nghiệm, được nói
nhiều từ đó ngơn ngữ của trẻ sẽ càng rõ ràng, mạch lạc hơn.
Ví dụ: Ở chủ đề bé thích đi bằng phương tiện giao thơng gì? Đề tài: truyện
“Thỏ con đi học”.

- Đầu tiên tơi cho trẻ chơi trị chơi “Con thỏ”. Tơi cho trẻ chơi 1 lần và trị
chuyện qua về trị chơi. Sau đó tơi dẫn dắt trẻ vào câu truyện Thỏ con đi học và
cho trẻ nhẹ nhàng về vị trí của mình.
- Khi vào nội dung chính, tôi kể chuyện cho trẻ lần một với ngữ điệu lời nói theo
nội dung câu chuyện. Tơi kể câu chuyện lần 2 kết hợp với tranh minh họa và
giảng nội dung câu chuyện.
- Đến phần đàm thoại tôi đưa ra hệ thống câu hỏi theo nội dung câu chuyện. Tôi
cho các trẻ sung phong lên trả lời câu hỏi, nếu bạn lên mà khơng trả lời được thì
các bạn khác có thể trả lời bổ sung.
Kể chuyện lần 3 tơi cho trẻ chơi trò chơi rạp chiếu phim. Cách chơi là tôi
cho trẻ đi chọn vé xem phim là những hình vng mà xanh, hình trịn màu đỏ và
u cầu trẻ tìm đúng ghế có hình tương ứng. Khi trẻ đã ngồi vào chỗ tôi kể
truyện cho trẻ nghe kết hợp với rối.
- Khi kết thúc tôi hỏi trẻ củng cố lại tên chuyện, tên nhận vật trong truyện. Nhận
xét, khen trẻ. Giáo dục trẻ khi đi ra ngoài đường phải luôn nhớ lời bố mẹ dặn,
không được chạy ra lịng đường và chơi các trị chơi ra ngồi đường. Cuối cùng
tôi tặng cho mỗi trẻ một cái mũ múa thỏ con và cùng các bạn nhỏ chơi trò chơi
trời nắng trời mưa.
Thông qua việc linh hoạt, sáng tạo trong việc thay đổi các hình tức tổ
chức hoạt động văn học (truyện kể) theo hướng lấy trẻ làm trung tâm là thực sự


rất cần thiết và quan trọng nó nhằm phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của
trẻ. Trẻ được chủ động đưa ra những ý tưởng của mình và tự tìm tịi khám phá
tạo cho trẻ sự tự tin, mạnh dạn, chủ động tham gia trả lời các câu hỏi, tham gia
kể chuyện từ đó giúp trẻ hiểu hơn về các câu truyện, đồng thời ngôn ngữ của trẻ
được nâng cao hơn.
* Giải pháp 5: Lồng ghép tích hợp hoạt động văn học (truyện kể) cho trẻ vào
các hoạt động khác.
Theo phương pháp dạy học tích cực thì qua các giờ học tơi tích hợp

truyện kể những lúc trị chuyện với trẻ theo đề tài đưa các truyện kể vào mở bài,
kết thúc hoạt động. Bên cạnh việc cung cấp vốn từ cho trẻ cịn giúp trẻ tìm hiểu
về xung quanh. Hình thành cho trẻ tình cảm đối với con người, cuộc sống, giúp
cho các hoạt động khác sinh động, hấp dẫn tránh sự nhàm chán, vào hoạt động
giúp trẻ lĩnh hội kiến thức dễ dàng.
- Với hoạt động nhận biết tập nói: Đây là hoạt động cung cấp cho trẻ nhiều kiến
thức về thế giới xung quanh trẻ. Ở chủ đề thế giới động vật, khi cho trẻ hoạt
động nhận biết tập nói về con gà con vịt. Tơi có thể cho trẻ kể lại các nhân vật
trong truyện đơi bạn nhỏ và có thể cho trẻ cùng cô kêu lại cách kêu cứu của gà
con và cách vịt con gọi bạn gà sau đó tơi dẫn dắt vào cho trẻ cùng nhận biết tập
nới về con gà con vịt. Đây là dịp để trẻ phát triển tư duy về ngôn ngữ.
- Với hoạt động với đồ vật: Ở chủ đề thế giới thực vật khi cho trẻ hoạt động dán
quả cho cây. Tơi có thể kể lại một đoạn của câu truyện cây táo và trò truyện dẫn
dắt trẻ vào bài.
- Với hoạt động vận động: Ở chủ đề mẹ và những người thân yêu của bé với
hoạt động đi qua đường hẹp mang cà rốt về nhà cho thỏ. Tôi gợi hỏi trẻ trong
câu truyện thỏ con khơng vâng lời có những nân vật vào và tôi cho trẻ đội mũ
múa làm các chú thỏ con và cùng đi qua đường hẹp mang cà rốt về nhà cho thỏ
mẹ.
* Giải pháp 6: Tổ chức hoạt động văn học (truyện kể) cho trẻ ở mọi lúc, mọi
nơi.
Lồng ghép tích hợp là một trong những phương pháp địi hỏi ở giáo viên
sự sáng tạo, linh hoạt và khéo léo khi vận dụng. Q trình vận dụng tích hợp tổ
chức hoạt động cho trẻ phải có sự lựa chọn một cách hợp lý, lơgíc, tránh làm cho
q trình hoạt động trở nên rời rạc chắp vá.
* Giờ đón trẻ và trả trẻ:
Trong giờ đón trả trẻ tơi có thể cho trẻ hát, đọc thơ, đồng dao. Tơi có thể
hướng dẫn trẻ tự xếp tranh, xem tranh và kể chuyện theo tranh mà mình vừa xếp
được. Qua việc trị chuyện với trẻ tôi đặt những câu hỏi liên quan đến câu
chuyện phù hợp cho trẻ tư duy và trả lời.

Ví dụ : - Hôm qua các con đã được nghe cơ kể câu chuyện gì?
- Trong chuyện có những nhân vật nào?
Từ tất cả các hoạt động trong giờ đón trả trẻ, tôi đều tận dụng để giáo dục
các nội dung phù hợp, đặc biệt là trao đổi trò chuyện với trẻ các nội dung có liên
quan đến văn học (truyện kể). Từ đó khai thác tối ưu các kỹ năng tác động đến
sự phát triển ngôn ngữ của trẻ.


* Giờ hoạt động chiều:
Trong giờ hoạt động chiều tôi thường rèn cho trẻ những kỹ năng tự thể
hiện câu truyện, uốn nắn thêm cho một số trẻ còn yếu trong khi phát âm, hướng
dẫn cho trẻ nói đủ câu, khơng nói trống khơng với người lớn từ đó làm tăng vốn
từ, giúp trẻ sử dụng câu chính xác và mạnh dạn hơn trong giao tiếp.
* Thông qua các ngày hội, ngày lễ:
Qua các buổi sinh hoạt ngày hội ngày lễ cũng cần cho trẻ làm quen văn
học thông qua truyện kể, cứ mỗi chủ đề vào buổi chiều thứ sáu cuối chủ đề tôi
lại tổ chức cho trẻ sinh hoạt văn nghệ kể chuyện, đóng kịch có chuẩn bị mũ các
con vật, hoa văn nghệ… Qua một thời gian thực hiện tơi nhận thấy trẻ rất thích
và mong đợi đến buổi chiều cuối chủ đề, trẻ được vui chơi thoải mái, được nghỉ
ngơi, thư giản, củng cố lại kiến thức đã học dưới hình thức biểu diễn văn nghệ.
Trong các ngày hội ngày lễ tôi hay bàn bạc với nhà trường nên dành nhiều thời
gian cho các cháu được tham gia kể chuyện, đóng kịch. Đó cũng là một hình
thức tuyên truyền về ngành học rất lớn, trẻ rất thích được làm và được khen.
Giúp trẻ phát triển về trí tuệ, nhanh nhẹn, mạnh dạn trước mọi người và cảm thụ
được cái đẹp, cái hay của văn học.
Qua việc áp dụng một số biện pháp trong và ngoài giờ học, chất lượng về
hoạt động văn học thông qua truyện kể của lớp tôi tăng lên rõ rệt, các cháu rất
mạnh dạn khi giao tiếp, thích trị chuyện cùng người lớn và đặc biệt rất thích
tham gia vào hoạt động của tất cả các chương trình giáo dục mầm non nói
chung, hoạt động văn học thơng qua truyện kể nói riêng.

* Giờ hoạt động ngồi trời:
Thơng qua hoạt động ngồi trời tơi có thể cho trẻ làm quen với các câu
chuyện để hỗ trợ lồng ghép vào hoạt động chính.
Ví dụ: Thơng qua giờ hoạt động ngồi trời cho trẻ quan sát “Một số đồ dùng cá
nhân của bé” cô có thể lồng ghép kể cho trẻ nghe câu chuyện “Vệ sinh buổi
sáng”.
Ví dụ: Thơng qua giờ hoạt động ngồi trời cho trẻ quan sát “Một số lồi hoa” cơ
có thể lồng ghép kể cho trẻ nghe câu chuyện “Vườn hoa nhà bé bi”.
Hình ảnh 3: Tổ chức hoạt động văn học mọi lúc mọi nơi (phần phụ lục)
* Biện pháp 7: Cho trẻ kể lại truyện, đóng kịch để tăng vốn từ cho trẻ.
- Tổ chức cho trẻ kể truyện:
Khi cho trẻ kể lại chuyện vốn từ của trẻ tăng lên rất nhiều. Từ những ngơn
ngữ đã có sẵn của các tác giả và của giáo viên được trẻ tái hiện lại bằng ngơn
ngữ của chính mình. Trẻ làm quen với các mẫu câu văn học đã được gọt giũa
chọn lọc. Khi kể trẻ cố gắng thể hiện đúng ngữ điệu, tính cách nhân vật mà trẻ
kể, giúp cho ngôn ngữ của trẻ mang sắc thái biểu cảm rõ rệt.
Với hình thức kể chuyện theo ý thích, cho thấy trẻ có sức tưởng tượng
cùng vốn từ phong phú, với kinh nghiệm mà có lẽ trẻ được nghe ở các câu
chuyện nào đó nên đã nghĩ ra chuyện mang tính chất hư cấu hãy tạo cho trẻ sự
mạnh dạn tự tin trong giáo tiếp khi nói chuyện thì trẻ sẽ kể truyện mạch lạc hơn.
- Thời gian đầu khi chưa quen trẻ kể theo mẫu câu cô (hoặc đối với trẻ kém).
Khi trẻ đã quen cơ khuyến khích trẻ kể bằng ngơn ngữ của mình;


Có thể tập trung cho trẻ kể chuyện bằng nhiều cách:
- Cô trẻ kể tiếp và kết thúc truyện (Hiểu các bước trình bày ý tưởng và kết thúc
câu chuyện)
- Cho trẻ ngồi cùng chiều với cô và kể truyện theo tranh chữ to (Kể theo bộ 2 - 3
tranh hoặc kể theo 1 tranh nhằm tập kể một câu truyện dựa trên yếu tố trực
quan).

- Trẻ kể truyện từ nhân vật do giáo viên nêu ra (tập trình bày ý tưởng từ trải
nghiệm, kinh nghiệm cá nhân dựa trên gợi ý qua các nhân vật mà trẻ đã biết).
- Trẻ kể truyện sáng tạo (Tự chọn chủ đề… Tập trình bày ý tưởng dựa trên vốn
kinh nghiệm, sự tưởng tượng sáng tạo của cá nhân).
Song để trẻ kể được truyện một cách hấp dẫn thể hiện được giọng điệu
diễn cảm giáo viên cần chú ý các bước luyện tập cho trẻ kể truyện đó là: Trị
chuyện với trẻ để giúp trẻ lựa chọn ý tưởng và nội dung câu chuyện. Đàm thoại
để khơi gợi các hình ảnh liên quan đến nội dung câu truyện. Cô kể câu chuyện
theo cách của cô coi truyện của cô kể chỉ là cách kể mẫu cho trẻ tham khảo cho
lần kể sau, không áp đặt cách kể theo khuân mẫu đối với trẻ.
Trẻ kể truyện theo ý thích ngắn gọn, dễ hiểu, các câu sử dụng là câu đơn.
Có trẻ kể theo trình tiết sự việc xảy ra, có trẻ đi sâu vào một chi tiết. Muốn trẻ kể
truyện theo ý thích được tự nhiên, giáo viên cần biết hướng lái, biết khơi dậy ở
trẻ những tình cảm chân thực, sự quan sát kỹ lưỡng, trí tưởng tượng bay bổng và
biết cách sử dụng từ phong phú thì câu chuyện sẽ rất hay.
- Trị chơi đóng kịch:
Tổ chức cho trẻ chơi đóng kịch là một phương pháp tốt để phát triển ngôn
ngữ đối thoại cho trẻ. Nội dung kịch được chuyển thể từ tác phẩm văn học mà
trẻ đã được làm quen. Qua hoạt động đóng kịch trẻ truyền đạt lại nội dung câu
truyện, làm sống lại tâm trạng, hành động ngôn ngữ hội thoại của các nhân vật
trong truyện, đồng thời trẻ biết thể hiện tình cảm và đánh giá các nhân vật trong
truyện. Để đạt được điều đó thì trước khi cho trẻ đóng kịch giáo viên phải cho
trẻ ơn lại nội dung câu truyện và đàm thoại với trẻ về nội dung. Để từ đó trẻ biết
thể hiện những sắc thái khác nhau về ngữ điệu, tính cách tâm trạng của các nhân
vật trong truyện.
Trị chơi đóng kịch thực sự giúp trẻ cảm nhận được câu truyện một cách
sâu sắc và để đạt được điều đó thì việc trang trí sân khấu cho trẻ rất quan trọng
và bên cạnh việc làm mơ hình sân khấu thì việc hố trang cho trẻ đóng kịch
cũng rất cần thiết.
Ví dụ: Chủ đề thế giới động vật câu chuyện “Đôi bạn tốt” Sau khi cho trẻ nhắc

lại lời thoại của câu truyện thì cơ cho trẻ xung phong nhận vai theo vai của các
nhân vật trong truyện và cô cho trẻ đội mũ múa của các nhân vật. Cơ sẽ là người
dẫn truyện cịn trẻ sẽ nhập vai vào nhân vật gà con, vịt con.
Qua quá trình cho trẻ kể lại truyện và chơi trị chơi đóng kịch bằng chính
ngơn ngữ của mình trẻ trở nên mạnh dạn, tự tin hơn và tích cực tham gia kể
truyện, đóng kịch cùng các bạn. Lúc này ngôn ngữ của trẻ đã phong phú việc
diễn đạt đã mạch lạc hơn .
Hình ảnh 4: Trẻ lên kể truyện cùng cô (phần phụ lục)


* Giải pháp 8: Công tác phối kết hợp với phụ huynh
Phối hợp với phụ huynh là một việc làm hết sức quan trọng. Phụ huynh là
người đánh giá chính xác chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ của giáo viên, đồng
thời là một lực lượng hỗ trợ đắc lực cho giáo viên trong việc nâng cao chất
lượng chăm sóc giáo dục trẻ. Vì vậy tơi thường xun trao đổi với phụ huynh
phối hợp với giáo viên ở nhà đọc hoặc kể cho trẻ nghe về các câu chuyện trong
chủ đề qua bảng tuyên truyền hoặc qua trao đổi với cơ. Từ đó ngơn ngữ của trẻ
sẽ tăng lên rất nhiều trẻ tự tin mạnh dạn trong khi kể chuyện.
Tuyên truyền dưới nhiều hình thức: Trực tiếp trao đổi với phụ huynh hoặc
thông qua bảng tuyên truyền của lớp. Tùy vào từng chủ đề giáo viên có thể sưu
tầm tranh ảnh, truyện phù hợp để phụ huynh tham khảo. Khuyến khích hoặc
tuyên truyền với phụ huynh cung cấp kinh nghiệm sống cho trẻ. Tránh khơng
nói tiếng địa phương, cần tránh cho trẻ nghe những hình thái ngơn ngữ khơng
chính xác.
Tích cực trao đổi với phụ huynh vào giờ đón trẻ và trả trẻ. Động viên phụ
huynh dành thời gian kể chuyện, đọc chuyện cho cháu nghe trước khi đi ngủ,
lắng nghe trị chuyện với con giúp con phát triển ngơn ngữ mạch lạc. Từ đó nhận
ra sự phát triển ngơn ngữ, tình cảm của trẻ như thế nào theo từng tháng.
Ví dụ: Ở chủ đề thế giới động vật tơi trao đổi với phụ huynh về những câu
chuyện tôi đã kể cho trẻ nghe như “Chuyện đôi bạn nhỏ, chuyện gà mái mơ,

chuyện các bạn của mèo con” và yêu cầu phụ huynh về nhà cho trẻ kể lại câu
chuyện đó hoặc khuyến khích trẻ kể các câu chuyện khác. Như vậy ngôn ngữ
của trẻ được phát triển một cách phong phú và đa dạng hơn.
Vận động phụ huynh đóng góp các nguyên vật liệu đã qua sử dụng để làm đồ
dùng đồ chơi phù hợp với chủ đề. Ví dụ như trong chủ đề động vật cô vận đông
phụ huynh mang các vật dụng cũ như: Thùng giấy, sách báo cũ, chai nhựa, vải
vụn, dụng cụ hóa trang... để làm các mơ hình, con vật, cây cối...
Biện pháp phối hợp với phụ huynh sẽ tạo được sự gần gũi, hịa đồng với phụ
huynh từ đó phụ huynh hiểu hơn về giáo viên và con em mình khi đến lớp.
100% phụ huynh ủng hộ cho trẻ mang thêm đồ dùng, đồ chơi, tranh ảnh, sách
báo sưu tầm, truyện tranh phù hợp với chủ đề, góp phần phát triển ngơn ngữ
mạch lạc cho trẻ, trẻ hứng thú hơn khi hoạt động văn học thơng qua (truyện kể).
Hình ảnh 5: Phối kết hợp với phụ huynh học sinh (phần phụ lục)
2.4. Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm:
Sau khi tiến hành các giải pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 - 36 tháng
tuổi thông qua hoạt động văn học (truyện kể) ở trường Mầm Non Lộc Tân đã
đạt được kết quả như sau :
* Bảng 2: Kết quả khảo sát sau khi áp dụng các biện pháp
Nội dung khảo sát
Tổng Số
Kết quả
trẻ
Đạt yêu cầu
Chưa đạt yêu cầu


Trẻ hứng thú với hoạt động
văn học (truyện kể)
Trẻ trả lời câu hỏi đàm thoại
rõ ràng, mạch lạc.

Trẻ hiểu nội dung câu
truyện, biết tên nhân vật
trong truyện
Trẻ kể lại truyện diễn cảm
cùng cô.

15

SL
15

%
100

SL
0

%
0

15

15

100

0

0


15

15

100

0

0

15

15

100

0

0

Qua bảng khảo sát sau khi áp dụng các giải pháp trên chúng ta nhận thấy
mức độ hứng thú, khả năng trả lời các câu hỏi đàm thoại, khả năng kể truyện của
trẻ đã tăng lên rõ rệt, tỉ lệ trẻ yếu khơng cịn. Như vậy việc áp dụng một số giải
pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi thông qua hoạt động văn học
(truyện kể) cho trẻ là đúng đắn và mang tính khả thi, qua đó ta thấy được những
phương pháp nào nên áp dụng và áp dụng vào lúc nào, vào thời điểm nào để lôi
cuốn sự chú ý của trẻ và tạo cho trẻ sự hứng thú, thoải mái trong khi học và để
trẻ phát triển một cách tốt nhất về mọi mặt.
* Đối với trẻ:
- Nhận biết của trẻ được mở rộng, ngôn ngữ phát triển đúng đắn, trẻ phát triển cả

về thể chất lẫn tinh thần.
- Trẻ nói rõ ràng mạch lạc hơn, trẻ nói được nhiều câu (Câu đơn, câu ghép)…
- Trong giờ học trẻ tập trung, hứng thú học, biết trả lời các câu hỏi của cô. Trẻ ghi
nhớ thuộc truyện lâu hơn và trẻ thuộc rất nhiều câu chuyện. Trẻ thích kể chuyện,
thích được đóng kịch bằng ngôn ngữ rõ ràng mạch lạc hơn. Vốn từ phong phú và
đa dạng.
* Đối với bản thân:
Từ thực tế giảng dạy trẻ 24 - 36 tháng tuổi trong q trình phát triển ngơn
ngữ cho trẻ thơng qua hoạt động văn học (truyện kể) ở trường Mầm Non Lộc
Tân đạt được kết quả như trên bản thân tôi nhận thức rõ tầm quan trọng của việc
phát triển ngôn ngữ cho trẻ, cô phải nắm vững được nội dung các phương pháp
của tiết dạy, phải chuẩn bị giáo án, đồ dùng trực quan sinh động, hấp dẫn đảm
bảo tính khoa học, tính giáo dục để trẻ hứng thú vào giờ học đạt kết quả cao.
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động văn học (truyện kể) ngôn ngữ
của trẻ sẽ phong phú hơn để thể hiện được cảm xúc của mình một cách thối mái
chủ động sáng tạo. Các hoạt động kể truyện khơng cịn tẻ nhạt, trẻ tự tin, mạnh
dạn hứng thú hơn trong giờ học, tiếp thu bài tốt hơn, giờ học đạt hiệu quả cao
hơn tạo nền móng vững chắc cho trẻ ở giai đoạn tiếp theo.
* Đối với đồng nghiệp:
Đối với đồng nghiệp tôi mạnh dạn đưa ra sáng kiến trên để chị em tham
khảo và áp dụng vào các hoạt động dạy của mình.
* Đối với phụ huynh:


Khơng những có sự thay đổi trên trẻ mà một phần nào các bậc phụ huynh
cũng đã có sự thay đổi nhìn nhận về việc học. Đã ủng hộ nhiệt tình, giúp đỡ giáo
viên trong việc tìm kiếm nguyên vật liệu làm đồ dùng, đồ chơi cho trẻ.
* Đối với nhà trường.
Với sự chỉ đạo của ban giám hiệu nhà trường, sự góp ý của các đồng
nghiệp qua các buổi dự giờ giải pháp trên ngày càng được hoàn thiện và mang

lại hiệu quả cao hơn.
Kết quả thu được từ bản sáng kiến nâng cao chất lượng phát triển ngôn
ngữ thông qua hoạt động văn học (truyện kể) ở trường Mầm Non Lộc Tân đối
với trẻ 24 - 36 tháng tuổi, tơi đã nghiên cứu và áp dụng tại nhóm trẻ 24 - 36
tháng tuổi tại nhà trường, nhà trường đã cho nhân rộng và thường xuyên cho
cháu được trải nghiệm, tuyên truyền phối hợp với các bậc phụ huynh toàn
trường về nâng cao chất lượng giáo dục phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt
động động văn học (truyện kể), nhà trường đã thực hiện hiệu quả chuyên đề này.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận.
Qua việc thực hiện biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 - 36 tháng
tuổi thông qua hoạt động văn học (truyện kể) là sự tổng hợp tồn bộ nội dung
rèn luyện ngơn ngữ. Tôi nhận thấy đây là một vấn đề cơ bản và cần thiết trong
việc ni dưỡng chăm sóc giáo dục trẻ. Vì vậy, tơi mạnh dạn đưa ra để tất cả các
bạn đồng nghiệp tham khảo và vận dụng, nhằm thực hiện tốt mục tiêu giáo dục
nói chung phát triển ngơn ngữ nói riêng. Bởi vì trong q trình phát triển của trẻ
chủ yếu là trẻ bắt chước người xung quanh, bắt chước là năng lực bẩm sinh của
trẻ nhưng bắt chước có thể tốt, có thể khơng tốt, vì nhận thức của trẻ cịn hạn
chế, vốn kinh nghiệm sống cịn ít ỏi, trẻ chưa có khả năng phân biệt, chọn lọc
đúng sai, nên trẻ rất rễ mắc phải những sai lầm trong việc bắt chước lời nói của
những người xung quanh. Nhưng trong cuộc sống trẻ cần phải sử dụng 1 vốn từ
không nhỏ để phục vụ cho việc giao tiếp và thực hiện các mối quan hệ xã hội.
Tuy nhiên, cách sử dụng ngơn ngữ cịn sai lệch. Bởi vậy, dạy trẻ phát triển ngôn
ngữ thông qua hoạt động hoạt động văn học (truyện kể) là vấn đề hết sức quan
trọng và cần thiết, vì thơng qua hoạt động văn học (truyện kể) ngôn ngữ của trẻ
phong phú hơn giúp trẻ nói rõ ràng mạch lạc, tự tin trong giao tiếp hàng ngày.
Để có được những kết quả tốt trên trẻ thì bản thân người giáo viên cần:
- Rèn nề nếp thói quen, sự hứng thú thoải mái trong giờ hoạt động truyện
kể cho trẻ.
- Cô phải hiểu rõ đặc điểm tâm sinh lý trẻ, nắm bắt được nhu cầu của trẻ

trẻ cần gì và thích gì để khi truyền đạt nội dung truyện cho trẻ đạt hiệu quả cao
hơn.
- Giáo viên phải thật sự yêu trẻ và kiên nhẫn để giúp trẻ dần hồn thiện
mình hơn. Sưu tầm tranh ảnh có nội dung phù hợp, trao đổi kiến thức tự học
qua sách báo, internet, qua giáo viên đồng nghiệp.
- Cô giáo phải là người nắm được nội dung hoạt động, có được kết quả
trên giáo viên phải nỗ lực hết mình đặt nền móng đầu tiên trong việc hình
thành nhân cách con người mới, cơ phải rèn luyện cho mình các thói quen


thực hiện tốt các nội dung hoạt động, các hoạt động hàng ngày, theo dõi uốn
nắn trẻ, mở rộng cho trẻ về thế giới xung quanh từ đó làm nền tảng cho sự
phát triển của trẻ.
- Cô cần vận dụng linh hoạt sáng tạo các thủ thuật các biện pháp hỗ trợ
cho phương pháp tích hợp phát triển ngơn ngữ cho trẻ đảm bảo thời gian tiết
dạy. Đầu tư thời gian để nghiên cứu kĩ đề tài để có các phương pháp dạy học cụ
thể, phù hợp và đạt hiệu quả tốt nhất.
- Tận dụng những nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương để làm đồ dùng,
đồ chơi, chuẩn bị đồ dùng trực quan sinh động, phong phú, hấp dẫn.
- Việc truyền thụ các câu chuyện cho trẻ cần được tiến hành trong các
hoạt động và ở mọi lúc mọi nơi và thông qua các hoạt động khác.
- Thường xuyên rèn luyện bản thân, kỹ năng dạy, thao tác rèn luyện giọng
nói. Đồ dùng dạy trẻ phong phú, sáng tạo, hấp dẫn. Khi sử dụng mơ hình trực
quan vào hoạt động phải sử dụng đúng lúc, đúng chỗ và phù hợp với nội dung.
- Phối hợp giữa gia đình và nhà trường cho trẻ đi học để kiến thức thu
được một cách có hệ thống, có khoa học. Luyện cho trẻ nói đúng ngữ pháp và
ngày càng hồn thiện hơn về mặt vốn từ.
3.2. Kiến Nghị
* Đối với nhà trường.
Ban giám hiệu tích cực tham mưu với lãnh đạo địa phương bổ sung cơ sở

vật chất trang thiết bị dạy học để giáo viên chuẩn bị thực hiện công tác giảng
dạy thuận tiện hơn.
Tạo điều kiện cho giáo viên tham quan ở đơn vị bạn nhằm học hỏi rút kinh
nghiệm.
* Đối với phòng Giáo dục và Đào tạo.
Cung cấp các tập san và tổ chức những buổi chuyên đề về các hoạt động
học, đặc biệt là môn văn học để giáo viên được học hỏi đúc rút kinh nghiệm
trong quá trình giảng dạy.
Chọn những sáng kiến kinh nghiệm hay phổ biến rộng rải và cụ thể hóa
trên hoạt động giảng dạy để cho chúng tôi được tham khảo và học tập.
Quan tâm đầu tư trang thiết bị đồ dùng dạy và học cho trẻ nhà trẻ nói
riêng và nhà trường nói chung.
Trên đây là một số kinh nghiệm bước đầu của bản thân trong việc nâng
cao chất lượng phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động văn học (truyện
kể) cho trẻ. Trong quá trình nghiên cứu tìm ra các giải pháp tơi tin rằng mình
khơng thể tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Tơi mong được hội đồng khoa
học, các cấp lãnh đạo cũng như các đồng nghiệp góp ý để sáng kiến kinh nghiệm
của tơi được hoàn thiện hơn, áp dụng vào thực tiễn đạt hiệu quả cao hơn. Từ đó
góp phần nhỏ vào sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Xin chân thành cảm ơn!
Xác nhận của thủ trưởng đơn vị
Thị trấn, ngày 17 tháng 3 năm 2021
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, khơng sao chép nội dung của


Đỗ Thị Mùi

người khác
Người viết


Ngô Thị Duyến

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo Dục Và Đào Tạo - Nhà xuất bản đại học Quốc Gia Hà Nội – Phương
pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ dưới 6 tuổi ( In lần thứ 2).
2. Bộ Giáo Dục Và Đào Tạo – Nhà xuất bản đại học Quốc Gia Hà Nội –
Phương pháp cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học ( In lần thứ 4).
3.Nhà Xuất Bản Giáo Dục Việt Nam – Chủ biên Lê Thu Hương – Tuyển chọn
trò chơi, bài hát, thơ ca, truyện, câu đố theo chủ đề cho trẻ 24- 36 tháng.
4. Nhà Xuất Bản Giáo Dục Việt Nam – Đồng chủ biên Lê Thị Huệ, Phạp Thị
Tâm – Thiết kế các hoạt động có chủ đích, hoạt động góc và hoạt động ngồi
trời trong trường mầm non cho trẻ 24- 36 tháng.
5. PGS. TS. Nguyễn Thị Ánh Tuyết _ Tâm lý học trẻ em. NXB giáo dục trường
ĐH Sư Phạm Hà Nội.
6. Trang web mamnon.com_ Thư viện giáo án điện tử _ Thư viện trực tuyến
VIOLET.


PHỤ LỤC

Hình ảnh 1: Trẻ ngồi chăm chú lắng nghe cô kể truyện


Hình ảnh 2: Đồ dùng đồ chơi tự tạo

Hình ảnh 3: Hoạt động văn học mọi lúc mọi nơi


Hình ảnh 4: Trẻ lên kể truyện cùng cơ



×