Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 – 36 tháng – Trường Mầm non

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.87 MB, 17 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trẻ em là hạnh phúc của gia đình, là tương lai của đất nước, là lớp người kế
tục cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ch ính vì thế mà nhiệm vụ và
mục tiêu của giáo dục Mầm non là làm tốt công tác nuôi dưỡng, giáo dục trẻ
nhằm bồi dưỡng các cháu trở thành những người công dân tốt cho xã hội sau
này. Như đồng chí Lê Duẩn đã nói “ Xây dựng con người mới là một trong các
mục tiêu quan trọng hàng đầu của cách mạng XHCN, song con người phải được
xây dựng từ bây giờ, từ những dòng sữa tươi mát của người mẹ, từ những sự
chăm sóc đầu tiên của gia đình và xã hội”.
Tại đại hội cô nuôi dạy trẻ tiên tiến toàn Miền Bắc lần II Thủ tướng Phạm
Văn Đồng đã nói “…Hãy giành những gì tốt đẹp nhất cho trẻ em”. Như vậy,
chúng ta phải nuôi dạy trẻ một cách tốt nhất bằng tất cả các khả năng có thể có
được của gia đình và xã hội, phải làm thật tốt việc nuôi dạy trẻ trong nhà trường.
Trẻ em như mầm non của giống tốt, giống được ươm đúng kỹ thuật thì sau này
sẽ bội thu, nuôi dạy tốt thì sau này sẽ có một đội quân hùng hậu về mọi mặt để
xây dựng và bảo vệ tổ quốc ta giàu đẹp, hùng cường.
Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội có vai trò vô cùng quan trọng. Đối với
con người ngôn ngữ vừa là phương tiện để giao tiếp, vừa là phương tiện để tư
duy, đó chính là bản chất của ngôn ngữ. Hoạt động giao tiếp không chỉ được
hiểu đơn giản là quá trình trao đổi, truyền đạt và thu nhận thông tin, mà đó chính
là sự tác động qua lại giữa con người với con người. Nhờ có hoạt động giao tiếp
con người mới có thể lao động tạo ra sản phẩm xã hội. Như vậy có thể nói nếu
không có ngôn ngữ con người không thể lao động chung, không thể có sản phẩm
xã hội và không có xã hội. Như vậy ngôn ngữ là phương tiện hình thành bảo tồn
và phát triển của xã hội loài người.
Ở lứa tuổi Mầm non, nhân cách của trẻ được hình thành và phát triển rất
nhanh. Ngôn ngữ chính là một trong những phương tiện thúc đẩy trẻ trở thành
một thành viên xã hội loài người. Ngôn ngữ là một công cụ hữu hiệu để trẻ có
thể bày tỏ những nguyện vọng của mình từ khi còn rất nhỏ để người lớn có thể
1



chăm sóc, điều khiển, giáo dục trẻ là một điều kiện quan trọng để trẻ tham gia
vào mọi hoạt động và trong hoạt động hình thành nhân cách trẻ.
Trẻ 24 đến 36 tháng, ngôn ngữ của trẻ phát triển rất nạnh trên các bình
diện: Vốn từ tăng lên rất nhanh, từ vài chục từ lên hàng trăm từ, đây là “ thời kỳ
phác cảm ngôn ngữ”. Do tốc độ phát triển nhanh về ngôn từ, ngữ pháp, giọng
điệu…trẻ dễ vấp phải những tật ngôn ngữ nói như : nói ngọng, nói lắp… nên rất
ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý, thái độ của trẻ. Trong xã hội hiện nay, nhiều
gia đình bố mẹ còn bận mải lo làm ăn ít quan tâm đến nhu cầu gắn bó của trẻ.
Nó thể hiện ở mối quan hệ, nếu trẻ không được đối sử tốt trẻ sẽ ngại giao tiếp
mà giao tếp với người lớn là điều kiện quết định để trẻ lớn lên và trưởng thành.
Đối với trường tôi, nằm trên địa bàn xã Nga Hưng, trẻ lứa tuổi 24 – 36 tháng
còn nói ngọng, nói sai nhiều, nhiều bố mẹ mải lo làm ăn nên chưa chú ý đến
việc dạy nói đúng khoa học. Là giáo viên trực tiếp nuôi dạy trẻ, tôi được chứng
kiến và là người khơi nhuồn “ Vốn ngôn ngữ của trẻ”. Vậy tôi đã nghiên cứu và
thực hiện đề tài “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 – 36 tháng
– Trường Mầm non Nga Hưng - Nga Sơn”.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
Trẻ từ 24 đến 36 tháng tuổi hoạt động chủ đạo là hoạt động với đồ vật,
nhờ đồ vật này mà trẻ khám phá ra các thuộc tính, nắm được những chức năng
và phương thức sử dụng đồ vật “theo kiểu người lớn” có ảnh hưởng lớn đến sự
phát triển tâm lý của trẻ. Trong quá trình giao tiếp với người lớn, những tiền đề
đầu tiên của ngôn ngữ xuất hiện và trẻ bắt đầu hiểu được lời nói của người lớn
và phát âm được những từ đầu tiên. Trẻ tiếp xúc với thế giới bên ngoài một cách
độc lập và tự do hơn, thay đổi cả hình thức giao tiếp với người lớn. Thế giới đồ
vật đã trở thành đối tượng nhận thức của trẻ, nhu cầu nhận thức tò mò, ham hiểu
biết được phát triển hết sức mạnh mẽ. Hứng thú họat động với đồ vật ngày một
tăng lên, kích thích trẻ hướng đến người lớn để nhờ giúp đỡ. Từ đó nảy sinh nhu
2



cầu giao tiếp bằng ngôn ngữ, đây là thời kỳ chuyển từ tiền phát triển ngôn ngữ
sang phát triển ngôn ngữ và là thời kỳ phát triển ngôn ngữ nhanh nhất. Trẻ học
nói nhanh, vốn từ tăng nhanh, trẻ nắm được ngôn ngữ của mẹ đẻ. Trẻ đã biết bắt
chước người lớn những âm chưa chuẩn. Nhiều chức năng ngôn ngữ như thông
báo, khuyến khích, xin phép....được trẻ tập và sử dụng chính xác, hay đặt câu
hỏi với người lớn. Một điều quan trọng phải chú ý luyện và rèn phát âm đúng,
chuẩn các phụ âm đầu, phụ âm cuối, nguyên âm và các dấu thanh để giúp trẻ nói
chuẩn ngay từ khi trẻ biết nói.
Phát triển sự định hướng vào thế giới xung quanh có ý nghĩa rất to lớn đối
với phát triển lời nói. Cần phát triển ở trẻ năng lực quan sát, nhận biết các đồ
vật, hiện tượng khác nhau, đồng thời cho chúng làm quen với những hoạt động
của người lớn. Kết quả là sẽ phát triển được mặt hiểu ý nghĩa của lời nói, khả
năng phát âm, các chức năng giao tiếp và khái quát hóa.
Nói tóm lại, việc rèn luyện cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi phát âm, phát triển
vốn từ, nói có ngôn ngữ mạch lạc, chính xác, đúng ngữ pháp, mang tính biểu
cảm là nhiệm vụ rất quan trọng, cấp thiết của cô giáo Mầm non nói chung và
bản thân tôi nói riêng. Đây chính là mục đích của tôi khi nghiên cứu, thực hiện
đề tài này.
II. THỰC TRẠNG CỦA ĐỀ TÀI
1. Thuận lợi
Trường nằm trên địa bàn xã Nga Hưng huyện Nga Sơn, tổng số trẻ 24 36 tháng là 31 trẻ.
Khi nghiên cứu đề tài, tôi được Nhà trường phân công trực tiếp chăm sóc,
giáo dục trẻ ở độ tuổi 24 - 36 tháng, có ít nhiều kinh nghiệm nuôi dạy trẻ, với
kinh nghiệm làm mẹ đã giúp tôi thuận lợi trong công việc hơn. Bản thân tôi
cũng nhận được sự động viên giúp đỡ của Ban giám hiệu Nhà trường, bạn bè
đồng nghiệp, sự ủng hộ của gia đình, phụ huynh, đặc biệt là tình cảm yêu quý
của các bé dành cho tôi. Cơ sở vật chất, môi trường học tập đầy đủ giúp tôi hoàn
thiện trong công việc nghiên cứu phát triển ngôn ngữ của trẻ.

3


2. Khó khăn
Tuy nhiên tôi vẫn còn gặp một số khó khăn như: Trẻ còn bé và nhút nhát,
chưa quen với môi trường có nhiều người và xa gia đình nên khi trẻ đến trường
trẻ hay khóc thậm chí còn không nói khi các cô hỏi. Lần đầu tiên đi học nên
chưa có nề nếp thói quen, hay bắt chước, dễ nhớ nhưng lại chóng quên. Trẻ
được tiếp xúc với các cô ở trường, với cha mẹ và mọi người xung quanh khi ở
nhà, xong người dạy đúng cũng có, người dạy chưa đúng cũng có, chưa chú ý
đến phát triển ngôn ngữ chuẩn cho trẻ. Do đặc điểm của trẻ là tư duy trực quan
hành động nên dạy trẻ nói và làm đi liền với nhau, cha mẹ trẻ chưa có nhiều
kinh nghiệm, có ít kiến thức trong việc nuôi dạy con theo khoa học (như dạy con
chơi với đồ vật, dạy con phát âm chuẩn, tình cảm với con,...)
3. Thực trạng học sinh
Năm học 2012 - 2013 tôi nhận chăm sóc, giáo dục trẻ 24 - 36 tháng với
tổng số là 31 trẻ, tôi tiến hành nghiên cứu qua ba giai đoạn:
+ Giai đoạn 1: Tháng 9 tiến hành điều tra khả năng phát triển ngôn ngữ của trẻ
qua điều tra kết quả khảo sát đầu năm được phản ánh như sau:

Số
trẻ

31

Nội dung
các mặt
của ngôn
ngữ


Đạt yêu cầu
Tốt

Chưa đạt
yêu cầu

Khá

TB

St

%

St

%

St

%

Số
cháu

%

Về phát
triển vốn
từ


5

16

8

26

14

45

4

13

Về lời
nói mạch
lạc

4

13

5

16

13


42

9

29

Về ngữ
pháp

4

13

7

23

11

35

9

29

Về ngôn
ngữ biểu
cảm


5

16

7

23

11

35

8

26

4


+ Giai đoạn 2: Tháng 10, 11, 12, 1, 2, 3, 4 tiến hành áp dụng các biện pháp đưa
ra giúp phát triển ngôn ngữ cho trẻ như trò chuyện, đàm thoại, thông qua các
hoạt động hàng ngày và phối hợp, trao đổi với phụ huynh,...
+ Giai đoạn 3: Tháng 5 tiến hành đánh giá kết quả sự phát triển ngôn ngữ của trẻ
khi đã được áp dụng các biện pháp mà tôi đề ra.
Khi nghiên cứu đề tài này tôi đưa ra một số nhiệm vụ cụ thể sau:
- Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua trò chuyện và đàm thoại với trẻ.
- Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động chơi tập có chủ định.
- Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động góc.
- Xây dụng môi trường giáo dục kích thích trẻ phát triển ngôn ngữ
- Phối hợp với các bậc phụ huynh giúp ngôn ngữ của trẻ phát triển.

III. CÁC BIỆN PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Một đứa trẻ khi mới sinh ra chưa có ngôn ngữ, trong qúa trình chăm sóc,
giáo dục thì ngôn ngữ của trẻ dần được phát triển.Ở trường Mầm non cô giáo là
người “khơi nguồn” vốn ngôn ngữ cho trẻ. Với tôi trong quá trình chăm sóc giáo dục trẻ đã tích lũy cho bản thân một số kỹ năng, kỹ xảo giúp cho trẻ hoàn
thiện ngôn ngữ. Sau đây là một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 - 36
tháng mà tôi đã nghiên cứu và thực hiện.
1. Biện pháp 1: Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua trò truyện và
đàm thoại với trẻ.
Trò chuyện với trẻ là biện pháp tốt nhất để giúp trẻ hoàn thiện ngôn ngữ,
có thể đề ra câu hỏi nhằm kích thích, để tham gia vào các câu chuyện, điều đó
giúp trẻ tập nói cả câu. Trong qúa trình đặt câu hỏi tôi luôn chú ý đến sự nâng
dần của câu hỏi để phù hợp với khả năng của trẻ.
Ví dụ:

Hôm nay, ai đưa con đi học? Đi bằng phương tiện gì?
Hôm qua con đi đâu?
Đi cùng với ai? Con thấy cái gì?

Tôi tranh thủ mọi lúc, mọi nơi để trò chuyện với trẻ, đặc biệt chú ý những
trẻ yếu về ngôn ngữ. Khi trò chuyện với trẻ phải dựa vào kinh nghiệm có sẵn
5


của cô và sự hiểu biết của trẻ để sử dụng câu hỏi cho phù hợp và khuyến khích
trẻ được nói. Khi tiến hành trò chuyện với trẻ phải tạo điều kiện và bầu không
khí tự do, thoải mái, nói chuyện tự nhiên, cô thật sự thu hút hấp dẫn trẻ thông
qua giọng nói, nét mặt, cử chỉ, hành động.
Đối với trẻ nhà trẻ, trẻ mới đến trường còn lạ cô, lạ bạn nên hay sợ sệt,
hoảng sợ nên cô phải âu yếm, vuốt ve để biểu hiện cảm xúc yêu thương, gần gũi,
khi trò chuyện với trẻ tôi thường bế và nựng trẻ rồi hỏi “Hôm nay ai đưa con tới

trường?”, trẻ thường chỉ trả lời “Bố” hoặc “Mẹ” tôi phải sửa ngay cách nói “Bố
con ạ” hoặc “Mẹ con ạ”. Chẳng hạn hỏi “Trường con tên gì?”, “Cô giáo con là
ai?”,...Khi chơi với trẻ tôi gọi tên trẻ, tên bạn để trẻ nhận biết được tên các bạn
trong lớp.
Ngoài việc dạy trẻ biết nói và trả lời các câu hỏi, các hiện tượng, đồ vật
xung quanh trẻ tôi còn luôn chú ý đến giáo dục lễ phép cho trẻ.
Ví dụ: Cháu mời cô ăn cơm ạ! Tôi mời các bạn ăn cơm ạ! Dạy trẻ biết
cám ơn khi đựoc người khác giúp đỡ hay biết xin lỗi khi bị mắc khuyết điểm.
Khi tiến hành đàm thoại cần cung cấp cho trẻ những hiểu biết về chủ để
sắp đàm thoại. Mục đích của đàm thoại là củng cố và hệ thống hóa những biểu
tượng và kiến thức mà trẻ đã thu lượm được.
Ví dụ: Đàm thoại về “quả cam”
Cô phải có tranh quả cam và quả thật, vì tư duy của trẻ là tư duy trực quan
hành động, nói đến quả cam trẻ cần được nhìn, sờ, ngửi hoặc nếm quả cam thì
những ấn tượng, biểu tượng của quả cam sẽ đi sâu và gắn liền với trẻ.
Do đó đàm thoại thích ứng với lợi ích và tâm lý trẻ phải được tiến hành
nhẹ nhàng, thoải mái, tự nhiên đáp ứng với những yêu cầu của trẻ. Câu hỏi đàm
thoại cần đơn giản, dễ hiểu, phù hợp với đặc điểm ngôn ngữ và tâm lý lứa tuổi.
Thông qua trò chuyện và đàm thoại không chỉ giúp trẻ phát triển ngôn
ngữ mạch lạc, chính xác, sử dụng câu đúng ngữ pháp mà còn góp phần rèn luyện
cho trẻ thói quen mạnh dạn trong giao tiếp.

6


2. Biên pháp 2: Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động chơi
tập có chủ định.
Tạo điều kiện cho trẻ được hoạt động với đồ vật một cách tích cực. Cô nói
tên đồ vật cho trẻ để trẻ biết và nói tên các đồ vật đó, giúp trẻ rèn luyện ngôn
ngữ.

Ví dụ: “Đây là cái gì?” - “Đây là khối gỗ”
“Con đang xếp gì đấy?” - “Con xếp ngôi nhà”
“Con xếp như thế nào?” - “Con xếp chồng lên”
Qua câu hỏi của cô giúp trẻ hiểu được lời nói và hình thành được ngôn
ngữ tích cực điều đó giúp trẻ phát triển tư duy.

Hình 1: Giờ hoạt động với đồ vật
Qua những tác phẩm văn học, cô phải kể và đọc cho trẻ nghe để trẻ hiểu được
nội dung, nắm được tình tiết của tác phẩm. Cô phải cho trẻ xem tranh, đồ dùng
trực quan, thông qua giọng đọc, giọng kể của cô để trẻ có thể nhận biết được
cách sử dụng ngôn ngữ nghệ thuật.
Ví dụ: Đọc, kể truyện, thơ “Cháu chào ông ạ!” cho trẻ nghe, cô sử dụng
tranh thơ để đọc, sau đó cô đàm thoại, gợi nhớ để trẻ kể tên các nhân vật và trẻ
được ghi nhớ và đọc lại. Cô phải sửa sai từ ngọng như: “Nhỏ xíu, lông vàng”.
Qua tác phẩm còn giáo dục trẻ lễ phép với người lớn.

7


Hình 2: Tranh thơ “Cháu chào ông ạ”
Ngoài ra cô hướng dẫn trẻ sắc thái, biểu cảm của các nhân vật trong tác
phẩm.
Ví dụ: Kể truyện “Thỏ ngoan”.
Trẻ phải biết thể hiện giọng bác Gấu ồm ồm, điềm đạm thể hiện sự nhân
từ, giọng Cáo gắt thể hiện sự bạc ác, giọng Thỏ con trong trẻo thể hiện sự ngoan
ngoãn.
Qua thơ ca, đồng giao,...mang nhịp điệu, vần điệu nên cô đọc với âm điệu
vui tươi,êm dịu,...giúp trẻ cảm nhận được vần điệu của tiếng Việt.
Thông qua môn nhận biết tập nói trẻ được tri giác biểu tượng, được gắn
với từ, những câu tương ứng để giúp trẻ chính xác hóa biểu tượng. Trẻ được

luyện phát âm, luyện nói câu đúng ngữ pháp.
Ví dụ: Nói “Ô tô khách”
Cô phải luyện phát âm chính xác cho trẻ. Có trẻ nói ngọng là “Ô tô hách”.
Cô phải nhắc lại cho đúng là “Ô tô khách”
Cô luyện cho trẻ nói câu đúng ngữ pháp “Ô tô dùng chở khách”. Muốn trẻ
nói thật chính xác thì cô phải là người phát âm chuẩn, không ngọng, nói đúng
ngữ pháp.
Công việc phát triển ngôn ngữ được tiến hành trong cả chế độ sinh hoạt.
Với lời nói của cô giáo trẻ học cách cầm thìa, ăn uống gọn gàng, lau
mồm,...nghĩa là không chỉ học các hành động mà học cả những qui tắc hành vi.
8


Kết quả là trẻ nhận được số lượng lớn những mẫu lời nói và hiểu nội dung của
chúng. Trên cơ sở đó hình thành nên lời nói tích cực.
Đối với trẻ từ 24 - 36 tháng khi được đưa vào tổ chức hoạt động chơi tập
có chủ định thì đã tạo điều kiện rất lớn cho trẻ phát triển ngôn ngữ. Trẻ được
phát âm, tập nói từ, ngữ, câu đúng ngữ pháp mang tính biểu cảm giúp cho ngôn
ngữ trẻ mạch lạc và chính xác hơn
3. Biện pháp 3: Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động góc.
Ở lứa tuổi 24 - 36 tháng, giữa phát triển lời nói và trò chơi có mối liên hệ
chặt chẽ với nhau.Trong quá trình hoàn thiện trò chơi thì lời nói cũng được hoàn
thiện. Cô thường sử dụng biện pháp câu hỏi và trẻ sẽ phản ứng lại theo mức độ,
khả năng của trẻ.
Ví dụ: “Hoa này con để làm gì?” - “Con xâu vòng”

Hình 3: Bé xâu vòng - Góc hoạt động với đồ vật
Nếu trẻ chưa nói được tên các đồ chơi cô cần nhắc lại cho trẻ vài ba lần và sau
đó tổ chức trò chơi cho trẻ ghi nhớ biểu tượng hơn và sau đó để trẻ thể hiện bằng
ngôn ngữ tương ứng.

Thông qua góc “Thao tác vai” không những trẻ được thao tác với đồ vật
mà còn được giao lưu với đồ vật.

9


Ví dụ: Trẻ chơi trò chời “bế em” trẻ bế búp bê, trẻ biết ru em ngủ, cho em
ăn...khi ru ngủ trẻ vỗ về “Em ngủ nào”, ru em à ơi. Khi cho em ăn trẻ nói “Chị
cho em ăn nhé”, “Em ăn ngoan nào”.
Trẻ chơi trò chơi bán hàng” trẻ được giao lưu với bạn. Trẻ có thể hỏi “Bác
mua gì ạ ?” - “Tôi mua quả cà chua”.

Hình 4: Bé chơi bán hàng - Góc chơi thao tác vai
Muốn trẻ chơi thành thạo, biết giao tiếp với bạn, tôi luôn phải hòa nhập,
đóng vai chơi cùng với trẻ để hướng dẫn trẻ chơi, gợi ý để trẻ trả lời, tạo điều
kiện cho trẻ giao tiếp với bạn chơi, tạo ra những tình huống chơi để trẻ xử lý.
Thông qua góc “Bé xem tranh, truyện” tôi đã tạo môi trường gây nhiều sự
chú ý,hấp dẫn cho trẻ. Trẻ được gài ô tô, xem album, xem tranh truyện. Khi trẻ
hoạt động trẻ được gọi tên, nói đặc điểm, đặc trưng của các sự vật, hiện tượng.
Ví dụ: “Đây là con gì?” - “Đây là con gà”
“Con gà trống có gì đây?” - “Cái mào con gà trống”

10


Hình 5: Góc bé xem sách tranh
Muốn trẻ hoạt động tốt ở góc này, trẻ phải được quan sát đối tượng thì trẻ mới
đưa ra được những từ ngữ chính xác về đối tượng đó.
Thông qua các góc chơi không những trẻ được thao tác, hoạt động với các
đồ vật mà trẻ còn được thể hiện ngôn ngữ của mình qua giao tiếp với đồ vật và

bạn chơi giúp vốn từ của trẻ phát triển, câu nói được chính xác hơn.
4. Biện pháp 4: Xây dụng môi trường giáo dục kích thích trẻ phát triển
ngôn ngữ
Để tạo môi trường phát triển ngôn ngữ tốt giúp quá trình hướng dẫn và tổ
chức các hoạt động của giáo viên, kích thích trẻ được nghe, được bắt chước,
được nói và sử dụng từ ngữ thật chính xác thì cần phải có trang thiết bị đồ dùng
đồ chơi phong phú, hấp dẫn, nhiều màu sắc bắt mắt cuốn hút trẻ, các đồ dùng
trực quan sinh động,…Vì thế ngay từ đầu năm học tôi đã xây dựng kế hoạch
hoạt động cụ thể cho từng hoạt động, từ đó lên kế hoạch làm, mua sắm đồ dùng
đồ chơi phục vụ cho từng chủ đề của năm học.
Ví dụ: Dể có đồ dùng dạy trẻ phát triển ngôn ngữ, ngoài việc sưu tầm các
nguyên vật liệu sẵn có từ phế thải tôi tận dụng làm thành các đồ chơi như giỏ
hoa, con gà, con vịt,… và các loại đồ chơi cần có sự chính xác về hình dạng,
kích thước, màu sắc sinh động như các loại quả, hoa, lá,…Các con vật tôm, cua,

11


cá,…Các khối hình, đồ dùng nấu ăn, đồ dùng gia đình,…Các loại tranh nhận
biết tập nói, tranh chủ đề,…Các thiết bị nghe nhìn như ti vi, đầu đĩa, đàn
Oocgan,… thì tôi phối hợp với nhà trường và phụ huynh để mua sắm cho trẻ
hoạt động.

Hình 6: Hội thi đồ dùng đồ chơi
Mặt khác trẻ ở độ tuổi nhà trẻ, tư duy của trẻ là tư duy trực quan sinh động.
Khả năng tri giác về các sự vật, hiện tượng thông qua sử dụng vật thật, đồ dùng
đồ chơi, tranh ảnh,…Qua đó trẻ được tiếp xúc trưc tiếp, được nhìn, quan sát để
giúp trẻ hình thành và phát triển vốn từ. Vì thế lớp học phải được trang trí phù
hợp, các góc chơi được kê thấp, đồ chơi bày đẹp mắt, giúp trẻ dễ lấy và dễ cất.
Số lượng đồ chơi luôn đủ cho trẻ hoạt động tránh chanh giành. Ngoài ra ở các

góc chơi tôi treo tranh ảnh hợp với chủ đề đang thực hiện.
Ví dụ: Trong chủ đề “ Những con vật đáng yêu” để cho trẻ chơi khám phá tìm
hiểu về đặc điểm, hình dáng, của những con vật đáng yêu. Tôi đặt các con vật
trên giá khuyến khích trẻ tự lấy chơi, ngoài ra tôi còn treo tranh ảnh về chủ đề
ở các góc cho trẻ được quan sát , gọi tên và nhận xét đặc điểm của các con vật,
giúp ngôn ngữ trẻ phát triển.

12


Hình 7: Tranh chủ đề
Bên cạnh môi trường trong lớp, môi trường thiên nhiên xung quanh trẻ như
vườn rau, vườn hoa, vườn cây xanh, cây ăn quả,…Đồ chơi ngoài trời: Đu quay,
cầu trượt, nhà bóng, bập bênh,…Đó là cơ sở vậy chất rất quan trọng trong việc
phát triển ngôn ngữ cho trẻ trong trường mầm non nói chung và cho trẻ nhóm
24- 36 nói riêng.Vì thế tôi đã tham mưu với ban giám hiệu nhà trường huy động
phụ huynh và các đoàn thể như hội phụ nữ xã, hội cựu chiến binh, hội cựu giáo
chức,…mua sắm ủmg hộ và trồng nhiều cây xanh, cây ăn quả, vườn hoa, vườn
rau,…Giúp trẻ có môi trường thiên nhiên phong phú để học tập và phát triển
ngôn ngữ một cách tốt nhất.

Hình 8: Môi trường ngoài lớp
13


5. Biện pháp 5: Phối hợp với các bậc phụ huynh giúp ngôn ngữ của trẻ
phát triển.
Để giúp giáo dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 - 36 tháng đạt kết quả tốt,
tôi đã thống nhất nội dung, phương pháp giáo dục ngôn ngữ cho trẻ giữa cô giáo
ở lớp và cha mẹ ở nhà. Tránh tình trạng cô dạy thế này, mẹ dạy thế kia. Buổi

sáng khi trẻ đến trường, tôi tranh thủ trao đổi với phụ huynh về tình hình học
tập, sinh hoạt của trẻ. Đối với những trẻ cá biệt, kém về ngôn ngữ tôi cũng kịp
thời trao đổi cho phụ huynh thấy được sự tiến bộ của cháu chính là nhờ sự giáo
dục đồng bộ và thống nhất mà trẻ có tiến bộ rõ rệt. Các cháu đến lớp biết chào
cô, về nhà chào ông, bà, cha, mẹ, cháu nào cũng ngoan ngoãn, đáng yêu, giúp
phụ huynh yên tâm, tin tưởng.
Khi ở gia đình bố mẹ có mua sắm đồ dùng, đồ chơi cho trẻ nhưng chơi
như thế nào? thì phương pháp thực sự còn chưa quan tâm, chơi cùng trẻ và
hướng dẫn trẻ chơi. Do đó sự trao đổi giữa cô và phụ huynh là rất cần thiết.
Ví dụ: Mua búp bê chỉ đưa cho trẻ thì trẻ chỉ chơi một lúc là chán. Nhưng
ở lớp trẻ chơi với búp bê thì cô phải hướng dẫn trẻ bế em, cho em ăn, lau miệng,
uống nước rồi cho em ngủ, thông qua lời nói kết hợp với động tác, qua đó trẻ bắt
chước những thao tác đó với những lời nói mang tính biểu cảm như “Chị yêu
em”, “Chị cho em ăn nhé”, “Em của chị ngoan lắm”,...
Một số trẻ còn nói ngọng, nói lắp chưa được cha mẹ quan tâm, cần chú ý
sửa sai cho trẻ, có khi còn cho nghe lại thấy hay hay nên tạo thành thói quen
không tốt cho trẻ. Do đó phải có sự trao đổi, phối hợp giữa cô với phụ huynh là
rất cần thiết.
Ví dụ: Cháu Yến là cháu rất ngọng, hàng ngày tôi gần gũi hỏi “Cháu con
mẹ gì?” - “Con mẹ Sùy” tôi bảo Yến phải nói “Con mẹ Thùy”. Trong giờ nhận
biết tập nói, văn học,...trẻ hay nói “quả thị” là “quả chị”, “quả khế” là “quả hế”.
Tôi đã luyện cho trẻ phát âm nhiều lần và trao đổi với phụ huynh về nhà cũng
sửa lỗi sai cho trẻ. Qua sự phối hợp chặt chẽ, trẻ đã dần dần tiến bộ và không
còn nói ngọng, nói lắp nữa.
14


Công việc rèn luyện ngôn ngữ cho trẻ không phải của riêng ai mà phải có
sự phối kết hợp giữa cô giáo và phụ huynh. Tuy nhiên cô giáo là người “khơi
nguồn” vốn ngôn ngữ cho trẻ là chính vì thời gian chăm sóc, giáo dục trẻ ở

trường nhiều hơn so với ở gia đình. Trường Mầm non là trường học đầu tiên, ở
đây có điều kiện, có cơ hội lớn để giáo dục ngôn ngữ cho trẻ, đặc biệt là đối với
trẻ 24 - 36 tháng vì đó là lứa tuổi có “thời kỳ phác cảm ngôn ngữ” nhanh nhất,
dó đó có thể khẳng định “ học tiếng mẹ đẻ là sự học tập quan trọng nhất, cần
thiết nhất, bắt đầu sớm nhất và cần được quan tâm nhất”.
IV. KIỂM NGHIỆM
Sau một năm học, tôi thực hiện áp dụng các biện pháp phát triển ngôn ngữ
cho trẻ thông qua trò chuyện và đàm thoại, thông qua hoạt động có chủ đích,
thông qua hoạt động vui chơi và phối hợp với các bậc phụ huynh giúp ngôn ngữ
của trẻ phát triển đã đạt được kết quả như sau:

Số
trẻ

31

Nội
dung
các mặt
của
ngôn
Vềngữ
phát
triển vốn
từ

Đạt yêu cầu
Tốt
St


Chưa đạt
yêu cầu

Khá
%

TB

St

%

St

%

17

55

10

32

4

13

Về lời
nói mạch

lạc

15

48

9

29

7

23

Về ngữ
pháp

14

45

11

35

6

20

Về ngôn

ngữ biểu
cảm

13

42

10

32

8

26

Số
cháu

%

15


C. KẾT LUẬN
Sự phát triển toàn diện của trẻ bao gồm cả sự phát triển về đạo đức, chuẩn
mực hành vi văn hóa. Điều gì tốt, điều gì xấu, cần phải ứng xử giao tiếp như thế
nào cho phù hợp....không chỉ là sự bắt chước máy móc. Ngôn ngữ phát triển sẽ
giúp cho trẻ mở rộng giao tiếp. Điều này giúp trẻ có điều kiện học hỏi những gì
tốt đẹp xung quanh. Ngôn ngữ phát triển giúp trẻ sớm tiếp thu những giá trị
thẩm mỹ trong thơ ca, truyện kể, những tác phẩm nghệ thuật ngôn từ đầu tiên

người lớn có thể đem đến cho trẻ từ những ngày ấu thơ. Sự tác động của lời nói
có nghệ thuật như một phương tiện hữu hiệu giáo dục thẩm mỹ cho trẻ.
Qua quá trình nghiên cứu thục hiện các biện pháp phát triển ngôn ngữ cho
trẻ tôi rut ra được bài học kinh nghiệm sau:
* Đối với trẻ.
- Vốn từ của trẻ phát triển.
- Trẻ có ngôn ngữ mạch lạc, chính xác và nói đúng ngữ pháp.
- Lời nói của trẻ mang tính biểu cảm.
* Đối với giáo viên và phụ huynh
- Nhận thức đầy đủ nội dung về giáo dục ngôn ngữ cho trẻ.
- Tổ chức các hoạt động một cách linh hoạt, sáng tạo hơn.
- Biết cách tạo môi trường cho trẻ hoạt động
Đây là những biện pháp tôi đã thực hiện giúp ngôn ngữ của trẻ 24 - 36
tháng phát triển và đạt kết quả tốt, rất mong các đồng nghiệp tham khảo.
Bản thân biết nghiên cứu, vận dụng sáng tạo nội dung, phương pháp lồng
ghép một cách hợp lý trong quá trình chăm sóc, giáo dục trẻ. Đặc biệt là phát
triển ngôn ngữ cho trẻ 24 - 36 tháng.
Phối hợp và tuyên truyền với phụ huynh cùng có biện pháp dạy trẻ ở
trường, ở nhà giúp trẻ phát triển ngôn ngữ một cách tốt nhất.
*Ý kiến đề xuất
Rất mong sự quan tâm, giúp đỡ của các cấp chuyên môn và đồng nghiệp

16


tư vấn thêm cho tôi về phương pháp tổ chức giáo dục ngôn ngữ để tôi có thêm
nhiều kinh nghiệm hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ


Nga Sơn, ngày 15 tháng 4 năm

2013
Tôi xin cam đoan đây là SKKN do
mình viết, không sao chép của ai
Người viết sáng kiến

Phạm Thị Quý

17



×