Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Tiểu luận môn Kỹ năng giải quyết vụ án Hình sự: Trần Văn Cảnh lợi dụng chức vụ quyền hạn khi thi hành công vụ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (508.18 KB, 26 trang )

HỌC VIỆN TƯ PHÁP
CƠ SỞ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
­­­o0o­­­

        

BÀI THU HOẠCH DIỄN ÁN
KỸ NĂNG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÌNH SƯ
Mã số hồ sơ: LS.HS 09
TRẦN VĂN CẢNH LỢI DỤNG CHỨC VỤ QUYỀN HẠN KHI THI HÀNH CƠNG VỤ
Giáo viên hướng dẫn: Thầy Trần Văn Linh
Họ và tên
SBD
Lớp

: PHẠM HỒNG VŨ
: 360
: LS 22.2(E)

TP. Hồ Chí Minh, ngày 18 tháng 04 năm 2021

1


I.

NGHIÊN CỨU HỒ SƠ VỤ ÁN

a.i.1. LÝ LỊCH BỊ CÁO

2




Bị cáo

Trần Văn Cảnh ­ sinh năm 1974 

:

3


Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú

4

:

C8/17 ấp 3, xã Vĩnh Lộc A, 
huyện Bình Chánh, TP. Hồ Chí 
Minh.


Chỗ ở

D1/1E ấp 4 xã Vĩnh Lộc A, 
huyện Bình Chánh, TP. Hồ Chí 
Minh.

:


5


Quốc tịch

6

:

Việt Nam


Dân tộc

:

Kinh

7


Tôn giáo

8

:

Không



Trình độ văn hóa

:

12/12

9


Nghề nghiệp

10

:

Phó Chủ tịch UBND xã Vĩnh 
Lộc A, huyện Bình Chánh, TP. 
Hồ Chí Minh


Con ông

:

Võ Thành Tân – sinh năm 1949

11


Con bà


12

:

Lê Thị Nguyệt – sinh năm 1950


Gia đình có 02 người em.

13


Vợ:

14

:

Nguyễn Thị Thu Cẩm – sinh 
năm 1977


Tiền án, tiền sự

:

Không

15



Bị truy tố về tội “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành cơng vụ” theo quy định tại 
khoản 1 Điều 356 Bộ Luật Hình Sự.

16


a.i.2. NỘI DUNG VỤ ÁN
Ngày 27/12/2010, Chủ tịch UBND huyện Bình Chánh thành lập Đồn Thanh tra  
cơng tác quản lý nhà nước về  đất đai, xây dựng trên địa bàn xã Vĩnh Lộc A. Trong  
q trình thanh tra, Đồn thanh tra đã phát hiện ra nhiều sai phạm trong lĩnh vực xây  
dựng, có dấu hiệu của tội phạm hình sự  nên UBND Huyện Bình Chánh đã chuyển 
vụ việc sang Cơ quan điều tra ­ Cơng an huyện Bình Chánh để xác minh và điều tra 
làm rõ.
Qua q trình xác minh cũng như điều tra các hồ  sơ cấp giấy phép xây dựng,  
phiếu đăng ký xây dựng cơng trình và phiếu sửa chữa cơng trình cùng các tài liệu  
khác có liên quan, Cơ  quan điều tra phát hiện 18 hồ  sơ  cấp giấy phép xây dựng và 
phiếu đăng ký xây dựng cơng trình do lãnh đạo UBND xã Vĩnh Lộc A ký trái với quy 
định của pháp luật. 
Cụ thể, vào năm 2016, Chủ tịch UBND xã Vĩnh Lộc A là Phan Ngọc Lẫm đã 
ký quyết định số  2507/QĐ­UBND ban hành quy chế  làm việc của UBND xã Vĩnh 
Lộc A nhiệm kỳ 2011­2018 và sơ đồ khái qt cơ chế "một cửa" được niêm yết cơng  
khai. Trong lĩnh vực xây dựng thì bố trí các cán bộ làm việc gồm:


Lại Thị Hồng Thanh: tổ tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả;

Lê Quang Minh và Võ Tuấn Anh: tổ tham mưu, đề xuất cấp giấy phép 
sửa chữa cơng trình;



Trần Văn Cảnh: Phó Chủ  tịch UBND xã phụ  trách lĩnh vực kinh tế  ký 
giấy phép xây dựng, phiếu đăng ký xây dựng cơng trình, phiếu sửa chữa cơng trình.


Trong q trình thực hiện cơng vụ đến năm 2018, Trần Văn Cảnh đã lợi dụng 
chức vụ  quyền hạn của mình, với vai trị là   Phó Chủ  tịch UBND xã Vĩnh Lộc A, 
huyện Bình Chánh, TP. Hồ  Chí Minh, đã  khơng tn thủ  quy định về  sơ  đồ  "một 
cửa", tự  ký duyệt các giấy phép xây dựng, phiếu đăng ký xây dựng cơng trình. Qua 
điều tra, các hành vi trên của Trần Văn Cảnh được xác định là trái với Quyết định số 
04/2006/QĐ­UBND ngày 17/01/2006 của UBND TP. Hồ Chí Minh quy định về  cấp  
giấy phép xây dựng và quản lý xây dựng theo giấy phép trên địa bàn TP. Hồ  Chí  
Minh. Trong đó Trần Văn Cảnh đã ký duyệt trái quy định pháp luật 05 giấy phép 
và Phan Ngọc Lẫm (với tư cách Chủ tịch   UBND xã Vĩnh Lộc A, huyện Bình Chánh, 
TP. Hồ Chí Minh) đã ký duyệt trái quy định pháp luật 12 giấy phép.
Tại Bản án kết luận điều tra số 275/KLDT ngày 15/3/2019 của Cơ quan Cảnh 
sát điều tra Cơng an huyện Bình Chánh, Cơng an huyện Bình Chánh đã đề nghị Viện  
kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh truy Trần Văn Cảnh phạm tội "Lợi dụng chức  
vụ quyền hạn trong khi thi hành cơng vụ" theo Khoản 1 Điều 356 BLHS.
17


Ngày 12/10/2019, tại Cáo trạng số  212/CT­VKS của Viện trưởng  Viện kiểm 
sát  nhân dân huyện Bình Chánh, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình 
Chánh đã truy tố  bị can Trần Văn Cảnh về tội “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong  
khi thi hành cơng vụ” theo theo khoản 1 Điều 356 BLHS ra trước Tịa án nhân dân 
huyện Bình Chánh.
a.i.3. CƠ SỞ PHÁP LÝ GIẢI QUYẾT VỤ ÁN
(i)


Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; 

(ii)

Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015; và

(iii) Nghị  quyết 01/2000/NQ­HĐTP hướng dẫn về  việc áp dụng tình tiết  
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
II.

ĐỊNH   HƯỚNG   BÀO   CHỮA   CHO   BỊ   CÁO   TRẦN   VĂN   CẢNH   VÀ   KẾ 
HOẠCH XÉT HỎI

1.

Tư cách tham gia xét hỏi: Luật sư bào chữa cho bị cáo Trần Văn Cảnh.

2.

Định hướng bào chữa:  Đưa ra những lập luận, chứng cứ  chứng minh theo  
hướng chuyển sang tội danh nhẹ  hơn, cụ  thể  là “Tội thiếu trách nhiệm gây  
hậu quả nghiêm trọng”.

3.

Kế hoạch xét hỏi
3.1 Hỏi người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Phan Long Thành
(i)


Anh Thành cho biết nghề nghiệp hiện nay của anh là gì?

(ii) Giữa Anh và bị cáo Cánh có mối quan hệ quen biết nào khơng?
(iii) Tại biên bản ghi lời khai ngày 13/4/2019 anh khai rằng vào khoảng 
tháng 01/2018 anh có đến UBND xã Vĩnh Lộc A để xin cấp 01 giấy  
phép xây dựng cho hộ ơng Phan Văn Đực đúng khơng? Tại đó anh 
nộp hồ sơ cho ai?
(iv) Sau đó giữa anh và bị  cáo có thỏa thuận, trao đổi gì về  việc ký  
duyệt giấy phép khơng?
(v)

Khi nhờ  bị  cáo Cảnh ký duyệt giấy phép xây dựng, bị  cáo có đặt 
vấn đề lợi ích vật chất hay đưa ra điều kiện gì với anh khơng?

(vi) Sau khi có giấy phép xây dựng, anh có đưa tiền cho bị  cáo Cảnh 
khơng?
3.2 Hỏi người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Phạm Quốc Hưng
18


(i)

Anh Hưng cho biết anh có quan hệ như thế nào đối với bị cáo?

(ii) Anh cho biết, tại lời khai ngày 13/4/2019 anh khai rằng có liên hệ bị 
cáo Cảnh để  xin 02 giấy phép xây dựng và 01 phiếu đăng ký xây  
dựng đúng khơng?
(iii) Anh xin những giấy phép này cho ai?
(iv) Các giấy phép này được xin để tiến hành xây dựng trên đất của ai?
(v)


Khi xin các giấy phép xây dựng trên, anh có thỏa thuận gì với bị cáo 
hay khơng?

(vi) Khi ký duyệt thì bị  cáo Cảnh có địi hỏi từ  anh tiền hay lợi ích gì 
khơng?
3.3 Hỏi bị cáo Trần Văn Cảnh
 
(i) Bị cáo cho biết bị cáo tiếp nhận 01 bộ hồ sơ xin phiếu đăng ký xây  
dựng, 03 bộ  hồ  sơ  xin giấy phép đăng ký xây dựng của hộ  ơng 
Phan Văn Đực từ đâu?
(ii) Cụ thể bị cáo nhận từ Thành và Hưng những hồ sơ nào?
(iii) Tại sao đã có quy trình một cửa nhưng bị  cáo lại khơng tn theo 
quy trình này mà lại tự  mình nhận hồ  sơ  trực tiếp từ  Thành và  
Hưng?
(iv) Khi nhận và ký duyệt hồ sơ từ Thành và Hưng bị cáo có thỏa thuận 
gì với họ hay khơng?
(v)

Đối với các hộ dân cịn lại là: Phan Thị Ảnh, Huỳnh Cơng Hịa, Võ 
Thị  Thu, Bùi Xn Trang bị  cáo nhận hồ  sơ  xin phép của họ  trực 
tiếp hay theo quy trình một cửa?

(vi) Bị cáo có từng gặp họ bao giờ trước khi nhận hồ sơ khơng?
I.

LUẬN CỨ BÀO CHỮA 
BẢN BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP
CHO BỊ CÁO TRẦN VĂN CẢNH
Kính thưa Hội đồng xét xử,

Thưa vi đai diên Viên kiêm sat,
̣ ̣
̣
̣
̉
́
Thưa q vị có mặt tại phiên tịa ngày hơm nay.
19


Tơi  là  luật sư  Phạm Hồng Vũ, đến từ  văn phịng luật sư  HV,  Đồn luật sư 
Thành phố Hồ Chí Minh. Theo u cầu của bị cáo Trần Văn Cảnh và được sự đồng ý 
của quy Tịa, hơm nay, t
́
ại phiên Tịa sơ thẩm này, căn cứ vào việc nghiên cứu hồ sơ 
vụ  án và phần trình bày hỏi đáp của các bên, tơi xin trình bày những quan điểm để 
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thân chủ tơi – bị cáo Trần Văn Cảnh.
Thưa Hội đồng xét xử (HĐXX), sau khi nghiên cứu kĩ tình tiết trong hồ  sơ, các 
lời khai của những người có liên quan và người làm chứng,  căn cứ vào tình tiết vụ án, 
quy định tại Bộ  luật Hình sự (BLHS) và lời luận tội của VKS, tơi có một số ý kiến  
như sau: 
a.i.A. Khơng đủ yếu tố cấu thành tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong  
khi thi hành cơng vụ” theo cáo trạng của Viện trưởng Viện Kiểm sát huyện Bình  
Chánh.
 
Theo   Cáo   trạng   số   212/CT­VKS   ngày   12/10/2018   của   VKSND   huyện   Bình 
Chánh, trong q trình thi hành cơng vụ  đến năm 2018, bị  cáo Trần Văn Cảnh đã có 
hành vi khơng tn thủ  quy chế làm việc theo sơ đồ  một cửa do Chủ  tịch UBND xã 
Vĩnh Lộc A ban hành mà tự ý ký duyệt tổng cộng 05 giấy phép xây dựng, phiếu đăng 
ký xây dựng cơng trình cho các hộ dân: Phan Thị Ảnh, Huỳnh Cơng Hịa, Võ Thị Thu, 

Bùi Xn Trang, Phan Văn Đực. Hành vi này là trái với Quyết định số  04/2006/QĐ­
UBND ngày 17/01/2016 của UBND TP. Hồ  Chí Minh. Với hành vi nêu trên, bị  cáo 
Trần Văn Cảnh đã bị VKSND huyện Bình Chánh truy tố về tội “Lợi dụng chức vụ,  
quyền hạn trong khi thi hành cơng vụ” theo quy định tại khoản 1 Điều 356 BLHS.
Xét các yếu tố  cấu thành của tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi  
thi hành cơng vụ” theo quy định pháp luật hiện hành, tơi hồn tồn khơng đồng ý với 
quan điểm truy tố của phía vị đại diện VKS, bởi các lý do sau:
1. Động cơ thực hiện hành vi của bị cáo Cảnh khơng vì mục đích vụ lợi hoặc  
vì động cơ cá nhân khác
Cụ thể, trên cơ sở kết quả điều tra, VKSND huyện Bình Chánh đã kết luận tại  
bản cáo trạng Số: 212/CT­VKS ngày 12/10/2018 từ bút lục số 306 đến bút lục số 307 
rằng bị cáo Trần Văn Cảnh ký duyệt các phiếu đăng ký xây dựng, giấy phép xây dựng 
cho 05 hộ  dân: Phan Thị   Ảnh, Huỳnh Cơng Hịa, Võ Thị  Thu, Bùi Xn Trang, Phan  
Văn Đực khơng đúng với quy định của pháp luật là do bị cáo Cảnh tin tưởng rằng các  
hộ dân này đều là người dân thường trú tại địa phương, có đất thổ vườn, đất thổ tập  
trung nên mặc dù hồ  sơ  xin cấp phép chưa thơng qua bộ  phận tiếp nhận, thẩm định  
hồ  sơ  nhưng bị cáo vẫn ký duyệt, khi ký duyệt thì bị  cáo khơng nhận bất cứ  lợi ích 
vật chất gì từ các hộ dân. Cụ thể, tơi xin trích dẫn lại các căn cứ trong bản cáo trạng  
có thể hiện những nội dung như tơi vừa nêu phía trên như sau:
Tại đoạn số 2 của mục 1, bút lục 306, cáo trạng có nêu: “Bị can Trần Văn Cảnh 
ký duyệt các phiếu đăng ký xây dựng cho hộ bà Phan Thị Ảnh vì cho rằng bà Ảnh là  
dân thường trú tại địa phương, tin tưởng bà Ảnh có đất thổ vườn……Cảnh duyệt 
phiếu đăng ký xây dựng cho hộ bà Ảnh nhưng chưa từng gặp bà Ảnh lần nào, khơng  
nhận lợi ích vật chất gì trong việc cấp phép nêu trên”;
20


Tại đoạn số  2, mục 2, bút lục số  306: “Cảnh ký duyệt cấp phép cho hộ  ơng  
Huỳnh Cơng Hịa  vì ơng Hịa là dân địa phương thường trú gần nhà Cảnh nên  
Cảnh tin tưởng ơng Hịa có đất thổ  vườn,….Cảnh duyệt 03 phiếu đăng ký xây  

dựng cho ơng Hịa khơng nhận lợi ích vật chất gì”;
Tại đoạn số 1, bút lục 307: “Cảnh tin tưởng Võ Thị Thu và Bùi Văn Sáo là dân  
thường trú tại địa phương có đất thổ  tập trung, thỉnh thoảng đi đám tiệc có gặp 
nhau nên Cảnh khơng đưa cán bộ  tham mưu kiểm tra hồ  sơ  mà ký duyệt cấp phép  
ln, Cảnh khơng được lợi ích vật chất gì”;
Tại đoạn số  2, mục 4, bút lục 307: “ Thời điểm đó Cảnh bận nhiều việc, tin  
tưởng Trang là dân địa phương  nên khơng giao hồ  sơ  của ơng Trang cho cán bộ 
tham mưu kiểm tra mà ký duyệt cấp phép ln cho Trang và cũng có lưu hồ sơ sau khi  
cấp phép”;
Tại đoạn số 2, mục 5, bút lục 307: “Vì thời điểm đó Cảnh bận nhiều việc nên  
khơng có xem hồ  sơ, tin tưởng ơng Phan Văn Đực là thường trú tại địa phương  
có đất thổ  vườn nên ký 04 giấy đăng ký xây dựng trên, Cảnh khơng có nhận tiền  
bạc gì từ Nguyễn Quốc Hưng và Phan Long Thành”.
Ngồi ra, lời khai của bị cáo tại giai đoạn điều tra, tại phần xét hỏi của phiên tịa  
ngày hơm nay cũng đều thống nhất, phù hợp với những nội dung đã được VKSND 
huyện Bình Chánh kết luận tại bản cáo trạng mà tơi vừa nêu  ở  trên; trong suốt q 
trình điều tra, truy tố, cũng như  tại phiên tịa ngày hơm nay VKSND huyện Bình 
Chánh khơng đưa ra được bất cứ  chứng cứ nào thuyết phục để  chứng minh rằng bị 
cáo có nhận lợi ích vật chất hoặc vì động cơ cá nhân nào khác mà thực hiện các hành 
vi vi phạm của mình.
Từ các căn cứ mà tơi vừa nêu, có thể khẳng định rằng bị cáo thực hiện hành vi vi 
phạm của mình khơng vì động cơ vụ lợi, hay vì động cơ cá nhân nào khác. Bị cáo ký  
duyệt giấy phép xây dựng trong các trường hợp này là hồn tồn vì tin tưởng và do  
chủ quan, sơ suất trong kiểm tra hồ sơ.
2. Bị cáo thực hiện hành vi với lỗi vơ ý chứ khơng phải lỗi cố ý.
Như những căn cứ và lập luận mà tơi vừa trình bày tại phần ở trên, bị cáo Trần 
Văn Cảnh ký duyệt các phiếu đăng ký xây dựng, giấy phép xây dựng cho 05 hộ dân: 
Phan Thị   Ảnh, Huỳnh Cơng Hịa, Võ Thị  Thu, Bùi Xn Trang, Phan Văn Đực khơng 
đúng với quy định của pháp luật là do bị cáo Cảnh chủ quan, trên cơ sở tin tưởng rằng 
các hộ dân này đều là người dân thường trú tại địa phương, có đất thổ vườn, đất thổ 

tập trung đáp ứng đủ các điều kiện xin giấy phép xây dựng, phiếu đăng ký xây dựng  
nên mặc dù hồ sơ xin cấp phép chưa thơng qua bộ phận tiếp nhận, thẩm định hồ  sơ 
nhưng bị cáo vẫn ký duyệt.
 
Như vậy, có thể thấy rằng khi thực hiện hành vi của mình, về mặt lý trí: bị cáo 
nhận thức được nếu ký duyệt mà chưa có sự kiểm tra, tham mưu từ những bộ phận  
21


khác thì rất có thể sẽ dẫn đến hậu quả là việc ký duyệt sai, khơng đúng với quy định  
của pháp luật. Nhưng về mặt ý chí thì do q tin tưởng vào việc các hộ  dân này đều 
là người thường trú tại địa phương, có loại đất đủ  điều kiện được cấp các loại  
phiếu, giấy phép xây dựng nên bị cáo mới tự tin rằng việc cấp phép là đúng, sẽ khơng  
gây ra hậu quả gì về sau này vì vậy nên bị cáo mới tiến hành ký duyệt mà khơng cần  
có sự  tham mưu, thẩm tra của các bộ  phận khác như  theo quy trình một cửa của  
UBND xã Vĩnh Lộc A đã được ban hành trước đó. Đây hồn tồn xuất phát từ sự chủ 
quan, có phần cẩu thả trong cách làm việc của bị  cáo chứ  bản thân bị  cáo hồn tồn 
khơng cố ý thực hiện sai nhiệm vụ, cơng vụ của mình.
Từ đó, có thể  kết luận trong trường hợp này, bị  cáo thực hiện các hành vi hồn  
tồn do lỗi vơ ý, cụ  thể  là lỗi vơ ý vì q tự  tin:  “Lỗi vơ ý vì q tự  tin là lỗi trong  
trường hợp người phạm tội tuy thấy hành vi của mình có thể gây hậu quả nguy hiểm  
cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ khơng xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được  
nên vẫn thực hiện và đã gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội”.
Căn cứ vào các yếu tố cấu thành tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi  
thi hành cơng vụ” theo quy định tại khoản 1 Điều 356 BLHS thì người nào được xem  
là phạm tội này phải thực hiện hành vi vi phạm pháp luật với lỗi cố ý và vì động cơ 
vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác. Trong vụ án này, bị cáo Cảnh thực hiện hành vi vi 
phạm của mình với lỗi vơ ý và khơng vì bất kỳ động cơ vụ lợi hoặc động cơ cá nhân  
nào khác. Vì vậy, quan điểm truy tố  bị  cáo Cảnh phạm tội  “Lợi dụng chức vụ,  
quyền hạn trong khi thi hành cơng vụ” là chưa phù hợp với sự thật khách quan và 

quy định của pháp lt.
Nhận thấy rằng, hành vi và các yếu tố khác của bị cáo Cảnh có những dấu hiệu  
cấu thành của tội “Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” theo quy định 
tại khoản 1 Điều 360 BLHS. Vì vậy, tơi kính đề  nghị  HĐXX chuyển qua xét xử  bị 
cáo Cảnh ở tội danh theo quy định tại khoản 1 Điều 360 của BLHS.
a.i.B.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Trần Văn Cảnh

Qua q trình nghiên cứu hồ sơ vụ án và q trình xét hỏi tại phiên tịa ngày hơm 
nay, tơi nhận thấy rằng bị cáo Trần Văn Cảnh xứng đáng được hưởng những tình tiết  
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự sau đây:
1, Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, theo quy định tại điểm s,  
khoản 1 Điều 51 BLHS;
2, Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu,  
học tập hoặc cơng tác theo quy định tại điểm v khoản 1 Điều 51 BLHS;
3, Những tình tiết giảm nhẹ khác của bị cáo mà HĐXX có thể xem xét, áp dụng  
theo khoản 2 Điều 51 BLHS.
Cụ thể tơi xin trình bày như sau:

22


Thứ  nhất, đối với tình tiết giảm nhẹ  trách nhiệm hình sự  “Người phạm tội 
thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, theo quy  định tại  điểm s, khoản 1  Điều 51  
BLHS”.
Trong suốt q trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tịa ngày hơm nay bị cáo 
đã trung thực, thành khẩn khai báo tồn bộ  hành vi của mình, góp phần giúp cho các  
cơ quan tiến hành tố tụng thuận lợi trong việc giải quyết vụ án. Kể từ khi bị bắt tạm  
giam cho tới phiên tịa ngày hơm nay, bị  cáo đã thừa nhận mọi hành vi vi phạm của  

mình, khơng trối bỏ hay thối thác. Điều này phần nào đã thể hiện sự thành khẩn khai  
kháo của bị cáo, ngồi ra cịn cho thấy thái độ  hối hận, ăn năn, hối cải của bị cáo về 
những hành vi sai phạm mà bị  cáo đã thực hiện. Vì vậy, bị  cáo xứng đáng được 
hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Người phạm tội thành khẩn khai báo,  
ăn năn hối cải” theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.
Thứ  hai, đối với tình tiết giảm nhẹ  trách nhiệm hình sự  “Người phạm tội là 
người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc cơng tác theo 
quy định tại điểm v khoản 1 Điều 51 BLHS”
Kính thưa HĐXX, trước khi xảy ra sai phạm và bị  bắt tạm giam, bị cáo từng là  
Phó chủ tịch UBND xã Vĩnh Lộc A, huyện Bình Chánh, Tp. Hồ Chí Minh. Trong suốt 
q trình giữ chức vụ này bị cáo đã có nhiều đóng góp cho xã hội, đạt nhiều thành tích  
xuất sắc trong cơng tác của mình. Minh chứng cho điều này là việc bị  cáo đã được 
UBND huyện Bình Chánh, Đảng ủy, chính quyền xã Vĩnh Lộc A, huyện Bình Chánh  
tặng thưởng nhiều giấy khen, bằng khen. Các giấy khen, bằng khen này thì đã được  
chúng tơi đã cung cấp cho HĐXX trước khi diễn ra phiên tịa.
Tại điểm b, mục 5 Nghị quyết 01/2000/NQ­HĐTP hướng dẫn về  việc áp dụng 
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Người phạm tội là người có thành tích xuất  
sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc cơng tác” có nêu: “Người có thành tích  
xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu học tập hoặc cơng tác là người được tặng thưởng  
hn chương, huy chương,  bằng khen, bằng lao động sáng tạo hoặc có sáng chế  
phát minh có giá trị lớn hoặc nhiều năm được cơng nhận là chiến sỹ thi đua.”.
Như tơi đã trình bày ở trên, bị cáo trong q trình cơng tác tại UBND xã Vĩnh Lộc  
A đã được nhận rất nhiều bằng khen, giấy khen vì đã có nhiều thành tích, đóng góp 
trong q trình cơng tác. Vì vậy, kính đề nghị HĐXX áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách 
nhiệm hình sự “Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến  
đấu, học tập hoặc cơng tác” theo quy định tại điểm v khoản 1 Điều 51 BLHS cho bị 
cáo.
Thứ ba, những tình tiết giảm nhẹ khác của bị cáo mà HĐXX có thể xem xét, áp 
dụng theo khoản 2 Điều 51 BLHS
Về  việc đầu thú:  Sau khi thơng qua báo chí trên internet, biết được việc mình 

đang bị  truy nã bị  cáo đã tự  nguyện, chủ  động ra trình diện, đầu thú với Cơ  quan  
Cảnh sát điều tra ­ Cơng an huyện Bình Chánh vào ngày 06/6/2018, nội dung này được 
thể hiện tại các bút lục số 99 và 140.
23


Về nhân thân của bị cáo: Bị  cáo Cảnh là người có nhân thân tốt, gia đình bị cáo 
có truyền thống cách mạng lâu đời trong cả  hai cuộc chiến tranh kháng chiến chống  
Pháp và chống Mỹ cứu nước. Ơng nội của bị cáo là liệt sĩ đã hy sinh trong q trình 
kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Bà ngoại của bị cáo là Mẹ Việt Nam anh hùng theo  
quyết định số: 394 do chủ tịch nước Lê Đức Anh ký ngày 17/12/1994, bà cũng được 
tặng hn chương độc lập hạng 3. Mẹ ruột của bị cáo cũng là người có cơng với cách 
mạng, được tặng thưởng Hn chương kháng chiến hạng nhì (Tất cả các bằng khen, 
quyết định và giấy tờ liên quan để chứng minh chúng tơi cũng đã cung cấp cho HĐXX  
trước khi diễn ra phiên tịa ngày hơm nay).
Về  hồn cảnh gia đình của bị  cáo hiện tại: Bị  cáo là lao động chính trong gia  
đình, phải ni dưỡng 03 con, trong đó con nhỏ  nhất chỉ mới hơn 03 tuổi. Vợ bị cáo  
do sức khỏe yếu nên khơng thể  tham gia lao động mà chỉ  làm nội trợ  tại gia đình.  
Hiện tại bị cáo cũng là người có nhiều bệnh nặng, chi phí điều trị  bệnh rất lớn dẫn 
đến hồn cảnh kinh tế hiện tại của gia đình bị cáo hết sức khó khăn.
Từ những lý do vừa nêu, tơi kính mong HĐXX xem xét đến các tình tiết của bị 
cáo như  tơi vừa nêu  ở  trên và áp dụng khoản 2 Điều 51 BLHS để  cho bị  cáo được  
hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự này.
Bên cạnh đó, trên cơ sở quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 54 BLHS về việc  
“Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt”:
“1. Tịa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình  
phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật  
khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của  
Bộ luật này.”
“3. Trong trường hợp có đủ  các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2  

Điều này nhưng điều luật chỉ  có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là  
khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tịa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất  
của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do  
của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án.”
Tơi kính đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 54 BLHS và các điểm s,  
điểm v khoản 1 Điều 51 BLHS để  quyết định cho bị  cáo Cảnh mức hình phạt dưới 
mức thấp nhất của khung hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 360 BLHS.
Trên đây là quan điểm của tơi để bào chữa cho bị cáo Cảnh. Xin cảm ơn HĐXX  
đã chú ý lắng nghe. Mời HĐXX tiếp tục làm việc. Cảm ơn HĐXX đã lắng nghe!

24


Tp. Hồ Chí Minh, ngày 18 tháng 4 năm 2021
VĂN PHỊNG LUẬT SƯ HV
(đã ký và đóng dấu)

LS. PHẠM HỒNG VŨ

25


×