Tải bản đầy đủ (.docx) (52 trang)

Kien thuc trong tam mon Van thi TN 12 2012

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (390.9 KB, 52 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>NHỮNG KIẾN THỨC THI TN THPT</b>


<b> CẦN CHÚ Ý</b>



<b>1/VỢ CHỒNG A PHỦ ( Tô Hồi )</b>


<b>I/ Tác giả :</b>


<b>-</b> <b>Tơ Hồi sinh năm 1920, tên khai sinh là Nguyễn Sen, quê ở Hà Tây.</b>


<b>-</b> <b>Là một nhà văn lớn, có số lượng tác phẩm đạt kỉ lục trong văn học hiện đại VN.</b>
<b>-</b> <b>Sáng tác của ông thiên về diễn tả sự thật đời thường. </b>


<b>-</b> <b>Ơng có vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng khác nhau</b>
<b>trên đất nước ta. Ông cũng là nhà văn luôn hấp dẫn người đọc bởi lối trần thuật hóm hỉnh, sinh</b>
<b>động của người từng trải, vốn từ vựng giàu có, nhiều khi rất bình dân, nhưng nhờ cách sử dụng</b>
<b>đắc địa và tài ba nên có sức lơi cuốn, lay động người đọc.</b>


<b>- Tác phẩm chính : Dế mèn phiêu lưu kí, Truyện Tây Bắc…</b>
<b>II/ Văn bản :</b>


<b>1/ Hoàn cảnh sáng tác :</b>


<b>- Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ trích từ Truyện Tây Bắc, được sáng tác năm 1953, là kết</b>
<b>quả chuyến đi của Tơ Hồi cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Tám tháng sống gắn bó với đồng</b>
<b>bào các dân tộc miền núi đã tạo cảm hứng cho ông sáng tác thành tác phẩm này.</b>


<b>- Truyện Tây Bắc được tặng giải nhất của Hội văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955.</b>
<b>2/ Tóm tắt truyện : </b>


<b>Truyện kể về cuộc sống cơ cực của đôi vợ chồng người Mông là Mị và A Phủ :</b>


<b>- Mị sinh ra trong một gia đình nơng dân nghèo, vì cha mẹ nợ bạc nhà thống lí nên Mị bị bắt</b>


<b>về làm con dâu gạt nợ. Đau khổ, tủi nhục, Mị định tự tử nhưng vì thương cha nên đành quay lại</b>
<b>sống kiếp trâu ngựa trong nhà thống lí. Tuy nhẫn nhục, cam chịu nhưng trong Mị vẫn tiềm tàng</b>
<b>một tinh thần phản kháng mãnh liệt.</b>


<b>- A Phủ mồ côi cha mẹ từ nhỏ, lớn lên lao động rất nhiều. Vì đánh A Sử, con thống lí nên bị</b>
<b>phạt một trăm bạc trắng. Khơng có tiền, thống lí Pá Tra cho vay tiền, A Phủ phải ở đợ để trừ nợ.</b>
<b>Do sơ ý để hổ vồ mất một con bò, A Phủ bị thống lí trói vào cột cho tới khi A Sử bắn được hổ về</b>
<b>mới thả.</b>


<b>- Thương cảm trước cảnh A Phủ sắp chết, Mị đã táo bạo cắt dây trói cho A Phủ và cùng</b>
<b>trốn sang Phiềng Sa. Ở đây, họ thành vợ chồng. Được cán bộ A Châu giúp đỡ, A Phủ trở thành</b>
<b>tiểu đội trưởng du kích cùng bản làng bảo vệ quê hương.</b>


<b>3/ Nội dung </b>
<b>- Nhân vật Mị:</b>


<b>+ Cuộc sống thống khổ: Mị là cô gái trẻ, đẹp, u đời nhưng vì món nợ “truyền kiếp”, bị bắt </b>
<b>làm “con dâu gạt nợ” nhà thống lí Pá Tra, bị đối xử tàn tệ, mất ý thức về cuộc sống ( lời giới thiệu </b>
<b>về Mị, công việc, không gian căn buồng của Mị,…).</b>


<b>+ Sức sống tiềm tàng và khát vọng hạnh phúc: Mùa xuân đến (thiên nhiên, tiếng sáo gọi bạn, </b>
<b>bữa rượu,…), Mị đã thức tỉnh (kỉ niệm sồng dậy, sống với tiếng sáo, ý thức về thời gian, thân phận,</b>
<b>…) và muốn đi chơi (thắp đèn, quấn tóc,…). Khi bị A Sử trói vào cột, Mị “như khơng biết mình </b>
<b>đang bị trói”, vẫn thả hồn theo tiếng sáo.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b>cấp, niềm khát khao tự do mãnh liệt,… đã thôi thúc Mị cắt dây trói cứu A Phủ và tự giải thốt cho </b>
<b>cuộc đời mình.</b>


<b>- Nhân vật A Phủ:</b>



<b>+ Số phận éo le, là nạn nhân ủa hủ tục lạc hậu và cường quyền phong kiến miền núi (mồ côi </b>
<b>cha mẹ, lúc bé đi làm thuê hết nhà này đến nhà khác, lớn lên nghèo đến nỗi không lấy nổi vợ).</b>


<b>+ Phẩm chất tốt đẹp: có sức khỏe phi thường, dũng cảm; yêu tự do, yêu lao động; có sức </b>
<b>sống tiềm tàng mãnh liệt…</b>


<b>- Giá trị của tác phẩm:</b>


<b>+ Giá trị hiện thực: miêu tả chân thực số phận cực khổ của người dân nghèo, phơi bày bản </b>
<b>chất tàn bạo của giai cấp thống trị ở miền núi.</b>


<b>+ Giá trị nhân đạo: thể hiện tình yêu thương, sự đổng cảm sâu sắc với thân phận đau khổ </b>
<b>của người dân lao động miền núi trước Cách mang; tố cáo, lên án, phơi bày bản chất xấu xa, tàn </b>
<b>bạo của giai thống trị; trân trọng và ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn, sức sống mãnh liệt và khả năng cách </b>
<b>mạng của nhân dân Tây Bắc;…</b>


<b>b) Nghệ thuật:</b>


<b>- Nghệ thuật xây dựng nhân vật có nhiều điểm đặc sắc (A Phủ được miêu tả qua hành động, Mị </b>
<b>chủ yêu khắc họa tâm tư,…).</b>


<b>- Trần thuật uyển chuyển, linh hoạt; cách giới thiệu nhân vật đầy bất ngờ, tự nhiên mà ấn </b>
<b>tượng; kể chuyện ngắn gọn, dẫn dắt tình tiết khéo léo.</b>


<b>- Biệt tài miêu tả thiên nhiên và phong tục, tập quán của người dân miền núi.</b>


<b>- Ngôn ngữ sinh động, chọn lọc và sáng tạo, câu văn giàu tính tạo hình và thấm đẫm chất thơ,</b>
<b>…</b>


<b>c) Ý nghĩa văn bản:</b>



<b>Tố cáo tội ác của bọn phong kiến, thực dân; thể hiện số phận đau khổ của người dân lao động </b>
<b>miền núi; phản ánh con đường giải phóng và ngợi ca vẻ đẹp, sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của họ.</b>
<b>5/ Chủ đề :</b>


<b>Đoạn trích đã nói lên cuộc sống cơ cực, tối tăm của đồng bào các dân tộc thiểu số vùng cao</b>
<b>dưới ách áp bức thống trị của bọn thực dân và bọn chúa đất, đồng thời cũng thấy được sức sống</b>
<b>mãnh liệt, quá trình đứng lên đấu tranh tự giải phóng đời mình và đi theo cách mạng của họ.</b>


<b>3. Hướng dẫn tự học:</b>


<b>- Tìm đọc trọn vẹn Vợ chồng A Phủ và tóm tắt tác phẩm.</b>


<b>- Phân tích diễn biến tâm trạng của Mị trong “đêm tình mùa xuân” và đêm cởi trói cứu A </b>
<b>Phủ./.</b>


<b>B/ LUYỆN TẬP : đề bài làm văn tham khảo</b>

<b>BÀI LÀM CỦA HỌC SINH</b>



<b>TRƯỜNG THPT AN MỸ TX TDM –BÌNH DƯƠNG</b>


<b>HỌ VÀ TÊN HỌC SINH : VÕ NGỌC LỰU </b>



<b>LỚP : 12T2 NHÓM 2</b>



Đề 1: Phân tích diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài.


<b> DÀN BÀI</b>



<b>I/ Mở bài :</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

- Những tư tưởng, tình cảm của họ, đặc biệt là của Mị đã được tác giả thể hiện rất đặc sắc trong tác phẩm, nhất


là đoạn miêu tả diễn biến tâm trạng và hành động trong đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài.


II/ Thân bài:



1/ Cảnh ngộ của Mị khi ở Hồng Ngài :


- Mị là một cô gái người Mơng xinh đẹp, hồn nhiên, u đời, có tài thổi sáo. Vì món nợ truyền kiếp, Mị đã
bị cướp làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra


- Cuộc sống nơ lệ đâu khổ đã nhanh chóng biến cô gái hồn nhiên, yêu đời ấy thành người phụ nữ lầm lũi
cam chịu như “con rùa nuôi trong xó cửa”


2/ Tâm trạng và hành động của Mị trước cảnh mùa xuân và ngày hội :


- Trước đêm mùa xuân, do bị đọa đày. Mị trở thành người phụ nữ vô hồn, mất cả cảm giác về thời gian và
không gian. Kiếp sống của Mị chẳng khác nào kiếp sống con trâu, con ngựa trong nhà thống lí. Tuy nhiên, sức
sống trong Mị chưa hoàn toàn lụi tắt. Mỗi khi bước vào buồng, Mị lại ngồi xuống giường và trông ra cửa sổ.
Điều ây cho thấy Mị ln hướng ra bên ngồi, ẩn chứa một khat khao, dù khá mong manh và mơ hồ. Sức sống
có thể bị dập tắt vĩnh viễn nhưng cũng có thể sẽ trổi dậy khi có điều kiện.


- Mùa xuân chính là sự tác đọng của bối cảnh bên ngoài đối với Mị .Mùa xuân năm ấy ở Hồng Ngài đẹp
và gợi cảm biết bao. “Trên đầu núi các nương ngô,nương lúa đã gặt xong… Trong các làng Mèo nhũng chiếc
<i>váy hoa đã đem ra phơi trên mõm đã xịe như con bướm sặc sỡ… Ngồi đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo </i>
<i>rủ bạn đi chơi… Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hổi. Mị ngồi nhẩm lại bài hát của người đang thổi…” </i>
<i>. Mùa xuân đó đầy mầu sắc, rộn rã âm thanh. Điều ấy hồn tồn xa lạ với khơng gian trong căn buông bé nhỏ </i>
của Mị nhưng gần gũi với một thế giới mà Mị đã từng sổng rất hạnh phúc. Chúng gợi cho Mị nhớ lại thời xa
xưa. Ngày xưa, tết Mị uống rượu. Bây giời, Mị cũng uống rượu nhưng “Mị lén lấy hủ rượu, cứ uống ừng ực
<i>tưng bát. Rồi say…”.</i>


<i> - Rượu – chất mem đã đánh thức phần đời đã mất của Mị. Mị được sống về ngày trước. Ngày ấy, Mi vui </i>


sướng biết bao, “tai Mi văng vẳng tiếng sao gọi bạn đầu làng”. Đấy là tiếng sáo của tình duyên, của tuổi thanh
xuân căng đầy sức sống. Giờ phút ây, hình như Mị khơng cịn là cơ con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra nữa bởi
Mị đang “ Uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mi uống chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết
<i>bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thôi sáo đi theo Mị”. </i>


Ra thế, “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn được đi chơi”. Nhưng cuộc sống thưc đã đánh thức Mị : Mĩ vẫn
đang ở trong nhà của thống lí, vẫn đang sống kiếp đọa đày cùng với A Sử. Sự đối lập gay gắt giữa một bên là
hanh phúc một bên là tuổi tre với một bên kia là một kiếp sống trâu ngựa đã khiến Mị suy nghĩ đến việc kết thúc
đời mình như ngày mới về làm dâu nhà thống lí. Mị lại ước “nếu có năm lá ngón trong tay lúc này Mĩ sẽ ăn
<i>cho hết chứ không buồn nhớ lại nữa”.Nhưng “tiếng sao gọi bạn yêu vẫn lững lờ bay ngoài đường”. Mị đang </i>
muốn quên đi, không muốn nhớ lại cái ngày trước mà không được. Tiếng sao ấy “lững lờ”, tiếng sáo ấy làm Mị
<i>“ thiết tha bồi hổi” </i>


- Thay vì đi chơi, Mị lại thực hiện sự giải thốt bằng một cách khác. “Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn
một miếng bỏ thêm vào đèn cho sang”. Nhưng “trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo” nên “Mị quấn lại tóc, Mị
với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách… Mị rút thêm cái áo…”. Mị làm tất cả mọi thứ thật bình thản và
quyết liệt. Nhưng ý định giải thoát của Mị khơng thành. A Sử về đến, nó lấy làm làm lạ. Chỉ sau một câu hổi
không cần sự trả lời. “ A Sử bước lại, nắm Mị , lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xánh cả một thùng sợi đay ra
<i>trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xõa xuống, A Sử quấn ln tóc lên cột, làm cho Mị khơng cúi, khơng nghiên </i>
<i>được đầu nữa”.</i>


3/ Tâm trạng và hành động của Mị khi bị trói:


- A Sử chỉ trói được thể xác của Mị. Trong bong tối, “ Mị vẩn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc
<i>chơi, những đám chơi”. Tâm hồ Mị vẩn sống trong khơng khí của ngày hội, sống với lời ca tiếng hát ngọt ngào.</i>
Mị vùng bước đi “ nhưng tay chân đau không cựa được”. Mị ý thức được cảnh ngộ , thân phận hiện tại của
mình và “ thổn thức nghĩ mình khơng bằng con ngựa”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

==> Cuộc trỗi dậy lần thứ nhất của Mị khơng thành. Mị khơng thốt khỏi căn nhà ấy, dù chỉ một phút giây
nhưng Mị đã khơng cịn là con ngựa, con rùa lùi lũi trong xó cửa nữa. Mị đã sống lại những thời khác của tuổi


thanh xuân tươi trẻ và tự do. Vì thế, khi bị A Sử trói, lúc bang hồng tỉnh, Mị chợt nhớ đến câu chuyện một
người vợ trong nhà thống lí Pá Tra bị trới đã chết khơng ai hay. Và, “Mị sợ quá”. Mị còn muốn sống. Mị còn
ham sống.


Cuộc trỗi dậy ấy như một đợt song dâng lên rồi tan ra. Nó khơng làm mảy may thay đổi cuộc đời Mị.
Nhưng từ đó, song ngầm vẫn khơng mất. Nó sẽ tn trào thành những đợt sóng mới, mãnh liệt hơn lúc nào hết,
bằng chứng là hành động cởi trói cho A Phủ và cùng anh trốn khỏi Hồng Ngài sau này.


III Kết bài:



Thành công của nhà văn là khắc họa một nhân vật sống chủ yếu bằng tâm trạng, với tâm trạng. Cả một
đêm mùa xuân, Mị hành động được rất ít nhưng người đọc vẫn thực sự hấp dẫn với một con người đang từ cõi
âm u mơ hồ trỗi dậy. Không gian, thời gian, giọng kể chuyện của tác phẩm đều theo một tiết tấu của chính tâm
trạng ấy. Hẳn Tơ Hồi đã đặt tất cả tấm lịng của mình vào tâm trạng của Mị để người đọc dõi theo tâm trạng
ấy, khi tha thiết bồi hồi, khi nghẹn ngào xót xa.


<b>AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DỊNG SƠNG?</b>
<b> Hồng phủ Ngọc Tường</b>
I/ Tác giả :


<b>-</b> H.P.N.Tường là một trí thức yêu nước, có vốn hiểu biết sâu rộng trên nhiều lĩnh vực.


<b>-</b> Ông chuyên viết về thể loại bút kí. Nét đặc sắc trong sáng tác của HPNT là ở sự kết hợp nhuần
nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với tư duy đa chiều được tổng hợp từ
vốn kiến thức sâu rộng về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lí… tất cả được diễn đạt trong lối hành văn
hướng nội súc tích, mê đắm và tài hoa.


<b>-</b> Tác phẩm tiêu biểu : Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu (1971), Hoa trái quanh tôi (1995), Ngọn
núi ảo ảnh (1999)…



2/ Hoàn cảnh sáng tác : <i>Ai đã đặt tên cho dịng sơng?</i> là bài bút kí xuất sắc, viết tại Huế ngày 4/1/1981
in trong tập sách cùng tên.


II/ Văn bản :
<i> a) Nội dung:</i>


Tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp sơng Hương từ nhiều góc độ : từ thượng nguồn tới khi qua kinh thành
Huế, từ tự nhiên, lịch sử đến văn hóa nghệ thuật. Qua đó, tác giả ca ngợi thành phố Huế và rộng hơn là
ca ngợi quê hương đất nước.


- Thủy trình của Hương giang:


+ <i>Ở nơi khởi nguồn: </i> Sơng Hương có vẻ đạp hoang dại, đầy cá tính, là <i>bản trường ca của</i>
<i>rừng già,</i> là <i>cơ gái di-gan phóng khống và man dại, </i>là <i> người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở.</i>


<i> + Đến ngoại vi TP Huế: </i>Sông Hương như <i> người gái nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu</i>
<i>Hóa đầy hoa dại</i> được người tình mong đợi đến dánh thức. Thủy trình của SH khi bắt đầu về xi tựa <i>một</i>
<i>cuộc tìm kiếm có ý thức</i> người tình nhân đích thực của một người con gái đẹp trong câu chuyện tình u
lãng mạn nhuốm màu cổ tích.


<i> + Đến giữa TP Huế: </i>SH như tìm được chính mình<i> vui hẳn lên…mềm hẳn đi như một tiếng</i>
<i>“vâng” khơng nói ra của tình u</i> . Nó có những đường nét tinh tế, đẹp như <i> điệu “slow” tình cảm dành</i>
<i>riêng cho Huế, </i>như <i>người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya…</i>


<i> + Trước khi từ biệt Huế: </i>SH giống như <i> người tình dịu dàng và chung thủy. </i>Con sông <i> như nàng</i>
<i>Kiều trong đêm tình tự, trở lại tìm Kim Trọng </i>để nói một lời thề trước lúc đi xa…


- Dịng sơng của lịch sử và thi ca:


<i> + Trong lịch sử, </i>SH mang vẻ đẹp của một bản hùng ca ghi dấu bao chiến công oanh liệt của dân tộc.


<i>+ Trong đời thường, </i>SH mang vẻ đẹp giản dị của<i> một người con gái dịu dàng của đất nước.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<i> b) Nghệ thuật:</i>


<i> - </i>Văn phong tao nhã, hướng nội, tinh tế và tài hoa;


- Ngôn từ phong phú, gợi hình, gợi cảm; câu văn giàu nhạc điệu.


- Các biện pháp nghệ thuật ẩn dụ, nhân hóa, so sánh được sử dụng một cách hiệu quả.
<i> c) Ý nghĩa văn bản: </i>


<i>Thể hiện những phát hiện, khám phá sâu sắc và độc đáo về sông Hương; bộc lộ tình yêu tha thiết,</i>
<i>sâu lắng và niềm tự hào lớn lao của nhà văn đối với dịng sơng quê hương, với xứ Huế thân thương.</i>


3. Hướng dẫn tự học:


+ Tìm đọc trọn vẹn tác phẩm,. Viết cảm nghĩ đoạn văn u thích nhất ;


+ Tìm và phân tích những cách ví von, so sánh độc đáo của HPNT trong đoạn trích./.
B/ LUYỆN TẬP


1/ So sánh cách tiếp cận sông Đà của N.Tuân với cách tiếp cận sông Hương của HPNT.
Nguyễn Tuân với sông Đà H.P.N.Tường với sông Hương
Giống


nhau <b>--</b> Cùng viết tùy bút về dịng sơng.Huy động vốn tri thức phong phú về địa lí, lịch sử, văn hóa.
<b>-</b> Thể hiện rõ rệt cái tơi tài hoa, độc đáo.


Khác



nhau tình của dịng sơng.<b>-</b> Khai thác hai mặt hung bạo và trữ
<b>-</b> Miêu tả sông Đà biến đổi theo
mùa.


<b>-</b> Qua dịng sơng, ca ngợi con người
lao động - chất vàng mười của vùng
Tây Bắc.


<b>-</b> Sử dụng các kiến thức của điện
ảnh, hội họa, quân sự, sinh học, quân
sự, văn học, thủy điện…


<b>-</b> Khai thác những vẻ đẹp khác nhau của
dịng sơng.


<b>-</b> Miêu tả s.Hương biến đổi theo các
khoảng thời gian khác nhau trong ngày :
“sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”.


<b>-</b> Ca ngợi dịng sơng, ca ngợi Huế, ca
ngợi quê hương đất nước.


<b>-</b> Khai thác chiều sâu lịch sử và văn hóa.


2/ Đề bài làm văn tham khảo :


Đề 1 : Cảm nhận của anh ( chị ) về vẻ đẹp của dòng sơng Hương qua bút kí Ai đã đặt tên cho dịng
sơng? của Hồng Phủ Ngọc Tường.


DÀN BÀI


<i>Mở bài :</i>


<b>-</b> “ <i>Có một người nghệ sĩ lang thang giữa hoa cỏ thiên nhiên rồi thiên nhiên bước vào những</i>
<i>trang bút kí tài hoa của anh với bao nhiêu xáo động khôn cùng của ngổn ngang trần thế”</i>… Người ấy
là H.P.N.Tường.


<b>-</b> <i>Ai đã đặt tên cho dịng sơng?</i> là bút kí trữ tình sâu lắng, thể hiện rõ phong cách của HPNT. Tác
phẩm thể hiện sự uyên bác tài hoa của chủ thể sáng tạo trong cái nhìn liên tưởng cùng với những triết
luận sâu sắc về quan hệ giữa dòng sơng và lịch sử, dịng sơng với thi ca nhạc họa, dịng sơng và con
người xứ Huế.


<i>Thân bài :</i>


1/ Vẻ đẹp ở cảnh sắc thiên nhiên: “ <i>sông Hương thuộc về một thành phố duy nhất</i>”
<b>-</b> Vẻ đẹp ở thượng nguồn :


+ Ở thượng nguồn, sông Hương mang vẻ đẹp đầy ấn tượng : “ <i>Là một bản trường ca của rừng</i>
<i>già</i>”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

+ Khi chảy qua những khúc sơng dài “<i>chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng</i>”, sông Hương
“<i>dịu dàng và say đắm</i>”.


+ Giữa lịng Trường Sơn, sơng Hương như “ <i>một cơ gái Di-gan phóng khống và man dại</i>”, có
“<i>bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng</i>”.


 Liên tưởng độc đáo với so sánh và nhân hóa mạnh mẽ, vẻ đẹp thiên nhiên sông Hương ở
thượng nguồn là một vẻ đẹp hoang dã, có sức sống mãnh liệt nhưng cũng dịu dàng và say đắm.


<b>-</b> Vẻ đẹp ở đồng bằng :



+ Sơng Hương “ <i>chuyển dịng một cách liên tục</i>”, “<i>uốn mình theo những đường cong thật mềm</i>”
để tìm đường đi tới thành phố… Đó là khúc quanh vượt qua bao địa danh mang màu sắc văn hóa Huế :
ngã ba Tuần, điện Hòn Chén, vấp Ngọc Trản, bãi Nguyệt Biều, Lương Quán, chân đồi Thiên Mụ…


+ Con sông “ v<i>ẫn đi trong dư vang của Trường Sơn</i>”, “ <i>sắc nước xanh thẳm</i>”.


+ Từ những điểm cao như Vọng Cảnh, Tam Thai... “ <i>ta ln ln nhìn thấy dịng sơng mềm như</i>
<i>tấm lụa</i>”.


+ Dịng sơng có vẻ đẹp biến ảo như phản quang nhiều màu sắc của nền trời Tây Nam thành phố :
“<i>sớm xanh, trưa vàng, chiều tím</i>”.


+ Dịng sơng có vẻ đẹp “<i>trầm mặc</i>”, khi lặng lẽ chảy dưới những “ <i>rừng thông u tịch</i>” với những
lăng mộ “ <i>kiêu hãnh âm u</i>” của các vua chúa triều Nguyễn, có vẻ đẹp “<i>như triết gia, như cổ thi</i>” khi đi
trong âm hưởng ngân nga của tiếng chuông chùa Thiên Mụ, “ <i>giữa những xóm làng trung du bát ngát</i>
<i>tiếng gà</i>”.


 Nghệ thuật so sánh, nhân hóa độc đáo, gợi cảm : sông Hương như “ <i>người mẹ phù sa</i>”, như “


<i>người gái đẹp</i>”, như “ <i>tấm lụa mềm</i>”… thể hiện năng lực tưởng tượng, sự quan sát tinh tế của tác giả và
sự hiểu biết về địa lí, văn hóa, lịch sử…


<b>-</b> Vẻ đẹp khi vào thành phố Huế :


+ Sông Hương vui tươi, chậm rãi, mềm mại, êm dịu “ <i>như một tiếng vâng khơng nói ra của tình</i>
<i>u</i>”.


+ Hình dạng sơng “ <i>uốn một cánh cung</i>”, chiếc cầu trên sông “ <i>như vầng trăng non</i>”.


+ Những chi lưu sông tỏa đi khắp các phố thị tạo những “ <i>xóm thuyền xúm xít</i>”, “ <i>lập lịe trong</i>


<i>đêm sương…nhìn thấy được</i>”.


+ Sơng Hương khi đi qua thành phố “ <i>đã trôi đi chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ</i>
<i>yên tĩnh</i>”, điệu chảy lặng lờ của sông như điệu nhạc êm dịu, tình cảm mà sơng Hương dành cho Huế.


Ngơn ngữ uyển chuyển, đầy chất thơ và âm nhạc đã thể hiện tình cảm gắn bó, say mê, tự hào


của tác giả với dịng sơng, với Huế.
2/ Vẻ đẹp nhìn từ góc độ văn hóa :


<b>-</b> Tác giả gắn sông Hương với vẻ đẹp cổ điển Huế :


+ “ <i>Sông Hương đã trở thành người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya</i>”.


+ Tác giả liên tưởng đến Nguyễn Du và Truyện Kiều. Nguyễn Du từng bao năm lênh đênh trên
dịng sơng này và đã diễn tả điệu Tứ đại cảnh của Huế qua tiếng đàn của Kiều : “<i>Trong như tiếng hạc</i>
<i>bay qua. Đục như tiếng suối mới sa nửa vời</i>”


<b>-</b> Tác giả cho rằng có một dịng thi ca về sơng Hương, và “ <i>dịng sơng ấy khơng bao giờ lặp lại</i>
<i>mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ</i>”: Tản Đà tinh tế khám phá sự thay màu thực bất ngờ “ <i>dòng sông</i>
<i>trắng, lá cây xanh</i>”. Cao Bá Quát phát hiện ở sông vẻ đẹp hùng tráng như “ <i>kiếm dựng trời xanh</i>”. Bà
Huyện Thanh Quan tìm thấy ở sơng một nỗi “ <i>quan hoài vạn cổ</i>”. Và trong thơ Tố Hữu, sông Hương
trở thành “<i>sức mạnh phục sinh của tâm hồn</i>”…


3/ Vẻ đẹp nhìn từ góc độ lịch sử : sơng Hương đã từng
<b>-</b> Là dịng sơng bảo vệ biên thùy tổ quốc thời Đại Việt.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

 Sơng Hương là dịng sơng của sử thi, “ <i>khi nghe lời gọi nó biết hiến đời mình làm một chiến</i>


<i>cơng, để rồi nó trở về với cuộc sống đời thường, làm một người con gái dịu dàng của đất nước</i>”. Tác


giả đã nhìn sơng Hương như một cơ gái Huế, như cô dâu Huế ngày xưa trong áo diều lục, nhưng có lúc
lại là cơ gái Di-gan phóng khống và man dại, có lúc lại là một thiếu nữ tài hoa, dịu dàng mà sâu sắc,
đa tình, “ <i>kín đáo lẳng lơ</i>” nhưng rất mực chung tình…Đấy chính là vẻ đẹp trong trí tưởng tượng sáng
tạo đầy tài hoa của tác giả.


<i>Kết bài :</i>


<i><b>-</b></i> Tác phẩm là những phát hiện về vẻ đẹp của dịng sơng Hương, nhưng xét đến cùng, những phát
hiện ấy bắt nguồn từ tình cảm thiết tha đến say đắm của tác giả đối với cảnh và con người xứ Huế.


<i><b>-</b></i> Kết thúc tác phẩm là huyền thoại về tên gọi của dịng sơng với một câu hỏi thật vấn vương lòng
người : Ai đã đặt tên cho dịng sơng?




---Đề 2 : Phân tích hình ảnh thơ mộng, trữ tình của những dịng sơng Việt Nam qua tùy bút Người lái đị
sơng Đà ( N.Tuân ) và bút kí Ai đã đặt tên cho dịng sơng? ( H.P.N.T ).


DÀN BÀI
<i>Mở bài</i> :


<b>-</b> Những dịng sông chảy trên đất nước Việt Nam đều phản chiếu trong nó vẻ đẹp thiên nhiên, đời
sống văn hóa của dân tộc. Điều đó tạo nên nét thơ mộng, trữ tình của những dịng sơng Việt Nam.


<b>-</b> Tiêu biểu qua hình ảnh sơng Đà trong Người lái Người lái đị sông Đà ( N.Tuân ) và sông
Hương trong Ai đã đặt tên cho dịng sơng? ( H.P.N.T ).


<i>Thân bài</i> :


1/ Giới thiệu khái quát :



<b>-</b> Tác phẩm Người lái đị sơng Đà của N.Tn được viết năm 1960, là kết quả chuyến đi thực tế
Tây Bắc của nhà văn. Cảm hứng ca ngợi thiên nhiên Tây Bắc vừa hùng vĩ vừa thơ mộng tuyệt vời và
ca ngợi con người dũng cảm trong xây dựng cuộc sống mới đã làm nên sự thành công của tùy bút này.


<b>-</b> Tác phẩm Ai đã đặt tên cho dịng sơng? là bút kí đặc sắc của H.P.N.T. Tác phẩm giàu chất trí
tuệ, chất trữ tình được viết năm 1981, tại Huế bằng cảm xúc sâu lắng đầy chất thơ về sông Hương với
vốn hiểu biết phong phú về văn hóa, lịch sử, địa lí, văn chương.


==> Được viết trong hai thời điểm khác nhau, về hai dịng sơng khác nhau nhưng hai tác phẩm
có điểm chung : miêu tả những nét thơ mộng, trữ tình của hai dịng sơng với vốn hiểu biết phong phú,
tình cảm say đắm, ngịi bút tài hoa.


2/ Hình ảnh thơ mộng của những dịng sơng :
a/ <i>Sơng Đà</i> :


<b>-</b> Nét đặc biệt : “<i> Chúng thuỷ giai đông tẩu. Đà giang độc bắc lưu</i>”, nghĩa là mọi con sông đều
chảy về đơng chỉ có sơng Đà theo hướng bắc.


<b>-</b> Sơng Đà được tác giả so sánh với dáng tha thướt, mềm mại kiều diễm như mái tóc dài của người
phụ nữ đẹp : “ <i>Con sông Đà …nương xuân</i>”.


<b>-</b> Vẻ đẹp sông Đà thể hiện ở những biến đổi tinh vi của nước sông theo thời tiết : mùa xuân “
<i>xanh ngọc bích</i>”, mùa thu “ <i>lừ lừ chín đỏ</i>”, giữa hai mùa ấy là “<i> màu nắng tháng ba Đường thi</i>”. Nước
sơng Đà cịn lấp lánh dưới ánh mặt trời như “ <i>cái miếng sáng lóe lên</i>” trong trị nghịch chiếu gương soi
của trẻ con.


==> Với những so sánh biến hóa khơng trùng lặp, nhà văn như một họa sĩ tài hoa vẽ nên vẻ đẹp
sông Đà đầy màu sắc, đường nét sống động.



b/ <i>Sông Hương</i> :


* Nét đặc biệt : “ <i>Sông Hương thuộc về một thành phố duy nhất</i>”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

- Ở giữa rừng Trường Sơn : “ <i>dịu dàng và say đắm… hoa đỗ quyên rừng</i>” -> vẻ thơ mộng, hoang
sơ, nguyên thủy của chốn rừng già u tịch.


- Đến cánh đồng Châu Hóa : biến đổi linh hoạt, mang vẻ đẹp “ <i>dịu dàng và trí tuệ</i>”.


+ Sông Hương được miêu tả như nét đẹp dáng hình của một người con gái “ <i>uốn mình theo</i>
<i>những đường cong thật mềm</i>” qua điện Hòn Chén, bãi Nguyệt Biều, Lương Qn… như một cuộc tìm
kiếm có ý thức để tới gặp thành phố tương lai.


+ Sơng Hương rất “ tình tứ” khi vẽ “ <i>một hình cung thật trịn về phía Đơng Bắc, ơm lấy chân đồi</i>
<i>Thiên Mụ</i>”, qua những dãy đồi phản quang nhiều màu sắc “ <i>sớm xanh, trưa vàng, chiều tím</i>”.


+ Vẻ thơ mộng của sông Hương gắn liền vẻ cổ kính, u tịch trang nghiêm của những đền đài,
thành quách chốn cố đô, “ <i>những lăng tẩm đồ sộ</i>” mang đến cho sông Hương vẻ đẹp “ <i>trầm mặc</i>”, “
<i>triết lí</i>”.


- Đến nội vi thành phố Huế :


+ Cùng với Huế, sơng Hương góp phần tạo vẻ thơ mộng của “ đô thị cổ”.


+ Gắn bó với cuộc sống cố đơ : làm “ <i>xanh biếc</i>” những biền bãi Kim Long, làm tăng thêm sức
sống của những “ <i>vầng lá</i>” cổ thụ u sầm của cây đa, cây cừa, chứa trong lịng nó những sinh hoạt bình
dị, dân dã của đời sống người dân xứ Huế trong “ <i>những ánh lửa thuyền chài</i>” mà “ <i>khơng một thành</i>
<i>phố hiện đại nào cịn nhìn thấy được</i>”.


+ Sơng Hương hịa nhập với đời sống của Huế, biến thành một phần của Huế : “ <i>khi qua thành</i>


<i>phố đã trôi đi chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ cịn là mặt hồ n tĩnh</i>” -> Sơng Hương đã trở thành một
phần đời sống văn hóa Huế.


==> Nét thơ mộng của hai dịng sơng được tác giả miêu tả ở nhiều góc độ : văn hóa, lịch sử…
được nhìn trong sự cộng hưởng với vẻ đẹp thiên nhiên, đất nước của những tâm hồn nghệ sĩ tài hoa.
3/ Nét trữ tình của những dịng sông :


a/ <i>Sông Đà</i> :


- Đối với mỗi người, sông Đà gợi cảm một cách khác nhau :


+ Với N. Tuân, sông Đà như một “ <i>cố nhân</i>” trong nỗi niềm du khách khi tác giả mải đi rừng dài
ngày gặp lại sơng Đà thì vui “ <i>như thấy nằng giòn tan… đứt quãng</i>”. N.Tuân dành tình cảm nồng nàn,
ấm áp với dịng sơng, “ <i>nó đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân</i>”.


+ Với Tản Đà, sông Đà gợi cảm hứng thi ca : “ <i>Dải sơng Đà… tình</i>”.


+ Đối với người dân Thái sống hai bên bờ sông, sông Đà gắn bó với cuộc sống mới yên vu của
họ ( nương ngô, đàn cá dầm xanh…).


- Gợi cảm xúc về một dịng sơng hiền hịa, dịng chảy “<i> lững lờ như nhớ như thương những hịn</i>
<i>đá thác xa xơi</i>” trên thượng nguồn Tây Bắc -> nét hiền hòa làm tăng cảm xúc trữ tình, khách đi trên
sơng như lạc vào thế giới hư hư thực thực.


b/ <i>Sông Hương</i> :


* Gợi cảm xúc phong phú, sâu lắng trong tâm hồn con người, sông Hương và Huế được tác giả
nhìn như một đơi tình nhân u nhau đắm say mà làm cho mỗi bên đều đẹp hơn trong tình yêu.


- Gợi vẻ trữ tình, âu yếm dịu dàng của điệu slow trong tình yêu : “ <i>điệu chảy…Huế</i>”.


- Gợi nỗi lòng vấn vương giữa người đi kẻ ở “ <i>đang xa dần…Vĩ Dạ</i>”.


- Gợi cảm xúc về tình u chung thủy khi nó ngoặt dịng chia tay với Huế, ôm lấy cồn Hến.


==> Những chuyển biến trong dịng chảy của sơng Hương đều gợi lên những tình cảm đẹp trong
mỗi người khiến tác giả phải thốt lên “ <i>có một cái gì rất lạ với tự nhiên và rất giống với con người ở</i>
<i>đây</i>” -> sơng Hương và con người đều có tình u.


- Gợi cảm xúc trong chiều sâu đời sống văn hóa dân tộc : sông Hương gợi cảm xúc về một vùng
văn hóa sơng nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

- Tiếng đàn gợi truyền thống văn hóa dân tộc, nét đẹp trong phẩm chất tâm hồn người Việt Nam :
yêu say đắm, thủy chung như Kim Trọng – Thúy Kiều.


- Gợi dân ca sông nước, gợi cảm hứng cho bao thi nhân : Tản Đà, Cao Bá Quát, Bà Huyện Thanh
Quan, Tố Hữu.


* Gợi cảm xúc trong chiều dài của những biến thiên lịch sử :


- Tự hào về truyền thống đấu tranh hào hùng, vẻ vang của dân tộc : từ thời vua Hùng -> Nguyễn
Trãi -> Nguyễn Huệ -> chống Pháp -> chống Mĩ…sông Hương là chứng nhân lịch sử trong truyền
thống kháng chiến chống quân xâm lược vẻ vang của dân tộc.


- Gợi cảm xúc lắng đọng về một đất nước chịu nhiều đau thương trong chiến tranh, “<i>Huế đã nhận</i>
<i>được những lời chia buồn sâu sắc</i>…”.


==> Gợi cảm xúc về một thành phố anh hùng, “ <i>lịch sử Đảng đã ghi bằng nét son tên của thành</i>
<i>phố Huế, thành phố tuy nhỏ nhưng đã cống hiến rất xứng đáng cho Tổ quốc</i>”.


<i>Kết bài</i> :



- N.Tuân và H.P.N.T đã thành cơng khi miêu tả hai dịng sơng với nét thơ mộng, trữ tình bằng tình
u say đắm với dịng sơng và tài năng của những cây bút giàu trí tuệ, vốn hiểu biết sâu rộng về văn
hóa, lịch sử, địa lí và văn chương.


- Văn phong của thể kí đạt trình độ tao nhã, hướng nội, tinh tế, tài hoa.


- Qua nét đẹp của hai dòng sơng, hai nhà văn đã bồi dưỡng trong lịng người đọc tình yêu thiên
nhiên, tình yêu quê hương đất nước.


<b>NGƯỜI LÁI ĐỊ SƠNG ĐÀ</b>
<b> Nguyễn Tuân</b>


<b>I/ Tác giả : Nguyễn Tuân</b>


- Nguyễn Tuân ( 1910 – 1987 ) sinh ra trong một gia đình nhà nho khi Hán học đã tàn.


- Tính tình phóng khống và giàu lịng u nước.


- Nét nổi bật trong PCNT Nguyễn Tuân là tài hoa, uyên bác.
<b>II/ Văn bản</b> :


<b>1/</b> <b>Hoàn cảnh sáng tác</b> :


- Người lái đị sơng Đà là kết quả của nhiều dịp đến với Tây Bắc của nhà văn, đặc biệt là
chuyến đi thực tế năm 1958. Đây là một trong số 15 bài tùy bút của Nguyễn Tuân in trong tập Sơng Đà
xuất bản năm 1960.


- Sơng Đà nói chung và bài tuỳ bút Người lái đị sơng Đà nói riêng cho ta nhận ra diện mạo một nhà
văn N.Tuân mới mẻ, khát khao được hòa nhập với đất nước và cuộc đời này.



- Tác phẩm còn tiêu biểu cho PCNT độc đáo của N.Tuân : uyên bác, tài hoa, không quản nhọc
nhằn để cố gắng khai thác kho cảm giác và liên tưởng phong phú, bộn bề nhằm tìm cho ra những chữ
nghĩa xác đáng nhất, có khả năng làm lay động người đọc nhiều nhất.


<b>2/</b> <b>Nội dung</b> :


- Sông Đà trên trang văn Nuyễn Tuân hiện lên như một “nhân vật” có hai tính cách trái ngược:


<i>+ Hung bạo, dữ dằn:</i> Cảnh đá <i>dựng thành vách</i>, những đoạn đá <i>chẹt</i> dịng sơng như cái yết hầu;
cảnh <i>nước xơ đá, đá xơ sóng, sóng xơ gió cuồn cuộn luồng gió gùn ghè</i>; những hút nước sẵn sàng nhấn
chìm và đập tan chiếc thuyền nào lọt vào; những thạch trận, phòng tuyến sẵn sàng <i>ăn chết</i> con thuyền và
người lái đị;…


<i>+ Trữ tình và thơ mộng:</i> Dịng chảy uốn lượn của con sơng như mái tóc người thiếu nữ Tây Bắc
diễm kiều; nước sông Đà biến đổi theo mùa, mỗi mùa có một vẻ đạp riêng; cảnh vật hai bên bờ sông Đà
vừa hoang sơ nhuốm màu cổ tích, vừa trù phú, tràn trề nhựa sống;…


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

chứng tỏ sự tài hoa, uyên bác và lịch lãm. Hình tượng sơng Đà là phơng nền cho sự xuất hiện và tôn vinh
vẻ đẹp của người lao động trong chế độ mới.


- Hình ảnh người lái đò:


+ Là vị chỉ <i>huy cái thuyền sáu bơi chèo</i> trong cuộc chiến đấu không cân sức với thiên nhiên dữ dội,
hiểm độc(sóng, nước, đá, gió…). Bằng trí dũng tuyệt vời và phong thái ung dung, tài hoa, người lái đị
<i>nắm</i> <i>lấy bờm sóng</i> vượt qua trận <i>thủy chiến</i> ác liệt (đá nổi, đá chìm, ba phịng tuyến trung vi vây bủa….)
thuần phục dịng sơng. Ơng nhìn thử thách bằng cái nhìn giản dị mà lãng mạn; bình tĩnh và hùng dũng
ngay cả lúc đã bị thương.


+ Nguyên nhân chiến thắng của ơng lái đị: Sự ngoan cường, dũng cảm và nhất là kinh nghiệm sơng


nước.


- Hình ảnh ơng lái đị cho thấy NT đã tìm được nhân vật mới: nhưng con người đáng trân trọng, ngợi ca,
khong thuộc tầng lớp đài các <i>vang bóng một thời </i> mà là những người lao động bình thường-chất<i> vàng</i>
<i>mười của Tây Bắc</i>. Qua đây, nhà văn mốn phát biểu quan niệm: người anh hùng không chỉ có trong chiến
đấu mà cịn có trong cuộc sống lao động thường ngày.


<i><b> Nghệ thuật:</b></i>


- Những ví von, so sánh, liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, bất ngờ và rất thú vị.
- Từ ngữ phong phú, sống động, giàu hình ảnh và có sức gợi cảm cao.


- Câu văn đa dạng, nhiều tầng, giàu nhịp điệu, lúc thì hối hả, gân guốc, khi thì chậm rãi, trữ tình…
<i><b> Ý nghĩa văn bản:</b></i>


<i><b>Giới thiệu, khẳng định, ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên và con người lao động ở miền Tây Bắc của</b></i>
<i><b>Tổ quốc; thể hiện tình u mến, sự gắn bó thiết the của Nguyễn Tuân đối với đất nước và con người</b></i>
<i><b>Việt Nam.</b></i>


<b>3. Hướng dẫn tự học:</b>


<b>+ Tìm đọc trọn vẹn tác phẩm </b><i><b>Người lái đị sơng Đà;</b></i>


<b>+ Liệt kê dẫn chứng và phân tích hiệu quả vài biện pháp nghệ thuật mà nhà văn đã sử</b>
<b>dụng để khắc họa hình tượng sơng Đà;</b>


<b>+ Phân tích hình ảnh người lái đị trong cảnh vượt thác./.</b>
<b>3/ Nghệ thuật :</b>


- Nhà văn đã dùng các biện pháp nhân hóa, so sánh, biến hóa trong cách đặt câu, dùng từ làm


cho ngơn ngữ trong tác phẩm vừa có giá trị tạo hình vừa gợi cảm phong phú.


- Sự tài hoa, uyên bác của nhà văn thể hiện qua việc vận dụng kiến thức lịch sử, địa lí, hội họa,
điện ảnh, quân sự, thể thao…


<b>4/ Chủ đề :</b>


Qua hình ảnh con sơng hung bạo và thơ mộng, người lái đị bình dị mà dũng cảm, tài hoa, Nguyễn
Tuân ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Tây Bắc của Tổ quốc.


<b>B/ LUYỆN TẬP</b> :


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Câu 1: Những đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam từ 1945-1975?


Văn học Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1975 có ba đặc điểm:


a. <i>Nền văn học chủ yếu vận động theo hướng cách mạng hố, gắn bó sâu sắc với vận mệnh chung của đất</i>
<i>nước.Biểu hiện :</i>


- Khuynh hướng, tư tưởng chủ đạo của văn học là tư tưởng cách mạng .


- Đề tài chủ yếu của văn học là Tổ quốc và Chủ nghĩa xã hội. Văn học gắn bó và phản ánh những chặng đường
cách mạng của dân tộc.


b. Nền văn học hướng về đại chúng. Biểu hiện :


- Đối tượng phản ánh và phục vụ của văn học là quần chúng nhân dân,xây dựng được hình tượng các tầng lớp
nhân dân,quan tâm đến đời sống nhân dân.


- Văn học có nội dung ngắn gọn, chủ đề rõ ràng, hình thức trong sáng, dễ hiểu.



c. Nền văn học chủ yếu mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.Biểu hiện :
- Văn học đề cập những vấn đề có ý nghĩa lịch sử và tính dân tộc.


- Nhân vật tiêu biểu cho phẩm chất cộng đồng
- Lời văn trang trọng, hào hùng.


- Văn học thể hiện và khơi dậy niềm vui, niềm tin cho nhân dân trước những khó khăn, thử thách của đất nước.
- Khuynh hướng sử thi kết hợp với cảm hứng lãng mạn:


<i>Câu 2. Trình bày ngắn gọn quan điểm sáng tác văn học của Hồ Chí Minh ?</i>
<i> </i>


<i> Quan điểm sáng tác của Hồ Chí Minh gồm ba điểm chính:</i>


- Hồ Chí Minh coi văn nghệ là một hoạt động tinh thần phong phú, phục vụ có hiệu quả cho hoạt động cách
mạng; nhà văn cũng phải ở giữa cuộc đời, góp phần vào nhiệm vụ đấu tranh và phát triển xã hội.


- Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng đối tượng thưởng thức văn nghệ. Văn chương cách mạng phải hướng về
quần chúng nhân dân để phục vụ.


- Hồ Chí Minh ln đề cao tính chân thật của văn chương; hình thức biểu hiện của tác phẩm phải trong
sáng,hấp dẫn, tránh lối viết cầu kì, xa lạ; tác phẩm văn chương phải thể hiện được tinh thần của dân tộc, của
nhân dân.


<i>Câu 3: Trình bày ngắn gọn phong cách nghệ thuật của Hồ Chí Minh ? </i>


<i> Phong cách nghệ thuật của Hồ Chí Minh độc đáo, đa dạng thể hiện qua ba thể loại :</i>
<i> </i>



<i> +Văn chính luận: thường rút gọn, tư duy sắc sảo, lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, bằng chứng đầy sức</i>
thuyết phục, giàu tính luận chiến và đa dạng về bút pháp.


<i>+Truyện và kí: rất hiện đại, thể hiện tính chiến đấu mạnh mẽ và nghệ thuật trào phúng vừa có sự sắc bén,</i>
thâm thúy của phương Đơng vừa có cái hài hước, hóm hỉnh của phương Tây.


+Thơ ca: những bài thơ tuyên truyền lời lẽ giản dị, mộc mạc mang màu sắc dân gian hiện đại, dễ thuộc, dễ
nhớ, có sức tác động lớn; thơ nghệ thuật hàm súc, có sự kết hợp độc đáo giữa bút pháp cổ điển và hiện đại, trữ
tình và tính chiến đấu.


<i>Câu 4. Trình bày hồn cảnh ra đời bản "Tun ngơn Độc lập "của Hồ Chí Minh ?</i>
<i> Hồn cảnh ra đời bản "Tun ngơn Độc lập "của Hồ Chí Minh :</i>


- Tháng 8.1945, nhân dân ta vừa giành được chính quyền sau cuộc Tổng khởi nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh
từ Việt Bắc về Hà Nội và soạn thảo Tuyên ngôn Độc lập.Đến ngày 2.9.1945, tại Quảng trường Ba Đình,
Hà Nội, Người đã đọc bản Tuyên ngôn này;


- Khi đó, bọn đế quốc, thực dân đang chuẩn bị chiếm lại nước ta :


+ Sắp tiến vào từ phía Bắc là quân đội Quốc dân đảng Trung Quốc được sự ủng hộ của đế quốc Mĩ;
+ Tiến vào từ phía Nam là quân đội Anh, đằng sau chúng là lính Pháp;


+ Pháp đã tung ra thế giới một luận điệu xảo trá : Đông Dương vốn là thuộc địa của Pháp, chúng có cơng
“khai hố”, “bảo hộ” xứ này nhưng bị phát xít Nhật xâm chiếm; nay Nhật bị Đồng minh đánh bại, thì Pháp sẽ
trở lại Đông Dương là lẽ đương nhiên. Bản "Tuyên ngôn Độc lập" cương quyết bác bỏ luận điệu này.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Phạm văn Đồng viết bài này nhân kỉ niệm 75 năm ngày mất của Nguyễn Đình Chiểu (3-7-1888_3-7-1963) in
trong tạp chí văn học tháng 7-1963


Thời điểm này có nhiều sự kiện quan trọng: từ năm 1954 đến 1959, Ngơ Đình Diệm và chính quyền Sài Gịn


lê máy chém khắp miền Nam và thực hiện luật 10/59. Từ năm 1960, Mĩ can thiệp sâu vào chiến tranh Việt nam
và khắp nơi ở miền Nam nổi lên phong trào đấu tranh quyết liệt. Viết bài nghị luận ca ngợi Nguyễn Đình Chiểu
ở thời điểm này là có ý nghĩa lớn


<i>Câu 6: Trình bày những điểm chính phong cách thơ Tố Hữu ? </i>


-Về nội dung, thơ Tố Hữu mang tính chất trữ tình chính trị rất sâu sắc


+Hồn thơ Tố Hữu hướng tới cái ta chung với lẽ sống lớn, tình cảm lớn,niềm vui lớn của con người cách
mạng.Cái tơi trữ tình trong thơ Tố Hữu là cái tôi chiến sĩ,nhân danh cách mạng, nhân danh cộng đồng dân tộc


+Thơ Tố Hữu mang đậm tính sử thi, coi những sự kiện chính trị lớn của đất nước là đối tượng thể hiện
chủ yếu,luôn đề cập đến những vấn đề có ý nghĩa lịch sử và có tính chất tồn dân.Cảm hứng chủ đạo là cảm
hứng lịch sử-dân tộc, là vấn đề vận mệnh cộng đồng, nhân vật trữ tình mang phẩm chất tiêu biểu cho dân tộc.


+Những vấn đề chính trị trọng đại của dân tộc được Tố Hữu thể hiện qua giọng thơ tâm tình,đằm thắm,là
lời ca ngọt ngào tha thiết.


-Nghệ thuật biểu hiện trong thơ Tố Hữu mang tính dân tộc rất đậm đà:


+Sử dụng sáng tạo các thể thơ truyền thống của dân tộc: thể thơ lục bát, thể thơ thất ngôn


+Sử dụng những từ ngữ và cách nói quen thuộc của dân tộc, phát huy cao độ tính nhạc phong phú của
tiếng Việt.


Tóm lại: Thơ Tố Hữu là thơ trữ tình chính trị, thơ Tố Hữu gắn liền với khuynh hướng sử thi, cảm hứng lãng
mạn, thơ Tố Hữu có giọng điệu tâm tình ngọt ngào, tha thiết của quê hương xứ Huế,thơ Tố Hữu đậm đà bản sắc
dân tộc.


<i>Câu 7: Nêu những nét chính về nội dung và nghệ thuật bài thơ Việt Bắc?</i>



-Nội dung : Tình cảm đôn hậu của con người Việt Bắc và sự ân tình thuỷ chung của người cán bộ kháng
chiến trong cuộc chia tay. Qua đó, tác giả đã khắc hoạ đậm nét hình ảnh Việt Bắc tươi đẹp, cuộc sống chiến đấu
trong kháng chiến vô cùng gian khổ nhưng cũng bất khuất, anh hùng và chiến thắng.


-Nghệ thuật : Giọng thơ trữ tình ngọt ngào của thể lục bát, hình ảnh thơ trong sáng mang đậm màu sắc
địa phương, ngôn ngữ giản dị nhưng linh hoạt uyển chuyển, kết cấu đối đáp đậm nét ca dao trong một hoàn
cảnh chia tay đặc biệt đầy sáng tạo….khiến cho bài thơ đậm đà tính dân tộc.


<i>Câu 8. Nêu những nét chính về nội dung và nghệ thuật đoạn trích "Đất nước"?</i>


-Nội dung : Thể hiện những nhận thức, khám phá mới mẻ về Đất Nước của tuổi trẻ thành thị miền Nam
trong thời chống Mỹ. Trên nền văn hoá dân gian vững chắc, tác giả đã hướng sự tìm tịi, suy ngẫm tới nhiều
bình diện như lịch sử, địa lý, phong tục,…để làm nổi bật tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân và gợi ý thức trách
nhiệm của mỗi người trước vận mệnh của Đất Nước.


-Nghệ thuật : tất cả các kiến thức, tư liệu, sự kiện phong phú được đưa vào không chỉ để tác động vào lí
trí, làm bừng sáng nhận thức mà cịn lay thức tình cảm của người đọc, của mỗi người Việt nam chủ yếu nhờ vào
sự thẩm thấu qua tâm hồn cảm xúc của Nguyễn Khoa Điềm. Từ đó nhà thơ đã tìm được một cách nói riêng
giọng điệu tâm tình.


<i>Câu 9/ Nêu ý nghĩa câu thơ đề từ "Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn" trong bài thơ "Đàn ghi ta của Lorca"?</i>
<i>-Với Lorca, cây đàn là biểu tượng cho nghệ thuật; với Lorca, nghệ thuật là tình u, là lẽ sống. Lorca</i>
khơng thể rời xa nghệ thuật, ngay cả khi đã từ giã cõi đời


-Tây Ban Nha là quê hương của cây đàn ghi ta. Đàn ghi ta là biểu tượng đặc trưng cho đất nước Tây Ban
Nha. Vì thế câu thơ di chúc cịn biểu hiện tình u thiết tha của người nghệ sĩ Lor ca với xứ sở quê hương.


- Lor ca là nhà cách tân nghệ thuật. Lor ca biết thi ca của mình một ngày nào đó sẽ án ngữ, ngăn cản
những người đến sau trong sáng tạo nghệ thuật nên di chúc dặn lại cần phải biết chôn nghệ thuật của ông để đi


tới.


<i>Câu 10. Nêu nội dung và hình thức nghệ thuật bài thơ "Đàn ghi ta của Lorca"(Thanh Thảo)?</i>
Về nội dung bài thơ


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

-Cái chết của Lor-ca là sự kiện gây chấn động lớn khơng chỉ ở Tây Ban Nha mà cịn với tồn thế giới, khơng
chỉ với lúc bấy giờ mà cịn âm vang tới nhiều năm sau. Thanh Thảo muốn phục sinh thời khắc bi tráng đó, tỏ
thái độ ngưỡng mộ, đau xót và qua đó xây dựng biểu tượng nghệ thuật Lor-ca qua một hình ảnh quen thuộc mà
đọc đáo: đàn ghi ta.


3) Về hình thức


Thanh Thảo thể nghiệm một hình thức mới, gần gũi với dịng mạch tượng trưng và siêu thực (mà F.G. Lor-ca là
một thành viên) tạm gọi là kết hợp và giao hoà: kết hợp giữa tự sự và trữ tình, giữa thơ và nhạc, giữa màu sắc
thơ viếng phương Đông và chất bi tráng trong nhạc giao hưởng phương Tây, giữa hệ thống thi ảnh Lor-ca và hệ
thống thi ảnh của chính tác giả. Tất cả lại được đưa vào một cấu trúc mới cũng mang tính chất kết hợp và giao
hồ: giao hồ giữa tính liên tục trong cốt tự sự với tính gián đoạn trong suy cảm và ngơn ngữ thơ.


<i>Câu 11. Qua đoạn trích tuỳ bút “Người lái đị sơng Đà”,Nguyễn Tuân muốn gởi đến người đọc ý tưởng gì ?</i>
Qua “Người lái đị sơng Đà”, Nguyễn Tn với lịng tự hào của mình đã khắc hoạ những nét thơ mộng,
hùng vĩ nhưng khắc nghiệt của thiên nhiên đất nước qua hình ảnh con sơng Đà hung bạo và trữ tình. Đồng thơi,
nhà văn cũng phát hiện và ca ngợi chất nghệ sĩ, sự tài ba trí dũng của con người lao động mới : chất vàng mười
của đất nước trong xây dựng chủ nghĩa xã hội qua hình ảnh người lái đị sơng Đà.


<i>Câu 12. Nêu ý nghĩa nhan đề Rừng xà nu ? </i>
Ý nghĩa nhan đề Rừng xà nu :


- Hình ảnh rừng xà nu là linh hồn của tác phẩm. Cảm hứng chủ đạo và dụng ý nghệ thuật của nhà văn được
khơi nguồn từ hình ảnh này.



+ Ý nghĩa tả thực : Nhà văn nói về cây xà nu- một loài cây sống thành rừng ở Tây Nguyên.Loài cây này có
sức sống mãnh liệt, khơng chịu khuất phục trước sự thay đổi của thời tiết.Cây xà nu luôn gắn bó mật thiết và
quan hệ chiếu ứng với cuộc sống của người dân Tây Nguyên.


+ Ý nghĩa biểu tượng: Qua sức sống mãnh liệt của cây xà nu, rừng xà nu, nhà văn nói đến nỗi đau và sức
sống , phẩm chất kiên cường bất khuất của nhân dân Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.


<i>Câu 13 . Câu văn mở đầu được lặp lại ở cuối tác phẩm Rừng xà nu được viết như thế nào ? Hình ảnh cánh rừng</i>
xà nu đầu và cuối tác phẩm gợi cho anh (chị) ấn tượng gì?


a. Câu văn mở đầu được lặp lại ở cuối tác phẩm Rừng xà nu được viết : đứng trên đồi xà nu ấy trơng ra xa
<i>đến hết tầm mắt cũng khơng thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời .</i>


b.Hình ảnh cánh rừng xà nu đầu và cuối tác phẩm : gợi ra cảnh rừng xà nu hùng tráng, kiêu dũng và bất
diệt, gợi ra sự bất diệt, kiêu dũng và hùng tráng của con người Tây Nguyên nói riêng và con người Việt Nam
nói chung trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước vĩ đại. ấn tượng đọng lại trong kí ức người đọc mãi mãi
chính là cái bát ngát của cánh rừng xà nu kiêu dũng đó.


Câu 14: Hãy cho biết màn kết vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” diễn ra như thế nào? Ý nghĩa của màn
kết vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”?


Trả lời :


- Kết thúc vở kịch, Trương Ba Chết, nhưng hồn ơng vẫn cịn đó “giữa màu xanh cây vườn, Trương Ba chập
<i>chờn xuất hiện”, và ơng đã nói với vợ mình những lời tâm huyết, hàm chứa ý nghĩa “ Tôi đây bà ạ.T ôi ở liền </i>
<i>ngay bên bà đây, ngay trên bậc cửa nhà ta…Không phải mượn thân ai cả, tôi vẫn ở đây, trong vườn cây nhà ta,</i>
<i>trong những điều tốt lành của cuộc đời, trong mỗi trái cây cái Gái nâng niu…”. </i>


- Những lời nói của Trương Ba , phải chăng đó là sự bất tử của linh hồn trong sự sống, trong lịng người.Điều
đó thêm tô đậm nhân cách cao thượng của Trương Ba và khắc sâu thêm tư tưởng nhân văn cao cả của tác


phẩm.


Câu 15. Ý nghĩa nhan đề Hồn Trương Ba da hàng thịt ?


Nhan đề hồn Trương Ba da hàng thịt là một hình tượng nghệ thuật, phản ánh một hiện thực cuộc sống con
người khi bị rơi vào nghịch cảnh, phải sống giả tạo bên ngoài một đằng, bên trong một nẻo, khơng được sống
đích thực là chính mình. Nhan đề còn gửi gắm một ý nghĩa sâu sắc: Đó là sự cảnh tỉnh con người khi khơng làm
chủ được hồn cảnh, khơng làm chủ được bản thân để lối sống dung tục tầm thường lấn át lối sống thanh cao
trong sáng, để thể xác sai khiến linh hồn, để những ham muốn bản năng thấp kém làm cho nhân cách lệch lạc,
nhoà mờ khiến tâm hồn và thể xác khơng cịn là một thể hài hồ thống nhất.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Câu 16: Giới thiệu ngắn gọn về cuộc đời của nhà văn Hê-minh-uê và sáng tác văn chương của ơng?
<i>( Trích đề thi và đáp án Tốt Nghiệp THPT năm 2007)</i>


- Ơnixt Hêminguê (1899 – 1961) là nhà văn Mĩ nổi tiếng thế giới.


- Ông yêu thích thiên nhiên hoang dại, từng tham gia chiến tranh thế giới thứ nhất. Sau đó cùng với một số trí
thức, nghệ sĩ, ơng tự xưng là “thế hệ vứt đi”. Chiến tranh thế giới thứ hai, ông tham gia đội quân quốc tế chống
phát xít ở Tây Ban Nha, làm phóng viên mặt trận, sáng tác văn chương...


- Ơng được giải Nơben Văn học (1954).


- Hai tác phẩm tiêu biểu : Giã từ vũ khí, Ơng già và biển cả...


Câu 17: Sự thể hiện nguyên lý Tảng băng trôi trong đoạn trích “Ơng già và biển cả”:
<i> - Phần nổi: Miêu tả một cuộc săn bắt cá. Ông lão là người săn cá, cá kiếm là con mồi. </i>
- Phần chìm: ( biểu tượng, ẩn dụ)


+ Nhân vật Xantiago như một biểu tượng về Con người lao động có khát vọng đẹp.Để đạt được ước mơ, lí
tưởng, con người phải trải qua cuộc đọ sức quyết liệt



( Ông lão chiến thắng con cá là nhờ thạo nghề giàu kinh nghiệm, nghị lực phi thường, niềm tin vào khả năng
<i>chiến thắng,trí tuệ sáng suốt) </i>


<i> +Con cá kiếm là biểu tượng của ước mơ,l í tưởng mà mỗi con người theo đuổi trong cuộc đời. </i>
+ Biển cả là khung cảnh kỳ vĩ tương ứng với môi trường lao động đầy thử thách của con người.
+Cuộc đi câu là hành trình theo đuổi một khát vọng to lớn vượt ra ngoài giới hạn của con người.


Trong mọi hoàn cảnh và điều kiện ta nhận thấy “con người chỉ có thể bị hủy diệt chứ khơng bị đánh bại”.
B. CÂU 3 ĐIỂM ( NL xã hội)


Đề bài: Anh (chị) hãy trình bày suy nghĩ của mình về "bệnh vô cảm" trong xã hội ta hiện nay.
BÀI LÀM THAM KHẢO


Mở bài


Thời đại ngày nay là thời đại kinh tế thị trường. Sống trong xã hội đó, hàng ngày nảy sinh ra hiện tượng
nhiều người lao vào kiếm tiền, lo vun vén cho bản thân và gia đình mình mà thờ ơ trước những vấn đề bức xúc
của cuộc sống xã hội, gây nên một căn bệnh tinh thần khá nguy hiểm: bệnh vô cảm, một căn bệnh có nguy cơ
lan rộng làm băng hoại đạo đức truyền thống của dân tộc, làm ô nhiễm môi trường tốt đẹp của xã hội mới.


Thân bài


1. Thế nào là bệnh vô cảm?


"Bệnh vô cảm" là căn bệnh tâm hồn của những người có trái tim lạnh giá, khơng xúc động, sống ích kỷ,
lạnh lùng, cho sự an tồn của bản thân mình là trên hết. Họ thờ ơ, làm ngơ trước những điều xấu xa, hoặc nỗi
bất hạnh, không may của những người sống xung quanh mình.


2. Những biểu hiện của bệnh vơ cảm.



Bệnh vơ cảm có những biểu hiện thật, đa dạng, muôn màu muôn vẻ: vô cảm đối với cuộc sống, xã hội; vơ
cảm đối với đồng loại, gia đình, người thân, bạn bè, thậm chí vơ cảm đối với chính bản thân mình.


Đi đường gặp những người bị tai nạn, gãy tay, gãy chân hoặc nằm bất tỉnh, những kẻ vơ cảm chẳng có
phản ứng nào mà chỉ biết dửng dưng chứng kiến với thái độ "Thờ ơ con mắt lạnh. Nhìn chúng có hề chi!" (Tố
Hữu). Lên xe ơ tơ, thấy kẻ gian móc túi hoặc bọn côn đồ hành hung hành khách, họ cũng chỉ lờ đi xem như đấy
khơng phải chuyện của mình. Sống trong cơ quan trường học, chứng kiến bao chuyện ngang trái như cấp trên
nhận hối lộ, thầy giáo ngang nhiên bạo hành học sinh, cịn học sinh thì quay cóp gian lận trong thi cử, họ cũng
không mở miệng mà ngoảnh mặt làm ngơ. Hoặc trông thấy hiện tượng những tên Xuân Tóc Đỏ thời nay
"nghênh ngang" "nhâng nháo trâng tráo, xỏ xiên, bịp bợm" họ vẫn im lặng, không mảy may lên tiếng.


Sự vô cảm là một căn bệnh đang có chiều hướng lan rộng trong xã hội ta, nó đang len lỏi khắp mọi nơi.
Nó khơng chỉ diễn ra ngồi xã hội mà cịn xâm nhập vào trong các gia đình, những người thân ruột thịt. Tơi đã
chứng kiên cảnh có nhà cha mẹ bị ốm nặng nằm liệt giường mà con cái khơng đối hồi gì đến, trái lại cứ điềm
nhiên "thưởng thức" hết trò vui này đến trò vui khác trên ti vi.


3. Bình luận mở rộng: Hậu quả của bệnh vô cảm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

những kẻ " cháy nhà hàng xóm bằng chân như vại". Nó sẽ làm cho một người cán bộ, người công dân trong xã
hội ta trở nên xa rời quần chúng, thiếu trách nhiệm trong cơng việc. Cũng vì vơ cảm mà nhiều bác sĩ đã để cho
nhiều bệnh nhân cần phải cấp cứu mà phải nằm chờ hàng nửa tiếng đồng hồ nên đã dẫn đến hậu quả bệnh nhân
bị chết một cách oan khuất. Cũng vì vơ cảm mà nhiều thầy giáo khơng hề quan tâm đến hồn cảnh éo le của học
sinh, mà cứ mắng mỏ quát nạt các em dẫn đến hậu quả nhiều em bị bệnh trầm cảm, thậm chí là nhảy lầu tự tử.


Căn bệnh vơ cảm là căn bệnh của những người sẵn sàng quay lưng lại với những nỗi đau khổ, bất hạnh
của đồng loại, sẵn sàng làm ngơ trước cái xấu, cái ác, nên làm cho cái xấu, cái ác có mảnh đất mầu mỡ để sinh
sôi nẩy nở như "cỏ mọc hoang" và đang đầu độc, chế ngự cuộc sống tốt đẹp của chúng ta hôm nay.


Căn bệnh vô cảm là căn bệnh của phường ích kỷ ln ln nhìn đời bằng cặp mắt ráo hoảnh. Nó đang làm


mất đi một điều vơ cùng thiêng liêng và q giá. Đó là tình thương giữa con người với con người. Mà tình
thương theo Nam Cao, nó là tiêu chuẩn quan trọng nhất để xác định tư cách con người "Khơng có tình thương,
con người chỉ là một con vật bị sai khiến bởi lịng ích kỷ" (Đời thừa). Bệnh vơ cảm đang làm "nhiễm mặn" , vẩn
đục và xói mịn dần truyền thống đạo lý đẹp nhất của con người Việt Nam: "Thương người như thể thương
thân" . Và khi căn bệnh này ngự trị, thì con người sống với con người trong mối quan hệ hết sức lỏng lẻo. Ở đó
thiếu hơi ấm của tình thương, của niềm cảm thơng, của sự cưu mang, đùm bọc, sẻ chia, giúp đỡ lẫn nhau. Một
cuộc sống như thế là cuộc sống của "Một sa mạc đời đìu hiu lạnh giá". Thật buồn đau và thất vọng biết bao!


Kết luận


Để xứng đáng với danh nghĩa "con người" đầy kiêu hãnh, mỗi chúng ta hãy nói khơng với bệnh vơ cảm,
hãy ra sức tu dưỡng lòng yêu thương, vị tha, sự trung thực và lịng dũng cảm. Hãy cùng nhau làm một việc gì
đó dù rất nhỏ để khơi dậy dịng sơng tình nghĩa nhân ái truyền thống của dân tộc để cho nó ngày càng tuôn
chảy, ngày càng trong xanh và long lanh toả sáng.


Đề bài: Ý kiến về mục đích học tập do UNESCO đề xướng: “Học để biết, học để làm, học để chung sống,
học tập để làm người“


BÀI LÀM THAM KHẢO
Mở bài


Mục đích học tập đúng đắn sẽ làm cho người ta say mê học tập và học tập có kết quả. Nhưng mục đích
học tập thế nào là đúng? UNESCO đã giúp ta trả lời câu hỏi đó: “Học để biết, học để làm, học để chung sống,
học để làm người”


Thân bài


1. Học để có tri thức


“ Học để biết” tức là học để có tri thức. Tri thức về cuộc sống, về tự nhiên và xã hội, về nghề nghiệp


chuyên mơn, khơng ai sinh ra đã có tri thức. Học tập là cách duy nhất để có tri thức. Khơng học sẽ không bao
giờ biết “Nhân bất học bất tri”. Trẻ em như trang giấy trắng. Học tập tạo nên tri thức tích lũy của mỗi người.


2. Học để có nghề, có việc làm


“ Học để làm” : học để có nghề nghiệp, việc làm, để lao động ni sống mình và góp phần phát triển xã
hội, đất nước. “Nhất nghệ tinh nhất thân vinh”. Học nghề nghiệp tinh thơng sẽ có năng suất lao động cao, giải
quyết công việc dễ dàng, thuận lợi. Do xác định rõ mục tiêu “Học để làm“ nên mọi người sẽ cố gắng “học đi đôi
với hành”. Học nghiêm túc, chu đáo, kỹ càng đề làm việc được tốt. Sinh viên Y khoa có học giỏi thì khi trở
thành bác sĩ mới có thể chữa bệnh, cứu người, học dốt có khi lại làm hại người “tiền mất tật mang”.


3. Học để có kỹ năng sống, khơng để “chết vì dốt”


“Học để chung sống” là học để có kỹ năng sống, dễ dàng thích nghi với mọi mơi trường, hồn cảnh sống,
hòa thuận, hòa nhập với cộng đồng, với mọi người xung quanh. Người có học, có hiểu biết thường sống có lý,
có tình, tính cách, đức hạnh thu phục lịng người, thường được mọi người u q, kính trọng.


4. Học để có phẩm chất đạo đức con người.


“Học để làm người” là học để có phẩm chất đạo đức, có chun mơn nghề nghiệp cao, thành cơng trong
cuộc sống, nhờ học vấn mà người ta sống tự tin, tự trọng, hiểu đời, hiểu người, có nhân cách, có cá tính và
thành đạt. Học để trưởng thành, và được anh em, bè bạn, đồng nghiệp tơn trọng, chính là “học để làm người”


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

Mục đích học tập mà UNESCO nêu trên cho chúng ta thông điệp rằng học tập là quyền lợi và nghĩa vụ
của mỗi người. Ai cũng phải học, học cho tốt để làm người, phục vụ cho bản thân và cho gia đình , xã hội.


Từ mục đích học tập như vậy mà UNESCO đưa ra phương châm “Học tập suốt đời”. Để biết, để làm, để
chung sống và để tự khẳng định mình, người ta phải học tập suốt đời. Xã hội ngày nay đã phát triển đến mức có
các phương tiện thích hợp để mọi người học tập suốt đời.



Xác định mục đích học tập đúng đắn là điều rất quan trọng để chứng mình ta cố gắng vượt mọi khó khăn,
chăm học và học giỏi. Nhiều bạn trẻ chưa xác định được động cơ học tập nên lười học, trốn học, quay cóp và
thiếu trung thực trong học tập, học tập miễn cưỡng, đi học cho cha mẹ .... Học mà khơng có niềm vui thì làm
sao mà học tốt được.


6. Học đi đơi với hành


Phương pháp học tập tốt và phù hợp là rất quan trọng. “Học đi đôi với hành”, tăng cường tự học để “học
tập suốt đời”, học mọi lúc mọi nơi, chú ý quan sát thực tế cuộc sống, liên hệ, suy nghĩ, sáng kiến, sáng tạo trong
khi kết hợp học với hành để có kết quả học tập tốt và thành công trong cuộc sống.


Để đạt mục tiêu”Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để làm người”, chúng ta phải học một
cách sáng tạo. Học một cách thực chất và biết vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống. Học để có kỹ
năng lao động cao, có kết quả việc làm tốt. Kết quả học tập phải cao, được xã hội công nhận (đạt danh hiệu học
sinh giỏi, học sinh đậu thủ khoa trong các kỳ thi). Người đã đi làm thì nhờ học vấn cao mà thể hiện được năng
lực làm việc, được đồng nghiệp và cơ quan tín nhiệm, cân nhắc, đề bạt, thành đạt trong sự nghiệp. “Thực tiễn là
tiêu chuẩn chân lý”, là thước đo học vấn của mỗi người chúng ta.


Người có học, người có tri thức thể hiện ở kỹ năng sống thành thục, ở quan hệ xã hội tốt đẹp, nhờ không
ngừng hồn thiện bản thân mình. Nhờ có học mà chúng ta “khơng chết vì dốt”, biết tự bảo vệ mình như biết
cách phịng bệnh, khơng để nhiễm phải HIV, AIDS, virust viêm gan B…. Lối sống giản dị, khoa học, văn mình
là kết quả của học vấn.


Mục đích học tập do UNESCO đề xướng không cho riêng học sinh, sinh viên, mà cho con người nói
chung.


Múc đích học tập đúng đắn và có cơ sở khoa học cao, tổng kết từ thực tiễn hàng nghìn năm đó của
UNESCO luôn nhắc nhở mọi người hãy luôn luôn học tập, suốt đời học tập.


Xã hội, nhà nước và nhân dân, các hội khuyến học phải tuyên truyền giáo dục, nêu cao, biểu dương tinh


thần ham học, hiếu học, làm cho xã hội ta trở thành “ xã hội học tập”


Kết luận


Lời đề xướng về mục đích học tập của UNESCO là ngọn đèn soi sáng cho mọi người, đặc biệt là thế hệ
trẻ trong học tập và làm việc. Em đang và sẽ tiếp tục phấn đấu học thật tốt để phát triển bản thân, giúp ích cho
gia đình, xã hội.


Đề bài: Suy nghĩ về câu ngạn ngữ Hy Lạp: "Học vấn có chùm rễ đắng cay nhưng hoa quả lại rất ngọt ngào"
BÀI LÀM THAM KHẢO


Mở bài


Giới thiệu vai trò, tầm quan trọng của quá trình học tập đối với mỗi cá nhân và xã hội. Tuy nhiên để thành
công trên con đường học vấn, mỗi người cần phải vượt qua rất nhiều khó khăn, thử thách. Dẫn câu ngạn ngữ.


Thân bài
1. Giải thích


- "Học vấn" là q trình học hỏi, tích lũy kiến thức, kinh nghiệm làm giàu thêm hiểu biết của con người về
thế giới khách quan, về xã hội và về chính bản thân mình.


- "Chùm rễ đắng cay" là cách nói ẩn dụ thể hiện những khó khăn, gian khổ và cả cay đắng mà mỗi người
phải trải qua trong quá trình học tập, rèn luyện và tu dưỡng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

=> Câu ngạn ngữ nói về đặc điểm của q trình học tập, đó là một q trình lâu dài và người học phải trải
qua nhiều gian khổ, thử thách nhưng nếu thành công, nếu vượt qua tất cả thử thách ấy, ta sẽ được đền đáp xứng
đáng.


2. Chứng minh, bình luận



- Học vấn là cả một q trình, khơng phải là chuyện một sớm một chiều bởi lẽ kho tri thức của nhân loại
là mênh mông vô tận. Trên con đường chinh phục tri thức ấy có vơ vàn khó khăn ngăn đường cản lối. Dẫn
chứng: biết bao nhiêu trẻ em vì gia đình khó khăn mà khơng thể đến trường, hay những bạn nhỏ vùng sâu, vùng
xa để được học cái chữ phải chèo đèo, lội suối, phải đi bộ hàng chục cây số, ...


- Để vượt qua những khó khăn thử thách ấy, mỗi người phải có ý chí, nghị lực, sự kiên trì và lịng quyết
tâm thậm chí cả niềm đam mê, khát vọng nữa. Nhà văn M.Gorki đã có một tuổi thơ cay đắng, phải sớm vật lộn
với cuộc sống để mưu sinh trên khắp nẻo đường nước Nga. Nhưng cậu bé Gorki gày gò, nghèo khổ ấy lại có
lịng đam mê đọc sách. Có lần, cậu kiếm được một chiếc rương với nhiều cuốn sách rất hay nhưng vì phải làm
việc kiếm sống nên ơng chỉ có thể tranh thủ đọc vào buổi tối. Mà nhà nghèo, khơng có tiền để thắp đèn điện,
ơng đã phải đánh bóng chiếc sanh đồng để phản chiếu ánh trăng, lấy ánh sáng đọc sách. Ở nước ta, từ xưa đến
nay, cũng không thiếu những tấm gương hiếu học biết vượt qua những khó khăn, thử thách để vươn tới ánh
sáng tri thức, giành được thành công trong sự nghiệp và hạnh phúc trong cuộc sống. Anh học trị nghèo vì
khơng có tiền ăn học nên đã phải chờ đến khi hết bữa ăn, mới sang nhà hàng xóm mượn nồi cơm mong vét
được chút cháy ăn đỡ đói lịng để tiếp tục dùi mài kinh sử. Đó là câu chuyện về ông Trạng Nồi nổi tiếng được
truyền tụng trong dân gian. Thời hiện đại, ta gặp bao tấm gương về ý chí và nghị lực vượt lên khó khăn trong
học tập và cuộc sống. Hiệp sĩ công nghệ thông tin Nguyễn Cơng Hùng, thầy giáo Nguyễn Ngọc Kí ... và ngời
sáng tấm gương khắc phục hoàn cảnh để học tập, tiếp thu tri thức tiên tiến của thời đại chính là Chủ tịch Hồ Chí
Minh.


- Bên cạnh những tấm gương biết đối mặt và vượt lên những "chùm rễ đắng cay" để vươn lên chiếm lĩnh
đỉnh cao tri thức, xây dựng một cuộc sống hạnh phúc cho bản thân và có ý nghĩa cho cộng đồng thì cịn biết bao
kẻ lười biếng, thụ động, không hề quan tâm tới việc học tập. Biết bao bạn trẻ đang phí phạm thời gian quý giá
của tuổi trẻ vào những trò chơi vô bổ, vào những thú vui trác táng ... Và còn biết bao người học tập một cách
thụ động, học như một nghĩa vụ, một điều bắt buộc phải làm để đối phó với cha mẹ, thầy cơ ... Đó là những hiện
tượng cần phê phán.


3. Liên hệ với quá trình học tập của cá nhân



- Học vấn là con đường chắc chắn nhất đưa ta đến cuộc sống hạnh phúc. Để được như vậy, chúng ta cần
phải xác định rõ mục đích, động cơ, thái độ học tập đúng đắn: học cho bản thân và gia đình, xã hội, học để biết,
để làm việc, để cùng chung sống và hịa nhập với mọi người. Phải có phương pháp học tập khoa học, phù hợp.


- Xác định rõ việc học tập là quá trình lâu dài, bên bỉ "học tập suốt đời" và phải có ý thức tự giác, rèn
luyện bản lĩnh để vượt qua nhiều khó khăn thử thách trong học tập.


Kết luận


Khẳng định tính đúng đắn, sâu sắc của câu ngạn ngữ và giá trị thực tiễn của nó trong cuộc sống.


Đề bài: Suy nghĩ về công cha nghĩa mẹ và việc đền ơn đáp nghĩa các liệt sĩ
BÀI LÀM THAM KHẢO


Trong bài thơ “Việt Bắc”, Tố Hữu đã mượn lời người ở lại để nhắc nhở chính mình và cũng là nhắc nhở
mọi người hãy nhớ lấy đạo lý uống nước nhớ nguồn, ân tình chung thủy vốn là đạo lý lớn nhất, đẹp nhất của
dân tộc Việt Nam:


“Mình về, mình có nhớ khơng


Nhìn cây nhớ núi, nhìn sơng nhớ nguồn?”
1.Cơng ơn đối với cha mẹ


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

Đạo hiếu đó trước hết phải nghĩ đến cơng ơn của bố mẹ; mà nói về công ơn của bố mẹ đối với mỗi chúng
ta, thì khơng bút mực nào kể cho xiết. Chả thế mà cha ơng ta xưa đã ví “Cơng cha như núi Thái Sơn;Nghĩa mẹ
như nước trong nguồn chảy ra”. Chỉ có núi Thái Sơn vĩnh hằng và kì vĩ mới có thể sánh được với cơng cha; chỉ
có nước trong nguồn chảy bất tận, không bao giờ khô cạn, mới có thể sánh được với nghĩa mẹ khơng cùng. Bởi
vì mẹ ta đã sinh ra ta, cho ta sự sống. Cái cơng ấy, chỉ có Chúa mới sánh được. Mẹ đã mang nặng, đẻ đau để
cho ta được cất tiếng khóc chào đời, trở thành bơng hoa của trái đất. Từ thuở ấu thơ, trong vành nôi, ta đã được
mẹ ấp iu, nâng giấc, cho ta những dòng sữa ngọt ngào cả thể chất lẫn tâm hồn:



“Mẹ ra cái lẽ ở đời


Sữa nuôi phần xác,hát nuôi phần hồn”
(Nguyễn Duy)


Mẹ ta chẳng quản một nắng hai sương, tần tảo như “Con cị lặn lội bờ sơng”, chịu bao gian nan vất vả
chăm sóc ta khi trái gió trở trời và dành dụm chắt chiu nuôi ta khôn lớn, cho ta ăn học nên người. Nghĩ về mẹ,
lúc ở xa,


Nguyễn Duy viết:


“Nhìn về q mẹ xa xăm


Lịng ta vạt ướt mẹ nằm đêm mưa”


Đọc những câu thơ như thế, tôi cứ thấy cay cay nơi sống mũi. Gia cảnh đói nghèo, vách đất, tranh thưa,
đêm mưa nhà dột, mẹ dành tất cả chỗ ướt cho mình và dành chỗ khơ cho con. Ơi! Thật cảm động đến rơi nước
mắt.


Còn cha ta, cũng như mẹ, cho ta tình thương yêu và dạy ta điều hay, điều phải, uốn nắn cho ta, khơi dậy
trong ta những ước mơ, khát vọng cao đẹp để ta bước thẳng hai chân kiêu hãnh làm người. Đúng là công ơn cha
mẹ, tổ tiên bao la như núi rừng, mênh mông như biển cả.


2.Công ơn của các bậc tiền bối, liệt sĩ


Cịn cơng lao của các bậc tiền bối, liệt sĩ thì sao? Ở nước ta, con đường đến với bến bờ độc lập, tự do của
dân tộc không phải là con đường rợp bóng mát hạnh phúc và niềm vui, mà là con đường đầy gian khổ hi sinh:


“Đâu phải đường xanh, đường qua máu chảy


Năm mươi năm, máu đỏ thành hoa


Cuộc sinh nở nào mà đau đớn vậy
Rất tự hào mà xót tận trong da”
(Tố Hữu)


Đúng là phải bao máu thấm trong lòng đất, mới “ánh hồng lên sắc tự hào”. Để có được lá cờ đỏ sao vàng
tuy bay suốt từ Bắc chí Nam trong ngày hội 19- 8- 1945; để có được lá cờ đỏ chiến thắng kiêu hãnh bay trên
nóc hầm Đờ Cát ở Điện Biên và để có được ngày 30- 4 lịch sử, thành phố Hồ Chí Minh “ngập tràn nắng đẹp” và
“lộng lẫy cờ hoa”, đã có biết bao chiến sĩ cách mạng, chiến sĩ bộ đội, những người cộng sản đã phải đổ máu, rơi
đầu trong các nhà tù, trên các máy chém, ngoài bãi bắn, trên các trận địa nóng bỏng đạn bom. Đúng là “Mỗi
thây rơi là một nhịp cầu; cho ta bước tới cõi đời cao rộng”. Công ơn của tổ tiên, của các liệt sĩ thật là lớn lao, ân
nghĩa của các bậc tiền bối thật là vô hạn.


3. Chúng ta phải làm gì để đền đáp cơng ơn của bố mẹ, các liệt sĩ? Phải đền ơn, đáp nghĩa như thế nào?
Nhà thơ Tố Hữu đã từng viết: “Đã là con chim thì con chim phải biết hót.Đã là chiếc lá phải xanh;lẽ nào
vay mà khơng có trả?” Được trưởng thành lớn khôn, ngày ngày cắp sách đến trường, lên giảng đường như hôm
nay, chúng ta đã “vay”, đã mắc nợ quá nhiều: nợ cha mẹ, tổ tiên, các vong hồn liệt sĩ, nợ quê hương đất nước…
Có lẽ nào, chúng ta “có vay mà khơng có trả”, nhắm mắt ăn “quỵt” một cách đớn hèn và tủi hổ ư? Chúng ta
kiên quyết phải trả, trả bằng mọi cách, trả dưới mọi hình thức. Trước hết, nỗ lực hết mình, ra sức học tập, tu
dưỡng để trở thành trò ngoan, người con hiếu thảo, người cán bộ, chiến sĩ có danh thơm đáng tự hào sau này.
Bởi vì:


“Ai mà phụ nghĩa, qn cơng


Thì đeo trăm cánh hoa hồng,chẳng thơm”
(Ca dao)


Và chúng ta phải:



“Một lịng thờ mẹ kính cha


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

(Ca dao)


Sau nữa, sẽ tích cực làm những việc nhỏ mà nghĩa lớn, trong khả năng của mình như tiết kiệm tiền để
giúp đỡ người nghèo, hiến máu nhân đạo, cứu người, tích cực xây dựng quỹ “Đền ơn đáp nghĩa”.


Đề bài: Ý kiến về phương châm “Học đi đôi với hành”
BÀI LÀM THAM KHẢO


Mở bài


“ Học đi đôi với hành” là một nguyên lý giáo dục quan trọng. Tại sao và chúng ta thực hiện nguyên lý này
bằng cách nào?


Thân bài


1. Thế nào là học đi đôi với hành


Học tiếp thu tri thức về phương châm lý thuyết, lý luận. Hành là sự vận dụng kiến thức học được vào thực
tiễn đời sống và lao động sản xuất.


Học “đi đôi” kết hợp với hành cho nhận thức và hành động của con người có tính thống nhất, bổ sung cho
nhau, làm cho cái ta học được trở nên sâu sắc và vững chắc, hành động của ta có cơ sở khoa học, sẽ trơi chảy,
dễ dàng, có thể logic và sáng tạo, để đạt tới kết quả cao. Có nhà khoa học đã viết : “Một con ngựa đi chậm
nhưng lại đúng đường thì sẽ tới đích, nếu con ngựa đi nhanh nhưng sai đường thì càng đi càng xa đích”. Hành
mà khơng đi đơi với học thường có kết quả thấp hoặc thất bại. Học khơng hành thì chỉ nắm lý thuyết suông,
không thể nắm bắt ý nghĩa sâu sắc của nó với thực tiễn.


2. Lợi ích của việc “ Học đi đôi với hành”



Học đi đôi với hành là rất cần thiết và quan trọng với tất cả mọi người. Song, thực tế nước ta, nguyên lý
này đang bị coi nhẹ. Đó là một trong những nguyên nhân làm cho chất lượng giáo dục, đào tạo ở nước ta chưa
cao, chưa đạt tới sự kỳ vọng của xã hội.


Nguyên nhân khách quan là nước ta còn nghèo, chưa mua sắm được nhiều dụng cụ học tập và phịng thí
nghiệm cho các mơn học. Ngun nhân chủ quan là chúng ta chưa nhận thức đầy đủ ý nghĩa to lớn của nguyên
lý học đi đôi với hành để có biện pháp khắc phục.


3. Xác định mục đích học tập đúng đắn là điều kiện thực hiện học đi đôi với hành.


Để thực hiện nguyên lý học đi đôi với hành, mỗi người phải xác định cho mình mục đích học tập đúng
đắn.


UNESCO (Tổ chức Văn hóa Khoa học Giáo dục thuộc Liên hợp quốc) đã đề xướng “ Học để biết, học để
làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình”. Học trở thành nhu cầu tự thân và chúng ta sẽ tìm mọi
cách, mọi biện pháp, mọi cơ hội để vận dụng vào cuộc sống.


Với động cơ, mục đích học tập đúng đắn, chúng ta mới có thể say mê học tập, nghiêm túc, chăm chỉ để
tiếp thu đầy đủ nội dung, làm bài tập để củng cố, mở rộng bài học. Trên cơ sở nắm chắc bài học, chúng ta sẽ có
điều kiện vận dụng vào thực tiễn. Trồng một cây, chúng ta cũng phải biết cách đào hố nông sâu như thế nào, lấy
loại đất nào và phân bón gì cho vào hố, cho cây trồng vào hố và dặm đất thật chặt xung quanh rễ cây ra sao, tưới
nước nhiều ít sao cho phù hợp với từng loại cây. Học đi đôi với hành sẽ soi sáng cho ta nhiều điều cụ thể và
sinh động.


Học không chỉ ở trường lớp mà cả tự học, học bạn, học người thân, học đồng môn, đồng nghiệp. Hành
không chỉ ở trong phịng thí nghiệm mà phải vận dụng vào cuộc sống hàng ngày, trong ăn ở, đi lại, giao tiếp và
làm việc. Có nhiều cơ hội trong cuộc sống mà ta có thể vận dụng , để hành, những điều học được.


4. Liên hệ bản thân



“ Học đi đôi với hành” vừa là nguyên lý giáo dục vừa là phương pháp học tập hiệu quả. Bản thân em sẽ cố
gắng vận dụng thường xuyên “Học đi đôi với hành” , “Học tập suốt đời” và suốt đời thực hiện “Học đi đôi với
hành”


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

lao động có năng suất cao. Từ sắp xếp đồ dùng, ghế ngồi cao thấp, đặt để nguyên vật liệu ở đâu, ánh sáng mức
độ thế nào,ta đều phải suy nghĩ vận dụng lý thuyết vào hoàn cảnh thực tế cụ thể.


Kết luận


Học và hành là hai khâu mà chúng ta phải làm tốt cả hai mới kết hợp chúng với nhau được. Học giỏi nắm
chắc kiến thức thì mới giúp ta hành tốt. Hành sẽ bổ sung, hoàn thiện kiến thức mà ta học được. Mỗi học sinh
chúng ta đều phải học tốt, hành tốt và kết hợp “Học đi đôi với hành”.


Đề bài: Bác Hồ khuyên thanh niên:
Không có việc gì khó


Chỉ sợ lịng khơng bền
Đào núi và lấp biển
Quyết chí ắt làm nên


Anh/Chị suy nghĩ gì về lời khun đó ?
BÀI VIẾT THAM KHẢO


Mở bài


Trên hành trình đến chân trời tương lai của sự nghiệp, con người phải đương đầu với biết bao thử thách
chông gai như cuộc đi đường thường ngày "Đi đường mới biết gian lao; Núi cao rồi lại núi cao trập trùng".
Chúng ta muốn leo "lên đến tận cùng" để thu vào "tầm mắt muôn trùng nước non", nghĩa là muốn thu được
thắng lợi vẻ vang địi hỏi con người phải bền gan, vững chí, phải có lịng quyết tâm, kiên trì, tinh thần vượt khó.


Nhằm giáo dục cho thế hệ trẻ về phẩm chất tinh thần đặc biệt ấy, trong một lần nói chuyện với thanh niên, Bác
Hồ đã ân cần khuyên bảo:


"Không có việc gì khó
Chỉ sợ lịng khơng bền
Đào núi và lấp biển
Quyết chi ắt làm nên"
Thân bài


1. Giải thích nội dung bài thơ


- Việc khó là việc khi làm địi hỏi nhiều cơng sức, tâm trí và nghị lực mới làm được. Tuy nhiên sự quyết
định của thành bại không phải là ở bản thân cơng việc dễ hay "khó" , mà là ở chính tinh thần con người. Việc gì
cũng có thể làm được miễn là có sự kiên trì, ý chí quyết tâm, nghĩa là "bền lịng".


- Khi đã "bền lịng", "quyết chí" , thì dù cơng việc khó đến mấy cũng có thể hồn thành, để làm nên "sự
nghiệp lớn".


Bác đã dùng thủ pháp cường điệu và hình ảnh tượng trưng "đào núi và lấp biển" để chỉ những công việc
lớn lao dường như nằm ngoài sức lực và khả năng của con người. Nhưng dù là công việc "đào núi" và "lấp
biển" khó khăn lớn lao đến đâu đi nữa, nếu con người "quyết chí" , bền bỉ dồn mọi sức lực, trí tuệ quyết làm
bằng được, bất chấp mọi khó khăn chủ quan và khách quan "thắng không kiêu, bại khơng nản" thì cũng hồn
thành, cũng "ắt làm nên".


2. Chứng minh bằng dẫn chứng thực tế


- Lịch sử nhân loại và đất nước ta đã có biết bao câu chuyện, bao tấm gương nêu cao sức mạnh phi thường
của lịng kiên trì, nghị lực và lòng quyết tâm của con người trong cuộc sống. Từ câu chuyện Ngu Công dời núi
đến câu chuyện "Mài sắt nên kim".



- Thế hệ cha anh đã vượt qua mọi khó khăn, thử thách giữ vững nền độc lập, tự chủ cho đất nước: tấm
gương anh hùng Trần Quốc Toản, Phạm Ngũ Lão, Trần Bình Trọng...đến Võ Thị Sáu, Mạc Thị Bưởi, Lý Tự
Trọng, Nguyễn Văn Trỗi....trong sự nghiệp cứu nước vẻ vang. Bác Hồ không chỉ răn dạy thanh niên về sự bền
lịng, vững chí mà Người còn là một tấm gương sáng ngời về sự "kiên trì" "nhẫn nại" và "quyết chí" .


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

động viên nhảy cao Bùi Thị Nhung, vận động viên cử tạ Hoàng Anh Tuấn đã giành được Huy Chương Vàng thể
thao Segame để cho lá cờ đỏ sao vàng của Tổ quốc Việt Nam kiêu hãnh tung bay trên đấu trường Đông Nam
Á. Và đây là tấm gương "kiên trì", "quyết chí", "bền lịng" , vượt qua số phận hiểm nghèo của mình để làm nên
sự nghiệp phi thường như là "đào núi" và "lấp biển" vậy. Đấy là anh Bạch Đình Vinh được chương trình ti vi
"Người đương thời" hết lời ca ngợi: vì một tai nạn giao thơng, anh Vinh bị bại liệt tồn thân, bị chấn thương
nặng nội tạng, khn mặt bị biến dạng và mất ln cả tiếng nói. Thế nhưng với một ý chí, nghị lực phi thường,
anh đã không gục ngã, mà đứng lên viết tiếp trang cổ tích của cuộc đời mình: sinh viên ba trường Đại học: Giao
thông vận tải, Thương Mại, Khoa công nghệ thông tin - Đại học Bách Khoa Hà Nội.


3. Bình luận mở rộng


- Lời dạy của Bác là một bài học vô cùng quý giá cho mỗi chúng ta về phương châm sống. Nó đã trở
thành bí quyết quan trọng nhất giúp chúng ta thực hiện ước mơ hồi bão của bản thân. Lời dạy đó cịn giúp ta có
ý chí nghị lực để vượt qua những khó khăn lớn lao thường gặp, để quyết đạt cho được ước mơ của mình.


- Tuy nhiên, chúng ta nên phải hiểu lời khuyên của Bác một cách đúng đắn và thiết thực. Quyết tâm, ý chí
của ta phải đi đôi với hành động, chứ không được quyết tâm sng mà có thể làm nên được sự nghiệp lớn. Và
những ước mơ, khát vọng của ta phải phù hợp với điều kiện thực tế, hoàn cảnh chủ quan, khách quan, những
tiền đề vật chất nhất định, nếu không chúng ta sẽ trở thành những người phiêu lưu mạo hiểm, những kẻ mơ
mộng hão huyền. Hiểu như vậy, chúng ta càng thấm thía lời dạy của Bác Hồ vơ cùng đúng đắn.


C. Kết luận


Tóm lại bốn câu thơ trên của Bác là một lời khuyên vô cùng quý báu. Bằng trí tuệ sắc sảo, Bác đã vạch ra
chân lý, bằng trái tim tràn đầy tình yêu thanh niên, Bác đã ân cần khuyên nhủ, động viên mọi thế hệ hơm nay và


mai sau có được phương pháp hành động và suy nghĩ đúng đắn nhằm chiếm lĩnh được những "đỉnh Ôlimpia"
của cuộc đời và sự nghiệp.


Đề bài: Nêu ý kiến của anh/chị về lợi ích của việc tự học.


BÀI LÀM THAM KHẢO
Mở bài


Xã hội hiện đại nêu cao phương châm “Học tập suốt đời”. Phương pháp tự học là phương pháp học chủ
yếu để thực hiện phương châm học tập suốt đời. Tại sao tự học lại quan trọng như vậy? Tự học đưa lại cho
chúng ta những lợi ích gì?


Thân bài


1. Thế nào là tự học?


Tự học là học ở ngồi nhà trường, học thơng qua sách báo, tài liệu, nghe đài phát thanh, xem truyền hình,
quan sát thực tiễn, trao đổi với bạn bè, người thân đồng nghiệp…


Tự học là cần thiết cho mọi người vì kiến thức mà lồi người tích lũy lại là rộng lớn, mênh mông, vô tận.
Học ở nhà chỉ cung cấp một phần, tuy rất cơ bản và quan trọng nhưng không đủ. Thời gian học ở trường tuy khá
dài nhưng có giới hạn. Thời gian tự học là khơng có giới hạn, kéo dài trong suốt cả cuộc đời chúng ta. Tri thức
mà tự học đưa lại giúp chúng ta hoàn thiện kỹ năng sống và lao động sản xuất, nhờ đó, cuộc sống của ta có
nhiều thuận lợi, làm việc cho năng suất lao động cao, công tác tiến tới, thành công trong sự nghiệp.


2. Lợi ích của việc tự học.


Tự học đưa lại lợi ích to lớn và thành cơng cho người ham học, ham tự học và có phương pháp tự học phù
hợp.



</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

nghiệp phổ thông, thi vào đại học đạt điểm cao, nhiều bạn đạt thủ khoa. Khi đi làm, chúng ta sẽ có rất ít thời
gian và điều kiện để đi học tập trung theo trường lớp mà chủ yếu là tự học. Ngày nay, một bác sĩ, kỹ sư, thầy
gióa mà hàng ngày khơng


đọc được vài chục trang sách bao chun mơn thì sẽ đối mặt với nguy cơ tụt hậu. Khi đó, khơng chỉ cơ hội
thăng tiến trong nghề nghiệp sẽ kém đi mà cơng việc sẽ lúng túng, khó khăn, kết quả sẽ khơng cao.


Tự học có nhiều lợi ích như vậy, nên chúng ta phải ln ln có ý thức tự học. Tùy theo hồn cảnh, trình
độ mà chúng ta lựa chọn tri thức và phương pháp tiếp nhận phù hợp, tạo hứng thú trong học tập, rèn luyện khả
năng khám phá và tư duy sáng tạo. Nhờ thấy kết quả và lợi ích mà tự học mang lại, chúng ta sẽ thấy hứng thú
và đam mê tự học.


3. Tự học như thế nào cho tốt?


Xã hội càng phát triển, càng hiện đại thì cơng cụ, phương tiện cho tự học ngày càng nhiều. Đặc biệt, điện
thoại di động và mạng internet càng phổ biến thì chúng ta có điều kiện để tự học và tiếp cận với trình độ chun
mơn, chun sâu của thế giới. Tự học nhờ đó có thể đưa lại cho người học trình độ chun mơn cao. Tự học
nhờ có nhiều công cụ hiện đại mà cho ta nhiều hứng thú, đam mê.


Con người trong xã hội hiện đại ngày nay là phải học tập suốt đời và suốt đời phải tự học.


Ý thức được sự cần thiết và ích lợi của tự học, bản thân em sẽ luôn cố gắng để tự học, khắc phục mọi hoàn
cảnh dù khó khăn đến đâu cũng phải học và tự học.


4. Bác Hồ là tấm gương sáng về tự học.


Do phải tìm đường cứu nước từ thời trẻ nên thời gian học ở trường của Bác không được nhiều. Nhưng
nhờ tự học, Bác uyên thâm chuyên sâu trên rất nhiều lĩnh vực. Thời thanh niên, Bác đã là nhà báo, chủ bút một
tờ báo bằng tiếng Pháp. Bác biết rất nhiều ngoại ngữ, chủ yếu là tự học. Các lý luận về Cách mạng, con đường
và phương pháp đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, xây dựng đất nước do tự học, không những được Bác nắm


vững mà còn sáng tạo, phát triển, dẫn dắt nhân dân ta thực hiện thành cơng cuộc cách mạng giải phóng dân tộc
đầu tiên, nêu gương sáng cho toàn thế giới.


Kết luận


Thời đại khoa học công nghệ ngày nay phát triển nhanh chóng đưa lồi người lên thời đại tri thức, thời đại
hậu công nghiệp. Mỗi người hàng ngày phải tự học để lao động sáng tạo và cống hiến cho hạnh phúc tương lai
của đất nước, gia đình và bản thân.




Đề bài: : Quan niệm về lối sống giản dị
BÀI LÀM THAM KHẢO


Mở bài


Hiện nay tồn Đảng, tồn dân ta đang có phong trào “Học tập tấm gương đạo đức tác phong Bác Hồ”.
Một phẩm chất nổi bật mà chúng ta học tập là lối sống giản dị.


Thân bài


1. Thế nào là lối sống giản dị


Giản dị là lối sống chân phương, tiết kiệm, phù hợp với hoàn cảnh của bản thân, gia đình và xã hội. Giản
dị là biểu hiện của đạo đức xã hội chủ nghĩa. Khơng xa hoa đua địi, lãng phí tiền của, thời giờ vào việc khơng
cần thiết.


Đó cũng là biểu hiện của nếp sống khoa hoc, có văn hóa.


Giản dị là lối sống đẹp, góp phần xây dựng xã hội văn minh, hiện đại. Chúng ta cần động viên, khuyến


khích coi trọng, đề cao lối sống giản dị.


Lối sống giản dị xuất phát từ quan niệm sống văn minh, khoa học, thực chất, chân thành. Giản dị trước
khi biểu hiện thành phong cách sống, phải trở thành ý thức, quan niệm sống của mỗi người. Có như vậy, giản dị
được biểu hiện một cách chân thành, trung thực, không gượng ép giả tạo


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

Lối sống giản dị là nét đẹp trong đạo đức, tác phong, thực chất con người nhưng không phải tự nhiên mà
có được. Con người phải thường trực ý thức và rèn luyện, biểu hiện trong cuộc sống hàng ngày thì mới tạo lập
được lối sống giản dị.


Xuất phát từ nhận thức biết quý trọng lao động, quý trọng những gì mà lao động cần cù mà có được, lối
sống giản dị có cơ sở hình thành trong phẩm chất mỗi người.


Lối sống giản dị đòi hỏi phải biểu hiện một cách chân thành, tự nhiên trong cách ăn, mặc, ở, đi lại và giao
tiếp hằng ngày. Chúng ta phải có ý thức rèn luyện để có lối sống tiết kiệm.


4. Học tập lối sống giản dị của Bác Hồ


Bác Hồ là tấm gương sáng về lối sống giản dị. Người dân Việt Nam không ai quên được hình ảnh quen
thuộc của Bác trong bộ quần áo bộ đội sờn màu, đôi dép cao su đi nhiều đến mòn vẹt, ăn uống đơn gian “ Cháo
bẹ rau măng vẫn sẵn sàng “. Không chỉ ở chiến khu Việt Bắc, khi về thủ đô Hà Nội , Bác ở trong ngôi nhà sàn
giản đị với những bữa cơm thanh đạm, dép lốp, quạt lá cọ. Cả cuộc đời Bác Hồ là một bài học lớn cho chúng ta
về đức tính giản dị.


5. Liên hệ bản thân : rèn luyện để có lối sống giản dị


Lối sống giản dị đưa lại cho con người và xã hội nhiều lợi ích. Xã hội có cuộc sống văn minh, ngày càng
có điều kiện nâng cao chất lượng sống của con người. Bản thân có lối sống giản dị sẽ dễ hịa nhập cộng đồng
bởi vẻ đẹp khơng khoa trương nhưng thu hút lòng người trong phong cách sống.



Lối sống giản dị ngược lại với lối sống xa hoa, đua địi, lãng phí. Nhiều bạn trẻ được sinh ra trong gia đình
giàu có, được gia đình nng chiều mà quen với lối sống đua địi, lãng phí, ném tiền qua cửa sổ, lối sống ”Công
tử Bạc liêu” sẽ không nhận được sự coi trọng và giúp đỡ của mọi người, khó trở thành người thành đạt, có ích.


Lối sống giản dị có thể một phần tử bẩm sinh nhưng cơ bản là từ ý thức rèn luyện trong cuộc sống mà có
được.


Biết q trọng những gì mình đang có và biết cảm thơng chia sẻ với cuộc sống đang khó khăn của người
khác, chúng ta sẽ rèn luyện cho mình lối sống giản dị. Như vây, lối sống giản dị liên hệ chặt chẽ với ý thức tiết
kiệm, tinh thần trách nhiệm cơng dân và tấm lịng sẻ chia hòa đồng đối với xã hội.


Tiết kiệm thời gian, tiết kiệm của cải, tiền bạc là sự khởi nguồn của tích lũy vốn đầu tư. Vốn đầu tư dùng
để xây dựng nhà cửa, cầu đường, trường học, nhà máy là phương tiện để tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội.
Lối sống giản dị giúp con người tiết kiệm, xã hội tiết kiệm để đầu tư cho tương lai. Đó là ý nghĩa kinh tế của lối
sống giản dị. Lối sống giản dị biểu hiện tấm lòng thông cảm, sẻ chia với hàng triệu đồng bào, bao gồm cả trẻ em
và cụ già, đang sống trong tình cảnh khó khăn, nghèo đói, bệnh tật. Người có tấm lịng tương thân, tương ái
khơng thể sống xa hoa, lãng phí, vơ cảm mà phải có lối sống giản dị, tiết kiệm để có thể đóng góp giúp đỡ
người khác.


Kết luận


Ý thức được sự cần thiết và lợi ích, vai trò của lối sống giản dị, bản thân em sẽ ln ln rèn luyện cho
mình lối sống giản dị một cách thực chất, chân thành.


Đề bài: Suy nghĩ về lòng dũng cảm.


BÀI LÀM THAM KHẢO
Mở bài



Thế nào là lòng dũng cảm? Tại sao chúng ta cần có lịng dũng cảm và phải làm gì để có lịng dũng cảm?
Đó là những câu hỏi mà em muốn trả lời trong bài văn này.


Thân bài


1. Thế nào là người có lịng dũng cảm, ý nghĩa, vai trị của nó.


Người có lịng dũng cảm là người có nghị lực, có ý chí sắt đá. Lịng dũng cảm thể hiện ở sự quả cảm, kiên
cường, vượt qua những khó khăn đặc biệt, thể hiện phẩm chất anh hùng, phẩm chất vượt lên chính mình, chống
lại sự cám dỗ của thói xấu, hành động bảo vệ chân lý, lẽ phải, chống lại cái xấu, cái tiêu cực, có khi phải hy sinh
quyền lợi bản thân và cả bản thân mình cho cộng đồng, xã hội và Tổ quốc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

mình cứu chúa. Đó cịn là hình ảnh chú bé liên lạc trong bài thơ “Lượm” (Tố Hữu) , cô thanh niên xung phong
”Lấy thân mình hứng lấy luồng bom” (Thơ Lâm Thị Mĩ Dạ), anh Nguyễn Văn Trỗi hiên ngang ra pháp trường,
chị Đặng Thùy Trâm, anh Nguyễn Văn Thạc dũng cảm lên chiến địa…. tất cả đều là những tâm gương sáng
ngời của lịng dũng cảm.


2. Bình luận: bàn về lòng dũng cảm.
- Nguồn gốc và vai trò, ý nghĩa của nó.


Cuộc sống ln ln phức tạp. Mỗi người và đất nước luôn phải đối mặt với những khó khăn, thách thức,
nguy cơ hiểm nghèo, khủng hoảng kinh tế, thiên tai, địch họa, rủi ro. Vì vậy ai cũng cần có lịng dũng cảm để
vượt qua các tình huống đó, giúp mình, giúp người khác, giúp cộng đồng và dân tộc, Tổ quốc.


Lịng dũng cảm khơng phải tự nhiên mà có. Mỗi người có nhận thực, hiểu biết và rèn luyện khơng ngừng
để có lịng dũng cảm.


Phải vượt lên chính mình “Chiến thắng vĩ đại nhất là chiến thắng chính bản thân mình” . Khắc phục thói
xấu, ích kỷ và cá thói xấu khác, sống có lý tưởng vì dân, vì nước là những tiền đề mà mỗi người cần có để chứa
chất lịng dũng cảm.



Lòng dũng cảm ấy là phẩm chất quan trọng nhất của những người hùng trong cuộc kháng chiến chống
Pháp, chống Mỹ. Đúng như Tố Hữu đã viết : “Dân ta gan dạ anh hùng. Trẻ là đấu súng, già xông lửa đồn. Chân
toạc máu, chân đau đuổi giặc. Tay chém thù tay sắc như gươm”. Họ đã cùng toàn dân quyết tâm làm nên một
chiến công Điện Biên Phủ “Chín năm làm một Điện Biên; Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng” Những chiến sĩ
Điện Biên là những con người mang trong mình chất thép của lịng dũng cảm: “Chiến sĩ Điện Biện, chiến sĩ anh
hùng. Đầu nung lửa sắt, gan khơng núng, chí khơng mịn…Những đồng chí thân chơn làm giá súng; đầu bịt lỗ
châu mai, băng mình qua núi thép gai, ào ào như vũ bã., Những đồng chí chèn lưng cứu pháo, nát thân, nhắm
mắt cịn ơm” Vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, lớp lớp thanh niên lại lên đường, mang trong mình truyền thống
Điện Biên, quyết xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước, bất chấp bom đạn Hoa Kỳ tàn bạo, tiến thẳng vào Sài Gịn để
có ngày 30/4 lịch sử: “Ơi buổi trưa nay tuyệt trần nắng đẹp! Bác Hồ ơi! Toàn thắng về ta. Chúng con đến xanh
ngời ánh thép.Thành phố tên người lộng lẫy cờ hoa.” Cùng với lòng yêu nước thiết tha, lòng dũng cảm của
những người chiến sĩ ấy đã giúp họ có được lẽ sống rất đẹp: sẵn sàng đổ máu mình cho cây Tổ Quốc đơm hoa
Độc lập, kết trái tự do và viết nên trang sử mới của thời đại Hồ Chí Minh đầy tự hào.


3. Bài học nhận thức hành động.


Lòng dũng cảm phải rèn luyện, thể hiện trong hành động, việc làm. Trong những tình huống khó khăn,
hiểm nghèo như gặp phải vụ hỏa hoạn, lũ quét, người bị nạn trên đường, bản thân bị mất việc, bị bệnh ung thư
không may nhiễm HIV, viêm gan virut, người ta rất cần tới lòng dũng cảm và biểu hiện bằng bản lĩnh vững
vàng, vượt qua một cách sáng suốt, tỉnh táo. Khi đó, lịng dũng cảm là “Nhất biến ứng phó với vạn biến”


Để khuyến khích mọi người tu dưỡng, rèn luyện lòng dũng cảm, nhà trường nhà nước và xã hội phải
thường xuyên biểu dương, ca ngợi, khen thưởng người có hành động, việc làm dũng cảm.


Lịng dũng cảm phải dựa trên cơ sở khoa học, hiểu biết tri thức mới thể hiện có hiệu quả, có ích nhiều cho
bản thân và xã hội. Nhiệt tình cách mạng cộng cới sự dốt nát sẽ trở thành kẻ phá hoại (Lenin). Lịng dũng cảm
mà khơng có tri thức sẽ phản tác dụng. Không biết bơi mà nhảy xuống biển cứu người chết đuối không chỉ hại
đến thân mà cịn gây khó khăn cho người khác trong việc cứu người.



Kết luận


Lòng dũng cảm là đức tính tốt đẹp xã hội cần đề cao và mỗi người cần tu dưỡng, rèn luyện để có được.
Bản thân em sẽ quyết tâm học tập, rèn luyện để có lịng dũng cảm và tìm các cơ hội để thể hiện lòng dũng
cảm.


Đề bài: Suy nghĩ về ý kiến của nhà văn M.Xi-xê-rông: “Mọi phẩm chất của đức hạnh là ở trong hành động
“.


Liên hệ với việc học tập, tu dưỡng của bản thân.


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

Ý kiến của nhà văn M.Xi-xê-rông:“Mọi phẩm chất của đức hạnh là ở trong hành động“ gợi em nhiều suy
nghĩ về việc tu dưỡng và học tập của bản thân.


Thân bài


1. Đức hạnh là phẩm chất đạo đức tốt đẹp của con người.


Đức hạnh đó là những phẩm chất đạo đức tốt đẹp của con người. Đó là: Lịng u nước, u đồng bào,
hiếu thảo với cha mẹ, kính u thầy cơ giáo, các bậc lão thành, yêu thương em nhỏ, chăm chỉ học tập, cần cù lao
động…


2. Đức hạnh phải được biểu hiện qua hành động, lối sống.


Làm thế nào để xã hội và những người xung quanh biết chúng ta là người đức hạnh? Ý kiến của nhà văn
Pháp nêu trên đã trả lời cho câu hỏi đó. Hành động là biểu hiện cụ thể, là thước đo của “mọi phẩm chất của đức
hạnh”.


Hành động cụ thể của ta báo cho mọi người biết ta có đức hạnh hay khơng và nếu có thì mức độ sâu rộng


như thế nào. Đức hạnh là cội rễ, hành động là hoa thơm quả ngọt dâng đời. Khơng có hành động thì đức hạnh
khơng để lại gì, khơng đóng góp gì cho người thân và xã hội. Đánh giá đức hạnh con người nhất thiết phải
thơng qua hành động của người đó, khơng thể chỉ dựa vào lời nói mà kết luận vội vàng.


Tình u thương đồng bào và lịng nhân văn cao cả phải thể hiện ở sự đóng góp dù rất ít ỏi cho quỹ người
nghèo, ủng hộ đồng bào bị thiên tai bão lụt, qua hành động giúp cụ già, em bé đi qua đường. Gặp đám cháy
chúng ta phải xông vào cứu chữa. Gặp người bị tai nạn giao thông, như hai bạn ở Nghệ An trên đường đi thi tốt
nghiệp phổ thông, không ngần ngại đưa họ đi cấp cứu mặc dù việc đó có thể gây thiệt hại cho bản thân.


Lòng hiếu thảo, yêu thương cha mẹ phải thể hiện ở hành động chăm học, sống tiết kiệm, biết quý trọng
đồng tiền cha mẹ vất vả kiếm được để ni mình ăn học. Khi xa gia đình, ta phải thường xuyên viết thư, gọi
điện thăm hỏi sức khỏe cha mẹ. Khi cha mẹ ốm đau, ta phải hết lòng, hết sức quan tâm, chăm sóc, chạy chữa.


Lịng u thiên nhiên đất nước phải thể hiện ở hành động giữ gìn vệ sinh, tiết kiệm điện nước, trồng cây
để cho môi trường sống xung quanh ta ngày càng xanh, sạch đẹp.


Lòng yêu lao động thể hiện ở hành động chăm làm, chăm học (Học tập cũng là một loại hình lao động).
Học tập suốt đời để sống tốt, lao động tốt, sức khỏe tốt, tu dưỡng phẩm chất đức hạnh tốt. Đức hạnh bắt nguồn
từ tri thức, nhận thức đúng đắn về xã hội và tự nhiên, con người và cuộc sống. Học tập là cơ sở để ta có phẩm
chất của đức hạnh và hành động phù hợp với phẩm chất của đức hạnh.


3. Đức hạnh phải được tu dưỡng rèn luyện thường xuyên trong thực tiễn.


Phẩm chất của đức hạnh, chứa đựng trong nhận thức và biểu hiện ở hành động khơng phải tự nhiên mà có.
Chúng ta phải tu dưỡng và rèn luyện thường xuyên, đặc biệt khi ta còn trẻ.


Hành động thể hiện phẩm chất của đức hạnh cũng khơng có một tiêu chuẩn cứng nhắc, cố định. Trong
chiến tranh giữ nước, hành động có thể là vứt bút nghiên theo nghiệp binh đao, nhưng cũng có thể là lao động
sản xuất tốt.



Cịn khi thời bình và đang tuổi đi học, chúng ta học tập tốt, tu dưỡng tốt để trở thành người có ích cho xã
hội, có việc làm, hành động thể hiện các phẩm chất đức hạnh cao quý là người yêu nước.


Học tập, tu dưỡng, rèn luyện để có đức hạnh, cả trong nhận thức và hành động, là quá trình gian nan, vượt
nhiều khó khăn thử thách. Hơm nay ta lười học thì ngày mai ta sẽ lười lao động. Hơm nay ta ăn cắp một quả
trứng thì ngày mai ta dễ ăn trộm con bị. Cuộc vận động “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích
trong học tập” cần được chúng ta hưởng ứng bằng hành động thiết thực, cụ thể.


Hành động của con người, nói rộng ra là thực tiễn, là “tiêu chuẩn của chân lý”, là tiêu chuẩn, thước đo
của phẩm chất “đức hạnh”, bản chất ở bên trong của con người. Khi con người biết nhìn nhận, đánh giá mình
qua hành động cụ thể, việc làm hàng ngày, qua lao động sản xuất và quan hệ ứng xử là con người “có học” có
hiểu biết và là có “phẩm chất tốt” , “đức hạnh cao”. Một trí thức, một người có văn hóa, có giáo dục khơng thể
tự nói với người khác rằng họ có bằng cấp, có học vị, học hàm cao nên “phẩm chất đức hạnh tốt đẹp”. Họ phải
thể hiện ở hiệu quả các cơng trình khoa học, cái hay trong cuốn sách mà họ viết, số người bệnh mà họ cứu chữa
được.


4. Con người phải tự nhận thức và đánh giá đức hạnh của mình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

biện, mị dân, tự đánh bóng mình. Con người phải ln ln hồn thiện tư cách đạo đức phẩm giá bằng những
bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn.


5. Học tập đạo đức, tác phong của Bác Hồ.


Phẩm chất đạo đức cao cả của Bác Hồ luôn thể hiện ở hành động, việc làm. Lòng yêu thương con người,
yêu quê hương đất nước, lối sống giản dị, trong sáng của Bác Hồ đã được thể hiện qua rất nhiều hành động, việc
làm mà sách báo đã viết về Bác.


Kết luận


Noi gương Bác, em nguyện lời nói đi đôi với việc làm, học đi đôi với hành, rèn luyện tu dưỡng bản thân


qua thực tiễn lao động, học tập và quan hệ xã hội để không ngừng hoàn thiện phẩm chất đức hạnh.




Đề bài: Suy nghĩ về câu của nhà văn Pháp, Mi-sen Ê-ken Mông-ten-lơ: “Nghèo nàn về vật chất dễ chữa,
nghèo nàn về tâm hồn rất khó chữa”


BÀI LÀM THAM KHẢO
Mở bài


Đời sống con người gồm có đời sống vật chất, và đời sống tinh thần. Theo nhà văn Pháp Mi-sen Ê-ken
Mông-ten-lơ :“Nghèo nàn về vật chất dễ chữa, nghèo nàn về tâm hồn rất khó chữa”. Tại sao lại như vậy và
chúng ta học được gì từ câu đó?


Thân bài


1. Thế nào là nghèo nàn về vật chất và tâm hồn.


Đời sống vật chất và đời sống tinh thần đều cao, phong phú là điều ai cũng muốn có nhưng rất khó đạt
được.


Trong hai mặt đó của đời sống con người, hiểu câu nói của nhà văn Pháp Mi-sen Ê-ken Mơng-ten-lơ, đời
sống tâm hồn khó xây dựng hơn, khi nghèo nàn sẽ khó chữa hơn. Đời sống tâm hồn quan trọng hơn đời sống
vật chất.


Nghèo nàn về vật chất là sự thiếu thốn về kinh tế, về thu nhập và của cải, tiền bạc. Người nghèo theo định
nghĩa của Liên Hợp Quốc là người có thu nhập qn dưới 1 đơ la Mỹ mỗi ngày (ở thế kỷ 20) và nay, theo tiêu
chuẩn mới, là dưới 2 đô la Mỹ mỗi ngày. Cùng với công việc phát triển kinh tế, tỷ lệ người nghèo trên thế giới
cũng như ở nước ta đang giảm. Cách đây 30 năm, tỷ lệ người nghèo ở nước ta khoảng 60%, nay chỉ còn
khoảng 15%. Người nghèo nếu có quyết tâm và điều kiện, cùng với sự giúp đỡ của cộng đồng và nhà nước, có


thể thốt nghèo.


Nghèo nàn tâm hồn là sự đơn điệu, tẻ nhạt, khơ cằn, vơ cảm trong tình cảm và cảm xúc, không nhận thấy
vẻ đẹp của thiên nhiên, và cuộc sống, xã hội và tư duy. Người nghèo tâm hồn thường có thái độ tiêu cực ( ích
kỷ, đố kỵ, ghen ghét), thiếu tấm lòng yêu thương và rộng mở, độ lượng và khơng có hứng thú trong lao động
sáng tạo cũng như biết cách chia sẻ, hòa nhập cộng động.


2. Nghèo nàn về tâm hồn rất khó chữa.


“ Nghèo nàn về tâm hồn rất khó chữa” vì nó xuất phát từ nhận thức và thái độ đối với bản thân và cuộc
sống, với cộng đồng và xã hội. “Cha mẹ sinh con, trời sinh tính”, tính nết, tình cảm, quan niệm sống được hình
thành trong q trình nhận thức, giao tiếp với mơi trường xung quanh. Con người đã trưởng thành rất khó thay
đổi về tư duy, tính cách, đạo đức và quan niệm sống. Sống lâu làm con người có thêm kinh nghiệm chứ khó làm
tâm hồn biến đổi được.


Tập thơ Nhật ký trong tù của Bác Hồ cho ta thấy mặc dù phải ở cảnh tù tội, gian khổ nhưng nhờ sự giàu
có về tâm hồn mà Bác ln ln vui vẻ, lạc quan, yêu đời.


Thông điệp mà nhà văn Pháp Mi-sen Ê-ken Mông-ten-lơ gửi đến chúng ta là phải luôn luôn nuôi dưỡng
tâm hồn, làm cho đời sống tinh thần phong phú, giàu có, dù đời sống vật chất khó khăn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

phố, ủng hộ quỹ vì người nghèo, vui chơi trung thu với các em nhỏ, thăm hỏi người ốm… ta sẽ thấy “ Cuộc đời
vẫn đẹp sao”, lạc quan yêu đời, tâm hồn ngày càng phong phú, giàu có.


3. Học tập và lao động sáng tạo là điều kiện để chữa bệnh tâm hồn.


Học tập để có tri thức, lao động sáng tạo để có thu nhập và thành cơng trong sự nghiệp, tu dưỡng đạo đức
tác phong để khơng ngừng hồn thiện bản thân là con người đã có đời sống giàu có, cả vật chất và tinh thần.
Đặc biệt chúng ta phải ni dưỡng tâm hồn. Tâm hồn giàu có là rất quan trọng và rất khó, khó khăn hơn làm
giàu về đời sống vật chất.



4. Sống có lý tưởng, có mục đích cao đẹp để tâm hồn giàu có.


Sống có lý tưởng, có mục đích và phấn đấu khơng ngừng cho đất nước, dân tộc, xây dựng cuộc sống văn
mình, giàu có về vật chất và tâm hồn, là mục tiêu mà em cố gắng đạt được trong đời.


Chúng ta phải thường xuyên bồi đắp cho tâm hồn ngày càng phong phú, cao đẹp. Những câu chuyện cảm
động xung quanh cuộc sống và những câu chuyện trong các tác phẩm văn học giàu giá trị nhân văn sẽ nuôi
dưỡng tâm hồn chúng ta, cả những cuốn sách dạy về nghệ thuật sống cũng rất quý giá, như Quà tặng cuộc sống,
Đắc nhân tâm. Vượt lên chính mình, Phút dành cho mẹ…. Các tấm gương như chị Đặng Thùy Trâm, anh
Nguyễn Văn Thạc, anh Nguyễn Văn Trỗi cho ta những bài học sâu sắc về tâm hồn cao đẹp, phong phú trong
những hồn cảnh khó khăn rất ngặt nghèo của đời sống. Lắng tâm hồn mình để suy ngẫm sâu sắc những tấm
gương đó làm cho chúng ta trưởng thành hơn trong ý thức, vững vàng trong bản lĩnh, hoàn thiện hơn trong nhân
cách và tâm hồn ta sẽ đầy ắp những giá trị nhân văn cao quý.


Kết luận


Đất nước ta đang phấn đấu theo mục tiêu : “Dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ văn mình”.
Xã hội văn mình sẽ được xây dựng từ những con người văn minh, có tâm hồn giàu có về nhân văn, tình người
và lẽ sống cao cả. Mọi người phải bồi đắp cho tâm hồn trong sáng, phong phú, cao đẹp cả trong ý thức và hành
động thực tiễn hàng ngày.


Đề bài: Hiểu thế nào về ý kiến cho rằng : “Những thói xấu ban đầu là người khách qua đường, sau trở nên
bạn thân ở chung nhà, và kết thúc là ơng chủ khó tính”



Mở bài


Mỗi con người đều có hồn cảnh sống cụ thể riêng, có khi rất khó khăn. Trong những hồn cảnh nhất
định, con người có thể phạm sai lầm, tạo nên thói xấu. Khi đó, con người cần nhớ tới ý kiến :“Những thói xấu


ban đầu là người khách qua đường, sau trở nên bạn thân ở chung nhà, và kết thúc là ơng chủ khó tính”, để có
ứng xử phù hợp, tỉnh táo, vượt lên bản thân mình.


Thân bài


1. Thói xấu rất dễ thâm nhập vào chúng ta.


Thông điệp mà ý kiến này gửi tới chúng ta là con người phải ln ln đề phịng sự thâm nhập thói xấu,
khơng dung túng cho thói xấu. Phải có bản lĩnh, tỉnh táo để chống lại sự lây lan của thói xấu. Khơng để thói xấu
chế ngự mình.


“Nhân vơ thập tồn”. Khơng ai có thể hồn hảo, trong sạch ở mọi lúc, mọi nơi. Khi va đập với cuộc sống
phức tạp, nhiều cám dỗ con người có thể có hành vi khơng đúng với pháp luật, với lẽ phải ở đời, là thói xấu.
Nhưng hãy kiên quyết với hành vi, thói xấu đó. Hãy để nó là “là người khách qua đường”, gặp một lần trong
đời. Không để nó trở thành “ơng chủ khó tính” chi phối cuộc đời ta.


2. Phải thường xuyên cảnh giác, đề phòng sự xâm nhập của thói xấu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

Để có đủ bản lĩnh phịng chống sự cám dỗ, thâm nhập của thói xấu, chúng ta phải khơng ngừng học tập và
rèn luyện. Học tập để có hiểu biết, có tri thức, biết phân biệt cái xấu, cái tốt. Rèn luyện, tu dưỡng đạo đức tác
phong để có đức tính tốt, “miễn dịch“ với thói xấu. Học tập tốt để có cơng ăn việc làm tốt, đời sống cao và cống
hiến cho xã hội, cho đất nước là cách phòng chống thói xấu hiệu quả nhất.


3. Học tập tấm gương Bác Hồ về tu dưỡng bản thân.


Học tập tu dưỡng theo gương Bác Hồ vĩ đại : “Cần kiệm, liêm chính, chí cơng, vơ tư”, “trong sạch, chất
phác, hăng hái, tiết kiệm” là những phẩm chất chúng ta cần rèn luyện để có thành cơng trong cuộc sống, tránh
được sự thâm nhập của thói xấu.


Cuộc sống bao giờ cũng phức tạp, thói xấu ln ln rình rập để thâm nhập và chế ngự ta. Chúng ta phải


thường xun cảnh giác với thói xấu, khơng ngừng rèn luyện để trưởng thành, trở thành người có phẩm chất
đạo đức tốt.


4. Liên hệ bản thân : chăm học, chăm làm, tu dưỡng đạo đức tốt.


Thế kỷ 21 là thế kỷ cách mạng khoa học công nghệ phát triển nhanh như vũ bão, thế kỷ của thời đại tri
thức, thế kỷ hội nhập toàn cầu. Trong khi phần lớn thanh niên học sinh vượt qua mọi khó khăn để cố gắng học
tập thì vẫn cịn một bộ phận nhiễm phải thói xấu lười học, ngại khó, ngại khổ, thiếu ý chí vươn lên trong học
tập. Họ đã để cho thói xấu trở thành “ ơng chủ khó tính” chi phối họ. Chúng ta phải lên án thói xấu lười biếng.
Nhiều danh nhân đã phê phán thói lười biếng: “Làm biếng ăn ngồi lở núi lở non” ( Nguyễn Trãi). “ Sự buồn
chán bước vào thế giới qua ngưỡng cửa lười biếng” ( La Bruye) "Lười biếng làm mịn trí tuệ và thân thể”
( B.Phranklin) “ Lười biếng là mẹ đẻ của thói ăn cắp và sự đói rét” ( V.Huygo).


Kết luận


Phấn đấu trong học tập và cơng tác, cố gắng tự hồn thiện nhân cách bản thân mình, cảnh giác với thói
xấu là ý nghĩa gửi tới chúng ta của câu nói “Những thói xấu ban đầu là người khách qua đường, sau trở nên bạn
thân ở chung nhà, và kết thúc là ông chủ khó tính”.


C. CÂU 5 ĐIỂM ( NL VĂN HỌC)


<b>Việt Bắc</b>
<b>A. KIẾN THỨC CƠ BẢN </b>


<b>1. </b>Để diễn tả những tình cảm cách mạng cao q của nhân dân ta trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Tố Hữu
đã dùng lối hát giao duyên đối đáp giữa nam và nữ trong các hội hè đình đám ở miền Bắc nước ta. Thay vào nội
dung tình u đơi lứa của dân ca bằng tình nghĩa cách mạng, tấm lịng son sắt thủy chung với Đảng, với nhân
dân, qua cách nói, cách xưng hơ “mình - ta”, tình cảm cao q đó trở nên gần gũi, thắm thiết hơn. Hai nhân vật
trữ tình trong bài thơ là người cán bộ về xuôi, tượng trưng cho dân tộc Kinh và người dân Việt Bắc, tượng trưng
cho dân tộc miền ngược. Do đó tình cảm cách mạng ở đây cịn là tình đồn kết gắn bó giữa hai vùng miền xi


- miền ngược, thể hiện chính sách dân tộc của Đảng ta.


<b>2. Hai mươi câu thơ mơ đầu bài thơ </b>là lời trao gởi ân tình thắm thiết của Việt Bắc đối vơi cán bộ cách mạng
về xuôi. Một loại câu hỏi tu từ và điệp kiểu câu:


<i>“Mình về mình có nhớ ta… Mình về mình có nhớ khơng… Tiếng ai… Mình đi,có nhớ những ngày…” </i>


Gợi cho người đọc cảm nhận được tình cảm lưu luyến khơng muốn rời trong buổi chia tay người đi - kẻ ở, qua ý
thơ: Người về có nhớ ta khơng?


<b>a. Nhớ Việt Bắc là nhớ quê hương cách mạng, nhớ ngọn nguồn cách mạng</b>, nơi đã bảo bọc cán bộ, chiến sĩ
cách mạng trong những ngày sóng gió, khi Đảng cịn non trẻ. Hình ảnh “mười lăm năm ấy” là một hình ảnh cụ
thể nhắc nhở thời kỳ đầu thành lập lực lượng vũ trang, tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân
dân, cho đến ngày kháng chiến chống pháp thắng lợi. Cả một thời gian dài gian khổ, đắng cay! Việt Bắc đã ân
tình, ân nghĩa với cách mạng như thế , cho nên: “NNhìn cây nhớ núi nhìn sơng nhớ nguồn?”.


Người ra đi làm sao tránh khỏi tâm trạng xao xuyến, bâng khuâng ? Hai tính từ lấp láy “bâng khuâng”, “bồn
<i>chồn” cùng hiện diện trong câu thơ đối ý càng khắc họa đậm nét tâm trạng ấy . </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

<b>c. </b>Nhớ Việt Bắc cũng là nhớ tình nghĩa đồng bào. Bằng cách nói mộc mạc, diễn tả tình cảm kín đáo mà tha
thiết, tác giả bộc lộ niềm thương nỗi nhớ của người ở lại.


<i>“Trám bùi để rụng, măng mai để già”. “Trám”, “măng” là đặc sản của Việt Bắc, từng làm thức ăn lót lịng </i>
thay ngơ, sắn, cơm, khoai trong những ngày kháng chiến. Ngày nay, qua rồi thời kỳ đói khổ, khó khăn, nhắc
nhở những sản vật này với tấm lịng thiết tha trìu mến đối với Việt Bắc ; xem đó là kỷ niệm sâu sắc trong đời.
Để làm nổi bật tấm lòng son sắc, thuỷ chung, thủ pháp đối lập đã được nhà thơ sử dụng thành cơng.


<i>“Hắt hiu lau xám Đậm đà lịng son” </i>


Biện pháp đảo ngữ ở đây làm cho hình ảnh câu thơ càng thêm sinh động.



<b>3. </b>Đoạn sau là lời đáp thiết tha tình nghĩa của cán bộ cách mạng trước lúc chia tay. Đoạn thơ đã tái hiện cảnh và
người Việt Bắc bằng những chi tiết tiêu biểu nhất, đẹp đẽ nhất.


<b>a. </b>Tuy thiếu thốn, gian khổ nhưng cảnh và người Việt Bắc đẹp và tình nghĩa chan hịa:


Hình ảnh tượng trưng: “Chia củ sắn lùi, bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng” kết hợp với cách dùng từ cùng
nghĩa “chia, sẻ, cùng” diễn tả được mối tình cảm “chia ngọt sẻ bùi” giữa nhân dân Việt Bắc và cán bộ cách
mạng. Biết bao tình nghĩa sâu nặng trong “củ sắn”, “bát cơm”, “chăn sui”… mà người cán bộ cách mạng đã
chịu ơn Việt Bắc.


Hình ảnh chọn lọc: Người mẹ nắng cháy lưng… gợi người đọc liên tưởng đến sự tần tảo chắt chiu, cần cù lao
động của bà mẹ chiến sĩ trong kháng chiến đã đùm bọc, cưu mang chiến sĩ, cán bộ cách mạng. Đó là hình ảnh
tiêu biểu cho cái đẹp, cái ân tình trong cuộc sống kháng chiến khơng thể phai nhịa trong kí ức của người về
xi .


Đoạn thơ cịn dựng lại những khung cảnh quen thuộc với những hình ảnh và âm thanh hết sức tiêu biểu cho sinh
hoạt trong kháng chiến Việt Bắc. Câu thơ đối ý mà nêu bật tinh thần lạc quan yêu đời của cán bộ, chiến sĩ cách
mạng dù cuộc sống cịn rất gian khổ, khó khăn :


<i>“Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo” </i>


Âm thanh “tiếng mõ rừng chiều” và “chày đêm nện cối đều đều suối xa” là âm thanh đặc trưng của Việt Bắc,
phản ánh sinh hoạt yên ả, bình dị nơi núi rừng, gợi nhớ một thời đã qua.


Đặc sắc nhất là đoạn thơ hồi ức về cảnh đẹp núi rừng Việt Bắc qua bốn mùa trong năm. Một loạt từ chỉ màu sắc,
xanh, đỏ tươi, trắng, vàng… tạo một cảm giác tươi mát, vui mắt cho các bức tranh phong cảnh. Mùa xuân với
hoa mai nở trắng rừng. Mùa hạ với âm thanh “ve kêu” tạo thành một bản hợp tấu của rừng xanh. Mùa thu với
ánh trăng hịa bình êm đềm trong sáng. Giữa cây cỏ thiên nhiên, Con người Việt Bắc hiền hòa, nhân hậu lao
động cần cù: đan nón chuốt tùng sơi giang, hái măng một mình. Bức tranh thiên nhiên trở nên sinh động và có ý


nghĩa hơn.


<b>b. </b>Việt Bắc cịn nghi lại những chiến cơng của bộ đội, dân quân ta trong kháng chiến chống pháp. Đoạn thơ toát
lên vẻ đẹp hào hùng của dân quân ta:


<i>“ Những đường Việt Bắc của ta Đêm đêm rầm rập như là đất rung Quân đi điệp điệp trùng trùng Ánh sao đầu </i>
<i>súng bạn cùng mũ nan” </i>


Bằng những điệp từ “điệp điệp, trùng trùng” và từ ngữ láy phụ âm đầu “rầm rập” diễn tả được hào khí ngút
trời của bộ đội, dân công trên đường ra mặt trận.


Với lối nói thậm xưng “bước chân nát đá” tác giả cũng muốn nhấn mạnh sự lớn dậy và kiên cường, bất khuất
của bộ đội ta thời kỳ này.


<b>c. </b>Việt Bắc còn là đầu não của cuộc kháng chiến toàn quốc, là niềm tin vững chắc của nhân dân về Đảng,về
lãnh tụ:


<i>“Nhìn lên Việt Bắc… Trơng về Việt Bắc…” </i>


Câu thơ nói lên vị trí quan trọng của Việt Bắc mà cũng là nhấn mạnh uy tín của Bác, của Đảng đối với tồn dân,
toàn quân trong thời kỳ kháng chiến gian khổ.


<b>B. LUYỆN TẬP </b>
<b>I. CÂU HỎI </b>


1. Bài thơ Việt Bắc gợi nhớ đến lối cấu tứ cảnh chia tay và lối hát đối đáp trong ca dao, dân ca. Em hãy kể một
số ví dụ về những bài ca dao, dân ca có cách cấu tứ như vậy?


</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

Bình giảng đoạn thơ sau trong Việt Bắc của Tố Hữu:



<i>“Ta về mình có nhớ ta Ta về ta nhớ những hoa cùng người [………] Nhớ ai tiếng hát ân </i>
<i>tình thủy chung” </i>


<b>III. GỢI Ý TRẢ LỜI </b>


<b>1. </b>Lối hát đối đáp và cách cấu tứ cảnh chia tay thường được sử dụng rất phổ biến trong ca dao, dân ca ở mọi
miền, như hát trống quân, hát quan họ, hát xoan, hát phường vải… Một số câu ca dao quen thuộc có cách cấu tứ
như vậy:


<i>“- Mình về có nhớ ta chăng Ta về ta nhớ hàm răng mình cười” </i>
<i>“- Mình về ta chẳng cho về Ta nắm vạt áo, ta đề câu thơ” </i>


<i>“- Thuyền về có nhớ bến chăng Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền” </i>


<b>2. </b>Bài thơ được kết cấu theo lối đối đáp quen thuộc trong câu ca dao, dân ca. Nhưng ở đây không chỉ là lời câu
hỏi, lời đáp mà còn là sự hô ứng, đồng vọng của cùng một tâm trạng. Lời đáp không chỉ nhằm giải đáp cho
những điều đặt ra trong lời hỏi mà còn là sự mở rộng, làm phong phú thêm những ý tình được gợi ra trong lời
hỏi.


Có khi như ở đoạn cuối của bài thơ, cả lời hỏi và lời đáp đã hòa làm một để trở thành bản hợp ca đồng vọng,
ngân vang những tình cảnh chung. Nhìn sâu hơn vào kết cấu của bài thơ, chúng ta thấy đối thoại chỉ là lớp kết
cấu bên ngồi, cịn ở chiều sâu bên trong chính là lời độc thoại trữ tình của chủ thể đắm mình trong hồi niệm
về q khứ gian khổ mà tươi đẹp trong cách mạng và kháng chiến với những nghĩa tình thắm thiết. Tình nghĩa
của nhân dân với cách mạng, của người cán bộ với Việt Bắc, của miền ngược với miền xuôi, của cả dân tộc với
lãnh tụ… Vì thế hai hình tượng kẻ ở và người đi cùng với lời hỏi và lời đáp có thể được bọc lộ đầy đủ và sâu
sắc trong cách đối thoại, hô ứng. Sự thống nhất của tâm trạng trữ tình cũng được thể hiện rất rõ trong việc sử
dụng hai đại từ “mình” và “ta” trong bài thơ.


<b>BÀI VĂN THAM KHẢO </b>
<i><b>Đề 1: </b></i>



Kể về những thành tựu xuất sắc của văn học Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, có
lẽ chúng ta khơng thể nào không nhắc đến Việt Bắc của Tố Hữu. Đây là một bài thơ mang đậm đà màu sắc dân
tộc, tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu. Thông qua đó, thể hiện niềm nhớ thương tha thiết và tình cảm sắt son
đầm thắm của nhân dân Việt Bắc với cách mạng, với Đảng, với Bác Hồ, đồng thời cũng thể hiện tình cảm của
người cán bộ kháng chiến với thiên thiên, núi rừng và con người Việt Bắc.


Đoạn thơ gồm năm câu lục bát nhắc lại những cảnh thân thiết và tươi đẹp nhất về cảnh và người Việt Bắc trong
hồi ức của người cán bộ cách mạng miền xi, ở đây chính là nhà thơ.


<i>“Ta về mình có nhớ ta Ta về ta nhớ những hoa cùng người” Đây là hai câu thơ mở đầu nhưng nó mang cảm </i>
xúc chung cho tồn đoạn.


Ta là người ra đi cũng chính tác giả. Ở đây đoạn thơ kết cấu theo lối đối đáp thơng thường trong dân ca truyền
thống. Do đó, đây chính là lời hỏi ngọt ngào của người ra đi với người ở lại, dễ liên tưởng đây là một thiếu nữ
địa phương. Và câu hỏi tu từ này là cái cớ bày tỏ tình yêu của một chàng trai miền đồng bằng với cô gái miền
cao.


<i>“Hoa và người” thực là nỗi nhớ về thiên nhiên và con người Việt Bắc. Ở đây, thiên nhiên hòa điệu với con </i>
người, giữa chúng ngoài mối quan hệ tương hỗ cịn có mối tương sinh lẫn nhau. Việt Bắc sinh ra con người và
con người làm nồng ấm quê hương Việt Bắc.


Tiếp theo, tám dòng lục bát cịn lại như là một bức tranh tứ bình về thiên và con người nơi đây. Với bốn dòng
lục, nhà thơ đã miêu tả phong cảnh núi rừng qua bốn mùa, mỗi mùa là một bức tranh thiên thiên có nét đẹp
riêng biệt. Qua đây, ta thấy chỉ riêng đoạn thơ này đã thấm đậm tính chất dân gian.


Đầu tiên là bức tranh tả cảnh và khơi gợi cho chúng ta tình cảm mến thương của mùa đơng Việt Bắc. Tại sao lại
là mùa đơng? Vì đây là hồi ức của tác giả trong giờ phút chia tay. Chúng ta cịn nhớ, vào một đêm mùa đơng
1946, Hồ Chí Minh đã kêu gọi tồn dân kháng chiến. Đặc biệt ở Hà Nội, những người lính lặng lẽ rời thành
phố, bí mật theo chân cầu sơng Hồng ngược xuôi lên căn cứ cách mạng Việt Bắc.



</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

Thiên thiên đáng yêu như thế, còn con người thì sao? Ta xét tiếp câu hát:


<i>“Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng” Thời gian được xác định bởi yếu tố “ngày xuân”. Chính ấn tượng thời </i>
gian này tạo sự vật vận động, sinh sôi nảy nở. Khơng gian ở đây như là cổ tích. Mới vừa rồi màu xanh bạt ngàn
điểm hoa chuối đỏ, bây giờ nở bung ra những rừng mơ trắng muốt thoảng hương thơm. Cái màu trắng dìu dịu
tinh khiết ấy phủ lên cả cánh rừng, gợi lên trong lịng ta một cảm giác thơ mộng bâng khng. Ngồi ra màu
trắng của hoa mơ gợi cho người ta cái thanh thốt hơn, đem lại cho lịng ngưỡi sự thanh thản, thảnh thơi. Câu
thơ làm cho ta thấy dường như màu xanh đã bị lấn lướt. Mùa xuân ở đây không tưng bừng như mùa xuân của
Xuân Diệu mà nó đến một cách lặng lẽ, âm thầm nhưng khơng kém niềm vui.


<i>“Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang” </i>


Mùa xuân miêu tả trong câu thơ rất đặc trưng cho mùa xuân Việt Bắc. Sợi giang là sản phẩm của Việt Bắc. Do
vậy người lao động đó là người Việt Bắc chớ khơng phải là người miền xi. Nhìn thấy được từng sợi giang,
tức là con người được nhìn ở tầm gần. Việc làm này có nhàn nhã như chính mùa xn, mùa xn làm cho người
ta cảm thấy thơ thới và đem đến cho họ dáng điệu sống như thế.


Thế rồi, khoảnh khắc nhàn hạ của mùa xuân cũng qua mau, qua mau, con người tiếp tục sống cuộc sống của họ.
<i>“Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình” </i>


Bức tranh gợi sự chú ý cho người đọc bằng thị giác, lẫn thính giác. Đầu tiên, cái độc đáo ở đây chính là âm
thanh, âm thanh mùa hạ, tiếng “ve kêu”. Câu thơ tạo ra hình ảnh nhân hóa. Con ve là lồi vật, vậy mà nó biết
kêu, biết gọi, nó xui khiến rừng phách đổ vàng ở đây, chúng ta nên dành một ít thời gian để tìm hiểu cái rừng
phách kỳ lạ này. Rừng phách là những cây lạ ở miền Bắc. Nó khơng mọc riêng rẽ mà mọc thành rừng, rất nhạy
cảm với thời tiết. Tiếng ve kêu râm ran đây đó đã báo hiệu mùa hạ, nhưng lúc này đã là cuối hạ. Cái lạnh đang
tràn ngập núi rừng, lá cây bắt đầu chuyển sang màu vàng, cả rừng phách thay áo mới, chiếc áo vàng óng ánh
dưới ánh nắng mặt trời. Cảnh thiên nhiên đẹp và rực rỡ thế lại càng lãng mạn hơn, vì trong cánh rừng bạt ngàn
ấy có thêm bóng dáng của một sơn nữ “hái măng một mình”.



Từ “hái” ở đây dường như không thể thay thế bằng một động từ nào khác: bẻ, đốn… vì chỉ có nó mới phù hợp
nét dịu dàng, uyển chuyển, mềm mại của cô gái mà thôi. Ta hãy thử tưởng tượng bức tranh mùa hạ như thế này
đẹp biết bao. Cảnh thiên nhiên tuyệt mỹ như thế lại khảm chạm thêm vào hình ảnh một người thiếu nữ nhẹ
nhàng làm việc. Quả thật bức tranh vừa đẹp vừa có thần nữ. Rõ ràng thiên nhiên và con người đã hịa quyện vào
nhau, tơ điểm cho nhau.


Cuối cùng đoạn thơ kết thúc bằng hình ảnh mùa thu cũng khơng kém phần đẹp đẽ.
<i>“Rừng thu trăng rọi hịa bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung” </i>


Câu thơ đã xác định rõ, đây là mùa thu. Thiên nhiên mùa thu được miêu tả bằng ánh trăng. Việc sử dụng hình
ảnh trăng thật ra cũng khơng có gì độc đáo và mới mẻ. Tuy nhiên đặt vào hoàn cảnh Việt Bắc lúc bấy giờ ta
thấy được niềm mơ ước hịa bình của người cán bộ cũng như tồn dân Việt Bắc. Tất cả đều nói lên niềm tin
tưởng chiến thắng sẽ đến với cách mạng với đất nước.


Câu thơ thiếu cụ thể nên con người ở đây cũng thiếu cụ thể. Từ “ai” nhòa đi để tạo nền cho cả đoạn và cũng
nhằm trả lời cho câu hỏi đầu tiên: “Mình về có nhớ ta chăng?”. Tuy hỏi thế nhưng trong lòng họ vẫn biết rằng
con người ấy vẫn thủy chung, son sắt. Đây là lời đồng vọng trong tâm hồn của cả hai người yêu nhau cùng nhớ,
cùng thương “nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”.


Qua đây ta thấy bao trùm cả đoạn thơ là tình cảm nhớ thương tha thiết tiếp tục âm hưởng chung của nghệ thuật
ca dao. Câu thơ lục bát nhịp nhàng, uyển chuyển, ý nọ gợi ý kia cứ trào lên dào dạt trong lòng người ra đi và
người ở lại. Đặc biệt là qua cách xưng hơ “mình” với “ta”. Ở đây điệp từ nhớ dùng để xoáy sâu vào cảm hứng
chủ đạo là hồi ức. Từ “rừng” lặp lại là khoảng không gian cho nỗi nhớ tồn tại. Màu sắc cũng ảnh hưởng khơng
ít tới bức tranh, đỏ lặng lẽ, nhưng có sức sống. Màu con dao thể hiện sự hoạt động. Màu trắng làm thanh thoát
con người và màu vàng làm cho bức tranh rực rỡ trong hồng hơn. Rõ ràng bức tranh đã có sự hịa điệu của màu
sắc. Bên cạnh đó,nhạc đệu dịu dàng trầm bổng khiến cả đoạn thơ mang âm hưởng bâng khuâng, êm êm như một
khúc hát ru - khúc hát ru kỷ niệm. Có lẽ khúc hát ru này khơng của ai khác là của “ta” và cho người nhận là
<i>“mình”. Cả “ta” và “mình” đều cùng chung nỗi nhớ, cùng chung “Tiếng hát ân tình” và ân tình sâu nặng ấy </i>
mãi còn lưu luyến vấn vương trong những tâm hồn chung thủy.



</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

thơ như một bản tình ca về lịng chung thủy sắt son của người cách mạng đối với cả nhân dân, quê hương Việt
Bắc.


<i><b>Đề 2: </b></i>
Phân tích đoạn thơ trích trong Việt Bắc của Tố Hữu:


<i>“Mình về mình có nhớ ta (…) Tân trào, Hồng Thái, mái đình cây đa” </i>
Bốn câu đầu là lời Việt Bắc tỏ bày với người cán bộ chiến sĩ khi chia tay:


<i>“Mình về mình có nhớ ta Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng Mình về mình có nhớ khơng Nhìn cây nhớ núi, </i>
<i>nhìn sơng nhớ nguồn?” </i>


Điệp từ “nhớ” luyến láy trong cấu trúc câu hỏi tu từ đồng dạng, tràn đầy thương nhớ. Các xưng hơ “mình - ta”
mộc mạc, thân gần gợi liên tưởng ca dao: “Mình về ta chẳng cho về - Ta nắm dải áo, ta đề bài thơ”. “15 năm”
là chi tiết thực chỉ độ dài thời gian từ năm 1940 thời kháng Nhật và tiếp theo là phong trào Việt Minh, đồng thời
cũng là chi tiết gợi cảm - nói lên chiều dài gắn bó thương nhớ vơ vàn. Câu thơ mang dáng dấp một câu Kiều -
Mười lăm năm bằng thời gian Kim - Kiều xa cách thương nhớ mong đợi hướng về nhau (Những là rày ước mai
<i>ao - Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình). Cảm xúc đậm đà chất dân gian, đậm đà chất Kiều. Âm điệu ngọt </i>
ngào, giọng thơ nồng ấm, tình cảm do vậy dạt dào thiết tha. Việt Bắc hỏi về: “Mình về mình có nhớ khơng -
<i>Nhìn cây nhớ núi, nhìn sơng nhớ nguồn?”. Câu hỏi chất chứa tình cảm lưu luyến, bao hàm lời dặn dị kín đáo: </i>
đừng quên cội nguồn Việt Bắc - cội nguồn cách mạng.


Bốn câu tiếp theo là nỗi lòng của người về:


<i>“Tiếng ai tha thiết bên cồn Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi Áo chàm đưa buổi phân li Cầm tay nhau </i>
<i>biết nói gì hơm nay” </i>


<i>“Bâng khuâng, bồn chồn” là hai từ láy gợi cảm, diễn tả trạng thái tâm lí tình cảm buồn vui, luyến tiếc, nhớ </i>
thương, chờ mong… lẫn lộn cùng một lúc. Mười lăm năm Việt Bắc cưu mang người cán bộ chiến sĩ, mười lăm
năm gian khổ có nhau, mười lăm năm đầy những kỉ niệm chiến đấu, giờ phải chia tay rời xa để làm nhiệm vụ


mới về tiếp quản tại thủ đô Hà Nội (10-1954), biết mang theo điều gì, biết lưu lại hình ảnh nào, tâm trạng của
người về do vậy không tránh khỏi là nỗi niềm bâng khuâng khó tả.


<i>“Áo chàm đưa buổi phân li” là một ẩn dụ, màu áo chàm, màu áo xanh đen đặc trưng của người miền núi Việt </i>
Bắc - tác giả hướng nỗi nhớ Việt Bắc qua hình ảnh cụ thể “áo chàm”, chiếc áo, màu áo bình dị, đơn sơ, mộc
mạc của vùng quê nghèo thượng du đồi núi nhưng sâu nặng nghĩa tình, đã góp phần khơng nhỏ vào sự nghiệp
kháng chiến cứu nước.


Câu thơ “Cầm tay nhau biết nói gì hơm nay…” đầy tính chất biểu cảm - biết nói gì khơng phải khơng có điều
để giải bày mà chính vì có q nhiều điều muốn nói khơng biết phải nói điều gì. Ba dấu chấm lửng đặt cuối câu
là một dấu lặng trên khn nhạc để tình cảm ngân dài, sâu lắng…


12 câu tiếp theo kết thúc đoạn trích, là lời tâm tình của Việt Bắc:


<i>“Mình đi, có nhớ những ngày Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù Mình về, có nhớ chiến khu Miếng cơm </i>
<i>chấm muối, mối thù nặng vai? Mình về, rừng núi nhớ ai Trám bùi để rụng măng mai để già Mình đi, có nhớ </i>
<i>những nhà Hắt hiu lau xám, đậm đà lịng son Mình về, có nhớ núi non Nhớ khi kháng Nhật, thuở cịn Việt Minh</i>
<i>Mình đi, mình có nhớ mình Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa” </i>


Điệp từ “nhớ” lập đi lập lại nhiều sắc thái ý nghĩa: nhớ là nỗi nhớ, ghi nhớ, nhắc nhở. Hàng loạt những câu hỏi
tu từ bày tỏ tình cảm tha thiết đậm đà của Việt Bắc. Tình cảm lưu luyến của người đưa tiễn, gửi đi nỗi nhớ
mong, gài lại niềm thương theo cách:


<i>“Thuyền về có nhớ bến chăng Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền” </i>


Việt Bắc nhắc người cán bộ chiến sĩ đừng quên những năm tháng gian lao vất vả, hoạt động chiến đấu trong
điều kiện trang bị tiếp tế cịn thơ sơ, thiếu thốn.


<i>“Mình về có nhớ chiến khu Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?” </i>



<i>“Miếng cơm chấm muối” là chi tiết thực, phản ánh cuộc sống kháng chiến gian khổ. Và cách nói “mối thù nặng</i>
<i>vai” nhằm cụ thể hóa nhiệm vụ chống thực dân cướp nước, đè nặng vai dân tộc ta. </i>


Cảm xúc thương nhớ xa vắng thả vào không gian rừng núi, gợi nỗi niềm dào dạt:
<i>“Mình về, rừng núi nhớ ai Trám bùi để rụng, măng mai để già” </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33>

Tiễn người về sau chiến thắng và chính trên cái nền của sự chiến thắng đó, đã làm cho nỗi buồn nhớ trở nên
trong sáng. Việt Bắc vẫn “một dạ khăng khăng đợi thuyền”, đồng thời nhắc nhở khéo léo tấm “lòng son” của
người cán bộ chiến sĩ. Xin đừng quên thời kỳ “kháng Nhật thuở còn Việt Minh”, đừng quên cội nguồn cách
mạng, đừng quên để chăm lo giữ gìn sự nghiệp cách mạng. “Mình đi, mình có nhớ mình Tân Trào, Hồng Thái,
<i>mái đình cây đa” </i>


Tóm lại, đoạn thơ trên là nỗi lịng thương nhớ, là lời tâm tình của Việt Bắc. Đoạn thơ trên tiêu biểu sắc thái
phong cách Tố Hữu, giọng điệu thơ ngọt ngào truyền cảm, mang đậm phong vị ca dao dân gian, đề cập đến con
người và cuộc sống kháng chiến. Thông qua hình tượng Việt Bắc, tác giả ca ngợi phẩm chất cách mạng cao đẹp
của quân dân ta, khẳng định nghĩa tình thuỷ chung son sắt của người cán bộ, chiến sĩ đối với Việt Bắc.


<b>đọan trích “Đất nước” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm</b>


<b>Đề 1: Cảm nhận của anh / chị về đọan thơ sau đây trong đọan trích “Đất nước” của nhà thơ Nguyễn</b>
<b>Khoa Điềm </b>


<b> “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi</b>
<b> ………</b>


<b>Đất Nước có từ ngày đó”. </b>
<b>I/ Mở bài : </b>


<b> </b>- Nguyễn Khoa Điềm (1943) thuộc thế hệ nhà thơ chống Mỹ cứu nước.Đất nước, nhân dân, cách mạng luôn là
nguồn cảm hứng phong phú của thơ ông.



- “Đất nước” là một đọan trích thuộc chương V trong bản trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa
Điềm, sáng tác năm 1971, tại chiến trường Bình Trị Thiên.


- Chín câu thơ đầu của đọan thơ :


“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
………


Đất Nước có từ ngày đó”.


Là những <b>cảm nhận sâu sắc của nhà thơ về sự sinh thành và phát triển của Đất nước</b> qua những hình
tượng cụ thể, sinh động,gợi cảm sơi nổi và thiết tha.


<b>II/ Thân bài</b> :


<b>* </b><i><b>Tịan đọan thơ có chín câu, được viết theo thể thơ tự do, hình ảnh thơ giàu sức liên tưởng…, nhà thơ giúp</b></i>
<i>cho người đọc có những suy nghĩ, cảm nhận về cội nguồn và sự hình thành của Đất nước một cách sâu sắc.</i>
<b> * </b><i><b>Trước hết</b></i><b>,</b>ở hai câu thơ đầu của đọan thơ, Tác giả đi tìm sự <b>lý giải về sự sinh thành của đất nước</b>.Đất
nước có từ bao giờ ? Để trả lời cho câu hỏi này, nhà thơ đã viết :


“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi,


Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể”.


Tham vọng tính tuổi của Đất nước của nhà thơ thật khó bởi chính cái “<i>ngày xửa ngày xưa” ( thời gian</i>
nghệ thuật thường thấy trong truyện cổ tích) có tính phiếm chỉ, trừư tượng, khơng xác định. Đó là thời gian
huyền hồ, hư ảo, thời gian mang màu sắc huyền thoại. Song chính ở “cái ngày xửa ngày xưa” đó, nhà thơ đã
giúp cho chúng ta nhận thức được : Đất Nước đã có từ rất lâu, rất xa, từ bao giờ chẳng biết .Chỉ biết rằng : khi
ta cất tiếng khóc chào đời, thì Đất Nước đã hiện hữu.



Không dừng lại ở khát vọng đo đếm tuổi của đất nước, nhà thơ cịn nỗ lực <b>hình dung về khởi đầu và quá</b>
<b>trình trưởng thành của đất nước :</b>


“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn,


Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”


</div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34>

Và cịn nữa, trong q trình trưởng thành, đất nước còn gắn liền với với đời sống văn hóa tâm linh, bằng
<i><b>phong tục tập quán lâu đời cịn truyền lại và bằng chính cuộc sống lao động cần cù vất vả của nhân dân :</b></i>
“Tóc mẹ búi sau đầu


Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên,


Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần ,sàng…”.


Đọan thơ, <b>bằng những ý thơ giàu sức liên tưởng</b> , nhà thơ đã đưa người đọc trở về với những nét đẹp văn
hóa một thời của người phụ nữ Việt Nam bằng hình ảnh “tóc mẹ búi sau đầu”, gợi tả một nét đẹp thuần phong
mỹ tục của người Việt; và những câu ca dao xưa ca ngợi vẻ đẹp đậm tình nặng nghĩa trong cuộc sống vợ chồng
“cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. Khơng những vậy, hình ảnh thơ cịn thể hiện sự cảm nhận về
đất nước gắn với nền văn hóa nơng nghiệp lúa nước, lấy hạt gạo làm gia bản…


<i> * Có thể nói,đọan thơ mở đầu trả lời cho câu hỏi về cội nguồn đất nước - một câu hỏi quen thuộc, giản dị</i>
bằng cách nói cũng rất giản dị, tự nhiên nhưng cũng rất mới lạ : nhà thơ không tạo ra khỏang cách sử thi để
<i><b>chiêm ngưỡng và ca ngợi đất nước hoặc dùng những hình ảnh mĩ lệ , mang tính biểu tượng để cảm nhận và lý</b></i>
giải , mà dùng cách nói rất đỗi giản dị,tự nhiên với những gì gần gũi , thân thiết , bình dị nhất.


<b>Gịong thơ</b> thâm trầm, trang nghiêm; <b>cấu trúc</b> thơ theo lối tăng cấp : Đất nước đã có; Đất Nước bắt đầu; Đất
<i><b>Nước lớn lên; Đất Nước có từ… giúp cho người đọc hình dung cả quá trình sinh ra, lớn lên, trưởng thành của</b></i>


đất nước trong thời gian trường kỳ của con người Việt Nam qua bao thế hệ. Đặc biệt là cách nhà thơ viết hoa
hai từ Đất Nước ( vốn là một danh từ chung) cũng đã giúp ta cảm nhận tình yêu và sự trân trọng của nhà thơ khi
nói về đất nước , quê hương của mình.


<b> III/ Kết bài</b> :


<i> Tóm lại, chín câu thơ mở đầu cho đọan trích “Đất Nước” đã thật sự để lại những ấn tượng và cảm xúc sâu</i>
sắc cho người đọc về sự sinh thành và trưởng thành của đất nước. Bởi lẽ, đọan thơ đã giúp cho tất cả mọi người,
đặc biệt là thế hệ trẻ, những ai mà cịn có những nhận thức mơ hồ về đất nước mình thật sự phải suy gẫm.<i><b>Bởi</b></i>
<i><b>lẽ, đọan thơ còn cho chúng ta hiểu được đất nước thật thân thương và gần gũi biết nhường nào .Từ đó đọan thơ</b></i>
bồi dưỡng thêm cho chúng ta về tình yêu đất nước, quê hương mình và biến tình yêu ấy bằng thái độ, hành động
dựng xây , bảo vệ đất nước.


<b>* Đề 2 :</b>


<b>Phân tích đọan thơ sau đây trong đọan trích “Đất Nước” ( Trích trường ca “ Mặt đường khát vọng” </b>
<b>của Nguyễn Khoa Điềm:</b>


<b> “ </b>Đất là nơi anh đến trường
……….
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”.


<b>Hướng dẫn làm bà</b>i<b> </b>
<b>I/ Mở bài</b> :


<b> </b>- Nguyễn Khoa Điềm (1943) thuộc thế hệ nhà thơ chống Mỹ cứu nước.Đất nước, nhân dân, cách mạng luôn là
nguồn cảm hứng phong phú của thơ ơng.


- “Đất nước”là một đọan trích thuộc chương V trong bản trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa
Điềm, sáng tác năm 1971, tại chiến trường Bình Trị Thiên.



- Có thể nói, bằng giọng thơ sơi nổi thiết tha, hình ảnh thơ sinh động và gợi cảm…đọan thơ sau đây trong “Đất
Nước” có thể xem như <b>là những định nghĩa về đất nước thật mới mẻ và độc đáo</b> của nhà thơ :


<b>“ </b>Đất là nơi anh đến trường
……….
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”.
<b>II/ Thân bài</b> :


* Nếu như chín câu thơ đầu của đọan thơ là sự trả lời của nhà thơ cho câu hỏi <i><b>: Đất nước có từ bao giờ? Thì ở</b></i>
16 câu thơ này, nhà thơ tiếp tục bày tỏ sự cảm nhận của mình về đất nước để trả lời cho câu hỏi : <b>Đất nước là</b>
<b>gì?</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(35)</span><div class='page_container' data-page=35>

Trước hết, <b>về không gian địa lý</b>, đất nước là nơi sinh sống của mỗi người :
“ Đất là nơi anh đến trường,


<i> Nước là nơi em tắm”.</i>


Khơng những vậy , đất nước cịn là nơi tình u lứa đơi nảy nở say đắm, thiết tha .Đó là “ <i>nơi em đánh rơi</i>
<i>chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”. Đất nước cịn là núi sơng, rừng bể,là“hịn núi bạc”,là “nước biển khơi”.Và cịn</i>
nữa, đất nước cịn khơng gian sinh tồn của cộng đồng qua nhiều thế hệ với “những ai đã khuất…những ai bây
<i>giờ…” </i>


<i> Cùng với cách cảm nhận về đất nước ở phương diện không gian địa lý</i>, nhà thơ còn <b>cảm nhận đất nước ở</b>
<b>phương diện thời gian lịch sử</b> .Ở phương diện này, đất nước có cả chiều sâu và bề dày được nhận thức từ
huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ, từ truyền thuyết Hùng Vương và ngày giỗ Tổ .


Đọan thơ với cấu trúc ngôn ngữ “ Đất là…, Nước là…Đất Nước là…” , nhà thơ đã định nghĩa bằng cách
<i><b>tư duy “chiết tự” để giải thích, cắt nghĩa hai tiếng Đất Nước thiêng liêng bằng tinh thần luận lí chân xác.Nếu</b></i>
<i><b>tách ra làm những thành tố ngôn ngữ độc lập thì </b><b>Đất và Nước chỉ có ý nghĩa là khơng gian sinh tồn về mặt vật</b></i>


chất của con người cá thể.Nhưng nếu hợp thành một danh từ thì “Đất Nước” lại có ý nghĩa tinh thần thiêng
liêng, chỉ khơng gian sinh sống của cả một cộng đồng người như anh em một nhà.


<i> * Tóm lại, bằng cách sử dụng sáng tạo các yếu tố ca dao, truyền thuyết dân gian nhà thơ đã lý giải một</i>
cách sinh động , cụ thể cho câu hỏi : Đất nước là gì? Từ đó <b>, hình ảnh đất nước hiện lên qua đọan thơ vừa</b>
<b>gần gũi - cụ thể, vừa thiêng liêng- khái quát</b> trên cả bề rộng không gian địa lý mênh mông và thời gian lịch sử
đằng đẵng của dân tộc.


<b>III/ Kết bài</b>:


Có thể nói, đọan thơ là những định nghĩa đa dạng, phong phú về đất nước từ chiều sâu văn hóa dân tộc, xuyên
suốt chiều dài của thời gian lịch sử đến chiều rộng của không gian đất nước.


Nhà thơ cũng vận dụng rộng rãi các chất liệu văn hóa dân gian để cảm nhận và định nghĩa về đất.Từ đó , đọan
thơ giúp cho chúng ta hiểu và gắn bó hơn với đất nước, quê hương mình bằng một tình yêu và ý thức trách
nhiệm sâu sắc .


<b>* ĐỀ 3 :</b>


<b>Phân tích đọan thơ sau đây trong đọan trích “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm :</b>
“ Trong anh và em hôm nay,


………
Làm nên Đất Nước muôn đời”.


<b>Hướng dẫn làm bài </b>


<b>I/ Mở bài:</b>



- Nguyễn Khoa Điềm (1943) thuộc thế hệ nhà thơ chống Mỹ cứu nước.Đất nước, nhân dân, cách mạng luôn là
nguồn cảm hứng phong phú của thơ ông.


- “Đất nước”là một đọan trích thuộc chương V trong bản trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa
Điềm, sáng tác năm 1971, tại chiến trường Bình Trị Thiên.


- Đọan thơ sau đây là những lời nhắn nhủ tâm tình về sự gắn bó và trách nhiệm của mỗi người với đất nước :
“ Trong anh và em hơm nay,


Đều có một phần Đất Nước
………
Làm nên Đất Nước muôn đời”.
<b>II/ Thân bài</b> :


Thật vậy, sau những cảm nhận mới mẻ và sâu sắc của nhà thơ về đất nước qua những phương diện không
gian- địa lý,thời gian- lịch sử,phong tục- văn hóa …, Nguyễn Khoa Điềm đã đi đến khẳng định :


“ Trong anh và em hôm nay,
Đều có một phần Đất Nước”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(36)</span><div class='page_container' data-page=36>

<i><b>đều đã và đang thừa hưởng những giá trị vật chất, tinh thần của đất nước thành máu thịt, tâm hồn, nếp</b></i>
<i><b>cảm,nếp nghĩ và cách sống của mình.</b></i>


<b>2.</b><i>Từ việc khẳng định: đất nước hóa thân và kết tinh trong cuộc sống của mỗi người,nhà thơ tiếp tục nói về</i>
<b>mối quan hệ gắn bó sâu sắc của mỗi người với đất nước</b> bằng những dòng thơ giàu chất chính luận :


“Khi hai đứa cầm tay


Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người



<b> Đất Nước vẹn tròn, to lớn”.</b>


<b> 3</b>.Với những cảm nhận tinh tế, mới mẻ về sự hòa quyện giữa cái riêng và cái chung, giữa tình yêu và niềm
tin, đồng thời kết hợp sử dụng các tính từ “hài hịa, nồng thắm”; “vẹn trịn, to lớn” đi liền nhau; đặc biệt là kiểu
câu cấu tạo theo hai cặp đối xứng về ngôn từ (“Khi /Khi; Đất Nước / Đất Nước),nhà thơ muốn gửi đến cho
người đọc bức thông điệp: <b>đất nước là sự thống nhất hài hịa giữa tình u đơi lứa với tình yêu Tổ quốc,</b>
<b>giữa cá nhân với cộng đồng.</b>


<b> 4.</b><i>Không chỉ khẳng định mối quan hệ gắn bó giữa Đất nước và nhân dân, giữa tình yêu cá nhân với tình yêu</i>
<i>lớn của đất nước; nhà thơ còn </i><b>thể hiện niềm tin mãnh liệt vào tương lai tươi sáng của đất nước</b> :


“Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng”.


Có thể nói, ba dịng thơ đã mở ra một tầng ý nghĩa mới, đó là niềm tin mãnh liệt vào tương lai tươi sáng của
đất nước.Thế hệ sau “con ta lớn lên sẽ mang Đất Nước đi xa- Đến những tháng ngày mơ mộng”.Đất nước sẽ
đẹp hơn, những tháng ngày mơ mộng ở hiện tại sẽ trở thành hiện thực ở ngày mai.


Khi đã hiểu hết ý nghĩa thiêng liêng của đất nước, nhà thơ muốn nhắn gửi với mọi người :
“ Em ơi em Đất nước là máu xương của mình


Phải biết gắn bó và san sẻ


Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…”


Bằng giọng văn trữ tình kết hợp với chính luận; bằng cách sử dụng câu cầu khiến, điệp ngữ “phải biết - phải
<i>biết” nhắc lại hai lần cùng các động từ mạnh “gắn bó, san sẻ, hóa thân” …nhà thơ như nhắn nhủ mình, nhưng</i>


cũng là <b>nhắn nhủ với mọi người ( nhất là thế hệ trẻ) về trách nhiệm thiêng liêng của mình với đất nước</b>.
Cái hay là lời nhắn nhủ mang tính chính luận nhưng lại khơng giáo huấn mà vẫn rất trữ tình, tha thiết như lời tự
dặn mình - dặn người của nhà thơ.


<b>III/ Kết bài</b>:


<i><b> Tóm lại, đây là một trong những đọan thơ hay và sâu sắc trong “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm .Bởi lẽ,</b></i>
qua đọan thơ, nhà thơ đã giúp cho chúng ta hiểu hơn về sự gắn bó giữa mỗi người với đất nước.Từ đó, ý thức
hơn về trách nhiệm của mỗi người với đất nước quê hương.Đồng thời, đọan thơ cũng giúp ta thấy được vẻ đẹp
trong phong cách thơ trữ tình- chính luận của nhà thơ.


<b>* Đề 4:</b>


<b>Phân tích đọan thơ sau đây trong đọan trích “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm :</b>
“ Những người vợ nhớ chồng cịn góp cho Đất Nước những núi vọng phu,


………
Những cuộc đời đã hóa núi sơng ta”.


<b>Hướng dẫn</b> :
<b>I/ Mở bài</b> :


- Nguyễn Khoa Điềm (1943) thuộc thế hệ nhà thơ chống Mỹ cứu nước.Đất nước, nhân dân, cách mạng luôn là
nguồn cảm hứng phong phú của thơ ông.


- “Đất nước”là một đọan trích thuộc chương V trong bản trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa
Điềm, sáng tác năm 1971, tại chiến trường Bình Trị Thiên.


- Đọan thơ sau đây <b>là sự khẳng định của nhà thơ về vai trị của nhân dân trong việc làm nên khơng gian</b>
<b>địa lý - bức tranh văn hóa đất nước mn màu muôn vẻ :</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(37)</span><div class='page_container' data-page=37>

Thật vậy, đây là 12 câu thơ mở đầu phần hai của đọan thơ “Đất Nước” với nội dung ngợi ca, khẳng định tư
tưởng đất nước của nhân dân.


<b>1.</b><i>Trước hết, tác giả nêu ra một </i><b>cách nhìn mới mẻ,có chiều sâu địa lý về những danh lam thắng cảnh</b>
trên khắp các miền đất nước. Nhà thơ đã kể, liêt kêmột loạt kì quan thiên nhiên trải dài trên lãnh thổ từ Bắc vào
Nam như muốn phác thảo tấm bản đồ văn hóa đất nước.Đây là những danh lam thắng cảnh do bàn tay tự nhiên
kiến tạo nhưng từ bao đời nay, ông cha ta đã phủ cho nó tính cách, tâm hồn, lẽ sống của dân tộc.Những ngọn
núi, những dịng sơng kia chỉ trở thành thắng cảnh khi nó gắn liền với con người, được cảm thụ qua tâm hồn,
qua lịch sử dân tộc.


Trong thực tế, bao thế hệ người Việt đã tạc vào núi sông vẻ đẹp tâm hồn yêu thương thủy chung để ta có
những “núi Vọng Phu”, những “hịn Trống mái” như những biểu tượng văn hóa .Hay vẻ đẹp lẽ sống anh hùng
của dân tộc trong buổi đầu giữ nước để ta có những “<i>ao đầm”…như những di tích lịch sử về quá trình dựng</i>
nước và giữ nước hào hùng…


“ Cặp vợ chồng u nhau góp nên hịn Trống Mái


Người học trị nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cũng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh”


Thật sự, nếu khơng có những người vợ mịn mỏi chờ chồng cả thời chinh chiến thì khơng có sự cảm nhận về
núi Vọng Phu.Cũng như nếu khơng có truyền thuyết Hùng Vương dựng nước thì khơng thể có sự cảm nhận nét
hùng vĩ của núi đồi quanh đền Hùng.Nói cách khác, những núi Vọng Phu, những hịn Trống Mái, những núi
<i>Bút, non Nghiên khơng cịn là những cảnh thiên nhiên thuần túy nữa, mà được cảm nhận thông qua những</i>
<i><b>cảnh ngộ, số phận của nhân dân, được nhìn nhận như là những đóng góp của nhân dân, sự hóa thân của</b></i>
<i><b>những con người khơng tên, khơng tuổi.</b></i>


<b>2</b>.<b>Thiên nhiên đất nước, qua cái nhìn của Nguyễn Khoa Điềm, hiện lên như một phần tâm hồn, máu thịt</b>
<b>của nhân dân</b> .Chính nhân dân đã tạo dựng nên đất nước này,đã đặt tên, ghi dấu vết cuộc đời mình lên mỗi


ngọn núi, dịng sơng, tấc đất này.Từ những hình ảnh, những cảnh vật, hiện tượng cụ thể, nhà thơ đã “quy nạp”


thành một khái quát sâu sắc:
“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi


Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy


Những cuộc đời đã hóa núi sơng ta…”.


<b> Với cấu trúc quy nạp</b> ( đi từ liệt kê các hình ảnh, địa danh…đến khái qt mang tính triết lý) , dường như
nhà thơ khơng thể kể ra hết những danh lam thắng cảnh và những nét đẹp văn hóa dân tộc vơ cùng phong phú,
đa dạng trên khắp đất nước.Nên cuối cùng, nhà thơ đã khẳng định : <b>trên không gian địa lý đất nước, mỗi địa</b>
<b>danh đều là một địac chỉ văn hóa được làm nên bằng sự hóa thân của bao cuộc đời, bao tâm hồn người</b>
<b>Việt</b>.


<b>III/ Kết bài</b>:


Đoạn thơ thể hiện được đặc điểm tiêu biểu của trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm :
chất chính luận hài hịa chất trữ tình, giọng thơ tự sự ; ngơn từ, hình ảnh đẹp, giàu sức liên tưởng.Viết về đề tài
đất nước - một đề tài quen thuộc, nhưng thơ Nguyễn Khoa Điềm vẫn mang những nét riêng, mới mẻ, sâu sắc .
Những nhận thức mới mẻ về vai trò của nhân dân trong việc làm nên vẻ đẹp của đất nước ở góc độ địa lý-văn
hóa càng gợi lên lịng u nước, tinh thần trách nhiệm với đất nước cho mỗi người.


<b>* ĐỀ 5:</b>


<b>Cảm nhận của anh/ chị về đọan thơ sau đây trong đọan trích “Đất Nước” của nhà thơ Nguyễn Khoa </b>
<b>Điềm :</b>


<b>“ Em ơi em</b>


<b>Hãy nhìn rất xa</b>
<b>………</b>


<b>Có nội thù thì vùng lên đánh bại”.</b>
<b>Hướng dẫn làm bài</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(38)</span><div class='page_container' data-page=38>

- Nguyễn Khoa Điềm (1943) thuộc thế hệ nhà thơ chống Mỹ cứu nước.Đất nước, nhân dân, cách mạng luôn
là nguồn cảm hứng phong phú của thơ ông.


- “Đất nước”là một đọan trích thuộc chương V trong bản trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn
Khoa Điềm, sáng tác năm 1971, tại chiến trường Bình Trị Thiên.


- Đọan thơ sau đây là <b>sự khẳng định của nhà thơ về vai trò của nhân dân trong việc làm nên lịch sử và</b>
<b>truyền thống dựng nước và giữ nước : </b>


“ Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
………


Có nội thù thì vùng lên đánh bại”.
<b>II/ Thân bài</b> :


Thật vậy, sau khi đã khẳng định vai trò của nhân dân làm nên bức tranh địa lý- văn hóa mn màu mn vẻ,
nhà thơ tiếp tục baỳ tỏ <b>những suy tư, nhận thức của mình về vai trò của nhân dân trong việc làm ra lịch sử</b>
<b>và truyền thống</b> của đất nước.


<i> Trước hết, nghĩ về bốn ngàn năm của đất nước, nhà thơ đã nhận thức được một sự thật đó là </i><b>: người làm</b>
<b>nên lịch sử khơng chỉ là những anh hùng nổi tiếng mà còn là những con người vơ danh bình dị.</b>Thật sự
trong bề dày bốn ngàn năm dựng nước, giữ nước, có biết bao thế hệ cha anh dũng cảm, chiến đấu, hy sinh và trở
thành anh hùng mà tên tuổi của họ “cả anh và em đều nhớ”:



“ Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ”


Nhưng cũng có hàng triệu , hàng triệu người cũng trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước đã ngã xuống
, họ đã “sống và chết, không ai nhớ mặt đặt tên”, nhưng tất cả, họ đều có cơng “ làm ra Đất Nước”. Có thể nói,
đây là một quan niệm mới mẻ về đất nước của nhà thơ.Và từ quan niệm này, Nguyễn Khoa Điềm đã hết lời <b>ca</b>
<b>ngợi và tơn vinh lịng u nước của nhân dân :</b>


“Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh…’


Với tư tưởng “<b>Đất Nước của nhân dân</b>”, tác giả đã <b>khẳng định tất cả những gì do nhân dân làm ra,</b>
<b>những gì thuộc về nhân dân như</b> “hạt lúa, ngọn lửa, giọng nói, tên xã tên làng”…cũng như <b>chính những con</b>
<b>người vơ danh bình dị</b> đó <b>đã góp phần giữ và truyền lại cho thế hệ sau mọi giá trị văn hóa, văn minh tinh</b>
<b>thần và vật chất của đất nước</b>. Chính họ đã tạo dựng nền móng sự sống cho đất nước, cho nhân dân.Khơng
những vậy, <b>họ cịn ln sẵn sàng vùng lên chống ngoại xâm, đánh nội thù</b> để giữ gìn sự sống đó và bảo vệ
đất nước thân yêu của mình.


“Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm


Có nội thù thì vùng lên đánh bại”.


Ở đây, <b>nhận thức về đất nước và lòng yêu nước của nhà thơ đã gắn liền với lòng biết ơn nhân dân</b>, bởi
nhân dân mới là những chủ thể đích thực làm ra đất nước và bảo vệ đất nước.


Tóm lại, với hình ảnh thơ giản dị, mộc mạc, giọng thơ vừa tự sự vừa trữ tình…đọan thơ vừa là lời tâm
tình,vừa là lời nhắn nhủ của nhà thơ với tất cả mọi người phải nhận thức đúng vai trò to lớn của nhân dân trong


việc làm nên truyền thống lịch sử, văn hóa của đất nước bằng chính lịng biết ơn của mình.


<b>III/ Kết bài</b> :


</div>
<span class='text_page_counter'>(39)</span><div class='page_container' data-page=39>

Viết về đề tài đất nước - một đề tài quen thuộc, nhưng thơ Nguyễn Khoa Điềm vẫn mang những nét riêng,
mới mẻ, sâu sắc . Những nhận thức mới mẻ về vai trò của nhân dân trong việc làm nên vẻ đẹp của đất nước ở
góc độ địa lý-văn hóa càng gợi lên lòng yêu nước, tinh thần trách nhiệm với đất nước cho mỗi người


<b>Gợi trăm </b>
<b>màu trên trăm dáng </b>
<b>sông xuôi”.</b>


<b>Hướng dẫn làm bài</b>.
<b>I/ Mở bài</b> :


- Nguyễn Khoa Điềm (1943) thuộc thế hệ nhà thơ chống Mỹ cứu nước.Đất nước, nhân dân, cách mạng luôn
là nguồn cảm hứng phong phú của thơ ông.


- “Đất nước”là một đọan trích thuộc chương V trong bản trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn
Khoa Điềm, sáng tác năm 1971, tại chiến trường Bình Trị Thiên.


- Đọan thơ sau đây là sự thể hiện sâu sắc những <b>suy tư, nhận thức về đất nước của nhà thơ trên cơ sở tư</b>
<b>tưởng Đất nước của Nhân dân : </b>


<b>“ Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân</b>
<b> ……… </b>
<b> Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”.</b>
<b>II/ Thân bài</b> :


Có thể nói, “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm là một khúc ca - sự nhận thức về nguồn gốc sâu xa của nhà


thơ về đất nước về trí tuệ, tâm hồn và ý chí của nhân dân.Để từ đó, nhà thơ khẳng định : Nhân dân chính là
người – là chủ thể .làm nên đất nước.


Trước hết, câu thơ mở đầu đọan thơ “ Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân” chính là sự thể hiện <b>cảm</b>
<b>hứng chủ đạo bao trùm lên tịan đọan trích và cả Chương V của bản trường ca “Mặt đường khát vọng</b>”.
Đây chính là lời kết, là sự khái quát từ những gì đã được nhà thơ triển khai trên cả chiều dài của trang thơ và
trong cả chiều sâu của dòng cảm hứng trữ tình- chính luận.


Nhân dân sáng tạo ra mọi giá trị văn hóa như ca dao, thần thoại.Như vậy cũng chính là đã sáng tạo ra đất
nước. Để khẳng định điều này, Nguyễn Khoa Điềm đã lấy ý từ ba câu ca dao có nội dung sâu sắc để <b>nói về ba</b>
<b>phương diện quan trọng nhất của truyền thống nhân dân</b> :


“Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”


Biết quý công cầnm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy


Đi trả thù mà không sợ dài lâu”.


<i>.Đó là vẻ đẹp </i><b>giàu lịng u thương ân tình</b> của người Việt đã bắt nguồn từ thời xa xưa với những lời dân ca
ngọt ngào “Yêu em từ thuở trong nơi,


<i> Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru”</i>


Và đó là <b>vẻ đẹp của lối sống đậm nghĩa, vẹn tình, quý trọng tình nghĩa</b> hơn cả vật chất ngàn vàng.Ở đây,
ý thơ của nhà thơ được gợi lên từ chính những câu ca dao một thời đi vào đời sống tâm hồn của dân tộc :


<i>“ Cầm vàng mà lội qua sông</i>
<i>Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng”</i>



Và đó cịn là sự thể hiện của <b>truyền thống kiên cường, bất khuất </b>của trong quá trình đấu tranh chống giặc
ngoại xâm của nhân dân ta.Vẻ đẹp của truyền thống anh hùng ấy cũng được làm nên từ những câu ca dao từng
ca ngợi tinh thần quật khởi của dân tộc :


<i>“ Thù này ắt hẳn còn lâu</i>


<i>Trồng tre nên gậy , gặp đâu đánh què” </i>


Từ đó có thể khẳng định: nhân dân đã làm ra văn hóa, làm ra đất nước bằng chính tinh cách, lẽ sống tâm hồn
mình.


Có thể nói, tuổi trẻ thế hệ Nguyễn Khoa Điềm đã nhận thức được một cách sâu sắc Nhân dân là người làm
nên lịch sử, làm ra văn hóa đất nước bằng tất cả tình cảm trân trọng và yêu thương . Suy tư và nhận thức này


<b>*Đề 6:</b>


<b>Cảm nhận đọan thơ sau đây trong đọan trích “ Đất Nước” của Nguyễn Khoa</b>
<b>Điềm </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(40)</span><div class='page_container' data-page=40>

của nhà thơ là tư tưởng nghệ thuật đã trở thành truyền thống trong văn học Việt Nam.Từ Nguyễn Trãi, Nguyễn
Đình Chiểu, Phan Bội Châu …đã từng nói lên nhận thức về vai trò của nhân dân trong lịch sử.Đến các nhà thơ,
nhà văn trong thời kì kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ , nhận thức ấy đã được nâng lên thành một tư tưởng
có tầm cao mới.


<b>III/ Kết bài</b> :


Bằng giọng thơ nhẹ nhàng, tha thiết, trang trọng; ý thơ giàu chất chính luận, ngôn ngữ thơ mộc mạc,
<i><b>cách sử dụng sáng tạo chất liệu văn hóa, văn học dân gian</b></i>…từ những suy tư cảm xúc của nhà thơ, đọan thơ
<i><b>đã khắc sâu cho chúng ta những nhận thức sâu sắc và mới mẻ về đất nước nhân dân.</b></i>Từ đó, đọan thơ bồi
<i><b>dưỡng thêm tình yêu Tổ quốc và niềm tự hào về con người Việt Nam cho mỗi người, đặc biệt là thế hệ trẻ</b></i>


trong thời đaị hôm nay.


<i><b>Tuỳ bút người lái đị sơng Đà</b></i>
<b>Đề bài: 1</b>


<i><b>Phân tích hình tượng người lái đị qua bài tuỳ bút người lái đị sơng Đà của Nguyễn Tuân.</b></i>
<i><b>Bài làm</b></i>


Tuỳ bút " Người lái đò sông Đà" là một trong những tác phẩm đặc sắc của Nguyễn Tuân được in trong
tập sông Đà (1960). Viết tuỳ bút này Nguyễn Tuân tự coi mình là người đi tìm cái thứ vàng 10 của màu sắc núi
sơng Tây Bắc và nhất là cái thứ vàng 10 mang sẵn trong tâm trí tất cả những con người ngày nay đang nhiệt tình
gắn bó với cơng cuộc xây dựng cho Tây Bắc thêm sáng sủa được vui và vững bền. Chất vàng 10 của con người
ấy chính là người lái đị sơng Đà. Dưới ngịi bút tài hoa của Nguyễn Tuân người lái đò vừa là người anh hùng
vừa là người nghệ sỹ tài hoa trong nghề của mình.


Với " Người lái đị sơng Đà" Nguyễn Tn đã dựng hình ảnh một sơng Đà mà ơng đã từng muốn" trơng
nó thành ra diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số 1" nhưng cũng rất đúng nếu nói rằng thiên nhiên ấy cũng
chính là kẻ tơn vinh số 1 giá trị của con người. Người lái đị sơng Đà kia sẽ là ai nếu con thuyền của ông khơng
phải vật lộn với" Dịng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sơng đá"? Có thể người ấy sẽ mang một vẻ
đẹp nào đó của một ơng ngư, ông chài, ông lái đò nhưng sẽ không trở thành đối tượng của một khúc hùng ca.
Trái lại cái hùng vĩ của sóng, của thác, của sơng nước Đà Giang đã làm sáng chói lên hình ảnh con người đẹp
nhất, kiêu hùng nhất, người lái đị trên sơng Đà người anh hùng người nghệ sĩ chế ngự thiên nhiên hùng mạnh.


Người lái đị Sơng Đà trước hết là một ơng già 70 tuổi đã giành một phần lớn cuộc đời mình cho nghề
lái đị dọc trên sơng Đà. Đó là một người lái đị lão luyện:" Trên dịng sơng Đà ông xuôi, ông ngược hơn 100
lần rồi, chính tay giữ lái đò sáu chục lần" trong thời gian hơn chục năm làm nghề lái đò cái nghề đầy nguy hiểm
và gian khổ này.


Đây là một con người từng trải, hiểu biết, rất thành thạo trong nghề lái đò và đã đạt đến trình độ " Bằng
cách lấy mắt và nhớ tỷ mỉ như đóng đinh vào tất cả những lng nước của tất cả những con thác hiểm trở "


Nguyễn Tuân đã bày tỏ sự khâm phục của mình đối với con người này " sông Đà đối với ông lái đị ấy như 1
thiên anh hùng mà ơng đã thuộc cả đến dấu chấm than, chấm câu và cả những đoạn xuống dịng".


Hình dáng bề ngồi của ơng lái đị được Nguyễn Tn phác hoạ khá độc đáo ln gợi đến dịng sơng và
nghề nghiệp của ơng " Tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cùng khuỳnh khuỳnh gò lại như kẹp lấy
một cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như nước trước mặt ghềnh sông nhỡn giới ông vời vợi như lúc nào
cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù. Thân hình ơng cao to và gọn qnh như chất sừng chất
mun".


</div>
<span class='text_page_counter'>(41)</span><div class='page_container' data-page=41>

ở trùng vi thứ nhất: Vừa vào trận, sóng nước, đá sơng hị la vang dậy, ùa vào bẻ gãy cán chèo vơ khí, đá
trái thúc vào bụng, vào hông thuyền. Nước như đô vật túm thắt lưng ơng đị rồi đánh miếng địn độc, đánh vào
chỗ hiểm. Nhưng ơng đị cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt cuống lái, mặt méo lệch đi. Con thuyền bơi
chèo vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn và tỉnh táo của người cầm lái, ơng đị thực là 1 chiễn sĩ dũng cảm, rất
bình tĩnh nén mọi đau đớn để chiến thắng kẻ thù.


ở trùng vi thứ 2: Kẻ địch thay chiến thuật, chúng tăng thêm nhiều cửa tử .Cửa sinh bố trí lệch sang phía
tả ngạn, lập lờ, bí hiểm hơn ở trùng vi trước, hịng đánh lừa con thuyền. Nhưng ơng đị đã nắm chắc binh pháp
của thân sông, thần đá thuộc quy luật phục kích của lũ đá. Ơng" Cưỡi lên thác Sơng Đà phải cưỡi đến cùng như
là cưỡi hổ". Nắm chặt được cái bờm của sóng đúng luồng rồi ơng đị ghì cương lái phóng nhanh vào cửa sinh,
lái miết một đường chéo con thuyền lướt nhanh, bất ngờ khiến cả bọn đá thủy quân không kịp trở tay, khiến "
Cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đá tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng". Ơng đị người chỉ huy ấy thật
thông minh tài giỏi xiết bao.


ở trùng vi thứ 3: ít cửa hơn, bên phải, bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở ngay giữa con thác.
Ơng đị như một người chỉ huy dày dạn cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa, giữa đó " Vút vút, cửa ngoài,
cửa trong, lại cửa trong cùng thuyền như 1 mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái
được, lượn được" Bản hùng ca vượt thác lên đến cao trào. Con thuyền lướt nhanh trên đầu sóng, sóng nước của
Sơng Đà và sóng của Nguyễn Tuân trên con thuyền vun vút đó chúng ta nhìn rõ hình ảnh người lái đị anh hùng
vừa dũng cảm thông minh vừa thật là tài hoa. ở phần vĩ thanh của khúc ca vượt thác, nhà văn chuyển gam với
mấy câu tả êm nhẹ câu kể thủ thỉ, tâm tình " Dịng sơng vặn mình vào một cái bến cát có hang lạnh. Sóng thác,


xèo xèo tan trong trí nhớ. Đêm ấy nhà đị đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh
vũ, cá dầm xanh. Chả thấy ai bàn thêm 1 lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua. ở đây ta lại thấm thía thêm một
vẻ đẹp nữa của những người lái đò, chèo đò. Họ anh hùng xiết bao, cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến
đấu với Sông Đà dữ dội để giành lấy sự sống từ tay những con thác nên cũng "Khơng có gì là hồi hộp đáng
nhớ". Họ nghĩ như thế cái phi thường đã trở thành bình thường. Phẩm chất chiến sĩ đã hoà quyện với phong thái
tài tử, nghệ sĩ. Dường như cảm nhận đầy đủ vẻ đẹp mang " Chất vàng 10 của những người lao động bình dị ở
Tây Bắc trên 1 chặng vượt thác Sơng Đà Nguyễn Tn đã khơng cầm lịng được. Trước khi chia tay họ để gặp
lại dịng sơng, ơng giữ lại một ước nguyện thật đẹp đẽ chân tình " Tơi nghĩ nếu sau này làm phim màu về Sông
Đà, cũng phải đưa ống quay phim lên tàu bay, cho bay là là trên thác mà gí máy xuống mà lượn ống máy theo
những luồng sinh của thác trên thác hiên ngang một người lái đị Sơng Đà có tự do, vì người lái đị ấy đã nắm
được cái quy luật tất yếu của dịng nước Sơng Đà.


Sử dụng nghệ thuật của ngôn từ rồi nghệ thuật của hội hoạ, âm nhạc với những tri thức trong chiến đấu,
trong võ thuật với bao nhiêu hiểu biết rộng và sâu khác nữa để khắc hoạ, ngợi ca nhân vật mà vẫn cảm thấy
chưa đủ đến đây nhà văn dùng thêm phương pháp của điện ảnh. Hình tượng người lái đị hiên ngang, sừng sững
hiện lên trong ống quay phim của nhà nghệ sĩ, cao lớn, lung linh như một thiên thần. Cùng với vẻ đẹp của người
anh hùng trí dũng tài hoa từng chiến thắng ghềnh thác, người lái đò thêm một " Chất vàng" nữa người lao động
có tự do đạt tới độ thành thục, điêu luyện vì làm chủ được thiên nhiên, chế ngự thiên nhiên, đem lại cuộc sống
ấm no cho đời mình, sự giàu đẹp cho Tổ quốc. Ca ngợi người lao động phải chăng Nguyễn Tuân muốn ngợi ca
lao động ngợi ca con người? Con người dưới con mắt nghệ sĩ tài hoa, uyên bác Nguyễn Tuân luôn luôn là hiện
thân của cái đẹp của nghệ thuật của sự bất tử. Chính điều này người nghệ sĩ tài hoa Nguyễn Tuân đã có điểm
gặp gỡ với người nghệ sĩ Nga M.Gorki " Con người! Tiếng ấy thật tuyệt diệu! Tiếng ấy vang lên kiêu hãnh và
hùng tráng xiết bao".


</div>
<span class='text_page_counter'>(42)</span><div class='page_container' data-page=42>

phép thuật ngôn từ đem lại cho ta chất vàng 10 quý giá của đời, làm giàu sang cho tâm và cho trí của ta dạy ta
biết yêu hơn Tổ quốc, nhân dân, cuộc sống.


<b>Đề bài: 2</b>


<i><b>Em hãy phân tích hình ảnh dịng sơng Đà trong tuỳ bút "</b><b>Người lái đị sơng Đà" của Nguyễn Tn.</b></i>


<i><b>Nhận xét về nghệ thuật miêu tả cảnh vật thiên nhiên của nhà văn.</b></i>


<b>Bài làm</b>
<i><b>I/ Đặt vấn đề:</b></i>


Nguyễn Tuân tự nhận mình là người mắc căn bệnh " Xê dịch". Trước cách mạng tháng 8 ông " Xê dịch"
để thay đổi thực đơn cho giác quan. Sau cách mạng sự " Xê dịch" đã đem lại cho ông nhiều hiểu biết mới mẻ về
cảnh sắc thiên nhiên và con người đất nước Tuỳ bút" Người lái đị Sơng Đà" trích trong tập tuỳ bút Sông Đà
(1960) là kết quả chuyến đi thực tế Tây Bắc năm 1958 của nhà văn. Trong tuỳ bút ông đã phát hiện và miêu tả "
Chất vàng mười" của cảnh sắc núi sông và con người Tây Bắc. Đặc biệt với ngòi bút tài hoa của nhà pháp thuật
ngôn từ Nguyễn Tuân con Sông Đà của Tây Bắc hiện lên vừa hung bạo hùng vĩ vừa tuyệt vời thơ mộng.


<i><b>II/ Giải quyết vấn đề:</b></i>


<i>1) Giới thiệu chung hình ảnh Sơng Đà trong tác phẩm:</i>


Dịng Sơng Đà là một trong hai hình tượng nghệ thuật chính của tuỳ bút cùng với hình tượng người lái
đị làm nên bức tranh toàn cảnh và hết sức sinh động về Sơng Đà. Dịng Sơng Đà là phơng nền, khung cảnh để
từ đó hiện ra hình tượng trung tâm: Người lái đị. Hình ảnh dịng Sơng Đà vừa là đối tượng đuợc Nguyễn Tuân
miêu tả trực tiếp vừa là phương thức nghệ thuật để gián tiếp làm nổi bật hình tượng nhân vật trung tâm: Người
lái đò. Tuy nhiên trong thiên tuỳ bút này Nguyễn Tuân dành khá nhiều bút lực để miêu tả dịng sơng. Dịng sơng
được miêu tả bằng tất cả sự say mê hứng khởi của Nguyễn Tuân. Phong cách nghệ thuật, sở trường của Nguyễn
Tuân cũng được bộc lộ đầy đủ ở hình tượng dịng Sơng Đà. Dịng sơng như một khám phá của Nguyễn Tuân,
như một cơ hội được nhà văn khoe ra tất cả sự tài hoa uyên bác nghệ sĩ của chính mình. Dịng sơng Đà hiện lên
trong trang tuỳ bút như một sinh thể độc đáo vừa có hình hài vừa có cá tính, phong cách có cả số phận. Ngịi bút
của Nguyễn Tuân đi sâu miêu tả hai nét tính cách trái ngược của dịng sơng Đà: hung bạo và trữ tình.


<i>2) Phân tích hình ảnh dịng sơng Đà:</i>


Khác với những hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm tự sự ( truyện ngắn, tiểu thuyết) hình ảnh sơng Đà


trong tuỳ bút này được giới thiệu về phẩm chất, tính cách một cách trực tiếp. Trữ tình và hung bạo là hai nét
tính cách mà Nguyễn Tn phát hiện từ dịng sông Đà rồi giới thiệu tới người đọc. Đây cũng là nét phong cách
riêng của Nguyễn Tuân khi thể hiện một hình tượng nghệ thuật.


<i>a) Sơng Đà hung bạo:</i>


Ngay từ lời đề Nguyễn Tuân đã phát hiện ra cái độc đáo của sông Đà " Chúng thuỷ giai đông tẩu, Đà
giang độc bắc lưu" Sông Đà không chịu chung hướng với các dịng sơng khác mà chọn một hướng đi riêng. Cái
độc đáo của sông Đà trước hết bộc lộ ở tính cách hung bạo. Cái hung bạo của con sông Đà hiện lên ở bờ đá ven
sông " đá bờ sơng dựng vách thành" Vách đá chẹn ngang lịng sông như một cái yết hầu Nguyễn Tuân đưa ra
khá nhiều hình ảnh để tả lịng sơng chỗ bị đá chen. Tài quan sát và vốn từ ngữ phong phú đã giúp Nguyễn Tuân
miêu tả thành công cái dữ dội của đá nơi lịng sơng. Vách đá ấy giống như một thứ hùm beo ăn thịt đời sống của
cả dòng sơng Đà.


Cái dữ dội của dịng sơng Đà cịn ở tiếng nước, thác nước. Lối văn trùng điệp hình tượng hố tiếng
nước dữ dội của sơng Đà. Nó lúc nào cũng trong tư thế cuồng phong thuỷ chiến. Tiếng nước được nhà văn miêu
tả như tiếng một con vật khổng lồ đang bị hành hình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(43)</span><div class='page_container' data-page=43>

để tả nước làm cảnh sắc sơng Đà dữ dội, hồnh tráng " Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng
đang lồng lộn giữa rừng vẫn tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cũng gầm thét với đàn trâu da
cháy bùng bùng".


Đá ở sông Đà cũng hung bạo như thác nước sông Đà. Những hiểu biết về võ thuật, quân sự giúp Nguyễn
Tuân miêu tả thành cơng thạch bàn trên ở lịng sơng. Mỗi hòn đá mang gương mặt của những chiến binh " Mặt
hịn nào cũng ngỗ ngược" một hị đá trơng nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi tên chiếc thuyền. Cả đại
dương đá dàn thành trận địa sẵn có hàng tiền vệ, có những boong ke, pháo đài đá, cửa tử, cửa sinh. Khi con
thuyền của người lái đị xuất hiện đá ở sơng Đà nước ở sơng Đà tất cả nhổm cả dậy giao chiến với người lái đị.
Sơng Đà trở thành một chiến địa dữ dội hào hùng.


b) Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân sơng Đà khơng chỉ hung bạo mà nó cịn rất trữ tình. Trước


hết là hình day mềm mại duyên dáng của dịng sơng. Từ trên cao nhìn xuống Nguyễn Tn được chiêm ngưỡng
tồn cảnh dịng sơng trong dáng hình mềm mại uốn lượn tự nhiên của nó. Nguyễn Tuân đã so sánh dịng sơng
Đà với sợi dây thừng ngoằn ngo. Sự so sánh giản đơn nhưng chính xác độc đáo nên tạo được sự bất ngờ thú
vị. Sông Đà đẹp thơ mộng trước hết ở vẻ đẹp tự nhiên ấy.


Dòng nước sông Đà cũng mang vẻ đẹp duyên dáng, thi vị: " Từng nét sông tải ra trên đại dương đá. Từ
trên cao, trên nền một đại dương đá núi ẩn hiện lờ mờ qua làn mây là một con sơng Đà tn dài, tn dài như
một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng 2 và cuồn
cuộn khói núi mèo đốt nương xuân" Nguyễn Tuân so sánh dịng sơng với áng tóc của người con gái. Sông Đà
hiện lên như một mỹ nhân duyên dáng, đài các. Sông Đà trở thành nơi hội tụ vẻ đẹp của đất trời, con người Tây
Bắc. ít nhà thơ, nhà văn nào tả sơng nước bằng hình ảnh nét sơng tãi ra, tả con sơng bằng áng tóc trữ tình.
Nguyễn Tn đã miêu tả dịng sơng bằng tâm hồn của một thi sĩ nên đã tạo được những liên tưởng kỳ thú như
thế về dịng sơng.


Sơng Đà cịn có màu nước trữ tình, mùa xn dịng xanh ngọc bích mùa thu nước sơng Đà lừ lừ chín đỏ
như da mặt người bầm đi vì rượu bữa. Sự thay đổi màu nước theo mùa làm dịng sơng giống hệt một thiếu nữ
thất thường. Nghệ thuật so sánh bất ngờ táo bạo rất Nguyễn Tuân đã làm nên một sông Đà thơ mộng, trữ tình,
đa tình, đa cảm. Sơng Đà là con sơng gợi cảm. Dịng sơng Đà mang lại khơi dậy trong lịng người bao nỗi niềm
xúc cảm: "Đã có lần tơi nhìn sơng Đà như một cố nhân". Sơng Đà gợi niềm vui của con người với cảnh cũ, tình
xưa. Đến với sơng Đà Nguyễn Tn cịn thấy lịng mình như trẻ lại, thấy loang lống như trẻ con nghịch chiếu
gương vào mắt rồi bỏ chạy. Sông Đà đã gợi nỗi niềm thơ bé trong lòng tác giả. Cảnh bờ bãi ven sơng cịn gợi
lên trong Nguyễn Tn niềm vui, niềm hứng khởi rất thi sĩ: " Chao ôi, trơng con sơng vui như thấy nắng giịn
tan sau kỳ mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng". Đặc biệt sơng Đà cịn gợi trào dâng cảm hứng thi sĩ,
đứng trước sông Đà không ai không nghĩ đến những câu ca dao thần thoại Sơn Tinh, Thuỷ Tinh, những câu thơ
tình của Tản Đà, những câu thơ Đường của Lý Bạch. Bỗng chốc sông Đà đã biến Nguyễn Tuân thành thi sĩ của
tình yêu cảnh vật, cuộc đời, thiên nhiên xã hội con người.


Vẻ đẹp trữ tình của sơng Đà cịn tốt lên từ khơng gian tĩnh lặng. Phải chăng đây là đoạn Sơng Đà ở hạ
nguồn dịng sông hiền lành yên ả" Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lý, đời Trần, đời Lê, quãng
sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi ". Cái tình lặng ở sơng Đà đưa Nguyễn Tn trở về với quá khứ. Sông Đà


trở thành nơi hội tụ của vẻ đẹp lịch sử. Cũng bằng liên tưởng, xúc cảm đồi dào Nguyễn Tuân đã nhận ra vẻ đẹp
mộng mơ, huyền ảo, hồn nhiên hoang dã của sông Đà. " Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sơng hồn
nhiên như một nỗi niềm cổ tích thủa xưa". "Bờ tiền sử, nỗi niềm cổ tích thủa xưa" là cách nói rất độc đáo của
riêng Nguyễn Tuân. Nó khơng chỉ tạo cho câu văn nhạc tính mà cịn làm ra giá trị gợi cảm của nó. Dịng sơng
Đà hiện nên thơ mộng, trữ tình, hồn nhiên, tươi sáng. Cảnh sắc ven sông Đà đẹp như trong huyền thoại cổ tích.
ở đó cây lá đều tươi mới non tơ" những lá ngô non đầu mùa, những búp nõn cỏ gianh, ở đó có những con vật
hoang dã nhưng nghe được tiếng người: ở đó con người đắm chìm trong cảnh vật, thấu hiểu tiếng nói của lồi
vật. Vẻ đẹp của dịng sơng Đà thật trữ tình thơ mộng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(44)</span><div class='page_container' data-page=44>

<i><b>Phân tích nhân vật Tnú trong truyện ngắn “ Rừng xà nu” </b></i>
<i><b>của Nguyễn Trung Thành.</b></i>


Gợi ý dàn ý chi tiết :
<b>I/ Mở bài : </b>


- Giới thiệu vài nét lớn về tác giả, tác phẩm;
- Giới thiệu nhân vật Tnú <b>trong</b> truyện.


Nguyễn Trung Thành là một trong các nhà văn trưởng thành qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống
Mĩ. Tình yêu mãnh đất Tây Nguyên và sự hiểu biết sâu sắc cuộc sống nơi đây đã giúp nhà văn sáng tạo nên
những hình tượng nghệ thuật đặc sắc, riêng biệt và hấp dẫn. Nguyễn Trung Thành có nhiều tác phẩm giá trị viết
về cuộc sống của đồng bào các dân tộc trên mãnh đất này. Tác phẩm tiêu biểu nhất của ông trong giai đoạn
kháng chiến chống Mĩ là truyện ngắn "Rừng xà nu". Trong truyện ngắn này, nhà văn đã khắc hoạ thành công
nhân vật Tnú- nhân vật trung tâm kết tinh vẻ đẹp của con người Tây Nguyên- một vẻ đẹp bi hùng, được miêu tả
với bút pháp sử thi hoành tráng.


<b>II. Thân bài:</b>


<b>1. Khái quát về tác phẩm :</b> Giới thiệu hoàn cảnh ra đời tác phẩm, xuất xứ tác phẩm, tóm tắt cốt truyện.



<b> </b>Truyện ngắn "Rừng xà nu" được nhà văn Nguyễn Trung Thành viết năm 1965, in trong tập "Trân quê hương
những anh hùng Điện Ngọc". Truyện miêu tả rừng xà nu và kể chuyện Tnú sau ba năm đi "lực lượng" về thăm
làng. Tối hơm đó, tại nhà cụ Mết, dân làng mừng đón Tnú, Cụ Mết kể cho dân làng nghe câu chuyện về cuộc
đời Tnú và cuộc nổi dậy của làng Xô Man chống kẻ thù tàn bạo. Sáng hơm sau, cụ Mết và Dít tiễn chân Tnú trở
về đơn vị.


<b>2. Phân tích nhân vật </b>Tnú:


*Tnú là người Strá, mồ côi cha mẹ từ rất sớm, được dân làng Xơ Man cưu mang- đùm bọc. Có lẽ vì thế,hơn ai
hết Tnú gắn bó với bn làng và mang những phẩm chất tiêu biểu của dân làng XôMan : Yêu quê hương, trung
thành với Cách mạng, gan góc, dũng cảm, thông minh, gan dạ, giàu tự trọng...Thất đúng như lời cụ Mết đã nói
về TNú “Đời nó khổ, nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta”.


a. Ngày cịn nhỏ,Tnú là cậu bé liên lạc gan góc, dũng cảm, một lòng với cách mạng.


- Ngay từ thời còn nhỏ, Tnú đã cùng Mai vào rừng tiếp tế, nuôi giấu anh Quyết cán bộ Đảng “nằm vùng”, và
học chữ. Tnú đã đi ba ngày đường tới núi Ngọc Linh mang về một xà lét đầy đá trắng làm phấn. Đó là lịng
“khát chữ” để vươn lên làm người và vươn tới ánh sáng cách mạng của anh, của người Strá quê anh.


- Học chữ thua Mai thì lấy đá đập vào đầu. Điều ấy thể hiện ý thức của lịng tự trọng và ý chí quyết tâm cao.
- Nhưng đi giao liên thì đầu anh “sáng lạ lùng”. Giặc vây các ngả đường, Tnú leo lên một cây cao nhìn quanh
một lượt rồi “xé rừng mà đi”, lọt qua tất cả các vịng vây. Qua sơng, Tnú lựa chỗ thác mạnh mà bơi ngang, cỡi
lên thác băng băng như một con cá kình. Tnú biết là chỗ nước mạnh giặc “khơng ngờ”. Thật là mưu trí.


- Bị giặc phục kích, họng súng giặc “chĩa vào tai lạnh ngắt”, Tnú nuốt ln cái thư bí mật của anh Quyết gửi về
huyện. Giặc tra tấn dã man. Chúng giải anh về làng, bắt Tnú khai người nào là cộng sản. Anh đặt tay lên bụng
mình nói: “Ở đây này!”. Lưng anh đầy những vết dao chém của lũ giặc. Tnú đã bất khuất hiên ngang, trung
thành vô hạn với cách mạng. Anh có bao giờ quên lời cụ Mết dạy: “<i>Cán bộ là Đảng, Đảng còn, núi nước này</i>
<i>cịn!”.</i>



b. Khi lớn lên,Tnú có một trái tim sục sơi căm giận và yêu thương.


- Sau 3 năm bị tù ở ngục Kông Tum, Tnú vượt ngục trở về làng. Cả làng vui mừng đón anh ở nhà ưng. Tnú
đọc thư tuyệt mệnh của anh Quyết cho cả làng nghe. Lần thứ hai anh lại đi ba ngày lên núi Ngọc Linh, không
lấy đá trắng làm phấn mà mang về một gùi nặng đá mài. Cả làng Xơ Man, ngày thì phát rẫy, đêm đêm mài vũ
khí. Tnú trở thành chỉ huy đội du kích. Với lũ giặc, với thằng Dục ác ơn thì Tnú là “con cọp” nếu khơng giết
sớm, nay nó làm loạn rừng này rồi!.


</div>
<span class='text_page_counter'>(45)</span><div class='page_container' data-page=45>

cháy ở bụng! Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi. Tnú “cắn nát môi” chịu đựng. Tnú lẫm liệt hiên ngang “khơng thèm
<i>kêu van!”. Khí phách hiên ngang bất khuất của Tnú như một khúc tráng ca anh hùng mang màu sắc sử thi thần</i>
kì.


- Cụ Mết và đội du kích tràn lên nhà ưng giết hết sạch bọn ác ôn, cứu sống được Tnú. Vết thương lành, ngón
nào cũng cụt một đốt, nhưng Tnú còn cầm được giáo, bắn súng được, anh lại đi tìm cách mạng, gia nhập Giải
phóng qn, đi tìm Mỹ - Diệm, để trả thù cho mẹ con Mai, cho bà con làng Xô Man. Anh đã xông xuống hầm
ngầm đồn giặc, không dùng súng, không dùng dao, mà dùng hai bàn tay, mười ngón tay cụt bóp cổ thằng chỉ
huy! Với Tnú, “chúng nó đứa nào cũng là thằng Dục!”.


- Nguyễn Trung Thành đã miêu tả nhịp chày giã gạo nói lên thật xúc động tình yêu làng của Tnú. Từ xa, anh
đã nhận ra “tiếng chày dồn dập của làng anh”. Đã 3 năm nay, “nỗi nhớ day dứt lòng anh chính là tiếng chày
<i>đó”, tiếng chày “chun cần rộn rã” của mẹ anh xa xưa, của những người đàn bà và những cơ gái Strá, của Mai</i>
và Dít, “từ ngày lọt lòng anh ta đã nghe thấy tiếng chày ấy rồi”. Vì căm giận mà Tnú đi đánh giặc, vì yêu
thương, vì nhớ làng, nhớ tiếng chày giã gạo nơi chôn nhau cắt rốn mà anh trở về thăm làng, chỉ một đêm thôi,
rồi anh lại ra đi với bao lưu luyến.


<i><b> Tnú là một nhân vật tư tưởng, có sơi lơi cuốn khơng chỉ bởi tính triết lý cịn bởi tính trữ tình, tính hình</b></i>
<i><b>tượng. Đặc biệt hình </b></i><b>ảnh bàn tay Tnú là chi tiết nghệ thuật giàu sức ám ảnh</b> – <b>Bàn tay ấy cũng có một</b>
<b>cuộc đời</b><i>:</i> Đó từng là bàn tay trung thực và tình nghĩa, từng cẩm phấn viết chữ anh Quyết dạy cho, từng cầm
đá đập vào đầu khi quên chữ, từng đặt lên bụng mình mà nói “Cộng sản ở đây này”, từng được Mai cầm bàn
<i><b>tay ấy mà khóc khi Tnú thốt ngục trở về ....Khi giặc đốt 10 đầu ngón tay, bàn tay thành chứng tích của tơi ác</b></i>


và lịng hận thù. Hận thù đã khiến bàn tay Tnú thành bàn tay quả báo (<b>mười </b><i><b>ngọn đuốc từ ngón tay Tnú đã</b></i>
<i><b>châm bùng lên ngọn lửa nổi dậy của dân làng</b></i><b> Xơ Man; bàn tay chỉ cịn hai đốt </b><i><b>mỗi ngón vẫn cầm giáo,</b></i>
<i><b>cầm súng</b></i><b> lên đường trả hận....)</b>


c. Nhận xét chung : Cuộc đời bi tráng và con đường đến với cách mạng của Tnú điển hình cho con đường đến
với cách mạng của người dân Tây Ngun, góp phần làm sáng tỏ chân lí của thời đại : Phải dùng bạo lực cách
mạng để tiêu diệt bạo lực phản cách mạng; đấu trang là con đường tất yếu để tự giải phóng. Hình tượng rừng xa
nau và Tnú có quan hệ khăng khít, bổ sung cho nhau. Rừng xà nu chỉ giữ được màu xanh bất diệt khi có những
con người biết hi sinh như Tnú; sự hi sinh của những con người như Tnú góp phần làm cho những cánh rừng xà
nu mãi xanh tươi.


<b>3. Nhận xét về nghệ thuật xây dựng nhân vật </b>Tnú:<b> </b>


Tác giả xây dựng nhân vật Tnú bằng nghệ thuật độc đáo. Tnú vừa có những nét riêng cá tính sống động, vừa
mang phẩm chất có tính khái qt, tiêu biểu. Lời văn với những câu văn giàu tính tạo hình, giàu nhạc điệu, khi
thâm trầm , khi tha thiết, trang nghiêm. Từ không gian kể chuyện đến nhân vật trong truyện đều mang chất sử
thi đậm nét.


<b>III/. Kết bài:</b>


<b> - Tóm lại, </b>nhân vật Tnú có cuộc đời bi tráng : đau thương mà anh hùng. Qua nhân vật Tnú và câu chuyện về
làng Xô Man, tác giả ca ngợi tinh thần bất khuất, sức mạnh quật khởi của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên nói
riêng, con người Việt Nam nói chung trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và khẳng địngh chân lí của thời
đại : để giữ gìn sự sống của đất nước, nhân dân , khơng có con đường nào khác là phải cùng nhau đứng lên cầm
vũ khí chống lại kẻ thù.


<i><b>Phân tích hình tượng cây Xà nu trong truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành .</b></i>


Gợi ý dàn ý chi tiết :
<b>I/ Mở bài : </b>



- Giới thiệu vài nét lớn về tác giả, tác phẩm;
- Giới thiệu hình tượng cây xà nu trong truyện.


Nguyễn Trung Thành là một trong các nhà văn trưởng thành qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống
Mĩ. Tình yêu mãnh đất Tây Nguyên và sự hiểu biết sâu sắc cuộc sống nơi đây đã giúp nhà văn sáng tạo nên
những hình tượng nghệ thuật đặc sắc, riêng biệt và hấp dẫn. Nguyễn Trung Thành có nhiều tác phẩm giá trị viết
về cuộc sống của đồng bào các dân tộc trên mãnh đất này. Tác phẩm tiêu biểu nhất của ông trong giai đoạn
kháng chiến chống Mĩ là truyện ngắn "Rừng xà nu". Trong truyện ngắn này, nhà văn đã khắc hoạ thành cơng
hình tượng cây xà nu - một hình tượng nghệ thuật có ý nghĩa sâu sắc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(46)</span><div class='page_container' data-page=46>

<b>1. Khái quát về tác phẩm :</b> Giới thiệu hoàn cảnh ra đời tác phẩm, xuất xứ tác phẩm, tóm tắt cốt truyện.


<b> </b>Truyện ngắn "Rừng xà nu" được nhà văn Nguyễn Trung Thành viết năm 1965, in trong tập "Trân quê hương
những anh hùng Điện Ngọc". Truyện miêu tả rừng xà nu và kể chuyện Tnú sau ba năm đi "lực lượng" về thăm
làng. Tối hơm đó, tại nhà cụ Mết, dân làng mừng đón Tnú, Cụ Mết kể cho dân làng nghe câu chuyện về cuộc
đời Tnú và cuộc nổi dậy của làng Xô Man chống kẻ thù tàn bạo. Sáng hôm sau, cụ Mết và Dít tiễn chân Tnú trở
về đơn vị.


<b>2. Phân tích </b>hình tượng cây xà nu :


a. Cây xà nu là hình tượng xuyên suốt, được miêu tả cơng phu, đậm nét trong tồn bộ tác phẩm (đặc biệt là ở
phần mở đầu và kết thúc tác phẩm miêu tả rừng xà nu đầy chất thơ hùng tráng: “đến hút tầm mắt cũng khơng
thấy gì khác ngoài những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời”).


Cây xà nu hiện lên trong tác phẩm trước hết như một loài cây đặc thù, tiêu biểu của miền đất Tây Nguyên.
Qua hình tượng cây xà nu, nhà văn đã tạo dựng được một bối cảnh hùng vĩ và hoang dã đậm màu sắc Tây
Nguyên cho câu chuyện. Hình tượng cây xà nu được tác giả miêu tả từ nhiều góc độ và đưa lại hiệu quả thẩm
mỹ đặc biệt. Trong truyện ngắn này, nhà văn không chỉ mở đầu và kết thúc truyện bằng hình ảnh rừng xà nu bát
ngát đến chân trời, mà đã gần 20 lần nói đến “Rừng xà nu”. “Cây xà nu”, “nhựa xà nu”, “lửa xà nu”… Chất sử


thi của thiên truyện sẽ khơng trở thành giọng điệu chính của tác phẩm, nếu thiếu đi hình tượng cây xà nu được
khai thác từ nhiều góc độ, được lặp đi lặp lại nhiều lần đến như vậy, nhất là “các đồi xà nu – 4 lần”; “Rừng xà
nu – 5 lần”. Thủ pháp điệp trùng khi mơ tả cây xà nu đó, vừa làm nền cho toàn bộ diễn biến của câu chuyện,
vừa gây ấn tượng sâu sắc cho người đọc về cây xà nu.


b. Cây xà nu gắn bó mật thiết, trở thành một phần máu thịt trong đời sống vật chất và tinh thần của dân làng
Xô Man.


- Cây xà nu gần gũi với đời sống của người dân Xô Man, là chứng nhân của những sự kiện quan trọng xảy ra
với họ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ trường kì.


+Hình tượng cây xà nu qua ngòi bút Nguyễn Trung Thành đã trở thành một nhân chứng về tội ác của chiến
tranh hủy diệt; là người chứng kiến cho sự giác ngộ, hy sinh thầm lặng và sự quất khởi của người dân Xôman.
-Mở đầu tác phẩm, tác giả đã vẽ ra trước mắt người đọc một bức tranh toàn cảnh về nỗi đau thương đội bom đạn
giặc Mỹ gây ra. Tác giả đã đặt ngay cây Xà nu vào bối cảnh khốc liệt của chiến tranh “ Làng nằm trong tầm đại
bác của giặc…”. Cây Xà nu vừa là người chứng kiến sự tàn khốc của chiến tranh, vừa là đối tượng hủy diệt của
bom đạn kẻ thủ “Cả rừng xà nu hàng vạn cây, không cây nào bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang thân
mình, đổ ào như một cơn bão”. Ở một chỗ khác, tác giả tả kỹ hơn “nơi chỗ vết thương nhựa ứa ra tràn trề thơm
ngào ngạt long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại đen và đặc lại quện thành cục máu lớn”. Hình ảnh đó
gợi lên nỗi đau thương mất mát, lòng căm thù, kết tụ ý chí phản kháng.


+Xà nu gắn bó với cuộc sống sinh hoạt hàng ngày như đã từ ngàn đời nay thân thuộc với dân làng: ngọn
lửa xà nu nấu ăn trong mỗi bếp, đuốc xà nu soi sáng đường rừng đêm, lửa xà nu cháy bập bùng trong nhà ưng
tập trung cả dân làng. Khói xà nu đen nhẻm thân hình lũ trẻ; khói xà nu cịn làm tấm bảng đen cho anh Quyết
dạy Tnú, Mai học chữ cụ Hồ.


+Xà nu còn tham dự vào những sự kiện quan trọng của cuộc sống làng Xôman: ngọn đuốc xà nu cháy sáng
trong tay cụ Mết dẫn cả dân làng đi vào rừng sâu lấy giáo mác đã giấu kỹ về chuẩn bị cho cuộc nổi dậy. Đêm
đêm cả dân làng thức mài vũ khi dưới ánh đuốc xà nu. Giặc đốt hai bàn tay Tnú bằng giẻ tẩm nhựa xà nu, lửa xà
nu đốt lên lịng căm thù trong lịng người dân Xơman. Rồi ngọn lửa đuốc xà nu soi sáng rực cả làng cái đêm


khởi nghĩa; soi rõ xác 10 tên lính nằm ngổn ngang quanh đống lửa …


<b> c. Cây xà nu tượng trưng cho phẩm chất và số phận con người Tây Nguyên trong chiến tranh Cách</b>
<b>mạng </b>


- Thương tích mà rừng xà nu phải gánh chịu do đại bác của kẻ thù gợi nghĩ đến những mất mát, đau thương
vô bờ mà đồng bào ta đã trải qua trong thời kỳ cách mạng miền Nam bị khủng bố ác liệt.


</div>
<span class='text_page_counter'>(47)</span><div class='page_container' data-page=47>

Cây xà nu, đã tạo nên sự chuyển hóa, hịa hợp giữa hình tượng thiên nhiên và con người, tạo nên một bản hợp
xướng đầy chất thơ hào hùng tráng lệ về sức sống bất diệt và cuộc chiến đấu bất khuất kiên trung của nhân dân
Tây Nguyên giành tự do.


-Đặc tính “ham ánh sáng” của cây xà nu tượng trưng cho niềm khao khát tự do, lòng tin vào lý tưởng Cách
mạng của người dân Tây Nguyên, của đồng bào miền Nam. Cây xà nu rất ham ánh sáng và khí trời: “nó phóng
lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng”. Cũng như Tnú, như dân làng Xôman yêu tự do, khát khao ánh sáng. Bất
chấp sự hủy diệt tàn khốc của bom đạn kẻ thù, cây xà nu vẫn vươn lên với một sức sống mãnh liệt khơng gì tiêu
diệt, tàn phá nổi “Bên cạnh một cây Xà nu mới ngã gục, đã có 4, 5 cây con mọc lên ngọn xanh rờn hình nhọn
như mũi tên lao thẳng lên bầu trời”, cũng như các thế hệ làng Xôman, lớp này kế tiếp lớp khác đứng lên, tiếp
tục cuộc chiến đấu


- Khả năng sinh sôi mãnh liệt của cây xà nu cùng sự rộng lớn, bạt ngàn của rừng xà nu gợi nghĩ đến sự tiếp
nối của nhiều thế hệ người dân Tây Nguyên đoàn kết bên nhau kháng chiến. Anh Quyết hy sinh thì có Tnú,
Mai. Mai ngã xuống giữa tuổi thanh xuân tràn đầy nhựa sống như Cây xà nu bị chặt đứt ngay giữa thân mình,
thì Dít đã lớn lên, và nhanh chóng đến khơng ngờ trở thành Bí thư chi bộ, chính trị viên xã đội. Rồi những bé
Heng, thế hệ tiếp theo của Dít cũng đang lớn lên tiếp bước đàn anh. Chính cụ Mết cũng đã khẳng định được cái
sức sống bất tử ấy như một chân lí giản dị: “Khơng có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta, cây mẹ ngã, cây con
mọc lên. Đố nó giết hết rừng xà nu này”.


<b>3. Nhận xét về nghệ thuật xây dựng hình tượng cây xà nu</b><i><b>:</b></i><b> </b>



- Kết hợp miêu tả bao quát lẫn cụ thể, khi dựng lên hình ảnh cả khu rừng, khi đặc tả cận cảnh một số cây.
- Phối hợp cảm nhận của nhiều giác quan trong việc miêu tả những cây xà nu với vóc dáng đầy sức lực, tràn
trề mùi nhựa thơm, ngời xanh dưới ánh nắng...


- Miêu tả cây xà nu trong sự so sánh, đối chiếu thường xuyên với con người. Các hình thức nhân hóa, ẩn dụ,
tượng trưng đều được vận dụng nhằm thể hiện sống động vẻ hùng vĩ, khoáng đạt của thiên nhiên đồng thời gợi
nhiều suy tưởng sâu xa về con người, về đời sống.


- Giọng văn đầy biểu cảm với những cụm từ được lặp đi lặp lại gây cảm tưởng đoạn văn giống như một đoạn
thơ trữ tình.


<b>III/. Kết bài:</b>


<b> </b>Tóm lại, hình tượng xà nu là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Trung Thành. Nó được dùng như
một ẩn dụ gợi cho người đọc nghĩ đến con người Tây Nguyên yêu tự do, dồi dào sức sống, bất khuất kiên trung,
thủy chung với Cách mạng. Như thế là hình tượng Cây xà nu đã được tác giả đưa lại cho biết bao ý nghĩa mới
mẻ giàu tính chất thẩm mỹ và ý nghĩa nhân sinh, trở thành linh hồn tác phẩm. Vì vậy, tác giả đã đặt cho truyện
của mình cái tên thật có ý nghĩa: “Rừng xà nu”.


Phân tích bi kịch của nhân vật hồn Trương Ba


qua trích đoạn kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ.
<b>I/Mở bài</b> :


- Giới thiệu vài nét lớn về tác giả, tác phẩm;


- Giới thiệu <b>bi kịch của nhân vật hồn Trương Ba</b> của vở kịch


Lưu Quang Vũ (1948 – 1988) là một hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch Việt Nam những năm tám mươi
của thế kỷ XX.Ông được coi là nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ thuật Việt nam hiện đại. tác


phẩm của ơng tốt lên một ý vị triết lí và nhân sinh về đời người, kiếp người. Ơng có nhiều tác phẩm kịch gây
chấn động dư luận , trong đó có vở kịch "Hồn Trương Ba, da hàng thịt". <b>Trong đoạn trích ( cảnh 7) của vở </b>
<b>kịch, tác giả đã diễn tả sâu sắc bi kịch của nhân vật Hồn Trương Ba, một con người phải sống "bên trong</b>
<b>một đằng, bên ngoài một nẻo".</b>


<b>II. Thân bài:</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(48)</span><div class='page_container' data-page=48>

chết gần nhà. Nhưng điều đó lại đưa Trương Ba và một nghịch cảnh khi linh hồn mình phải trú nhờ vào người
khác. Do phải sống tạm bợ, lệ thuộc, Trương Ba dần bị xác hàng thịt làm mất đi bản chất trong sạch, ngay thẳng
của mình. Ý thức được điều đó, Trương Ba dằn vặt, đau khổ và quyết định chống lại bằng cách tách ra khỏi xác
thịt. Qua các cuộc đối thoại của Trương Ba, tác giả dần tạo nên một mạch truyện dẫn dắt người xem hiểu sâu
hơn về Trương Ba.


Đoạn trích là phần lớn cảnh VII. Đây cũng là đoạn kết của vở kịch, đúng vào lúc xung đột trung tâm của vở
kịch lên đến đỉnh điểm. Sau mấy tháng sống trong tình trạng "bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo", nhân vật
Hồn Trương Ba ngày càng trở nên xa lạ với bạn bè, người thân trong gia đình và tự chán ghét chính mình, muốn
thốt ra khỏi nghịch cảnh trớ trêu.


<b>2. Phân tích bi kịch của nhân vật hồn Trương Ba :</b>


a./ <i><b>Bi kịch tha hoá</b></i><b> của nhân vật Trương Ba trong đoạn trích bắt đầu bằng lớp thứ nhất của cảnh 7, đó </b>
<b>là màn đối thoại giữa Hồn Trương ba và Xác hàng thịt.</b>


- Trước khi diễn ra cuộc đối thoại giữa hồn và xác, nhà viết kịch đã để cho Hồn Trương Ba "ngồi ôm đầu một
hồi lâu rồi vụt đứng dậy" với một lời độc thoại đầy khẩn thiết:"- Không. Không! Tôi không muốn sống như thế
này mãi! Tôi chán cái chỗ ở không phải là của tôi này lắm rồi! . Hồn Trương Ba đang ở trong tâm trạng vô cùng
bức bối, đau khổ thể hiện trong những câu cảm thán ngắn, dồn dập cùng với ước nguyện khắc khoải . Hồn bức
bối bởi không thể nào thoát ra khỏi cái thân xác mà hồn ghê tởm. Hồn đau khổ bởi mình khơng cịn là mình
nữa. Trương Ba bây giờ vụng về, thô lỗ, phũ phàng lắm. Hồn Trương Ba cũng càng lúc càng rơi vào trạng thái
tuyệt vọng.



- Trong cuộc đối thoại với xác anh hàng thịt, Hồn Trương Ba ở vào thế yếu, đuối lí bởi xác nói những điều
mà dù muốn hay không muốn Hồn vẫn phải thừa nhận : cái đêm khi ông đứng cạnh vợ anh hàng thịt với <i>"tay</i>
<i>chân run rẩy", "hơi thở nóng rực", "cổ nghẹn lại" và "st nữa thì…". Đó là cảm giác "xao xuyến" trước những món</i>
ăn mà trước đây Hồn cho là "phàm". Đó là cái lần ơng tát thằng con ơng "tóe máu mồm máu mũi",… Xác anh
hàng thịt gợi lại tất cả những sự thật ấy khiến Hồn càng cảm thấy xấu hổ, cảm thấy mình ti tiện. Xác anh hàng
thịt cịn cười nhạo vào cái lí lẽ mà ơng đưa ra để ngụy biện: "Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong
sạch, thẳng thắn,…". Trong cuộc đối thoại này, xác thắng thế nên rất hể hả tuôn ra những lời thoại dài với chất
giọng khi thì mỉa mai cười nhạo khi thì lên mặt dạy đời, chỉ, châm chọc. Hồn chỉ buông những lời thoại ngắn
với giọng nhát gừng kèm theo những tiếng than, tiếng kêu.


- Cuộc đối thoại giữa xác hàng thịt và hồn Trương Ba là cuộc đấu tranh giữa thể xác và linh hồn cùng tồn tại
trong một con người. Thể xác và linh hồn có quan hệ hữu cơ với nhau, cả hai gắn bó với nhau để cùng sống,
cùng tồn tại. Thể xác có tính độc lập tương đối của nó, có tiếng nói của nó, có khả năng tác động vào linh hồn,
vì nó là nơi trú ngụ của linh hồn. Khi thể xác tiêu tan thì linh hồn cũng mất. Khi linh hồn “bay đi” thì thể xác
cũng trở về cát bụi. Nhờ có linh hồn đấu tranh, chi phối với những ham muốn, những dục vọng tầm thường của
thể xác mà nhân cách được hoàn thiện, tâm hồn được trong sáng. Câu nói của xác hàng thịt: <i>“Tơi là cái bình để</i>
<i>chứa đựng linh hồn” đã cho thấy mối quan hệ hữu cơ giữa thể xác và linh hồn, làm cho ý nghĩa ẩn dụ của đoạn</i>
đối thoại giữa hồn Trương Ba với xác hàng thịt thêm cụ thể, sâu sắc.


<b>b./ Bi kịch Hồn Trương Ba được đẩy lên tới đỉnh điểm, cao trào ở màn đối thoại giữa Hồn Trương Ba</b>
<b>với những người thân. </b><i><b>Đó là bi kịch bị từ chối.</b></i>


- Người vợ mà ông rất mực yêu thương giờ đây buồn bã và cứ nhất quyết đòi bỏ đi. Với bà "đi đâu cũng
được… cịn hơn là thế này". Bà đã nói ra cái điều mà chính ơng cũng đã cảm nhận được: "ơng đâu cịn là ơng,
đâu cịn là ơng Trương Ba làm vườn ngày xưa".


- Cái Gái, cháu ông giờ đây đã không cần phải giữ ý. Nó một mực khước từ tình thân : tơi khơng phải là cháu
ơng… Ơng nội tơi chết rồi. Cái Gái u q ơng nó bao nhiêu thì giờ đây nó khơng thể chấp nhận cái con người
có "bàn tay giết lợn", bàn chân "to bè như cái xẻng" đã làm "gãy tiệt cái chồi non", "giẫm lên nát cả cây sâm


quý mới ươm" trong mảnh vườn của ông nội nó. Nó hận ơng vì ơng chữa cái diều cho cu Tị mà làm gãy nát
khiến cu Tị trong cơn sốt mê man cứ khóc, cứ tiếc, cứ bắt đền. Với nó, "Ơng nội đời nào thơ lỗ, phũ phàng như
vậy". Nỗi giận dữ của cái Gái đã biến thành sự xua đuổi quyết liệt: "Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút
đi!".


</div>
<span class='text_page_counter'>(49)</span><div class='page_container' data-page=49>

đình "như sắp tan hoang ra cả" khiến chị không thể bấm bụng mà đau, chị đã thốt thành lời cái nỗi đau
đó: "Thầy bảo con: Cái bên ngồi là khơng đáng kể, chỉ có cái bên trong, nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi
con cảm thấy, đau đớn thấy… mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa
mờ dần đi, đến nối có lúc chính con cũng khơng nhận ra thầy nữa…"


- Tất cả những người thân yêu của Hồn Trương Ba đều nhận ra cái nghịch cảnh trớ trêu. Sau tất cả những
đối thoại ấy, mỗi nhân vật bằng cách nói riêng, giọng nói riêng của mình đã khiến Hồn Trương Ba cảm thấy
khơng thể chịu nổi. Nỗi cay đắng với chính bản thân mình cứ lớn dần… lớn dần, muốn đứt tung, muốn vọt
trào.


- Nhà viết kịch đã để cho Hồn Trương Ba cịn lại trơ trọi một mình với nỗi đau khổ, tuyệt vọng lên đến
đỉnh điểm, một mình với những lời độc thoại đầy chua chát nhưng cũng đầy quyết liệt: "Mày đã thắng thế
rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ… Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất phục mày và tự đánh
mất mình? "Chẳng cịn cách nào khác"! Mày nói như thế hả? Nhưng có thật là khơng cịn cách nào khác? Có
thật khơng cịn cách nào khác? Khơng cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần!". Đây là lời độc
thoại có tính chất quyết định dẫn tới hành động châm hương gọi Đế Thích một cách dứt khốt. Sự do dự bị
đẩy lùi, bị xua tan. Sự tỉnh ngộ của hồn Trương Ba tuy muộn mằn nhưng thật có nhiều ý nghĩa. Con đường
tự giải thoát, linh hồn đã nhìn thấy ánh sáng.


<b>c./Bi kịch của nhân vật Hồn Trương Ba được kết thúc trong màn đối thoại với Đế Thích- Bi kịch "</b><i><b>bên</b></i>
<i><b>ngồi một đằng, bên trong một nẻo</b></i><b>"</b>


<b> </b>- Cuộc trò chuyện giữa Hồn Trương Ba với Đế Thích trở thành nơi tác giả gửi gắm những quan niệm về hạnh
phúc, về lẽ sống và cái chết. Hai lời thoại của Hồn trong cảnh này có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng: Khơng
thể bên trong một đằng, bên ngồi một nẻo được. Tơi muốn được là tơi tồn vẹn… Sống nhờ vào đồ đạc, của


cải người khác đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ
nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ơng chẳng cần biết!
- Người đọc, người xem có thể nhận ra những ý nghĩa triết lí sâu sắc và thấm thía qua hai lời thoại này. Thứ
nhất, con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hịa. Khơng thể có một tâm hồn thanh cao trong một
thân xác phàm tục, tội lỗi. Khi con người bị chi phối bởi những nhu cầu bản năng của thân xác thì đừng chỉ đổ
tội cho thân xác, không thể tự an ủi, vỗ về mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn. Thứ hai, sống thực sự cho
ra con người quả không hề dễ dàng, đơn giản. Khi sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá, khi khơng được là mình
thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa.


- Những lời thoại của Hồn Trương Ba với Đế Thích chứng tỏ nhân vật đã ý thức rõ về tình cảnh trớ trêu,
đầy tính chất bi hài của mình, thấm thía nỗi đau khổ về tình trạng ngày càng vênh lệch giữa hồn và xác,
đồng thời càng chứng tỏ quyết tâm giải thoát nung nấu của nhân vật trước lúc Đế Thích xuất hiện.
Quyết định dứt khốt xin tiên Đế Thích cho cu Tị được sống lại, cho mình được chết hẳn chứ khơng nhập
hồn vào thân thể ai nữa của nhân vật Hồn Trương Ba là kết quả của một quá trình diễn biến hợp lí. Hơn nữa,
quyết định này cần phải đưa ra kịp thời vì cu Tị vừa mới chết. Hồn Trương Ba thử hình dung cảnh hồn của
mình lại nhập vào xác cu Tị để sống và thấy rõ "bao nhiêu sự rắc rối" vơ lí lại tiếp tục xảy ra. Nhận thức tỉnh
táo ấy cùng tình thương mẹ con cu Tị càng khiến Hồn Trương Ba đi đến quyết định dứt khoát. Qua quyết
định này, chúng ta càng thấy Trương Ba là con người nhân hậu, sáng suốt, giàu lòng tự trọng. Đặc biệt, đó là
con người ý thức được ý nghĩa của cuộc sống.


<b>d./ Ứng xử của Trương Ba trước tình trạng bi kịch đó :</b>


<b> - Trương Ba không chấp nhận buông xuôi: </b>khi không thể thay đổi được xác hàng thịt để xác có thể hồ
hợp với hồn, Trương Ba quyết định từ bỏ mối quan hệ với cái xác ấy :"chẳng lẽ nào ta lại chịu thua
<i>mày...","không cần đến cái đời sống do mày mang lại".</i>


<i> - </i><b>Khẳng định mạnh mẽ nhu cầu được sống là mình :</b> "khơng thể bên ngồi một đằng, bên trong một nẻo".
Với Trương Ba, nhu cầu sống cuối cùng vẫn được đánh giá cao hơn nhu cầu tồn tại. Đặt ra vấn đề <i>"sống như thế</i>
<i>nào"</i>là biểu hiện của ý thức cao về sự sống và cách sống để có một cuộc sống hạnh phúc và có ý nghĩa.



</div>
<span class='text_page_counter'>(50)</span><div class='page_container' data-page=50>

hóa thành màu xanh của cây vườn, vị thơm ngon của trái na, vẫn quấn quýt với người thân, gần gũi nơi bậc cửa,
trong ánh lửa, nơi cầu ao, trong cơi trầu, con dao... của vợ con thương yêu. Cho dù <i>thân cát bụi lại trở về cát</i>
<i>bụi, nhưng hồn Trương Ba cao khiết vẫn bất tử trong cõi đời. Cái kết đầy chất thơ ấy đã làm cho tư tưởng nhân</i>
văn tỏa sáng tác phẩm.


<b>3. Nhận xét về nghệ thuật thể hiện bi kịch Hồn Trương Ba:</b>


<b> - </b>Hành động của nhân vật phù hợp với hồn cảnh, tính cách, thể hiện sự phát triển của tình huống kịch;
- Những đoạn đối thoại nội tâm của Hồn Trương Ba góp phần thể hiện rõ tính cách nhân vật và quan niệm về
kẽ sống đúng đắn.


- Đặc biệt, đoạn trích rất thành cơng trong việc xây dựng đối thoại. Những đối thoại giàu kịch tính, đậm chất
triết lí góp phần tạo nên chiều sâu cho vở kịch.


<b>4. Ý nghĩa tư tưởng:</b>


<b> a./ Tư tưởng của Lưu Quang Vũ :</b>


<b> </b>- Được sống làm người là rất quý giá song được sống đúng là mình, sống trọn vẹn giá trị mà mình vốn có và
theo đuổi cịn quý giá hơn. Sự sống chỉ có ý nghĩa khi con người được sống tự nhiên với sự hài hoà giữa thể xác
và tâm hồn.


- Con người phải luôn luôn biết đấu tranh với những ngịch cảnh, với chính bản thân, chống lại sự dung tục để
hoàn thiện nhân cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý.


<b>b./Đánh giá ý nghĩa của tư tưởng ấy :</b>


<b> </b>- Có ý nghĩa thực tế rất cao bởi đây khơng chỉ là vấn đề của nhân vật Trương Ba mà còn là vấn đề của con
người hiện đại.



- Gợi mở lối sống đúng đắn để đem lại hạnh phúc và sự thanh thản của tâm hồn.
<b>III . Kết bài :</b>


Tóm lại, trong đoạn trích, tác giả Lưu Quang Vũ đã thể hiện một cách sâu sắc và sinh động bi kịch của
nhân vật Hồn Trương Ba, bi kịch của một con người khơng được sống tồn vẹn mà mình phải sống "bên trong
một đằng, bên ngoài một nẻo".


Qua bi kịch của Hồn Trương Ba, nhà viết kịch tài năng đã gửi tới độc giả nhiều thế hệ những triết lí nhân
sinh sâu sắc về hạnh phúc, sự sống và cái chết, đồng thời phê phán một số biểu hiện tiêu cực trong lối sống lúc
bấy giờ, góp phần đấu tranh chống lại sự tha hố ở mỗi con người trong đời sống hiện nay.


Phân tích câu chuyện người đàn bà ở toà án huyện


trong truyện ngắn “<i><b>Chiếc thuyền ngoài xa</b>” </i>của Nguyễn Minh Châu
<b>I/Mở bài</b> :


- Giới thiệu vài nét lớn về tác giả, tác phẩm;
- Giới thiệu giá trị nhân đạo của truyện


Nguyễn Minh Châu (1930 – 1989) là một tác gia tiêu biểu của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam. Hành trình
sáng tác của ơng trải qua hai thời kỳ, thời kỳ chống Mỹ và thời kỳ đổi mới sau 1975. Ở thời kỳ đổi mới,
“Nguyễn Minh Châu được coi là một trong những cây bút tiên phong” và đạt được nhiều thành tựu xuất sắc.
Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” là một truyện ngắn đặc sắc của Nguyễn Minh Châu trong chặng đường
văn thời kỳ đổi mới. Truyện xoáy sâu vào bức tranh hiện thực của đời sống người lao động thuyền chài ở một
vùng ven biển miền Trung. Điều đó được thể hiện sâu sắc trong <b>câu chuyện người đàn bà ở toàn án huyện.</b>
<b>II. Thân bài:</b>


<b>1. Khái quát về tác phẩm :</b> Giới thiệu hoàn cảnh ra đời tác phẩm, xuất xứ tác phẩm, tóm tắt cốt truyện.


</div>
<span class='text_page_counter'>(51)</span><div class='page_container' data-page=51>

<b>2. Phân tích </b>câu chuyện của người đàn bà hàng chài ở tòa án huyện:



a/. Đó là câu chuyện về cuộc đời nhiều bí ẩn và éo le của một người đàn bà hàng chài nghèo khổ, lam
lũ…


+Theo lời mời của Đẩu, chánh án toà án huyện, người đàn bà hàng chái đã có mặt ở toà án huyện. Trước lời
đề nghị và giúp đỡ của Đẩu và Phùng, người đàn bà dứt khoát từ chối. Chị đau đớn đánh đổi bằng mọi giá để
khơng bỏ lão chồng vũ phu dù “q tồ bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được”.


+Tại toà án, chị kể về cuộc đời mình và gián tiếp giải thích lí do vì sao chị nhất quyết khơng thể bỏ lão chồng
vũ phu: Thứ nhất, gã chồng ấy là chỗ dựa quan trọng trong cuộc đời những người hàng chài như chị, nhất là khi
biển động, phong ba. Thứ hai, chị cần hắn, bởi vì cịn phải cùng nhau ni những đứa con. Thứ ba, trên thuyền,
có những lúc vợ chồng, con cái sống hoà thuận, vui vẻ.


+Nếu ban đầu mới đến toà, chị sợ sệt, lúng túng, một lạy q tồ, hai lạy q tồ thì sau khi nghe lời khuyên
của Đẩu, chị trở nên mạnh dạn, chủ động. Chị bác bỏ ngay lời đề nghị của vị chánh án và của người nghệ sĩ:
“các chú đâu phải người làm ăn (...) cho nên các chú đâu có biết cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc
(...)bởi các chú khơng phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên
một chiếc thuyền khơng có đàn ơng”. Cách xưng hơ của chị cũng trở nên gần gũi, thân mật hơn. Chị khơng cịn
xưng hơ “con – q tồ” mà tự xưng là “chị” và gọi Phùng, Đẩu là “các chú”. Nguyên nhân của sự thay đổi ấy
là vì chị đã cảm nhận được thiện ý của hai người và có lẽ cịn là sự cảm thông của chị cho sự nông nổi, ngây thơ
của họ?


b/. Câu chuyện đã giúp nghệ sĩ Phùng hiểu về người đàn bà hàng chài (một phụ nữ nghèo khổ, nhẫn nhục,
<i>sống kín đáo, sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời, có tâm hồn đẹp đẽ, giàu đức hi sinh và lòng vị tha); về người chồng của </i>
chị(bất kể lúc nào thấy khổ q là lơi vợ ra đánh); chánh án Đẩu (có lịng tốt, sẵn sàng bảo vệ cơng lí nhưng
<i>kinh nghiệm sống chưa nhiều) và về chính mình (sẵn sàng làm tất cả vì sự cơng bằng nhưng lại đơn giản trong </i>
<i>cách nhìn nhận, suy nghĩ). </i>


+Trước khi nghe câu chuyện của người đàn bà, thái độ của anh rất cương quyết. Anh tin ở lời khuyên đúng
đắn và đầy sức thuyết phục của mình: “chị khơng sống nổi với cái lão đàn ông vũ phu ấy đâu”.



+Nhưng khi nghe xong câu chuyện “một cái gì đó vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái phố huyện vùng biển,
lúc này trông Đẩu rất nghiêm nghị và đầy suy nghĩ”. Có lẽ giải pháp “bỏ chồng” mà Đẩu áp dụng trong trường
hợp của người đàn bà này là khơng ổn. Trong hồn cảnh ấy, cách hành xử của chị ta dường như là không thể
nào khác?


+Cũng như Đẩu, nghệ sĩ Phùng im lặng sau câu chuyện của người đàn bà. Có lẽ, người nghệ sĩ nhiếp ảnh
cũng đang trầm ngâm suy nghĩ những gì vừa xảy ra. Lúc này, Phùng vỡ ra được nhiều điều, hiểu rõ hơn về
người đàn bà, về Đẩu và về cả chính mình. Người đàn bà thất học, quê mùa không hề cam chịu một cách vơ lí,
khơng hề nơng nổi một cách ngờ nghệch mà thực ra chị ta là người rất sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời. Trong khổ đau,
cơ cực, chị biết chắt chiu từng giọt của hạnh phúc đời thường. Chị luôn sống với tâm niệm thiêng liêng là:
“sống cho con chứ khơng thể sống cho mình”. Chánh án Đẩu là người có lịng tốt, sẵn sàng bảo vệ cơng lí
nhưng cịn xã rời thực tế, chưa thực sự đi vào cuộc sống nhân dân. Lòng tốt là điều rất quí, luật pháp là điều cần
thiết nhưng cả hai vẫn chưa đủ sức mạnh giúp con người thoát khỏi cuộc sống tăm tối và những hành động man
rợ. Tất cả phải đặt vào hoàn cảnh cụ thể và cần phải có giải pháp thiết thực. Phùng nhận thấy mình đã đơn giản
khi nhìn nhận cuộc đời và con người. Cũng như người đồng đội Đẩu, anh chỉ nhìn người một cách phiến diện,
nơng nổi ngây thơ chẳng khác gì thằng bé Phác: chỉ thấy được một khía cạnh của người đàn ơng hàng chài là
độc ác, tàn nhẫn, vì vậy cần phải đấu tranh, lên án. Trong khi đó, người đàn bà q mùa, xấu xí, thất học lại có
cái nhìn tồn diện và sâu sắc hơn. Đối với người đàn ông độc ác, dữ dằn, chị đau đớn nhưng khơng ốn hận vì
chị thấu hiểu ngun nhân sâu xa dẫn đến hành động vũ phu ấy, bởi xét đến cùng, anh ta cũng chỉ là một nạn
nhân của hoàn cảnh sống khắc nghiệt.


<b>3. Nhận xét về nghệ thuật thể hiện câu chuyện người đàn bà hàng chài:</b>


<b> -</b> Nguyễn Minh Châu đã xây dựng được tình huống mà ở đó bộc lộ mọi mối quan hệ, bộc lộ khả năng ứng xử,
thử thách phẩm chất, tính cách, tạo ra những bước ngoặt trong tư tưởng, tình cảm và cả trong cuộc đời nhân vật.
Tình huống truyện mang ý nghĩa khám phá, phát hiện đời sống.


</div>
<span class='text_page_counter'>(52)</span><div class='page_container' data-page=52>

- Ngôn ngữ nhân vật: Phù hợp với đặc điểm tính cách của từng người. Lời văn giản dị mà sâu sắc, đa nghĩa.
<b>III/ Kết bài</b> :



- Tóm lại, qua câu chuyện về cuộc đời của người đàn bà hàng chài và cách ứng xử của các nhân vật, nhà văn
muốn gửi đến người đọc thơng điệp: đứng nhìn cuộc đời, con người một cách đơn giản, phiến diện; phải đánh
giá sự việc, hiện tượng trong các mối quan hệ đa diện, nhiều chiều.


</div>

<!--links-->

×