Tải bản đầy đủ (.pdf) (229 trang)

Biện chứng giữa kinh tế và chính trị trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 229 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

DƯƠNG ĐỨC HƯNG

BIỆN CHỨNG GIỮA KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2011


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
DƯƠNG ĐỨC HƯNG

BIỆN CHỨNG GIỮA KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành: Chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử
Mã số: 62.22.80.05

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học
PGS. TS. Vũ Tình


Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2011


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1
Chương 1: LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA KINH TẾ
VÀ CHÍNH TRỊ .............................................................................................. 14
1.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về mối quan hệ biện chứng
giữa kinh tế và chính trị……………………………………………..14
1.1.1. Khái niệm “kinh tế”, “chính trị” ........................................................... 14
1.1.2. Kinh tế là cơ sở của chính trị, quyết định chính trị ............................. 25
1.1.3. Chính trị phản ánh tập trung kinh tế, tác động trở lại kinh tế ............... 36
1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về mối
quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị ................................. 46
1.2.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa kinh tế
và chính trị............................................................................................ 46
1.2.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về mối quan hệ giữa
kinh tế và chính trị................................................................................ 54
Kết luận chương 1 ......................................................................................... 73
Chương 2: QUAN HỆ GIỮA KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở
VIỆT NAM ..................................................................................................... 77
2.1. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam .... 77
2.1.1. Khái quát về kinh tế thị trường và nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ................................................................ 77
2.1.2. Đặc điểm của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam .......................................................................................... 83
2.2. Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam......................... 96
2.2.1. Đổi mới kinh tế gắn liền với đổi mới chính trị trong nền kinh tế

thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ............................ 96
2.2.2. Phát triển nền kinh tế thị trường gắn liền với việc nâng cao vai trị của
hệ thống chính trị…………………………………………………….107


2.2.3. Phát triển nền kinh tế thị trường với việc xây dựng củng cố chế độ nhất
nguyên chính trị ở Việt Nam hiện nay……………………………...116
Kết luận chương 2 ....................................................................................... 129
Chương 3: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG MỐI QUAN
HỆ GIỮA KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY .............................................................................................................. 133
3.1. Thực trạng của mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.. 133
3.1.1. Những nhân tố tích cực của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam ......................................................................... 133
3.1.2. Những hạn chế của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam……………………………………………….148
3.2. Những giải pháp cơ bản nhằm tăng cường mối quan hệ giữa kinh tế
và chính trị trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam ................................................................................. 163
3.2.1. Phát triển và hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam .............................................................. 163
3.2.2. Nâng cao vai trị định hướng của hệ thống chính trị trong nền kinh
tế thị trường ở Việt Nam ..................................................................... 175
3.2.3. Phát triển nguồn nhân lực nhằm đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế .................. 192
Kết luận chương 3 ....................................................................................... 197
KẾT LUẬN CHUNG ...................................................................................................... 201
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH…………………………………………………. 207

PHỤ LỤC……………………………………………………………………………... 208
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................................. 219


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xã hội có giai cấp, kinh tế và chính trị là hai lĩnh vực cơ bản tác
động đến toàn bộ đời sống xã hội của một quốc gia, dân tộc, đến việc định
hướng phát triển của một chế độ chính trị. Vì vậy, việc giải quyết mối quan hệ
giữa kinh tế và chính trị là vấn đề được quan tâm hàng đầu của bất cứ chủ thể
chính trị nào. Thực tiễn đã khẳng định rằng, kinh tế tồn tại và phát triển trong
một chế độ chính trị nhất định, làm cơ sở vật chất căn bản cho chế độ chính trị
đó. Cịn chính trị bao giờ cũng được thiết lập và tồn tại trên nền tảng của một
chế độ kinh tế phù hợp. Đồng thời với các thiết chế của mình, chính trị thực
hiện chức năng bảo vệ và phát triển chế độ kinh tế ấy. Mối quan hệ giữa kinh
tế và chính trị quyết định tất cả các mối quan hệ khác trong xã hội. Vì vậy,
một chế độ xã hội hoàn thiện với các mối quan hệ phù hợp và tiến bộ phải
thông qua việc giải quyết tốt nhất mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị.
Trong sự nghiệp đổi mới theo con đường định hướng xã hội chủ nghĩa,
với quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân chúng ta đã thu được những thành tựu
quan trọng. Song, do nhiều nguyên nhân, cả khách quan và chủ quan, những
gì đạt được vẫn còn xa với mục tiêu phát triển của dân tộc trong thời đại mới.
Để nâng cao hiệu quả trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất
nước. Từ đổi mới tư duy đến đổi mới tổ chức bộ máy, đổi mới phương pháp
lãnh đạo; từ đổi mới kinh tế đến đổi mới chính trị. Trong tổng thể chung đó,
Đảng ta xác định đổi mới kinh tế theo hướng chuyển từ nền kinh tế tập trung
quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là

nhiệm vụ trọng tâm. Trên cơ sở đổi mới kinh tế từng bước đổi mới về chính
trị theo hướng xây dựng và hồn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo
toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân. Xây dựng hệ thống chính trị mạnh đảm


2

bảo đủ khả năng định hướng cho nền kinh tế phát triển. Những thành tựu
trong sự nghiệp đổi mới của hơn 20 năm qua đã khẳng định tính đúng đắn
trong giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế và chinh trị, giữa đổi mới kinh tế và
đổi mới chính trị của Đảng ta. Đó cũng là nguyên nhân rất cơ bản để đưa đất
nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội để bước vào giai đoạn mới –
giai đoạn đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tuy nhiên, một mặt khẳng định những thành quả to lớn trong nhận thức
và quá trình giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, thì mặt khác
cũng phải nhìn nhận những hạn chế, khiếm khuyết trong nhận thức và chỉ đạo
giải quyết mối quan hệ này.
Trong nhận thức, lúc này hay lúc khác, vẫn còn quan điểm cho rằng giữa
kinh tế thị trường và mục tiêu chính trị là chủ nghĩa xã hội thì khơng thể dung
hịa. Vì thế, quan điểm này cho rằng, hoặc chấp nhận kinh tế thị trường để
đảm bảo kinh tế phát triển nhưng thể chế chính trị tương ứng phải là tư bản
chủ nghĩa; hoăc là phải chấp nhận nền kinh tế “phi thị trường” tương ứng với
nó là thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa tập trung, quan liêu.
Bên cạnh đó, cũng có quan điểm cho rằng, khi chuyển sang nền kinh tế thị
trường, sự đa dạng hóa thành phần kinh tế, với nhiều chủ thể sở hữu khác nhau
sẽ dẫn tới đa dạng hóa cơ cấu xã hội, đa dạng hóa cơ cấu về lợi ích. Trong đó
khơng chỉ có sự đồng nhất, thống nhất mà cịn có sự khác biệt, thậm chí là mâu
thuẫn, là đối kháng vì vậy thích ứng với nền kinh tế “đa ngun” đó thì chính
trị khơng thể là “nhất ngun”, khơng thể tồn tại và duy trì mãi chế độ lãnh đạo
của một đảng duy nhất, không thể là độc quyền lãnh đạo. Theo những quan

điểm này, ở Việt Nam có một mâu thuẫn rất cơ bản cần phải giải quyết đó là
giữa yêu cầu phát triển kinh tế thị trường một cách đầy đủ, hiện đại, sự cạnh
tranh gay gắt với vị trí độc quyền lãnh đạo của một đảng cộng sản. Cho nên,
tương ứng với nền kinh tế thị trường thì chính trị phải là “đa nguyên, đa đảng”.


3

Ngay trong nội bộ Đảng, vẫn còn một bộ phận hoang mang, dao động
trước đường lối đổi mới của Đảng, đặc biệt là trong giải quyết mối quan hệ
giữa kinh tế và chính trị, giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Một thực
tế trong nhận thức đã diễn ra, là có quan điểm đề cao quá mức kinh tế thị
trường, xem đó là liều thuốc vạn năng, là đơi đũa thần kỳ có thể giải quyết
được mọi vấn đề mà công cuộc đổi mới đặt ra. Một quan điểm khác vì quá bi
quan với những tiêu cực, những mặt trái của nền kinh tế thị trường mà muốn
quay trở lại với cơ chế cũ và những cải tiến thận trọng. Thậm chí, do sự đổ vỡ
của các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu mà đã có sự lo lắng
trong đổi mới chính trị, muốn kìm hãm q trình đổi mới về chính trị.
Với những nhận thức như vậy, để đảm bảo sự thống nhất cao nhất cần
phải xác định rõ tính khoa học và cách mạng trong quan điểm về mối quan hệ
biện chứng giữa kinh tế và chính trị của chủ nghĩa Mác - Lênin, về những
quan điểm sáng tạo của Đảng ta khi vận dụng vào công cuộc đổi mới hiện nay
là điều vô cùng quan trọng và cần thiết.
Về mặt thực tiễn, trong quá trình đổi mới đất nước, việc giải quyết mối
quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị đã tạo ra một động lực rất quan
trọng, thúc đẩy mạnh mẽ tiến trình đổi mới một cách tồn diện. Tuy nhiên,
một mặt, đó là hiện tượng trì trệ trong đổi mới kinh tế hoặc đổi mới chính trị
đã xảy ra ở nơi này nơi khác, hoặc lúc này, lúc khác; cũng như xu hướng
muốn đẩy thật nhanh quá trình đổi mới kinh tế hoặc đổi mới chính trị bất chấp
thực tế khách quan. Điều đó làm cho hai quá trình đổi mới kinh tế và đổi mới

chính trị diễn ra khơng đồng bộ, gây ra hậu quả khơng tốt cho cả chính trị và
kinh tế.
Mặt khác, trong đổi mới đã xuất hiện quan điểm cực đoan dẫn đến việc
giải quyết khơng chính xác mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Thứ nhất,
đó là sự định hướng phiến diện của chính trị đối với kinh tế, không xác định


4

đầy đủ vai trị của chính trị, của những quan điểm, đường lối chính trị đúng
đắn đối với việc giải quyết các vấn đề kinh tế. Điều này rất dễ dẫn đến sự
chệch hướng kinh tế. Thứ hai, đó là hiện tượng chính trị tách rời kinh tế, coi
thường các nhu cầu và động lực kinh tế, tức là tuyệt đối hóa sức mạnh của
chính trị, của các quyết định chính trị, thực tế đã làm cho các quyết sách đó
thiếu cơ sở khách quan trên nền tảng kinh tế. Điều này rất dễ dẫn đến sai lầm
chủ quan duy ý chí, điều mà ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây đã phạm
phải khi xây dựng mơ hình chủ nghĩa xã hội tập trung cao. Thực tế trong giải
quyết mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị với hai xu hướng: tuyệt đối hóa
vai trị của kinh tế hoặc tuyệt đối hóa vai trị của chính trị vẫn còn tồn tại cả
trong nhận thức và thực tiễn ở nước ta hiện nay.
Đặc biệt trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta chưa theo kịp yêu cầu của công cuộc đổi
mới và hội nhập quốc tế. Đó là những hạn chế thuộc lĩnh vực kinh tế, lĩnh vực
chính trị và cả trong quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Nhận thức về kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa đầy đủ dẫn đến những khiếm
khuyết trong q trình thực hiện, mặt tích cực của kinh tế thị trường chưa
được phát huy cao nhất, mặt trái của nền kinh tế thị trường chưa được hạn
chế. Cơng tác lý luận chưa theo kịp địi hỏi của cuộc sống.
Cho nên, việc cần thiết là phải nhận thức đầy đủ mối quan hệ biện chứng
giữa kinh tế và chính trị trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng

Hồ Chí Minh nhằm vận dụng sáng tạo vào giải quyết mối quan hệ giữa kinh
tế và chính trị trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta là rất cần thiết. Hay nói cách khác là làm rõ hơn mối quan hệ giữa
kinh tế và chính trị mà thực chất là mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi
mới chính trị trong định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay. Từ đó xác định
những giải pháp đúng đắn, khoa học nhằm giải quyết hiệu quả mối quan hệ


5

giữa kinh tế và chính trị trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay.
Từ thực trạng và nhu cầu trên, chúng tôi chọn vấn đề: “ Biện chứng giữa
kinh tế và chính trị trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam” làm đối tượng nghiên cứu trong luận án của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin khi nghiên cứu về mối quan hệ
giữa kinh tế và chính trị đã đặt nền móng khoa học cho việc giải quyết vấn đề
này. Việc lý giải, cụ thể hóa và vận dụng những quan điểm cơ bản đó trong thực
tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội đã được các đảng cộng sản và các nhà lý luận
phần nào làm rõ. Ở Việt Nam, nhiều bài viết, cơng trình nghiên cứu của các
chuyên gia trong lĩnh vực này đã được đăng tải trên các báo, tạp chí trong nước.
Từ khi tiến hành đổi mới và thừa nhận nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thì vấn đề về mối quan hệ giữa kinh tế và chính
trị là đề tài được quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu lý luận và được xem xét
ở nhiều góc độ khác nhau.
Thứ nhất, các cuộc hội thảo khoa học bàn về mối quan hệ giữa kinh tế
và chính trị, đặc biệt về nền kinh tế thị trường đã được tổ chức; như “Chủ
nghĩa xã hội và kinh tế thị trường. Kinh nghiệm của Trung Quốc. Kinh
nghiệm của Việt Nam”[34] là nội dung mà Đảng cộng sản Trung Quốc và

Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiến hành vào năm 2004. Trong hội thảo nhiều
tham luận quan trọng được trình bày đã chỉ ra những nội dung cơ bản của nền
kinh tế thị trường trong chủ nghĩa xã hội mà Trung Quốc và Việt Nam đang
xây dựng và phát triển. Qua đó những kinh nghiệm được rút ra từ thực tiễn
xây dựng nền kinh tế thị trường ở Trung Quốc và Việt Nam trong quá trình
đổi mới cũng như triển vọng của nó trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở hai
nước; những khó khăn và thách thức cũng được đặt ra, trong đó có vấn đề


6

phát triển kinh tế thị trường, kinh tế nhiều thành phần và giữ vững hệ thống
chính trị xã hội chủ nghĩa.
Tạp chí Lý luận chính trị trong năm 2004 cũng tổ chức hội thảo khoa học
đã quy tụ nhiều nhà nghiên cứu, nhà lý luận với chủ đề: “Xây dựng thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam – một số vấn đề lý
luận và thực tiễn”. Thơng qua nhiều bài tham luận có giá trị, mối quan hệ
giữa kinh tế và chính trị trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa đã được trình bày khá sâu sắc. Theo đó, kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam đang xây dựng là hoàn toàn phù hợp với quy
luật khách quan, là sự thống nhất biện chứng giữa kinh tế và chính trị, biện
chứng giữa cái chung và cái đặc thù, đó là kinh tế thị trường và định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Ngồi ra cịn nhiều cuộc hội thảo khác được tổ chức tại Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh và các Học viện chính trị khu vực xoay quanh nội
dung về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, giữa đổi mới kinh tế và đổi
mới chính trị, quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, các đề tài khoa học cấp bộ, cấp nhà nước nghiên cứu về mối
quan hệ giữa kinh tế và chính trị được thực hiện trong những năm qua đã thể
hiện khá phong phú với nhiều góc độ khác nhau. Ví dụ, đề tài cấp bộ: “Quan

hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị - những vấn đề cơ bản của Việt
Nam” do PGS. TS. Lương Đình Hải làm chủ nhiệm [37]; đề tài cấp nhà nước:
“Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt nam” do GS. TS.
Dương Xuân Ngọc làm chủ nhiệm [38]. Đề tài nghiên cứu này đã đưa ra các
quan điểm về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị: quan điểm của chủ nghĩa
xã hội dân chủ, của chủ nghĩa tự do, của Liên Hiệp Quốc, của chủ nghĩa Mác
– Lênin và Hồ Chí Minh về mối quan hệ kinh tế - chính trị. Từ đó khẳng định,
kinh tế suy cho đến cùng giữ vai trò quyết định đối với chính trị nhưng chính


7

trị cũng tác động trở lại kinh tế và lãnh đạo kinh tế. Đề tài đã chỉ rõ những đột
phá trong nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi mới kinh tế và đổi
mới chính trị. Đổi mới kinh tế địi hỏi phải đổi mới chính trị kiên quyết, triệt
để hơn; thực chất của đổi mới kinh tế là chuyển từ mơ hình kinh tế tập trung
sang mơ hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực chất của
đổi mới chính trị là đổi mới tư duy về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Một đề tài khoa học cấp bộ khác là: “Quan hệ giữa kinh tế và chính trị
trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam” [39] của TS. Nguyễn Quốc Tuấn đã
khái quát những quan điểm cơ bản về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị
của chủ nghĩa Mác – Lênin và Đảng Cộng sản Việt Nam, từ đó vận dụng vào
giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong nền kinh tế thị trường ở
Việt Nam hiện nay. Đề tài này cũng chỉ rõ sự thống nhất và bất cập trong đổi
mới kinh tế và đổi mới chính trị; trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp nhằm
giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam. Đề tài có sự tham gia của nhiều nhà khoa học với những
bài viết khá sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn của mối quan hệ giữa kinh tế và
chính trị. GS. TS Nguyễn Văn Huyên với bài viết: “Sự tác động giữa chính

trị và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” đã chỉ ra cách thức tác
động của kinh tế đối với chính trị từ các quan hệ kinh tế, từ các hình thức sở
hữu, từ các thành phần kinh tế, từ các lĩnh vực kinh tế; còn cách thức tác động
của chính trị vào kinh tế thơng qua Đảng, nhà nước pháp quyền và các tổ
chức chính trị xã hội khác. PGS. TS. Nguyễn Tĩnh Gia với bài viết: “Đổi mới
chính trị với kinh tế ở Việt Nam hiện nay – vấn đề và giải pháp” đã nêu quan
điểm: để cách mạng giành thắng lợi bền vững trước hết phải tiến hành cách
mạng chính trị - đổi mới chính trị để định hướng đúng cho sự phát triển kinh
tế, trong đó đổi mới dân chủ là động lực quan trọng của đổi mới kinh tế.


8

Muốn có nền dân chủ thực sự, tức là quyền làm chủ của con người với tính
cách là cơng dân phải loại bỏ dân chủ hình thức và tự do vơ chính phủ, nhưng
muốn loại bỏ nó phải hiểu đầy đủ về nó đó là cơ sở kinh tế và cơ sở xã hội
của dân chủ hình thức và tự do vơ chính phủ. Ngồi ra bài viết cịn chỉ rõ: đổi
mới tư tưởng và tổ chức là tiền đề, điều kiện đổi mới kinh tế.
Thứ ba, các bài viết và sách đã xuất bản. Trong cuốn sách “Đặc trưng
của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” của Vũ
Đình Bách và Đồng Minh Đạo đồng chủ biên [4] đã xác định: Học thuyết mác
- xít về các hình thái kinh tế - xã hội vẫn là cơ sở khoa học để nhận thức tiến
hóa của xã hội lồi người; định hướng xã hội chủ nghĩa là xu hướng phát triển
chung của mọi quốc gia, mọi hệ thống kinh tế trong thời đại ngày nay và nên
gọi mơ hình kinh tế thị trường của Việt Nam hiện nay là mơ hình kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đó những đặc trưng cơ bản của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã được nêu ra
trong cuốn sách này.
Trong cuốn sách “Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong q trình
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

hiện nay” của TS. Nguyễn Quốc Tuấn [123] đã nêu những kinh nghiệm giải
quyết mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong các nước tư bản chủ nghĩa
tiêu biểu, trong đó có cả những thành cơng và hạn chế của nó. Kinh nghiệm từ
việc đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, đặc biệt là những phương châm giải
quyết mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong cải cách ở Trung Quốc.
Cuốn sách cũng chỉ rõ những tương đồng và bất cập và các nguyên nhân của
nó trong mối quan hệ giữa định hướng xã hội chủ nghĩa của chính trị và phát
triển kinh tế thị trường. Từ đó các giải pháp được đưa ra nhằm nâng cao chất
lượng của mối quan hệ giữa định hướng xã hội chủ nghĩa của chính trị và phát
triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.


9

Cuốn sách “Đảng lãnh đạo xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” của nhiều tác giả, do Đinh Xuân Lý và Phạm
Công Nhất đồng chủ biên [60] đã thể hiện khá rõ nét mối quan hệ giữa kinh tế
và chính trị, đặc biệt là thực tiễn giải quyết mối quan hệ này ở nước ta hiện
nay. Một số bài viết tiêu biểu như: “Đặc điểm, bản chất của nền kinh tế thị
trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa” của
GS. TS. Đỗ Thế Tùng; bài “Q trình xây dựng và hồn thiện thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” của PGS. TSKH. Trần
Nguyễn Tuyên; bài “Nhận thức về những đặc điểm của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta” của PGS. TS. Dương Văn
Thịnh; bài “Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam” của PGS. TS. Phan Thanh Phố… đã đề cập nhiều
vấn đề xung quanh mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, giữa đổi mới kinh tế
và đổi mới chính trị ở nước ta hiện nay.
Nhiều bài viết khác được đăng tải trên các tạp chí lý luận cũng đề cập
đến mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị ở các góc độ và cấp độ khác nhau.

Trong bài “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhà nước
pháp quyền và xã hội dân sự ở nước ta” của GS. TS. Trần Ngọc Hiên [31] đã
thể hiện quan điểm về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị ở một góc độ cụ
thể: “Sự ra đời của nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự là kết quả tất yếu
do nghiên cứu phát triển của kinh tế thị trường. Ở đâu có kinh tế thị trường thì
ở đó phải có nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự. Ba bộ phận đó cấu thành
hệ thống của một thể chế kinh tế chính trị, mà sự hồn thiện của hệ thống thể
chế hoàn toàn chỉ dựa vào sự liên hệ tương tác với nhau giữa ba bộ phận”.
Ngồi ra cịn phải kể đến nhiều bài viết khác như: “Kinh tế thị trường
và định hướng XHCN” của Bùi Ngọc Chưởng (Tạp chí Cộng sản 12/1994);
“Chính trị với kinh tế trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước


10

ta hiện nay” của Phạm Ngọc Quang (Tạp chí Nghiên cứu lý luận 4/1995);
“Kinh tế thị trường và những vấn đề xã hội” của nhiều tác giả (Viện thông tin
khoa học xã hội xuất bản, HN, 1994); “Kinh tế thị trường XHCN” do Mã
Hồng chủ biên (Nxb CTQG, HN, 1995); “Kết hợp đổi mới kinh tế với đổi mới
chính trị” của Trịnh Nhu (Tạp chí Lịch sử đảng, 6/1999); “Quản lý nhà nước
trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam” của Lương Xuân
Quỳ (Nxb Lý luận chính trị, HN, 2006); “Quan hệ kinh tế và chính trị trong
công cuộc đổi mới ở Việt Nam” của Đàm Quang Thọ (Tạp chí Triết học
2/1997); “Biện chứng giữa kinh tế và chính trị - một số vấn đề lý luận” của
Nguyễn Quốc Tuấn (Tạp chí Khoa học chính trị 2/2007); “Kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa: quan niệm và giải pháp phát triển”, của
Nguyễn Phú Trọng ( Tạp chí Cộng sản 1/2007); “Những đột phá tư duy lý
luận về kinh tế thị trường ở nước ta”, của Lê Xuân Tùng (Tạp chí Cộng sản
1/2007); “Nâng cao vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, của Tơ Huy Rứa (Tạp chí Cộng sản

1/2007); “Hướng tới nền kinh tế thị trường hiện đại theo định hướng xã hội
chủ nghĩa”, của Lê Xn Đình, (Tạp chí Cộng sản 11/2008); “Bàn về định
hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường”, của Đỗ Trọng Bá (Tạp chí
Cộng sản 1/2008)…
Các cơng trình khoa học nêu trên ở những mức độ khác nhau đã đề cập
khá rõ nét mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, giữa đổi mới kinh tế và đổi
mới chính trị. Đặc biệt là mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và mục tiêu chủ
nghĩa xã hội, làm sáng tỏ vai trò của một số nhân tố chính trị trong định
hướng cho sự phát triển của kinh tế.
Tuy nhiên, giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị qua các cơng
trình trên vẫn chỉ dừng lại ở những nét khái quát nhất. Vì vậy, luận án là sự hệ
thống, bổ sung và phát triển những vấn đề liên quan tới mối quan hệ giữa kinh


11

tế và chính trị mà các cơng trình ít nhiều đã nêu ra, góp phần nhận thức sâu
sắc hơn về mối quan hệ này, nhằm đẩy mạnh và phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ và giới hạn của luận án
Mục đích của luận án
Mục đích của luận án là góp phần làm rõ và giải quyết đúng đắn mối
quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị, giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay.
Nhiệm vụ của luận án
Để đạt được mục đích trên, luận án có nhiệm vụ:
- Trình bày có hệ thống những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về mối quan hệ
biện chứng giữa kinh tế và chính trị.

- Làm rõ quá trình nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phân tích những đặc điểm của nền kinh
tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.
- Làm rõ mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam với những mặt
tích cực và hạn chế của nó.
- Làm rõ mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị ở Việt Nam hiện nay được
thể hiện tập trung trong mối quan hệ giữa các nhân tố của nền kinh tế thị
trường và các nhân tố của hệ thống chính trị.
- Xác định thực trạng, nguyên nhân và đề xuất những giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả việc giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.


12

Giới hạn của luận án
Kinh tế và chính trị bao hàm nhiều yếu tố, cấu trúc và phương diện khác
nhau. Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ đã đề ra, luận án không đi vào
nghiên cứu tất cả các phương diện của mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị,
cũng khơng mở rộng phạm vi nghiên cứu mối quan hệ này ở các loại nước có
chế độ chính trị khác nhau mà tập trung nghiên cứu những vấn đề chính yếu
trong mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị mà nó tác động trực tiếp đến sự
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
Cơ sở lý luận của luận án
Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về mối quan
hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị.

Luận án kế thừa có chọn lọc các cơng trình nghiên cứu về mối quan hệ
giữa kinh tế và chính trị của các nhà khoa học trong và ngoài nước.
Phương pháp nghiên cứu của luận án
Luận án được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đồng thời sử dụng một số
phương pháp cụ thể như: phương pháp thống nhất giữa logic và lịch sử,
phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp
thống kê v.v…
4. Cái mới của luận án
- Góp phần làm sáng tỏ tính đặc thù của mối quan hệ biện chứng giữa
kinh tế và chính trị ở Việt Nam thời kỳ đổi mới trên cơ sở quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin.


13

- Xác định mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị thực chất là
mối quan hệ giữa phát triển kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Khẳng định sự cần thiết phải có một cơ chế phản biện trực tiếp đối với hệ
thống đường lối, chủ trương và sự lãnh đạo của Đảng nhằm nâng cao vai trị của
chính trị trong q trình tác động trở lại đối với kinh tế.
- Đề xuất một số giải pháp mới mang tính nguyên tắc nhằm góp phần
giải quyết đúng đắn, hiệu quả mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Luận án góp phần làm rõ hơn mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và
chính trị từ đó khẳng định về mặt lý luận mối quan hệ giữa nền kinh tế thị
trường và định hướng của chính trị trong cơng cuộc đổi mới ở Việt Nam. Qua
đó góp phần nâng cao nhận thức và hiệu quả thực tiễn trong giải quyết mối
quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị trong nền kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo khi xây dựng các chính sách
và chỉ đạo thực tiễn trong xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Luận án cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho nghiên cứu và
giảng dạy các mơn học như: triết học, chính trị học, đường lối cách mạng của
Đảng Cộng sản Việt Nam… trong các trường cao đẳng và đại học ở nước ta.
7. Kết cấu luận án:
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phần phụ lục và danh mục tài liệu
tham khảo, luận án được kết cấu thành 3 chương, 6 tiết.


14

Chương 1
LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG
GIỮA KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ
1.1. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ MỐI QUAN
HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ
1.1.1. Khái niệm “kinh tế”, “chính trị”
Kinh tế là một phạm trù cơ bản trong kinh tế học nĩi chung v lý luận
mác- xít nói riêng. Kinh tế phản ánh một lĩnh vực của đời sống xã hội, gắn
liền với việc tạo ra các điều kiện vật chất cần thiết để thỏa mãn các nhu cầu
của xã hội trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể.
Khái niệm “kinh tế” lúc đầu dùng để chỉ những công việc quản trị gia
đình hoặc việc quản trị tập hợp các gia đình. Sau đó, khái niệm “kinh tế” được
hiểu theo nghĩa rộng hơn.
Theo từ điển Kinh tế chính trị học: “Kinh tế là toàn bộ những mối quan
hệ sản xuất nhất định trong lịch sử, là cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội; là hoạt
động kinh doanh của một nước nhất định, bao gồm các ngành và các loại hình

sản xuất tương ứng”[117,198].
Từ định nghĩa trên cho thấy, mỗi phương thức sản xuất đều có nền kinh
tế riêng của nó, được phân biệt bởi tính chất sở hữu về tư liệu sản xuất, mục
đích phát triển của sản xuất, hình thức và phương pháp kinh doanh. Nền tảng
vật chất của sự phát triển kinh tế là lực lượng sản xuất mà sự thay đổi của
chúng dẫn đến những biến đổi tương ứng trong cơ sở hạ tầng kinh tế của xã
hội. Khâu quan trọng nhất của nền kinh tế là quan hệ sở hữu về tư liệu sản
xuất, từ đó quyết định vai trò của chủ thể sở hữu đối với quản lý sản xuất và
phân phối sản phẩm. Mỗi nền kinh tế đều do quan hệ sản xuất, cũng như tính
chất và trình độ của lực lượng sản xuất quy định.


15

Như vậy, kinh tế là tổng thể những mối quan hệ trong quá trình sản xuất
của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định, trong tổ chức và hoạt động của cơ
cấu hạ tầng của xã hội, bao gồm các ngành kinh tế kỹ thuật, các loại hình sản
xuất tương ứng. Trong nền kinh tế quốc dân của một nước bao gồm các
ngành, các vùng lãnh thổ, các cơ sở và các loại hình sản xuất và bao trùm là
các khâu của nền sản xuất xã hội trên toàn bộ lãnh thổ quốc gia.
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam: “Kinh tế là tổng thể các hoạt động
của một cộng đồng người, một nước, liên quan đến toàn bộ các quá trình sản
xuất, trao đổi, phân phối và tiêu dùng các sản phẩm xã hội”[116,584].
Theo định nghĩa này, kinh tế là tồn bộ hoạt động có tính cộng đồng
trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội, lưu thông, trao đổi và tiêu dùng
sản phẩm nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất của con người. Kinh tế bao hàm
nhiều nhóm quan hệ cùng tương tác qua lại, gắn kết với nhau.
Theo Mc: “… cc quan hệ kinh tế là phương thức mà con người của một
xã hội nhất định dùng để sản xuất ra những tư liệu để sinh sống và trao đổi
sản phẩm với nhau” [84,270]. Phương thức mà Mác đề cập đến là tổng hịa

của hai nhóm quan hệ cơ bản: một là các điều kiện của sản xuất bao gồm tư
liệu sản xuất và sức lao động; hai là hình thức xã hội của nền sản xuất.
Các điều kiện của sản xuất phản ánh mối quan hệ giữa con người và tự
nhiên thông qua việc sử dụng những điều kiện tự nhiên để tạo ra sản phẩm vật
chất cần thiết cho xã hội. Trong từng thời điểm cụ thể của lịch sử, các yếu tố
này thể hiện trình độ nắm bắt, sử dụng và chinh phục giới tự nhiên của con
người. Trong các điều kiện của sản xuất yếu tố con người có vai trò đặc biệt
quan trọng, bởi con người là chủ thể trong mối quan hệ với tự nhiên, và “bằng
hoạt động của chính mình, con người làm trung gian, điều tiết và kiểm tra sự
trao đổi giữa họ với tự nhiên” [76,266]. Trình độ chinh phục giới tự nhiên của
con người được thể hiện ở mức độ phát triển của các yếu tố cấu thành lực
lượng sản xuất.


16

Các yếu tố của lực lượng sản xuất và trình độ phát triển của nó quy định
nội dung của phương thức sản xuất và quyết định sự vận động của quan hệ
sản xuất; song tính chất lịch sử cụ thể, đặc thù của từng phương thức sản xuất
lại được quyết định bởi chính bản thân tính chất quan hệ sản xuất do quan hệ
sở hữu thống trị về tư liệu sản xuất sinh ra.
Tiếp cận trong mối quan hệ với chính trị, kinh tế là tồn bộ các lĩnh vực,
các ngành khác nhau của một nền kinh tế quốc dân mà cơ sở của nó là quan
hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất là một chỉnh thể thống nhất giữa các quan hệ cơ
bản: quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức và quản lý sản
xuất và quan hệ phân phối sản phẩm. Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
của lực lượng sản xuất là vấn đề cơ bản quy định sự phát triển của một hình
thái kinh tế - xã hội. Quan hệ sản xuất cũng là cơ sở của các mối quan hệ xã
hội khác, quy định trình độ các mối quan hệ của con người và trình độ phát
triển của một chế độ xã hội. Quan hệ sản xuất quy định bản chất của chế độ

chính trị và của quyền lực chính trị. Đồng thời chịu sự chi phối trở lại mạnh
mẽ của chế độ chính trị mà tập trung là quyền lực nhà nước.
Trong quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất do sự phát
triển của lực lượng sản xuất quy định. Sự khác biệt giữa các hình thức sở hữu
đối với tư liệu sản xuất tùy thuộc vào trình độ và tính chất của sự kết hợp giữa
sức lao động với tư liệu sản xuất; đồng thời, các hình thức sở hữu tư liệu sản
xuất khác nhau cũng là những giai đoạn khác nhau trong sự phát triển của
phân công lao động xã hội. Trong lịch sử, có hai hình thức sở hữu tư liệu sản
xuất chủ yếu: Sở hữu công cộng là cơ sở kinh tế của xã hội tự do, cơng bằng
và bình đẳng – cái vốn có của xã hội cộng sản nguyên thủy và của xã hội cộng
sản văn minh. Còn sở hữu tư nhân là cơ sở kinh tế của sự phân chia xã hội
thành tập đoàn người này áp bức và bóc lột tập đồn người khác – đặc trưng
của chế độ chiếm hữu nô lê, chế độ phong kiến và chế độ tư bản chủ nghĩa.
Trong mỗi xã hội cụ thể, cịn có thể có nhiều hình thức sở hữu tư liệu sản xuất


17

trung gian nhưng bao giờ cũng có một hình thức sở hữu cơ bản giữ vai trò chủ
đạo làm cơ sở kinh tế cho chế độ chính trị.
Trên cơ sở của quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, hình thành một
quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất xã hội tương ứng. Quan hệ tổ chức sản
xuất là phương thức liên hiệp những người sản xuất trực tiếp và kết hợp họ
với tư liệu sản xuất, thể hiện ở mục đích của việc tổ chức lao động, phương
thức thu hút các nguồn lực vào lao động, hình thức xã hội của sự hiệp tác và
phân cơng lao động. Quan hệ quản lý sản xuất là toàn bộ những biện pháp và
phương thức cho phép tác động đến người lao động theo yêu cầu của nhiệm
vụ sản xuất đã quy định. Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất quyết định một
cách trực tiếp: quy mô, tốc độ, hiệu quả và xu hướng của nền sản xuất nên có
khả năng thúc đẩy hoặc kìm hãm các q trình sản xuất.

Từ đó, hình thành quan hệ phân phối sản phẩm xã hội làm ra. Quan hệ
phân phối sản phẩm gồm phân phối tư liệu sản xuất và phân phối tư liệu tiêu
dùng. Nó khơng chỉ trực tiếp quy định các giá trị kinh tế và mọi sự thụ hưởng
đối với từng loại đối tượng, từng đối tượng cụ thể mà cịn thể hiện bản chất và
mục đích của nền sản xuất xã hội, chế độ chính trị xã hội. Cho nên, nó có khả
năng thúc đẩy tốc độ và nhịp điệu của sản xuất, làm năng động tồn bộ nền
kinh tế xã hội hoặc kìm hãm sản xuất và sự phát triển của xã hội.
Như vậy, nói đến kinh tế là nói đến q trình sản xuất ra của cải vật chất
và q trình đó, theo C. Mác, sẽ làm nẩy sinh “quan hệ kép”: quan hệ giữa
người với người và quan hệ giữa người với tự nhiên. Hai loại quan hệ đó tạo
thành hai mặt của phương thức sản xuất: quan hệ sản xuất và lực lượng sản
xuất. Sự tác động qua lại giữa chúng chính là nguồn gốc căn bản nhất của tiến
trình lịch sử, nó quy định sự thay thế hình thái kinh tế - xã hội này bằng hình
thái kinh tế - xã hội khác cao hơn.


18

Từ những nội dung trên, theo quan điểm mác-xít, có thể hiểu: Kinh tế là
toàn bộ các lĩnh vực của một nền sản xuất xã hội mà cơ sở của nó là các quan
hệ cơ bản: quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức và quản lý sản
xuất, quan hệ phân phối những sản phẩm làm ra, trên nền tảng của một lực
lượng sản xuất nhất định.
Chính trị xuất hiện khi xã hội phân chia thành giai cấp và mâu thuẫn
giữa các giai cấp trở nên gay gắt khơng thể điều hịa. Do vị trí đặc biệt quan
trọng đối với đời sống xã hội, chính trị luôn thu hút sự quan tâm của các nhà
tư tưởng. Ngay từ thời cổ đại, họ đã bỏ ra nhiều thời gian để làm sáng tỏ bản
chất của chính trị. Cùng với sự phát triển của khoa học và xã hội, “chính trị”
được nhận thức ngày càng đầy đủ hơn.
Các nhà triết học, kinh tế học, chính trị học… tiếp cận ở những góc độ

khác nhau để xem xét bản chất của chính trị. Tổng hợp lại có thể thấy có
những quan niệm mang màu sắc của chủ nghĩa duy tâm khi coi chính trị tách
rời khỏi nền tảng kinh tế của nó; có những quan niệm lại coi chính trị là lĩnh
vực hoạt động theo chủ nghĩa thực dụng; có quan điểm cho rằng chính trị là
tư tưởng và hành động bảo vệ lợi ích của thiểu số cầm quyền trong xã hội …
Các quan niệm như vậy chưa vạch rõ bản chất của chính trị với tính cách là
một hiện tượng xã hội có tính lịch sử cụ thể; chưa thấy bản chất của chính trị
bộc lộ trên nhiều khía cạnh, nhiều phương diện trong mối liên hệ, quan hệ
phức tạp của nó với các lĩnh vực, các q trình hoạt động của đời sống xã hội.
Thơng qua các tác phẩm của mình, các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác-Lênin đã xem chính trị là một hiện tượng đặc biệt của đời sống xã hội, là
mối quan hệ giữa các giai cấp và là sự tham gia của nhân dân vào các công
việc nhà nước, định hướng hoạt động nhà nước; xác định hình thức, nhiệm
vụ, nội dung hoạt động của nhà nước. Bất kì hoạt động nào cũng có tính chất
chính trị, nếu như việc giải quyết nó trực tiếp hay gián tiếp gắn với lợi ích giai
cấp, gắn với vấn đề quyền lực chính trị.


19

Chính trị là những cơng việc nhà nước, phạm vi hoạt động gắn với
những quan hệ giai cấp, dân tộc và các nhóm xã hội lớn mà hạt nhân của nó là
vấn đề giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước; là những phương hướng,
những mục tiêu được quy định bởi lợi ích cơ bản của giai cấp, của đảng phái;
là hoạt động thực tiễn chính trị của các giai cấp, các đảng phái, các nhà nước
để thực hiện đường lối đã lựa chọn nhằm thực hiện mục tiêu đề ra.
Từ những quan điểm trên có thể hiểu:
Chính trị là một quan hệ xã hội, mang bản chất x hội v mang tính giai
cấp. Đây là một loại quan hệ xã hội đặc biệt; là “quan hệ giữa các giai cấp”
nhằm “tham gia vào những công việc của Nhà nước, là việc vạch hướng đi

cho Nhà nước, việc xác định những hình thức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động
của Nhà nước” [50,404]. Tính đặc biệt của quan hệ xã hội trong chính trị cịn
thể hiện ở chỗ nó cịn là quan hệ giữa các quốc gia, dân tộc nhằm giải quyết
những vấn đề mang tính quốc gia, dân tộc.
Hơn thế nữa, chính trị là cuộc đấu tranh giai cấp, là chuyên chính của
giai cấp này với giai cấp khác, là sự tập trung vào nhiệm vụ phá hoại chế độ
xã hội cũ, là xây dựng xã hội mới; chính trị là quan điểm, nhận thức, tư tưởng,
thái độ và hành vi hoạt động của giai cấp này đối với giai cấp khác.
Trên cơ sở quan điểm duy vật lịch sử của Mác và Ăngghen, Lênin đã chỉ
rõ bản chất xã hội, bản chất giai cấp của chính trị: “Trong chính trị, nghĩa là
trong lĩnh vực quan hệ giữa người với người, người ta khơng tính từng cá
nhân mà tính hàng triệu người, thì sự thành thực có nghĩa là lời nói việc làm
đi đơi với nhau, và lúc nào sự đi đơi ấy cũng có thể kiểm nghiệm được
[49,329].
Với tư cách là một chế độ xã hội và hệ tư tưởng của một giai cấp, chính
trị là sản phẩm trực tiếp của các quá trình kinh tế - xã hội nhất định mà nhà
nước – trung tâm quyền lực chính trị - ln nhân danh quyền lực cơng để bảo
vệ và phát triển quan hệ sản xuất thống trị, chống lại những quan hệ sản xuất
đối kháng. Các giai cấp đấu tranh đều hướng đến việc giành, giữ và sử dụng


20

quyền lực nhà nước, do đó, vấn đề quyền lực nhà nước là vấn đề cơ bản hàng
đầu của mọi cuộc vận động chính trị. Quyền lực nhà nước cũng là lợi ích
chính trị cao nhất mà mọi chủ thể chính trị đều hướng tới.
Chính trị nói chung và nhà nước nói riêng xuất hiện khơng chỉ vì bảo vệ
lợi ích giai cấp mà cịn do u cầu duy trì trật tự chung của toàn xã hội. Đời
sống xã hội càng phát triển, việc giải quyết vấn đề quan hệ lợi ích giữa các
giai cấp, các bộ phận cư dân, các quốc gia dân tộc càng phức tạp, phạm vi các

vấn đề đặt ra càng rộng lớn thì sự biểu hiện của chính trị càng đa dạng, phong
phú và vai trị của nhà nước càng lớn. Cho nên, chính trị không chỉ dừng lại ở
cuộc đấu tranh giữa các giai cấp mà còn là sự tham gia của nhân dân, các lực
lượng xã hội vào việc định hướng quyền lực, xác định hình thức, nhiệm vụ,
nội dung và phương thức hoạt động của nhà nước.
Như vậy, có thể thấy chính trị là lĩnh vực vô cùng phức tạp với nhiều
mối quan hệ đấu tranh, hợp tác rất khác nhau nhưng tất cả đều có nguồn gốc
sâu xa từ sự phân hóa xã hội thành giai cấp, từ mâu thuẫn khơng thể điều hòa
giữa các giai cấp cơ bản đối lập nhau.
Chính trị ln mang bản chất kinh tế. Lênin đ đưa ra một định nghĩa
khái quát về chính trị trong đó nói rõ bản chất kinh tế của nó: “Chính trị là
biểu hiện tập trung của kinh tế” [49,166]. Hay “chính trị tức là kinh tế được
cơ đọng lại” [55,147]. Tuy nhiên do bản chất giai cấp nên chính trị dưới chế
độ tư bản chủ nghĩa là chính trị của tư sản. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa
chính trị là sự nghiệp của nhân dân, của tất cả mọi người. Lênin chỉ rõ: “Dưới
chế độ tư sản, người kinh doanh là bọn địa chủ, chứ không phải là những cơ
quan của Nhà nước, nhưng trong nước ta, công tác kinh tế phải là sự nghiệp
chung của tất cả mọi người. Đối với chúng ta đó là hoạt động chính trị có ý
nghĩa nhất” [59,396-397]. Bản chất kinh tế của chính trị cịn được Lênin
khẳng đinh: “Những cội rễ sâu xa nhất của chính sách đối nội cũng như chính


21

sách đối ngoại của nhà nước chúng ta đều do những lợi ích kinh tế, địa vị kinh
tế của giai cấp thống trị nước ta quyết đinh”[46,403].
Sở dĩ chính trị có bản chất kinh tế vì chính nó có nguồn gốc trực tiếp từ
kinh tế, nó là hệ quả trực tiếp từ điều kiện kinh tế. C. Mác viết: “ Kỳ thực,
phải là người khơng có một chút hiểu biết nào về lịch sử mới không biết được
rằng, trong thời nào cũng thế, chính là vua chúa phải phục tùng những điều

kiện kinh tế, chứ không bao giờ vua chúa lại ra lệnh cho những điều kiện kinh
tế được. Chẳng qua chế độ lập pháp về chính trị cũng như về dân sự chỉ làm
cái việc nói lên, ghi chép lại những yêu cầu của quan hệ kinh tế mà thơi”
[64,159].
Chính vì vậy mà, “những quan niệm và tư tưởng của mỗi thời đại lịch sử
đều giải thích được một cách dễ dàng bằng những điều kiện sinh hoạt kinh tế
của thời đại ấy và bằng những quan hệ xã hội và chính trị bắt nguồn từ những
điều kiện ấy. Lần đầu tiên, lịch sử đã được đặt trên cơ sở thực sự của nó. Cái
sự thật hiển nhiên là trước hết con người phải lao động, trước khi có thể đấu
tranh để giành quyền thống trị, trước khi có thể hoạt động chính trị, tơn giáo,
triết học v.v…” [72,166].
Vì chính trị mang bản chất kinh tế nên phong trào chính trị của giai cấp
cơng nhân về thực chất có mục tiêu là phong trào giải phóng kinh tế “Sự giải
phóng kinh tế của giai cấp cơng nhân – C. Mác kết luận, - là một mục tiêu vĩ
đại mà bất cứ phong trào chính trị nào đều phải phục tùng với tính cách là
phương tiện” [68,557]. Chính trị là thủ đoạn, là phương tiện để đạt được mục
đích kinh tế, để giải phóng về kinh tế của giai cấp cơng nhân: “Sự giải phóng
giai cấp cơng nhân về mặt kinh tế là mục đích lớn mà mọi phong trào chính trị
đều phải phục tùng, với tư cách là một thủ đoạn” [72,840-841].
Chính trị là một q trình hoạt động. Trong quá trình hoạt động này diễn
ra mối quan hệ, cách ứng xử, sự đấu tranh của các nhóm, các tập đồn, các
giai cấp. Chính trị là hoạt động có tổ chức, quá trình tổ chức, bộ máy tổ chức
đều gắn liền với chính trị và khơng thể tách rời. “Thực ra không thể phân


×