Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.49 KB, 37 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
phần A: lời nói đầu
Là một sinh viên năm đầu tiên của trờng Đại học kinh tế quốc dân, cha đi
vào chuyên ngành kinh tế, song tôi vẫn mạnh dạn tìm hiểu những vấn đề về
kinh tế của Việt Nam thời kỳ trớc đây cũng nh sau này khi mở cửa đổi mới, và
từ đó để tìm ra nghiên cứu mâu thuẫn đã và đang xảy ra trong nền kinh tế thị tr-
ờng, tìm những biện pháp hạn chế, khắc phục những nhợc điểm, phát huy
những thế mạnh hay những u điểm của nó.
Trong sự nghiệp đổi mới của nớc ta do Đảng khởi xớng và lãnh đạo đã
dành đợc những thắng lợi bớc đầu mang tính quyết định, quan trọng trong việc
chuyển nền kinh tế từ cơ chế quản lí tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị
trờng có sự quản lí của nhà nớc theo định hớng xã hội chủ nghĩa. Trong những
chuyển biến đó đã đạt đợc nhiều thành công to lớn, nhng trong những thành
công đó luôn tồn tại những vấn đề mâu thuẫn làm kìm hãm sự phát triển của
công cuộc đổi mới. Đòi hỏi phải đợc giải quyết, và những vấn đề ấy nếu đợc
giải quyết sẽ thúc đẩy cho sự phát triển nền kinh tế.
Mâu thuẫn là một hiện tợng phổ biến có trong tất cả các lĩnh vực tự
nhiên, xã hội và t duy của con ngời. Trong kinh tế, mâu thuẫn cũng là một hiện
tợng hiển nhiên, không tránh khỏi, chẳng hạn nh cung cầu, tích luỹ và tiêu
dùng với mong muốn tìm hiểu thêm những vấn đề của nền kinh tế, quan điểm
lí luận cũng nh vớng mắc trong giải pháp, quy trình xử lý các vấn đề , tôi đã
chọn đề tài : Mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng nền kinh tế
thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam .
Vì thời gian có hạn, kiến thức còn hạn chế nên trong tập tiểu luận này chỉ
xem xét đánh giá một vài mâu thuẫn tiêu biểu.
-Đổi mới về kinh tế chính trị
-Lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất
-Các hình thức sở hữu trớc đây và trong thời kỳ quá độ sang KTTT ở Việt
Nam.
- Mâu thuẫn giữa KTTT với xây dựng con ngời xã hội chủ nghĩa.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368


phần B: nội dung
I. lý luận chung
Mọi sự vật, hiện tợng đang tồn tại đều là một hệ thống nhất đợc cấu
thành bởi các mặt, các khuynh hớng các thuộc tính phát triển ngợc chiều nhau,
đối lập nhau ở đây chúng ta chia làm hai phần.
1. Sự đấu tranh của các mặt đối lập trong một thể thống nhất.
Trong phép biện chứng duy vật khái niệm mặt đối lập là sự khái quát
những thuộc tính, những khuynh hớng, phát triển ngợc chiều nhau tồn tại trong
cùng một sự vật hiện tợng, tạo lên sự vật hiện tợng đó. Do đó cần phải phân biệt
rằng bất kỳ hai mặt đối lập nào cũng tạo thành mâu thuẫn. Bởi vì trong các sự
vật hiện tợng của thế giới khách quan không phải chỉ tồn tại trong đó hai mặt
đối lập. Trong cùng một thời điểm ở mỗi sự vật có thể cùng tồn tại nhiều mặt
đối lập. Chỉ có những mặt đối lập là tồn tại thống nhất trong cùng một sự vật
nh chỉnh thể, nhng có khuynh hớng phát triển ngợc chiều nhau, bài trừ phủ định
và chuyển hoá lẫn nhau (sự chuyển hoá này tạo thành nguồn gốc động lực, đồng
thời quy định các bản chất, khuynh hớng phát triển của sự vật) thì hai mặt đối
lập nh vậy mới gọi là hai mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn thống nhất của các
mặt đối lập đợc hiểu với ý nghĩa không phải chúng đứng bên cạnh nhau mà là
nơng tựa vào nhau, tạo ra sự phù hợp, cân bằng nh liên hệ phụ thuộc, quy định
mà ràng buộc lẫn nhau. Mặt đối lập này lấy mặt đối lập kia làm tiền đề cho sự
tồn tại của chính mình và ngợc lại. Nếu thiếu một trong hai mặt đối lập chính
tạo thành sự vật thì nhất định không có sự tồn tại của sự vật. Bởi vì sự thống
nhất của các mặt đối lập là điều kiện không thể thiếu đợc cho sự tồn tạo của bất
kỳ sự vật hiện tợng nào.
+Sự thống nhất này do những đặc điểm riêng có của bản thân sự vật tạo
nên.
ví dụ: nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp và nền kinh tế thị trờng là
điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của công cuộc đổi mới nền kinh tế ở Việt
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Nam, hai nền kinh tế hoàn toàn khác nhau về bản chất và những biểu hiện của

nó nhng nó lại hết sức quan trọng. Vì nó có sự thống nhất, sự thống nhất đó lại
tạo lên quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam. Thiếu sự thống nhất này nền
KTTT ở Việt Nam không thể tồn tại với ý nghĩa là chính nó.
Ví dụ: lực lợng sản xuất quan hệ sản xuất trong phơng thức sản xuất.
Khi lực lợng sản xuất phát triển thì cùng với nó quan hệ sản xuất cũng phát
triển hai hình thức này chính là điều kiện để cho sự phát triển của phơng thức
sản xuất. Nhng quan hệ của lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất phải thoả
mãn một số yêu cầu sau:
-Thứ nhất: đó phải là một khái niệm chung nhất đợc khái quát từ các mặt
phù hợp khác nhau phản ánh đợc baen chất của sự phù hợp của quan hệ sản xuất
với lực lợng sản xuất.
Thứ hai: đó phải là một khái niệm động phản ánh đợc trạng thái biến
đổi thờng xuyên của sự vận động, phát triển quan hệ của quan hệ sản xuất với
lực lợng sản xuất.
-Thứ ba: đó phải là một khái niệm có ý nghĩa thực tiễn. Ngoài ý nghĩa
nhận thức, khái niệm về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lợng sản xuất
đợc coi là thoả đáng phải có tác dụng định hớng, chỉ dẫn cho việc xây dựng
quan hệ sản xuất sao cho những quan hệ sản xuất có khả năng phù hợp cao nhất
với lực lợng sản xuất.
Tuy nhiên khái niệm thống nhất này cũng chỉ là tơng đối. Bản thân nội
dung khái niệm cũng đã nói lên tính chất tơng đối của nó: thống nhất của cái
đối lập, trong thống nhất đã bao hàm và chứa đựng trong nó sự đối lập.
Đấu tranh các mặt đối lập.
Sự thống nhất của các mặt đối lập trong cùng một sự vật không tách rời,
đấu tranh chuyển hoá giữa chúng. Bởi vì các mặt đối lập cùng tồn tại trong sự
thống nhất nh một chỉnh thể chọn vẹn nhng không nằm yên bên nhau mà chỉnh
chuyển hoá lẫn nhau tạo thành động lực phát triển của bản thân sự vật. Sự đấu
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
tranh chuyển hoá và phủ định lẫn nhau giữa các mặt trong thế giới khách quan
thể hiện dới nhiều dạng khác nhau.

Ví dụ lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất trong giai cấp có đối kháng
mâu thuẫn giữa lực lợng sản xuất tiên tiến với quan hệ sản xuất lạc hậu kìm
hãm nó diễn ra rất gay gắt và quyết liệt. Chỉ có thông qua các cuộc cách mạng
xã hội bằng nhiều hình thức kể cả bạo lực mới có thể giải quyết đợc mâu thuẫn
một cách căn bản.
Sự đấu tranh của các mặt đối lập đợc chia ra làm nhiều giai đoạn. Thông
thờng, khi mới xuất hiện hai mặt đối lập đợc cha thể hiện rõ sự xung khắc gay
gắt ngời ta gọi đó là giai đoạn khác nhau. Tất nhiên không phải bất kỳ sự khác
nhau nào cũng đợc gọi là mâu thuẫn. Chỉ có những mặt khác nhau tồn tại trong
một sự vật nhng liên hệ hữu cơ với nhau, phát triển ngợc chiều nhau, tạo thành
động lực bên trong của sự phát triển, thì hai mặt đối lập ấy mới hình thành bớc
đầu của mâu thuẫn. Khi hai mặt đối lập của mâu thuẫn phát triển đến giai đoạn
xung đột gay gắt, nó biến thành độc lập. Nếu hội đủ các mặt cần thiết hai mặt
đối lập sẽ chuyển hoá lẫn nhau. Sự vật cũ đã mất đi sự vật mới đợc hình thành.
Sau khi mâu thuẫn đợc giải quyết sự thống nhất của hai mặt đối lập cũ đợc thay
thế bằng sự thống nhất của hai mặt đối lập mới, hai mặt đối lập mới đấu tranh
chuyển hoá tạo thành mâu thuẫn. Cứ nh thế, đấu tranh giữa các mặt đối lập làm
cho sự vật biến đổi không ngừng từ thấp lên cao chính vì vậy, Lênin khẳng định
sự phát triển là một cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập.
Khi bàn về mối quan hệ giữa thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập,
Lênin chỉ ra rằng: mặc dù thống nhất chỉ là điều kiện để sự vật tồn tại với ý
nghĩa nó chính là nó nhờ có sự thống nhất của các mặt đối lập mà chúng ta
nhận biết đợc sự vật, hiện tợng tồn tại trong thế giới khách quan. Song bản thân
của sự thống nhất chỉ là tơng đối và tạm thời. Đấu tranh giữa các mặt đối lập
mới là tuyệt đối. Nó diễn ra thờng xuyên liên tục trong suốt quá trình tồn tại của
sự vật. Kể cả trong trạng thái sự vật ổn định, cũng nh khi chuyển hoá nhảy vọt
về chất. Lênin viết sự thống nhất (phù hợp, đồng nhất, tác dụng ngang nhau)
của các mặt đối lập là có điều kiện tạm thời, thoáng qua tơng đối. Sự đấu tranh
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối cũng nh sự phát triển, sự vận

động là tuyệt đối.
2.Chuyển hoá của các mặt đối lập
Không phải bất kỳ sự đấu tranh nào của các mặt đều dẫn đến sự chuyển
hoá hơn giữa chúng. Chỉ có sự đấu tranh của các mặt đối lập phát triển đến một
trình độ nhất định, hội các điều kiện cần thiết mới dẫn đến chuyển hoá, bài trừ
và phủ định lẫn nhau. Trong giới tự nhiên chuyển hoá của các mặt đối lập thờng
diễn ra thông qua hoạt động có ý thức của con ngời. Chuyển hoá của các mặt
đối lập chính là lúc mâu thuẫn đợc giải quyết, sự vật cũ mất đi, sự vật mới ta đời
đó chính là quá trình diễn biến rất phức tạp vời nhiều hình thức phong phú khác
nhau.
Do đó, không nên hiểu sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các mặt đối lập chỉ
là sự hoàn đổi vị trí một cách đơn giản, máy móc. Thông thờng thì mâu thuẫn
chuyển hoá theo hai phơng thức.
+Phơng thức thứ nhất : mặt đối lập này chuyển hoá thành mặt đối lập kia
nhng ở trình độ cao hơn xét về phơng diện chất của sự vật.
Ví dụ lực lợng sản xuất và quan hệ trong xã hội phong kiến đấu tranh
chuyển hoá lẫn nhau để hình thành quan hệ sản xuất mới, quan hệ sản xuất t
bản chủ nghĩa và lực lợng sản xuất mới ở trình độ cao hơn.
+Phơng thức thứ hai
Cả hai mặt đối lập chuyển hoá lẫn nhau để hình thành hai mặt đối lập
mới hoàn toàn.
Ví vụ: nền kinh tế Việt Nam chuyển từ thế kế hoạch hoá tập trung quan
liêu bao cấp sang cơ chế thị trờng có sự quản lí của nhà nớc theo định hớng xã
hội chủ nghĩa.
Từ những mâu thuẫn trên cho ta thấy trong thế giới hiện thực, bất kỳ sự
vật hiện tợng nào cũng chứa đựng trong bản thân nó những mặt, những thuộc
tính có khuynh hớng phát triển ngợc chiều nhau. Sự đấu tranh chuyển hoá của
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
các hiện tợng khách quan phổ biến của thế giới. Mâu thuẫn đợc giải quyết, sự
vật cũng mất đi, sự vật mới hình thành. Sự vật mới nảy sinh các mặt đối lập và

mâu thuẫn mới.
Các mặt đối lập này lại đấu tranh chuyển hoá và phủ định lẫn nhau để tạo
thành sự vật mới hơn. Cứ nh vậy mà các sự vật, hiện tợng trong ttg khách quan
thờng xuyên phát triển và biến đổi không ngừng. Vì vậy, mâu thuẫn là nguồn
gốc và động lực của mọi quá trình phát triển.
ii. Mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng
nền kinh tế thị trờng
2.Thực chất kinh tế thị trờng ở Việt Nam
+Một số đặc điểm chung của kinh tế thị trờng ở nớc ta:
Sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam theo định hớng xã hội chủ nghĩa là một tất
yếu lịch sử nó nhằm tới những mụctiêu rất cụ thể và mang tính cách mạng. Nó
thay cũ đối mới hàng loạt vấn đề lý luận và thực tiễn , cả về kinh tế và chính trị
xã hội, nó bảo vệ phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, t tởng Hồ Chí Minh trong
hoàn cảnh điều kiện mới.
Nh chúng ta đã biết, từ khi chủ nghĩa xã hội đợc xây dựng, tất cả các nớc
xã hội chủ nghĩa đều thực hiện nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, cơ chế vận
hành và quản lí kinh tế này đợc duy trì trong một thời gian khá dài và xem nh là
đặc trng riêng biệt của CNXH, là cái đối lập với cơ chế thị trờng của CNTB. Sự
thực thì không phải hoàn toàn nh vậy nền kinh tế tập trung không chỉ là sản
phẩm riêng biệt của CNXH, cũng nh nền kinh tế thị trờng không phải duy nhất
đợc thiết lập trung CNTB Nền kinh tế tập trung đã đ ợc các nớc t bản áp dụng
từ trớc khi nhiều nớc xác lập chế độ xã hội chủ nghĩa. Nhng các nớc TBCN đã
xoá bỏ cơ chế thị trờng sau khi chiến tranh kết thúc và đã đạt đợc những thành
tựu rất lớn về kinh tế, xã hội. Nhng công bằng mà nói, nền kinh tế thị trờng
cũng cha phải là cái duy nhất bảo đảm cho sự tăng trởng và phát triển của xã
hội.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH thì sự tồn tại của nền sản xuất hàng hoá,
nền kinh tế thị trờng bớc phát triển cao của nền sản xuất hàng hoá - là lẽ đ-
ơng nhiên. Nh vậy, có thể nói rằng nền kinh tế thị trờng cũng nh nền kinh tế tập

trung không phải là thuộc tính đặc thù cố hữu của riêng một chế độ xã hội phù
hợp để dành lại hiệu quả cao nhất. Chúng ta đang trong giai đoạn quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, bởi thế việc phát triển nền kinh tế thị trờng là một tất yếu
khách quan. Mới chỉ có hơn chục năm đổi mới vừa qua, với việc chuyển sang
nền kinh tế thị trờng. Việt Nam đã cho nhân dân thế giới ngỡ ngàng. Từ chỗ
chúng ta còn xa lạ, nay đã hội nhập đợc với các nền kinh tế tiên tiến, hiện đại.
Tất cả những thành tựu kinh tế mà chúng ta đã đạt đợc khi chuyển sang nền
kinh tế thị trờng đã nói nên công cuộc đổi mới ở nớc ta là một cuộc cách mạng
thực sự.
ở Việt Nam có đặc điểm là bảo vệ, tận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mac Lênin, t tởng Hồ Chí Minh là mục tiêu, nhiệm vụ không kém phần
quan trọng làm sáng tỏ thêm ý nghĩa và vai trò cách mạng của công cuộc đổi
mới hiện nay ở nớc ta.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, Đảng ta một lần nữa khẳng định
những giá trị khoa học bền vững của chủ nghĩa Mác Lê nin và t tởng Hồ Chí
Minh, đồng thời, tuyên bố với chủ nghĩa Mác Lê nin và t tởng Hồ Chí Minh làm
kim chỉ nam cho mọi hành động.
+Một số đặc điểm của nekt thị trờng ở Việt Nam nhìn từ góc độ triết học.
Thực tiễn vận động của kinh tế thế giới những năm gần đây cho thấy, mô
hình phát triển theo xu hớng thị trờng có sự điều tiết vĩ mô từ trung tâm, trong
bối cảnh của thời đại ngày nay, mô hình hợp lý hơn cả, về đại thể, đáp ứng đợc
những cách thức của sự phát triển.
ở nớc ta, việc thực hiện mô hình này, trong thực tế, chẳng những là nội
dung của công cuộc đổi mới mà hơn thế nữa, còn là công cụ, là phơng thức để
nớc ta đi tới mục tiêu xây dựng CNXH.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Nền kinh tế nớc ta hiện nay, có thể nói đang ở trong giai đoạn quá độ,
chuyển tiếp từ nền kinh tế tập trung, hành chính, bao cấp sang nền kinh tế thị tr-
ờng có sự quản lí của nhà nớc, theo định hớng xã hội chủ nghĩa.
Do vậy, những đặc điểm của giai đoạn quá độ trong nền kinh tế nớc ta, đ-

ơng nhiên là một vấn đề có ý nghĩa, rất cần đợc nghiên cứu, xem xét. Nhận thức
đợc những đặc điểm phức tạp của giai đoạn quá độ, chi phối những đặc điểm
đó, chúng ta sẽ tránh đợc những sai lầm chủ quan, nóng vội, duy ý chí, hoặc
những khuynh hớng cực đoan, máy móc, sao chép, nhận nguyên bản kinh tế thị
trờng từ bên ngoài vào.
Vậy từ phơng diện triết học thì những đặc điểm của nền kinh tế qúa độ
của nớc ta hiện nay là gì? nhng chúng ta đã biết, trong nền kinh tế tập trung
bao cấp, mọi chức năng kinh tế xã hội của nền kinh tế đều đợc triển khai
trong quá trình kế hoạch hoá ở cấp quốc gia. Tính bao cấp của nhà nớc đối với
các hoạt động của sản xuất, lu thông, phân phối khá nặng nền. ở nớc ta trớc
đây, chế độ hạch toán, trên thực tế, còn nặng nề về hình thức. Lợi ích kinh tế,
đặc biệt là lợi ích cá nhân ngời lao động, một động lực trực tiếp của hoạt động
xã hội cha đợc quan dung đúng mực. Vì thế sự vận động của nền kinh tế nhìn
chung là chậm chạp, kém năng động.
Kể từ Đại hội lần thứ VI của Đảng (12-1986) đến nay, theo đờng lối đổi
mới, đất nớc ta đã từng bớc chuyển sang nền kinh tế thị trờng với định hớng xã
hội chủ nghĩa. Và điều đó có ý nghĩa là, chúng ta đã đạt đợc những thành tựu
hết sức quan trọng, những thành tựu cho phép chúng ta điều chỉnh và bổ sung
nhận thức, làm cho quan niệm về CNXH ngày càng cụ thể, đờng lối, chủ trơng,
chính sách ngày càng đồng bộ, căn cứ khoa học và thực tiễn có căn cứ. Những
thành tựu đó, trong một chừng mực nhất định, cũng gián tiếp khả năng của kinh
tế thị trờng trong việc năng động hoá nền kinh tế đất nớc.
Kinh tế thị trờng, nh chúng ta đã biết là một kiểu quan hệ kinh tế- xã hội
mà trong đó, sản xuất và tái sản xuất xã hội gắn chặt với thị trờng, tức là gắn
chặt với quan hệ hàng hoá - tiền tệ, với quan hệ cung cầu Trong nền kinh tế
thị trờng, nét biểu hiện có tính chất bề mặt của đời sống xã hội quan hệ hàng
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
hoá : mọi hoạt động của xã hội phải tính đến quan hệ hàng hoá, hay ít nhất thì
cũng phải sử dụng các quan hệ hàng hoá nh là một khâu trung gian.
Thành tựu của những năm đối mới vừa qua ở nớc ta đã có tác dụng làm

cho chúng quen dần với các quan hệ hàng hoá. Hàm lợng kinh tế trong các hoạt
động xã hội ngày càng đợc chú ý. Những hoạt động xã hội bất chấp kinh tế
hoặc phi kinh tế giảm đáng kể, bớc chuyển sang cơ chế thị trờng đơng nhiên
không tránh khỏi có những mặt tiêu cực của nó, nhng dẫu sao nó cũng nói lên
sức sống và khả năng tác động của các quan hệ thị trờng. Về thực chất của bớc
chuyển này, một số cho rằng ở Việt Nam dù nền kinh tế thị trờng mới vừa đợc
thành lập, còn đang trong những bớc chập chững ban đầu và đợc điều tiết một
cách có ý thức theo định hớng xã hội chủ nghĩa, song cũng tác động khá rõ đến
mọi mặt của đời sống xã hội và để lại ở đó những dấu ấn của mình về mặt văn
hoá tác động đáng quan tâm nhất của cơ chế thị tr ờng là nó đã tạo ra ở Việt
Nam những quan niệm thị trờng không thuần khiết những quan hệ mà ở đó
vừa có màu sắc thị trờng lại vừa cha phải là quan hệ thị trờng. Sự đan xen, chi
phối mãnh liệt của các nhân tố khác của đời sống xã hội trong bối cảnh của một
xã hội vừa ra khỏi cơ chế hành chính bao cấp đã làm cho cơ chế thị trờng
khúc xạ theo nhiều chiều hớng khác nhau.
Một trong những nguyên nhân của tình hình nói trên, đúng nh một ý kiến
đã chỉ ra, trớc hết thuộc về sự đối mới các quan hệ sở hữu. Nếu nh trớc đây, nền
kinh tế nớc ta chỉ có một kiểu sở hữu tơng đối thuần nhất với 2 thành phần tập
thể và quốc doanh, thì hiện nay, cùng với thành phần chủ đạo là sở hữu nhà n-
ớc, còn tồn tại nhiều thành phần sở hữu khác nhau. Những hình thức sở hữu đó,
trong thực tế vận hành của nền kinh tế, không hẳn đã đồng bộ với nhau. Song về
tổng thể, chúng là những bộ phận khách quan của nền kinh tế, có khả năng đáp
ứng những đòi hỏi đa dạng và năng động của kinh tế thị trờng.
Thực ra, trong quan niệm hiện nay của chúng ta về CNXH đã chứa đựng
những t tởng mới về quy luật của sự phù hợp khách quan giữa quan hệ sản xuất
với trình độ phát triển của lực lợng sản xuất. Cái có ý nghĩa quyết định trong
quy luật này là trình độ phát triển của lực lợng sản xuất. Do vậy, sự phù hợp với
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
trình độ phát triển của năng lực sản xuất, sự tồn tại của các thành phần sở hữu
đa dạng ở một nền kinh tế theo định hớng XHCN là hoàn toàn có cơ sở của nó.

Hơn thế nữa, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nớc, trên thực tế, không chỉ là chủ
đạo thuần tuý về tỷ trọng GDP. Theo quan điểm hiện đại về sử lý kinh tế vĩ mô
thì khả năng điều tiết, chỉ đạo của kinh tế nhà nớc đối với các thành phần kinh
tế khác đợc thể hiện trên nhiều mặt: kinh tế nhà nớc có thể là lực lợng nắm bắt
các yết hầu kinh tế. Cũng có thể nói lực lợng chi phối các vị trí đặc biệt nhng
kém sinh lời trong nền kinh tế. Cùng với việc nắm bắt các ngành kinh tế quốc
phòng, thông tin, cơ sở hạ tầng kinh tế nhà n ớc đảm bảo những t liệu sản
xuất chủ yếu phải thuộc về xã hội, phục vụ cho lợi ích của cộng đồng.
Vai trò của nhà nớc và của nền kinh tế nhà nớc trong một nền kinh tế h-
ớng tới thị trờng theo định hớng xã hội chủ nghĩa là những điều không phải bàn
cãi. Nhà nớc, ngoài việc phải trực tiếp quyết định vấn đề của bản thân nền kinh
tế còn phải đóng vai trò là nhân vật trung gian giữa các vấn đề kinh tế và các
vấn đề xã hội. Nhà nớc với các chính sách, luật lệ của mình, một mặt có khả
năng làm cho nền kinh tế đạt tới một sự tăng trởng có hiệu quả, nhng mặt khác
nó cũng lại chính là ngời phải lo giải quyết những vấn đề do chính sách tăng tr-
ởng đó tạo ra. Về đại thể, chìa khoá để đáp ứng những nhu cầu phức tạp và trái
ngợc nhau của những xã hội nằm trong tay bộ máy quản lí vĩ mô của xã hội. Mà
trớc hết, đó là nhà nớc. Tuy nhiên, ở nớc ta hiện nay, nhà nớc và kinh tế nhà
nớc còn có nhiều vấn đề phải đợc tháo gỡ để có thể đơng đợc trọng trách to lớn
của mình. Trên thực tế, bộ máy quản lí vĩ mô của nhà nớc đối với nền kinh tế
còn khá cồng kềnh và kém hiệu quả. Hầu hết các doanh nghiệp kinh tế nhà nớc
đều hoạt động thiếu năng động và quá ỷ lại nhà nớc. Trong một số trờng hợp,
thậm chí kinh tế nhà nớc còn vô tình hoặc cố ý bỏ rơi trận địa mà mình chiếm
lĩnh, tiếp tay cho những phần tử tham nhũng, tiêu cực.
Điều đó có ý nghĩa đối với việc xác định đặc điểm của nền kinh tế quá
độ đến thị trờng ở nớc ta hiện nay có lẽ vẫn là sự thừa nhận xu hớng chủ yếu
trong sự vận động của nó. Tiếp tục đổi mới vào hoạt động có hiệu quả kinh tế
nhà nớc, để kinh tế nhà nớc thực sự giữ vai trò chủ đạo, làm đòn bẩy thúc đầy
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
và điều chỉnh toàn bộ các hoạt động của nền kinh tế. Trên cơ sở đó, giải quyết

ngay các vấn đề xã hội ở tầm vĩ mô, sao cho tăng trởng kinh tế không trở lên
mâu thuẫn gay gắt với trật tự bình thờng của đời sống xã hội.
Thực ra, các vấn đề xã hội của nền kinh tế thị trờng còn sơ khai, quá độ,
lại có mức tăng trởng nhanh, là điều rất khó tránh. Vấn đề chỉ là ở chỗ, chúng ta
phải chấp nhận mặt trái của kinh tế thị trờng đến mức nào. Để từng bớc nâng
cao chất lợng hiệu quả của nền sản xuất xã hội, chúng ta đã có những chính
sách và biện pháp nhất định đối với một số lĩnh vực kinh tế xã hội. Chẳng
hạn, lĩnh vực giáo dục và đào tạo, lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, lĩnh
vực bảo vệ môi trờng Tuy nhiên, cũng có nhiều lĩnh vực thuộc về các vấn đề
xã hội còn cha thực sự có đối sách hoặc còn quá bị động. Chẳng hạn, vấn đề
phân hoá giầu nghèo, vấn đề gia tăng tệ nạn xã hội, vấn đề xuống cấp đạo
đức Đ ơng nhiên, đây là những bài toán không thể có thể đợc giả quyết ngay
trong một sớm một chiều.
Cũng phải thừa nhận rằng, các vấn đề nói trên dù ít dù nhiều, cũng là các
vấn đề của bản thân cơ chế quản lí. Trong nền kinh tế hiện nay, cơ chế quản lí
đang ở giai đoạn hình thành nên thờng là không đồng bộ, thiếu hụ. Chúng ta ch-
a thực sự tạo ra môi trờng an toàn cho sản xuất và kinh doanh. Cơ sở pháp lý
của các hoạt động kinh tế còn có nhiều điều bất cập. Các hoạt động tài chính,
ngân hàng, phân cấp quản lí còn nhiều điều bất hợp lý. Do vậy, trong một số
vụ án kinh tế, cơ chế quản lí đôi khi vừa là thủ phạm lại vừa là nạn nhân của
kinh tế thị trờng. Ttính chất không rõ ràng, thiếu xác định cả trên phơng diện
kinh tế xã hội dờng nh đang là một cái gì đó rất phổ biến, rất đặc trng cho các
quan hệ trong nền kinh tế nớc ta. Cần thiết phải lu ý rằng, khác với cơ chế hành
chính bao cấp, cơ chế thị trờng với các quy mô khách quan khó nắm bắt của
mình, thờng biểu hiện ra nh là một cơ chế tự phát hơn, tự nhiên hơn và nằm xa
sự chi phối của con ngời hơn. Trên thực tế, điều này không nói lên những giới
hạn có thể có của sức mạnh con ngời, mà nó chỉ cho biết một đặc trng của cơ
chế thị trờng. Đặc trng này đòi hỏi quản lí phải hiểu biết sâu sắc hơn về tính
khách quan của các quy luật thị trờng, về khả năng của mỗi chủ thể trong mỗi
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

hoàn cảnh cụ thể. Đơng nhiên đòi hỏi này không hề giản đơn, nhất là trong giai
đoạn quá độ, có sự tồn tạo đan xen giữa các cơ chế ở nớc ta hiện nay. Vấn đề
này là ở chỗ, bản thân cơ chế thị trờng đã dờng nh tự phát hơn khi đó nó lại đợc
hoạt động ở một điều kiện mà yếu tố tự phát có khả năng tác động mạnh hơn.
Bao giờ cũng vậy, trong các giai đoạn quá độ, chuyển tiếp yếu tố tự phát thể
hiện vai trò của mình hơn yếu tố tự giác. Bởi vậy, trong nền kinh tế ở nớc ta
hiện nay, việc nắm đợc các yếu tố tự giác và tự phát của nền kinh tế, hiểu đợc
phơng thức hoặc tìm ra đợc phơng pháp kiểm soát thích hợp đối với chúng ta
điều hết sức có ý nghĩa.Thực tế những năm đổi mới vừa qua chứng tỏ rằng,
trong một số quá trình kinh tế xã hội nhất định, chúng ta thực sự làm chủ
những tác động tự giác cũng nh các tác động tự phát của cơ chế thị trờng. Tuy
nhiên, bên cạnh đó cũng có nhiều hiện tợng và quá trình mà chúng ta còn buông
lỏng sự kiểm soát hoặc cha thực sự có khả năng kiểm soát vận động của chúng
ta.
Trên con đờng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Việc chúng ta bớc đầu sử
dụng thị trờng nh là một công cụ một phơng thức trên thực tế đã đem lại những
kết quả cả về phơng diện thực tiễn và phơng diện nhận thức.
Mỗi hành trang có ý nghĩa mà công cuộc đổi mới trang bị cho chúng ta.
Sản xuất hàng hoá cùng với Nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ
chế thị trờng, hiện đã đợc chúng ta hiểu là không đối lập với CNXH. Với tính
cách là sản phẩm của văn minh nhân loại, một cơ hội để các cộng đồng mở
cửa, tiếp xúc với bên ngoài kinh tế thị trờng rõ ràng là cái khách quan và tất
yếu đối với công cuộc xây dựng CNXH ở nớc ta.
Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nớc ta. Thị trờng vừa là
căn cứ, vừa là đối tợng của công tác kế hoạch hóa, việc điều tiết vĩ mô đối với
thị trờng, một mặt là cho nền kinh tế nớc ta thực sự là trở thành một thị trờng
thống nhất trong cả nớc và thống nhất với thị trờng thế giới. Mặt khác còn có
tác dụng làm cho mỗi đơn vị kinh tế buộc phải khẳng định mình khẳng định
khả năng và vai trò.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Tuy nhiên, nhận ra sức mạnh của kinh tế thị trờng, chúng ta lại cũng hiểu
rõ hơn bấy nhiêu mặt trái của nó đối với sự vận động của đời sống xã hội. Sự
tăng trởng kinh tế đơng nhiên là một mục tiêu của phát triển kinh tế xã hội, nó
có khả năng tạo ra điều kiện để giải quyết các vấn đề xã hội. Nhng tăng trởng
kinh tế không nhất thiết đi liền với tiến bộ xã hội. Do vậy, trong quan niệm của
Đảng ta, để thực hiện sự nghiệp xã hội CNXH với mục tiêu dân giàu, nớc mạnh,
xã hội công bằng văn minh, thì kinh tế thị trờng nhất thiết phải có sự quản lí của
nhà nớc theo định hớng xã hội chủ nghĩa.
Quan hệ kinh tế là chính trị trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Quan
hệ giữa kinh tế và chính trị là một trong những vấn đề cơ bản của công cuộc đổi
mới ở Việt Nam. Đây là vấn đề luôn đợc đặt ra và đợc giải quyết trong suốt quá
trình đổi mới. Những thanh tựu đạt đợc trong 10 năm đổi mới vừa qua không
thể tách rời việc giải quyết một cách đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế và
chính trị. Việc nhận thức về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị cũng không
ngừng phát triển, gắn liền với thực tiễn công cuộc đổi mới. Bài viết này tập
trung phân tích sự phát triển nhận thức về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị
cũng không ngừng phát triển, gắn liền với thực tiễn công cuộc đổi mới.
2. Những mâu thuẫn phát sinh trong quá trình xây dựng nền kinh tế
thị trờng ở Việt Nam.
+Mấy vấn đề lý luận chung của chủ nghĩa Mac Lê nin về quan hệ giữa
kinh tế và chính trị.
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác Lêni thì kinh tế quyết định
chính trị, chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế trong lịch sử phát
triển xã hội loài ngời không phải bao giờ cũng có vấn đề chính trị. Xã hội
nguyên thuỷ cha có giai cấp, cha có vấn đề chính trị. Từ khi xã hội có giai cấp
và nhà nớc xuất hiện chính trị thì vấn đề chính trị mới xuất hiện. Vấn đề chính
trị là vấn đề thuộc về quan hệ giai cấp và đấu tranh giai cấp. Trung tâm của vấn
đề chính trị là vấn đề đấu tranh giữa các giai cấp, các lực lợng xã hội nhằm
dành, giữ chính quyền nhà nớc và sử dụng chính quyền đó làm công cụ để sử
dụng và bảo vệ chế độ xã hội phù hợp với lợi ích giai cấp cầm quyền. Bản thân

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
vấn đề chính trị ra đời hoàn toàn là do kinh tế quyết định. Chính trị không phải
là mục đích, mà chỉ là phơng tiện để sử dụng mục đích kinh tế. Khi phê phán
quan niệm của Đuyrinh cho rằng bạo lực chính trị quyết định kinh tế, F.Engen
đã khảng định: bạo lực chỉ là phơng tiện, còn lợi ích kinh tế, trái lại, là mục
đích. Và trong tác phẩm Lutvich Pronhắc và sự cáo chung của triết học cổ
điển Đức F. Engen đã chỉ rõ để thoả mãn những lợi ích kinh tế thì quyền lực
chính trị chỉ đợc sử dụng làm một phơng tiện đơn thuần.
Quyền lực chính trị là công cụ mạnh mẽ nhất để bảo vệ chế độ xã hội. Sự
thống trị về chính trị của một giai cấp nhất định là điều kiện đảm bảo cho giai
cấp đó thực hiện đợc sự thống trị về kinh tế. Đấu tranh giai cấp, về thực chất là
đấu tranh vì lợi ích kinh tế, đợc thực hiện thông qua đấu tranh chính trị. Theo
E.Engen bất cứ cuộc đấu tranh giai cấp nào cũn đều là đấu tranh chính trị xét
đến cùng đều xoay quanh vấn đề giải phóng về kinh tế. Để nhấn mạnh vai trò
của chính trị V.I. Lê nin đã khẳng định: chính trị không thể không chiếm vị trí
hàng đầu so với kinh tế. Khẳng định đó V.I. Lê nin không có nghĩa là phủ định
vai trò quyết định của kinh tế đối với chính trị mà muốn nhấn mạnh tác động
tích cực của chính trị đối với kinh tế. Vấn đề kinh tế không thể tách rời vấn đề
chính trị nhất định. Giai cấp nào cầm quyền cũng hớng kinh tế phát triển theo
lập trờng chính trị của giai cấp đó nhằm phục vụ cho mục tiêu kinh tế xã hội
nhất định. Và lập trờng chính trị đúng (hay sai) sẽ thúc đẩy (hoặc kìm hãm) sự
phát triển của nền kinh tế V.I. Lê nin còn khẳng định: không có một lập trờng
chính trị đúng nh một giai cấp nhất định nào đó, không thể nào giữ vững đợc sự
thống nhất của chính mình và do đó cũng không thể nào hoàn thành đợc nhiệm
vụ của mình trong lĩnh vực sản xuất. Khi thể chế chính trị không phù hợp với
yêu cầu phát triển của nền kinh tế thì tất yếu kinh tế sẽ mở đờng đi. Khi đó, việc
thay đổi thể chế chính trị cho phù hợp với yêu cầu phát triển của kinh tế là điều
kiện kiên quyết để thúc đẩy kinh tế phát triển. Nh vậy, chúng ta có thể khẳng
định rằng kinh tế và chính trị thống nhất biện chứng với nhau trên nền tảng
quyết định của kinh tế. Đây là cơ sở phơng pháp luận quan trọng trong việc

nhận thức xã hội nói chung, nhận thức công cuộc đổi mới ở Việt Nam nói riêng.

×