Tải bản đầy đủ (.pdf) (170 trang)

Đảng bộ thành phố biên hòa lãnh đạo công tác giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên thời kỳ 1996 2009

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.89 MB, 170 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------

VŨ VĂN QUẾ

ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ BIÊN HỊA
LÃNH ĐẠO CƠNG TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO
CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN THỜI KỲ 1996 – 2009

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LỊCH SỬ
Chuyên ngành lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam
Mã số: 60.22.56

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS Ngơ Quang Định

Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2010


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan, đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi do
TS Ngô Quang Định trực tiếp hướng dẫn, các số liệu nêu trong luận văn là
trung thực, nếu có điều gì sai trái tơi xin chịu trách nhiệm trước pháp luật.

Tác giả luận văn

VŨ VĂN QUẾ


MỤC LỤC
Trang


PHẦN MỞ ĐẦU ..................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................. 1
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài...................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài ......................................... 4
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ............................................. 4
5. Giới hạn của đề tài và nguồn tài liệu ..................................................... 5
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài .................................................. 5
7. Kết cấu của đề tài ................................................................................. 6
Chương 1.VAI TRÒ, TẦM QUAN TRỌNG CỦA ĐẠO ĐỨC VÀ THỰC
TRẠNG ĐẠO ĐỨC CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN THÀNH PHỐ BIÊN
HÒA TRƯỚC NĂM 1996 ........................................................................ 7
1.1. Đạo đức và vai trò, tầm quan trọng của đạo đức trong đời sống xã hội .... 7
1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức và vai trò, tầm quan trọng của đạo đức.......................................... 7
1.1.2. Quan điểm của Đảng về đạo đức và công tác giáo dục đạo đức
cho cán bộ, đảng viên trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước .......................................................................................... 16
1.2. Khái quát về thành phố Biên Hòa và thực trạng đạo đức của đội ngũ
cán bộ, đảng viên thành phố trước năm 1996 ...................................... 22
1.2.1. Khái quát về thành phố Biên Hòa và những định hướng, mục tiêu
chủ yếu của thành phố khi bước vào thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa ........................................................................................... 22
1.2.2. Thực trạng đạo đức của cán bộ, Đảng viên thành phố Biên Hòa
trước năm 1996...................................................................................... 27


Chương 2. ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ BIÊN HÒA LÃNH ĐẠO CÔNG
TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN TRONG
THỜI KỲ


ĐẨY MẠNH CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA

(1996- 2009) .......................................................................................... 33
2.1. Mục tiêu, phương hướng và nội dung giáo dục đạo đức cho cán bộ,
đảng viên của Đảng bộ thành phố Biên Hòa từ 1996 đến 2009 ............ 34
2.1.1. Về mục tiêu của công tác giáo dục đạo đức.................................. 34
2.1.2. Về những phương hướng chủ yếu của công tác giáo dục đạo đức 36
2.1.3. Về nội dung của công tác giáo dục đạo đức ................................. 38
2.2. Những biện pháp chủ yếu và kết quả giáo dục đạo đức cho cán bộ,
đảng viên của Đảng bộ thành phố Biên Hòa từ 1996 đến 2009 ............ 39
2.2.1. Những biện pháp chủ yếu của công tác giáo dục đạo đức ............ 39
2.2.2. Kết quả đạt được và những hạn chế ............................................. 58
2.3. Đảng bộ thành phố Biên Hòa lãnh đạo thực hiện cuộc vận động
“học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” từ năm 2006
đến năm 2009 ..................................................................................... 72
2.3.1. Những chủ trương và biện pháp lãnh đạo của Đảng bộ thành phố
Biên Hòa đối với cuộc vận động ............................................................ 72
2.3.2. Kết quả thực hiện cuộc vận động từ năm 2006 đến năm 2009...... 77
Chương 3. NHẬN XÉT CHUNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KIẾN
NGHỊ VỀ CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO CÁN BỘ, ĐẢNG
VIÊN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA TRONG THỜI GIAN TỚI ............ 85
3.1. Nhận xét chung về công tác giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên
của Đảng bộ thành phố Biên Hòa thời kỳ 1996 - 2009 ........................ 85
3.1.1. Ưu điểm và hạn chế chủ yếu ........................................................ 85
3.1.2. Một số kinh nghiệm rút ra ............................................................ 91


3.2. Một số giải pháp, kiến nghị nhằm thực hiện tốt công tác giáo dục
đạo đức cho cán bộ, đảng viên ở thành phố Biên Hòa trong thời gian tới
........................................................................................................... 93

3.2.1. Cần thực hiện tốt cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng nhằm tạo sự
thống nhất về nhận thức trong toàn Đảng bộ .......................................... 96
3.2.2. Tiếp tục đổi mới công tác tổ chức, cán bộ và kiểm tra, xây dựng đội
ngũ cán bộ, đảng viên và tổ chức Đảng thật sự trong sạch vững mạnh
............................................................................................................ 106
3.2.3. Quan tâm cải thiện điều kiện làm việc, sinh hoạt, nâng cao đời sống
của cán bộ, đảng viên, xây dựng môi trường làm việc tích cực cho đội
ngũ cán bộ cơng chức .......................................................................... 115
3.2.4. Đẩy mạnh cơng tác tự phê bình và phê bình, nâng cao hiệu quả tự
rèn luyện, tu dưỡng của cán bộ đảng viên ............................................ 119
KẾT LUẬN ........................................................................................ 123


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bước vào thời kỳ đổi mới, đặc biệt là giai đoạn đẩy mạnh cơng nghiệp
hố, hiện đại hố đất nước (từ năm 1996 đến nay), cùng với sự biến đổi nhiều
mặt của tình hình kinh tế xã hội, những quan niệm, chuẩn mực, hành vi đạo
đức cũng chịu sự tác động và có những biến đổi nhất định, trong đó có vấn đề
đạo đức của cán bộ, đảng viên. Đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng nhìn
chung có bản chất cách mạng tốt đẹp, phấn đấu hy sinh và từng trải trong mọi
thời kỳ cách mạng. Trong bước chuyển biến của cách mạng vừa qua, nhiều
đảng viên đã giữ vững phẩm chất cách mạng, nhanh chóng nâng cao năng lực
cơng tác, xứng đáng là chiến sỹ tiên phong, được quần chúng tin yêu, mến
phục. Tuy nhiên, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khoá IX đã đánh giá: “Tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí,
suy thối về tư tưởng, chính trị và phẩm chất đạo đức, lối sống của một bộ
phận cán bộ, đảng viên vẫn còn rất nghiêm trọng”, “biểu hiện của sự suy thoái

đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên rất phức tạp, đa dạng như: chủ
nghĩa cá nhân, tư lợi, tham ô tài sản của nhà nước và nhân dân; sống xa hoa,
lãng phí, sa đọa, bng thả; quan liêu xa rời quần chúng; cục bộ, bè phái,
thiếu tình đồng chí, gây mất đồn kết, vơ trách nhiệm trong công việc, coi
thường kỷ cương phép nước, vô kỷ luật; đánh mất danh dự của tổ chức và bản
thân”[3, tr.128]. Đáng chú ý hơn là sự suy thoái về đạo đức có chiều hướng
gia tăng đang làm xói mịn bản chất cách mạng của đội ngũ đảng viên của
Đảng, làm mất lòng tin của quần chúng, làm gương xấu cho một bộ phận
quần chúng tiêu cực, đây là những thách thức lớn, là nguy cơ tiềm ẩn liên
quan đến sự sống còn của Đảng, của chế độ. Đứng trước thực trạng đó, Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nhà nước và các đồn thể nhân dân đã có rất nhiều giải
pháp để xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên thật sự trong sạch, có sức chiến


2

đấu cao, trong đó có giải pháp giáo dục đạo đức cho đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Cùng với cả nước, khi bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hố, hiện
đại hố đất nước, thành phố Biên Hịa có nhiều đổi thay đáng kể trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội. Cán bộ, đảng viên và nhân dân thành
phố Biên Hòa đã và đang nỗ lực thi đua thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại
hội lần thứ IX và X của Đảng bộ thành phố, đưa Biên Hòa trở thành thành
phố hiện đại, văn minh và phát triển. Đi đầu trong sự nghiệp đó phải kể đến
những cán bộ, đảng viên kiên trung đang ngày đêm phát huy tài trí, đóng góp
cho sự đi lên của thành phố. Tuy nhiên, những vấn đề đặt ra đối với đất nước
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng là những vấn đề
đặt ra đối với Đảng bộ thành phố, trong đó có vấn đề giáo dục đạo đức cho
cán bộ, đảng viên trong thời kỳ mới.
Với mong muốn tìm hiểu một cách có hệ thống về cơng tác giáo dục đạo
đức cho cán bộ, đảng viên thành phố Biên Hòa trong thời kỳ đẩy mạnh cơng

nghiệp hố, hiện đại hố đất nước (1996 - 2009), để có cơ sở luận giải những
vấn đề về thực tiễn đạo đức của cán bộ, đảng viên thành phố những năm vừa
qua và hiện nay, tôi chọn đề tài “Đảng bộ thành phố Biên Hòa lãnh đạo
công tác giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên thời kỳ 1996 - 2009” để
nghiên cứu.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Bàn về vấn đề giáo dục đạo đức cho đội ngũ cán bộ, đảng viên trong thời
kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước ở nước ta, đã có nhiều
cơng trình nghiên cứu, tiêu biểu như:
Giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên trong thời kỳ đẩy mạnh cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước của Ban Tư tưởng văn hoá Trung ương,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Hà Nội năm 2004. Cuốn sách gồm 5
chuyên đề cơ bản đề cập một cách có hệ thống nội dung lý luận cũng như


3

thực tiễn đạo đức xã hội của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đặc biệt tài liệu đã khái quát một cách cô đọng những chuẩn mực, truyền
thống giá trị đạo đức của dân tộc ta, những nguyên tắc, phương hướng, giải
pháp xây dựng đạo đức mới cho đội ngũ cán bộ, đảng viên nhằm thực hiện
thắng lợi đường lối cách mạng Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Về giáo dục đạo đức cách mạng trong cán bộ, đảng viên hiện nay - thực
trạng và giải pháp do tác giả Đào Duy Quát làm chủ biên, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia - Hà Nội năm 2004. Cuốn sách khái quát một số vấn đề lý
luận chung về đạo đức, lối sống; đề cập tới thực trạng đạo đức, lối sống và
công tác giáo dục đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên; trên cơ sở đó
cuốn sách đề ra phương hướng, giải pháp và những kiến nghị về đổi mới công
tác giáo dục đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên thời gian tới.
Đạo đức người cán bộ lãnh đạo chính trị hiện nay - thực trạng và giải

pháp, của Nguyễn Thế Kiệt, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Hà Nội, năm
2005. Cuốn sách đề cập tới vai trò, nội dung và yêu cầu về đạo đức của người
cán bộ lãnh đạo chính trị trong điều kiện kinh tế thị trường, đồng thời nêu lên
thực trạng đạo đức của người cán bộ lãnh đạo chính trị ở Việt Nam. Cuốn
sách cũng dành phần lớn các trang trình bày phương hướng và những giải
pháp chủ yếu nhằm nâng cao phẩm chất đạo đức cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo
chính trị ở Việt Nam.
Tất cả các cơng trình trên đã đề cập một cách toàn diện những vấn đề lý
luận về đạo đức, đạo đức cách mạng, đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ
Chí Minh. Các tác phẩm đã đi sâu, nêu lên những thực trạng và giải pháp giáo
dục nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên trong thời kỳ đổi mới,
thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước. Tuy nhiên, các cơng trình trên
chỉ tập trung nghiên cứu, đề cập đến vấn đề giáo dục đạo đức cho cán bộ,
đảng viên trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá - thời kỳ đổi mới nói
chung mà chưa đề cập một cách cụ thể, sâu sắc tới vấn đề giáo dục đạo đức


4

cho cán bộ, đảng viên thành phố Biên Hòa trong thời kỳ đẩy mạnh cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước. Như vậy đề tài “Đảng bộ thành phố Biên
Hòa lãnh đạo công tác giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên thời kỳ 1996
- 2009” đến nay vẫn chưa có cơng trình khoa học nào tiếp cận nghiên cứu.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài
- Mục đích nghiên cứu của đề tài:
Nhằm làm rõ mục tiêu, phương hướng, nội dung và những biện pháp
chủ yếu của công tác giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên của Đảng bộ
thành phố Biên Hòa trong thời kỳ 1996 - 2009 - thời kỳ đẩy mạnh cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước; trên cơ sở đó luận văn đưa ra một số kiến
nghị, giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục đạo đức cho cán

bộ, đảng viên của thành phố trong thời gian tới nhằm góp phần xây dựng
Đảng bộ thành phố trong sạch vững mạnh, xứng đáng là người lãnh đạo,
người đầy tớ thật trung thành của nhân dân như Bác Hồ đã căn dặn.
- Nhiệm vụ của đề tài:
Để đạt được mục đích đã đề ra, đề tài tập trung làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn
công tác giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa của Đảng bộ thành phố Biên Hịa; đi sâu tìm hiểu những mục tiêu, phương
hướng, nội dung, biện pháp và kết quả của công tác giáo dục đạo đức cho cán
bộ, đảng viên thời kỳ 1996 – 2009; đề xuất một số giải pháp nâng cao chất
lượng công tác giáo dục đạo đức của Đảng bộ thành phố trong thời gian tới.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn lấy Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm cơ sở lý
luận, và trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả sử dụng phương pháp lịch sử,
phương pháp logic, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, và
phương pháp điều tra xã hội học.


5

5. Giới hạn của đề tài và nguồn tài liệu
Giới hạn của đề tài là Đảng bộ thành phố Biên Hịa lãnh đạo cơng tác
giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên của Đảng bộ thành phố từ năm
1996 - 2009.
Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài, nguồn tài liệu chủ yếu
mà tác giả sử dụng là: sách kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin và các tác
phẩm của Hồ Chí Minh nói về đạo đức và công tác giáo dục đạo đức cho
cán bộ, đảng viên; các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam và các giáo
trình, tài liệu về cơng tác xây dựng Đảng; các văn kiện của Đảng bộ tỉnh
Đồng Nai và thành phố Biên Hịa về cơng tác xây dựng Đảng; các tác phẩm
viết về lịch sử mảnh đất Biên Hòa- Đồng Nai và các tài liệu mà tác giả đi

thực tế sưu tầm được.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Đề tài “Đảng bộ thành phố Biên Hòa lãnh đạo công tác giáo dục đạo
đức cho cán bộ, đảng viên thời kỳ 1996 - 2009” tiếp tục kế thừa những vấn
đề chung về giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên thời kỳ cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước mà các cơng trình trước đó đã đề cập, trên cơ sở đó tác
giả đóng góp một số vấn đề mới về công tác giáo dục đạo đức cho cán bộ,
đảng viên của Đảng bộ thành phố Biên Hịa như:
Một là, luận văn hệ thống hóa quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đạo đức
và công tác giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên thời kỳ cơng nghiệp
hóa hiện đại hóa đất nước, trên cơ sở đó tác giả luận văn trình bày thực
trạng đạo đức của đội ngũ cán bộ, đảng viên thành phố Biên Hòa trước năm
1996 (trước thời kỳ Đảng ta chủ trương đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước).


6

Hai là, luận văn hệ thống hóa và làm rõ những mục tiêu, phương hướng,
nội dung, biện pháp và kết quả của công tác giáo dục đạo đức cho cán bộ,
đảng viên của Đảng bộ thành phố Biên Hòa trong suốt thời kỳ 1996 – 2009.
Ba là, luận văn trình bày đánh giá chung của tác giả về công tác giáo dục
đạo đức cho cán bộ, đảng viên của Đảng bộ thành phố Biên Hòa thời kỳ
1996- 2009, nêu lên những kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
công tác giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên của Đảng bộ thành phố Biên
Hịa trong thời gian tới.
Vì vậy, đề tài “Đảng bộ thành phố Biên Hòa lãnh đạo công tác giáo
dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên thời kỳ 1996 - 2009” có thể sử dụng làm
tài liệu tham khảo cho các tập thể và cá nhân khi nghiên cứu về lịch sử xây

dựng và trưởng thành của Đảng bộ thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo, kết luận và phụ lục, đề
tài được kết cấu thành 3 chương, 7 tiết.


7

Chương 1
VAI TRÒ, TẦM QUAN TRỌNG CỦA ĐẠO ĐỨC VÀ
THỰC TRẠNG ĐẠO ĐỨC CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN
THÀNH PHỐ BIÊN HỊA TRƯỚC NĂM 1996
1.1.

Đạo đức và vai trị, tầm quan trọng của đạo đức trong đời sống xã hội

1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức và vai trị, tầm quan trọng của đạo đức
1.1.1.1. Về đạo đức và chuẩn mực đạo đức
Đạo đức hiểu theo nghĩa chung nhất, là một hình thái ý thức xã hội, bao
gồm những nguyên tắc, chuẩn mực, định hướng giá trị được xã hội thừa
nhận, có tác dụng chi phối, điều chỉnh hành vi của con người trong quan hệ
với người khác và toàn xã hội [3, tr.9].
Đạo đức là một hiện tượng lịch sử, đạo đức được phát triển trong tiến
trình biến đổi các quan hệ kinh tế và các quan hệ xã hội khác, trong tiến trình
tiến bộ văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của lồi người. Ăngghen viết:
“Xét cho cùng, mọi học thuyết về đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản
phẩm của tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ”[01, tr.13]. Như vậy, đạo
đức không là sự biểu hiện của một sức mạnh nào đó ở bên ngồi xã hội, bên
ngồi các quan hệ con người; cũng không phải là sự biểu hiện của những

năng lực “tiên thiên”, nhất thành bất biến của con người, với tư cách là sự
phản ánh tồn tại xã hội, đạo đức là sản phẩm của những điều kiện sinh hoạt
vật chất của xã hội, của cơ sở kinh tế. Bên cạnh những yếu tố chung cho loài
người, đạo đức bao gồm những tiêu chuẩn, những nguyên tắc, những lý
tưởng, v.v.., có tính chất nhất thời về lịch sử và có tính chất giai cấp. Trong
một xã hội phân chia thành giai cấp, đạo đức nhất định mang tính giai cấp,


8

phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp; trong mọi xã hội có giai cấp đối kháng, bên
cạnh hệ thống đạo đức chuẩn y những quan hệ xã hội đang tồn tại, khẳng định
lợi ích của giai cấp bóc lột thống trị, cịn hình thành một đạo đức phủ nhận hệ
thống đạo đức trên. Đạo đức thứ hai này là do giai cấp bị áp bức đề ra, giai
cấp đứng lên đấu tranh cải tạo xã hội, được giải phóng khỏi quyền lực tinh
thần của đạo đức thống trị, xây dựng nên đạo đức của mình - cơ sở để xây
dựng đạo đức của tương lai. Về mặt này đạo đức Cộng sản chủ nghĩa có tính
đặc thù về ngun tắc, nó xuất hiện với tính cách là đạo đức giai cấp của giai
cấp vô sản, về sau trở thành đạo đức toàn dân, của toàn bộ xã hội - Xã hội chủ
nghĩa và sau này nữa trở thành đạo đức chung cho loài người. Theo cuốn từ
điển triết học (1975), nhà xuất bản Tiến Bộ- Mat- xcơ -va, thì: “đạo đức Cộng
sản chủ nghĩa là toàn bộ những nguyên tắc sống và những quy phạm đạo đức
phù hợp với hình thái kinh tế xã hội Cộng sản chủ nghĩa. Tiêu chuẩn khách
quan của đạo đức Cộng sản chủ nghĩa là đấu tranh cho sự toàn thắng của xã
hội Cộng sản chủ nghĩa, những nguyên tắc của đạo đức Cộng sản chủ nghĩa
tạo thành quy tắc đạo đức của người xây dựng chủ nghĩa Cộng sản; đó là
trung thành với sự nghiệp của chủ nghĩa Cộng sản, bằng lao động làm tăng
thêm của cải xã hội, ý thức nghĩa vụ xã hội, tinh thần tập thể, chủ nghĩa nhân
đạo, chủ nghĩa quốc tế” [26, tr 158].
Đạo đức là một hiện tượng xã hội có cấu trúc phức tạp, đạo đức xã hội

bao gồm hoạt động đạo đức theo quan điểm, nội dung và động cơ của nó, việc
mọi người thừa nhận phải cư xử như thế nào trong một xã hội nào đó hành vi
của một tập hợp người, phong tục; những quan hệ đạo đức điều chỉnh hoạt
động đó và được biểu hiện trong những hình thức khác nhau của bổn phận,
của yêu cầu đối với con người (lương tâm, nghĩa vụ, phẩm cách, tiêu chuẩn
đạo đức, trách nhiệm); ý thức đạo đức phản ánh những quan hệ trên ở dạng
những quan niệm thích hợp (những nguyên tắc, những tiêu chuẩn, những lý
tưởng xã hội và đạo đức, những khái niệm thiện và ác, công bằng và bất


9

cơng), tất cả những hình thức này của ý thức đạo đức được hợp nhất thành
một hệ thống, được sắp xếp một cách logic cho phép không chỉ quy định mà
còn luận chứng và đánh giá một cách nhất định những hành động đạo đức. Áp
dụng vào những lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, trong đạo đức hình
thành những quy tắc đặc biệt (đạo đức lao động, đạo đức nghề nghiệp, đạo
đức trong Đảng, đạo đức sinh hoạt, đạo đức gia đình …vv) mà những quy tắc
này chỉ hợp thành những lĩnh vực tương đối độc lập có một luận cứ thống
nhất của đạo đức.
“Đạo đức là những chuẩn mực, nguyên tắc được xã hội thừa nhận”[23,
tr.14], chuẩn mực đạo đức được quy định bởi nhiều yếu tố, “xét về nội dung
của nó, đạo đức là một hiện tượng mang tính lịch sử, một hiện tượng thuộc
kiến trúc thượng tầng và được quy định bởi cơ sở hạ tầng” [4, tr.17]. Sự quyết
định của cơ sở hạ tầng đối với đạo đức được biểu hiện ở chỗ: nội dung, tính
chất, khuynh hướng biến đổi của đạo đức do các quan hệ kinh tế và sự biến
đổi của các quan hệ kinh tế đó quy định, vì vậy mà chuẩn mực đạo đức của
các hình thái xã hội trong lịch sử có những biểu hiện đặc thù. “Cách mạng xã
hội chủ nghĩa và xây dựng Chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Cộng sản sẽ xác lập
một nền đạo đức mới- đạo đức xã hội chủ nghĩa và Cộng sản chủ nghĩa.

Trong nền đạo đức đó, quan hệ nhân đạo thực sự được xác lập ; mọi mối
quan hệ đạo đức không bị vẩn đục bởi đồng tiền , bởi quan hệ gia tộc, bởi
những hành động cơ vụ lợi khác; tinh thần tập thể; sự thống nhất giữa phẩm
chất đạo đức cá nhân và phẩm chất đạo đức xã hội; sự thống nhất giữa chủ
nghĩa yêu nước Xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công
nhân; khả năng của mỗi cá nhân và cả cộng đồng khơng ngừng tự hồn thiện
đạo đức phù hợp với quy luật phát triển xã hội… ngày càng được củng cố
vững chắc”. [4, tr.26].


10

Hồ Chí Minh là một trong những nhà tư tưởng, những lãnh tụ cách mạng
đã bàn nhiều nhất đến vấn đề đạo đức, Người không để lại những tác phẩm
đạo đức lớn, nhưng những tư tưởng lớn của Người về đạo đức đã nằm trong
những bài viết, bài nói ngắn gọn, được diễn đạt rất cô đọng, hàm súc theo
phong cách phương Đông, rất quen thuộc với con người Việt Nam, bản thân
Người lại thực hiện trước nhất, nhiều nhất những tư tưởng ấy, nhiều hơn cả
những điều Người đã nói, đã viết về đạo đức. Người vừa là một nhà đạo đức
học lớn, lại vừa là tấm gương đạo đức trong sáng nhất, tiêu biểu nhất đã được
thế giới thừa nhận.
Theo Hồ Chí Minh, những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người
Việt Nam trong thời đại mới gồm:
- Trung với nước, hiếu với dân: trung với nước là trung thành với sự
nghiệp dựng nước và giữ nước. Đối với cán bộ, đảng viên “điều chủ chốt nhất
của đạo đức cách mạng là quyết tâm suốt đời tranh đấu cho Đảng, cho cách
mạng, là tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân, là “trung với nước,
hiếu với dân”, hơn nữa phải là “tận trung, tận hiếu”, thì mới xứng đáng vừa
là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ thật trung thành của nhân dân”[21, tr.346].
- Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư: Cần tức là lao động cần cù,

siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; lao động với
tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm.
Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của
dân, của nước, của bản thân mình. Liêm tức là ln ln tơn trọng giữ gìn của
cơng và của dân; khơng xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của nhà nước, của
nhân dân, phải trong sạch, không tham địa vị, không tham tiền tài, khơng
tham sung sướng, chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ.
Chính nghĩa là khơng tà, thẳng thắn đứng đắn đối với mình, đối với người và
đối với việc. Chí cơng vơ tư nghĩa là “khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ
đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”[21, tr.349-351].


11

- Có lịng u thương con người: tình u thương đó là tình cảm rộng
lớn, trước hết dành cho những người cùng khổ, những người lao động bị áp
bức bóc lột, đó là mong muốn làm cho đất nước được độc lập , dân được tự
do, mọi người ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Đó là tinh
thần tơn trọng con người, ln nghiêm khắc với mình, rộng rãi, độ lượng với
người khác.
- Có tinh thần quốc tế trong sáng: đó là tinh thần đồn kết quốc tế vơ
sản, đồn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động toàn thế giới
nhằm thực hiện những mục tiêu lớn của thời đại là hịa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội, là độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội, là hợp tác
và hữu nghị với tất cả các nước, các dân tộc.
Hồ Chí Minh nêu ra 5 điểm đạo đức mà người đảng viên phải giữ gìn
cho đúng, đó là:
- Tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân.
- Ra sức phấn đấu để thực hiện mục tiêu của Đảng.
- Vơ luận trong hồn cảnh nào cũng quyết tâm chống mọi kẻ địch, luôn

luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, quyết không chịu khuất phục, không
chịu cúi đầu.
- Vơ luận trong hồn cảnh nào cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết.
- Hịa mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần
chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng [3, tr. 30].
Về nguyên tắc xây dựng đạo đức mới, Hồ Chí Minh cho rằng:
- Nói đi đơi với làm, phải nêu gương về đạo đức.
- Xây đi đôi với chống.
- Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời [3, tr. 37-38].
Thực tiễn cách mạng Việt Nam, nhờ có nền tảng đạo đức cách mạng
vững chắc là đạo đức Mác - Lênin, đạo đức Hồ Chí Minh, nhờ trí tuệ sáng
suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, và nhờ phẩm chất đạo đức tốt đẹp của con
người Việt Nam mới mà cách mạng Việt Nam đã đi từ thắng lợi này đến


12

thắng lợi khác, giành độc lập thống nhất cho Tổ quốc, cả nước đi lên Chủ
nghĩa xã hội, phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, cơng bằng và văn minh.
1.1.1.2. Về vai trị và tầm quan trọng của đạo đức trong đời sống xã hội
Đạo đức là một hiện tượng lịch sử, ngay từ khi xuất hiện đạo đức đã có
vai trị rất lớn, chi phối mọi hoạt động của con người và xã hội, đạo đức với
những chuẩn mực giá trị đúng đắn, là một bộ phận quan trọng của nền tảng
tinh thần của xã hội, đạo đức góp phần giữ vững ổn định chính trị xã hội, qua
đó thúc đẩy sự phát triển của kinh tế- xã hội, xây dựng xã hội dân giàu, nước
mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Trong xã hội, sự khủng hoảng của đạo
đức, sự “lệch chuẩn, loạn chuẩn”… là một trong những nguyên nhân dẫn đến
khủng hoảng chính trị, kinh tế, xã hội… Vai trị của đạo đức còn thể hiện rõ
rệt trong các chức năng của đạo đức: Chức năng điều chỉnh hành vi, chức

năng giáo dục, chức năng nhận thức. Đạo đức là một phương thức điều chỉnh
hành vi, sự điều chỉnh hành vi làm cá nhân và xã hội cùng tồn tại và phát
triển, đảm bảo quan hệ lợi ích cá nhân và cộng đồng. Đạo đức đòi hỏi từ tối
thiểu đến tối đa đối với các hành vi cá nhân, phương thức điều chỉnh là bằng
dư luận xã hội và lương tâm, những chuẩn mực đạo đức bao gồm cả chuẩn
mực ngăn cấm và cả chuẩn mực khuyến khích. Mục đích điều chỉnh của đạo
đức là đảm bảo sự tồn tại và phát triển xã hội bằng tạo nên quan hệ lợi ích
cộng đồng và cá nhân theo nguyên tắc hài hòa lợi ích cộng đồng, cá nhân và
khi cần phải ưu tiên lợi ích cộng đồng. Đối tượng điều chỉnh của đạo đức là
hành vi cá nhân (trực tiếp) qua đó điều chỉnh quan hệ cá nhân với cộng đồng
(gián tiếp). Cách thức điều chỉnh được biểu hiện là lựa chọn giá trị đạo đức;
xác định chương trình của hành vi bởi lý tưởng đạo đức; xác định phương án
cho hành vi bởi chuẩn mực đạo đức; tạo nên động cơ của hành vi bởi niềm
tin, lý tưởng, tình cảm của đạo đức, kiểm soát uốn nắn hành vi bởi dư luận xã


13

hội. Chức năng điều chỉnh hành vi được thực hiện bởi hai hình thức chủ yếu:
xã hội và tập thể tạo dư luận để khen ngợi, khuyến khích, cải thiện, phê phán
mạnh mẽ cái ác và bản thân chủ thể đạo đức tự giác điều chỉnh hành vi trên cơ
sở những chuẩn mực đạo đức xã hội. Chức năng giáo dục của đạo đức được
thể hiện ở chỗ hệ thống đạo đức xã hội tác động đến con người và con người
tác động lại hệ thống đạo đức xã hội. Hệ thống đạo đức do con người tạo ra,
nhưng sau khi ra đời hệ thống đạo đức tồn tại như là cái khách quan hóa tác
động, chi phối con người. Xã hội có giai cấp hình thành và tồn tại nhiều hệ
thống đạo đức mà các cá nhân chịu sự tác động, ở đây môi trường đạo đức tác
động đến đạo đức cá nhân bằng nhận thức đạo đức và thực tiễn đạo đức, nhận
thức đạo đức để chuyển hóa đạo đức xã hội thành ý thức đạo đức cá nhân.
Thực tiễn đạo đức là hiện thực hóa nội dung giáo dục bằng hành vi đạo đức.

Các hành vi đạo đức lặp lại trong đời sống xã hội và cá nhân làm cả đạo đức
cá nhân và xã hội được củng cố, phát triển thành thói quen, truyền thống đạo
đức, tập quán đạo đức. Hiệu quả giáo dục đạo đức phụ thuộc vào điều kiện
kinh tế- xã hội, cách thức tổ chức giáo dục, mức độ tự giác của chủ thể và đối
tượng giáo dục trong quá trình giáo dục. Như vậy chức năng giáo dục của đạo
đức được hiểu một mặt là “giáo dục lẫn nhau trong cộng đồng”, giữa cá nhân
và cá nhân, giữa cá nhân và cộng đồng; mặt khác, là sự “tự giáo dục” ở các
cấp độ cá nhân lẫn cấp độ cộng đồng.
Đề cập về vai trò và tầm quan trọng của đạo đức, chủ nghĩa Mác Lênin khẳng định:
Thứ nhất, đạo đức có vai trò rất lớn trong đời sống xã hội, trong đời sống
của con người, đạo đức là vấn đề thường xuyên được đặt ra và giải quyết
nhằm đảm bảo cho cá nhân và cộng đồng tồn tại phát triển.
Thứ hai, sống trong xã hội, người ta ai cũng phải suy nghĩ về những vấn
đề đạo đức để tìm ra những con đường, cách thức và phương tiện hoạt động


14

nhằm kết hợp lợi ích của mình và cộng đồng, từ đó bảo đảm cho sự tồn tại,
phát triển của chính mình và cộng đồng.
Thứ ba, vai trị của đạo đức cịn được biểu hiện thơng qua các chức năng
cơ bản của đạo đức như: chức năng điều chỉnh hành vi, chức năng giáo dục,
chức năng nhận thức.
Thứ tư, trong sự vận động phát triển của xã hội loài người suy cho cùng
nhân tố kinh tế là cái chủ yếu quyết định. Tuy nhiên, nếu tuyệt đối hóa cái
“chủ yếu” này thành cái “duy nhất” thì sẽ dẫn tư duy và hành động đến những
lầm lạc đáng tiếc. Sự tiến bộ của xã hội, sự phát triển của xã hội khơng thể
thiếu vai trị của đạo đức, và khi xã hội lồi người có giai cấp, có áp bức, có
bất công, chiến đấu cho cái thiện đẩy lùi cái ác đã trở thành ước mơ, khát
vọng, đã trở thành chất men, thành động lực kích thích, cổ vũ nhân loại vượt

lên, xốc lên, “đạo đức đã trở thành mục tiêu đồng thời cũng là động lực để
phát triển xã hội”[01, tr.13].
Đề cập đến vai trò và tầm quan trọng của đạo đức, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ:
Thứ nhất, đạo đức được xem xét trên cả hai phương diện lý luận và thực
tiễn, vai trò của đạo đức cách mạng là to lớn, Hồ Chí Minh coi đạo đức là nền
tảng của người cách mạng, cũng giống như gốc của cây, ngọn nguồn của
sông, của suối. Người viết: “cũng như sơng có nguồn thì mới có nước, khơng
có nguồn thì sơng cạn. Cây phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo. Người
cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng khơng
lãnh đạo được nhân dân”[3, tr.29].
Thứ hai, đạo đức của con người mới là đạo đức cách mạng, như Người
vẫn thường nói, đối với con người, sức có mạnh mới gánh được nặng và đi
được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng mới hoàn thành được
nhiệm vụ cách mạng, bởi lẽ con đường đi đến độc lập dân tộc và Chủ nghĩa


15

xã hội là con đường dài, đòi hỏi sự phấn đấu không ngừng của mỗi người,
mỗi thế hệ và nhiều thế hệ nối tiếp nhau, chăm lo cái gốc, cái nguồn, cái nền
tảng ấy là công việc thường xuyên của tồn Đảng, tồn dân, của mỗi gia đình
và mỗi người trong xã hội ta.
Thứ ba, đạo đức là gốc, là nền tảng vì nó liên quan tới Đảng cầm quyền.
Nguy cơ của Đảng cầm quyền đó là sự sai lầm về đường lối, suy thoái về đạo
đức cách mạng của cán bộ, đảng viên. Đảng cầm quyền lãnh đạo xã hội, nếu
cán bộ, đảng viên không tu dưỡng đạo đức thì mặt trái của quyền lực có thể
làm tha hố con người. Vì thế, Hồ Chí Minh cho rằng Đảng là đạo đức, là văn
minh, Người căn dặn trong Di chúc “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi
đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần

kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng
đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”[3, tr.86].
Thứ tư, vai trò của đạo đức còn thể hiện là lòng cao thượng của con
người, mỗi người có cơng việc, tài năng, vị trí khác nhau… nhưng ai giữ được
đạo đức cách mạng thì là người cao thượng.
Thứ năm, Đảng là đạo đức, là văn minh thì mới hồn thành sứ mệnh lịch
sử vẻ vang của mình, Đảng Cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự,
lương tâm của dân tộc mình và của thời đại. Trí tuệ của Đảng là sự hiểu biết
đúng đắn về chủ nghĩa Mác - Lênin, tri thức hiện đại của nhân loại, thực tiễn
Việt Nam và thế giới, những quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam,
những hiểu biết để đưa sự nghiệp cách mạng đến thắng lợi. Đạo đức là những
phẩm chất mà con người cần có để tham gia vào cuộc đấu tranh cho độc lập
dân tộc và Chủ nghĩa xã hội. Muốn làm cách mạng thì con người cần có tâm
trong sáng, đạo đức cao đẹp đối với giai cấp công nhân, nhân dân lao động,
với cả dân tộc. Cái tâm ấy phải thể hiện trong các mối quan hệ xã hội hằng
ngày với dân, với nước, với đồng chí, đồng nghiệp, với mọi người xung
quanh mình, phải có tâm, có đức mới giữ được chủ nghĩa Mác - Lênin và đưa


16

chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong cuộc sống.
Thứ sáu, đức và tài có quan hệ mật thiết với nhau, có đức nhưng phải có
tài, hồng và chuyên phải kết hợp, tài càng lớn thì đức càng phải cao, vì đức tài nhằm phục vụ nhân dân, đạo đức là gốc, là vũ khí mạnh mẽ trong cuộc đấu
tranh vì độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội. Người dạy: có tài mà khơng có
đức là người vơ dụng, có đức mà khơng có tài thì làm việc gì cũng khó.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức hồn tồn phù hợp với truyền thống đạo đức, luân lý của con người Việt
Nam, đồng thời đó cũng là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công
tác xây dựng Đảng, xây dựng đất nước trong thời kỳ mới. Đạo đức, với những

chuẩn mực giá trị đúng đắn, mãi mãi là một bộ phận quan trọng của nền tảng
tinh thần xã hội, đạo đức góp phần giữ vững ổn định chính trị xã hội, qua đó
thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội, xây dựng xã hội mới. Trong xã hội, sự
khủng hoảng của đạo đức, sự “lệch chuẩn”, “loạn chuẩn”… là một trong
những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng kinh tế xã hội.
1.1.2. Quan điểm của Đảng về đạo đức và công tác giáo dục đạo đức
cho cán bộ, đảng viên trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước
1.1.2.1. Về những chuẩn mực đạo đức của cán bộ, đảng viên trong thời kỳ mới
Trung thành và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi thành lập đã luôn quan tâm
xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính trị tư tưởng và tổ chức. Trong đó đặc
biệt coi trọng xây dựng đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, làm cho
Đảng thật sự là đạo đức, là văn minh như Hồ Chí Minh từng khẳng định.


17

Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba - Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (khóa VII) đã khẳng định rõ tiêu chuẩn của đảng viên trong tình
hình mới là:
- Có giác ngộ chính trị, trung thành với mục tiêu lý tưởng xã hội chủ
nghĩa, đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân lên trên lợi ích cá nhân.
- Có đạo đức và lối sống lành mạnh, gắn bó với quần chúng.
- Gương mẫu và phấn đấu trở thành người sản xuất, cơng tác và quản lý
giỏi, hồn thành nhiệm vụ được giao, chấp hành đúng điều lệ Đảng và pháp
luật Nhà nước.
- Thường xuyên học tập và nâng cao trình độ nhận thức và năng lực cơng tác
- Có ý thức tổ chức kỷ luật, giữ gìn sự đồn kết thống nhất trong
Đảng [11,tr.37].

Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba - Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa VIII) cũng đã khẳng định tiêu chuẩn chung của cán bộ trong thời
kỳ mới là:
- Có tinh thần yêu nước sâu sắc, tận tụy phục vụ nhân dân, kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội, phấn đấu thực hiện có kết quả
đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.
- Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Không tham nhũng và kiên
quyết đấu tranh chống tham nhũng. Có ý thức tổ chức kỷ luật. Trung thực,
khơng cơ hội, gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm.
- Có trình độ hiểu biết về lý luận chính trị, quan điểm đường lối của
Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; có trình độ văn hóa, chun
mơn, đủ năng lực và sức khỏe để làm việc có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ được giao.
Ngồi các tiêu chuẩn chung nói trên, cán bộ lãnh đạo Đảng, nhà nước,
đoàn thể nhân dân còn phải:


18

- Có bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở lập trường giai cấp công
nhân, tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách mạng, với chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh. Có năng lực dự báo và định hướng sự phát triển,
tổng kết thực tiễn, tham gia xây dựng đường lối chính sách, pháp luật; thuyết
phục và tổ chức nhân dân thực hiện. Có ý thức và khả năng đấu tranh bảo vệ
quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.
- Gương mẫu về đạo đức, lối sống. Có tác phong dân chủ, khoa học, có
khả năng tập hợp quần chúng, đồn kết cán bộ.
- Có kiến thức về khoa học lãnh đạo và quản lý. Đã học tập có hệ thống
ở các trường của Đảng, Nhà nước và đoàn thể nhân dân; trải qua hoạt động
thực tiễn có hiệu quả.

Cán bộ lãnh đạo lực lượng vũ trang còn phải:
- Tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng và nhân dân, sẵn sàng hy
sinh bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, bảo vệ
Đảng, bảo vệ chế độ Xã hội chủ nghĩa.
- Có tinh thần cảnh giác cách mạng cao, có ý thức tổ chức kỷ luật
nghiêm, giữ gìn bí mật qn sự, bí mật quốc gia.
- Nắm vững và có khả năng vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng vào xây dựng nền
quốc phịng tồn dân và an ninh nhân dân. Nắm được những vấn đề cơ bản về
quản lý kinh tế, xã hội.
Cán bộ khoa học, chuyên gia cịn phải:
- Có tư duy độc lập, sáng tạo. Có ý thức hợp tác, say mê trong nghiên
cứu và ứng dụng khoa học công nghệ.
- Bám sát đời sống xã hội, có khả năng tổng kết thực tiễn. Chuyên gia
đầu ngành phải có khả năng tập hợp và đào tạo cán bộ khoa học.
Cán bộ quản lý kinh doanh còn phải:


19

- Hiểu biết sâu sắc các quan điểm kinh tế của Đảng. Có phẩm chất và
đạo đức, cần kiệm, liêm chính, khơng lợi dụng chức quyền để tham ơ, lãng
phí, xa hoa.
- Có kiến thức về kinh tế thị trường và quản trị doanh nghiệp, hiểu biết
khoa học, công nghệ, pháp luật và thơng lệ quốc tế.
- Có khả năng tổ chức kinh doanh đạt hiệu quả kinh tế, xã
hội [13, tr.75-77].
Về tiêu chuẩn đảng viên, Điều 1, điểm 1, Điều lệ Đảng (khóa X) quy
định cụ thể về tiêu chuẩn của đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, đó là:
“Ðảng viên Ðảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên

phong của giai cấp công nhân Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý
tưởng của Ðảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động lên trên lợi ích cá nhân; chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh
chính trị, Ðiều lệ Ðảng, các nghị quyết của Ðảng và pháp luật của Nhà nước;
có lao động, hồn thành tốt nhiệm vụ được giao; có đạo đức và lối sống lành
mạnh; gắn bó mật thiết với nhân dân; phục tùng tổ chức, kỷ luật của Ðảng,
giữ gìn đồn kết thống nhất trong Ðảng”[17, tr.7].
Những chuẩn mực của cán bộ, đảng viên trong thời kỳ mới được thể hiện
trong các văn kiện của Đảng là cơ sở để mỗi tổ chức Đảng và mỗi cán bộ,
đảng viên phấn đấu rèn luyện, góp phần xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch
vững mạnh.
1.1.2.2. Về công tác giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên trong thời kỳ mới
Bước sang thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, quá trình hình thành và phát triển đạo đức lối sống của cán
bộ, đảng viên hiện nay bị tác động bởi nhiều yếu tố, đó chính là thực tiễn
của tiến trình chuyển đổi một nước nơng nghiệp kém phát triển quá độ lên
Chủ nghĩa xã hội, thực hiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa


20

và hội nhập kinh tế quốc tế. Trên cơ sở những đặc điểm đó, từ năm 1996
đến nay, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết, văn bản lãnh đạo cơng tác giáo
dục đạo đạo đức cho cán bộ, đảng viên, tiêu biểu là:
- Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu (lần 2) Ban Chấp hành Trung
ương (khóa VIII, ngày 02/02/1999), khẳng định việc tăng cường giáo
dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên
theo hướng:
Một là, các tổ chức Đảng phải thường xuyên giáo dục, quản lý, kiểm
tra cán bộ, đảng viên về đạo đức, lối sống. Cán bộ, đảng viên phải tự giác

rèn luyện đạo đức, lối sống cần kiệm, liêm chính, chí cơng, vơ tư; gương
mẫu giữ gìn phẩm chất người chiến sỹ Cộng sản, đề cao tinh thần đoàn kết,
chống chủ nghĩa cá nhân; chấp hành nghiêm Điều lệ Đảng, pháp luật Nhà
nước; đồng thời chú ý giáo dục, thuyết phục gia đình cùng thực hiện.
Hai là, tổ chức cho cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng học tập, nắm
vững và tổ chức thực hiện nghiêm túc Pháp lệnh cán bộ, công chức, Pháp
lệnh chống tham nhũng, Pháp lệnh thực hành tiết kiệm, chống lãng phí,
Luật khiếu nại, tố cáo; thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, quy chế tiếp dân,
chế độ cơng khai tài chính; thực hiện kê khai tài sản theo quy định của
Đảng và Nhà nước; thực hiện nghiêm các văn bản pháp quy về đấu thầu và
cơng khai hóa về dự tốn, quyết tốn xây dựng các cơng trình, mua sắm
thiết bị; cơng khai hóa và thực hiện đúng các chế độ, chính sách được
hưởng đối với cán bộ (như sử dụng xe, nhà, đất …); thực hiện quy định
những điều đảng viên không được làm[13, tr.211].
- Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã xác
định một trong những phương hướng và mục tiêu xây dựng Đảng
trong thời gian tới là: “tăng cường giáo dục rèn luyện đạo đức, lối sống,
nâng cao tính tiên phong gương mẫu, phẩm chất và năng lực đội ngũ cán


×