Tải bản đầy đủ (.pdf) (59 trang)

Dạy kỹ năng đọc tiếng nga trong đào tạo theo hệ thống tín chỉ ở khoa ngữ văn nga (trường đại học khoa học xã hội và nhân văn đại học quốc gia tp hồ chí minh)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.54 MB, 59 trang )

Daydoctnga

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG
NĂM HỌC 2010-2011

DẠY KỸ NĂNG ĐỌC TIẾNG NGA
TRONG ĐÀO TẠO THEO HỆ THỐNG TÍN CHỈ
Ở KHOA NGỮ VĂN NGA
(TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH)

Chủ nhiệm đề tài: TRƯƠNG VĂN VỸ

Năm học 2010-2011


MỤC LỤC
DẪN LUẬN .........................................................................................................1
Chương I..............................................................................................................6
DẠY KỸ NĂNG ĐỌC......................................................................................... 6
TRONG GIẢNG DẠY NGOẠI NGỮ ................................................................ 6
1.1. Vai trò của kỹ năng đọc trong giảng dạy ngoại ngữ.............................. 6
1.2. Mục đích và chức năng của dạy đọc. Những đặc trưng của đọc ngoại ngữ
giỏi. ...................................................................................................................8
1.3. Những đặc thù trong dạy kỹ năng Đọc tiếng Nga ................................... 12
1.4. Một số nguyên tắc cơ bản trong việc dạy kỹ năng đọc............................. 22
Chương II. ......................................................................................................... 26
VĂN BẢN .......................................................................................................... 26
TRONG VIỆC HÌNH THÀNH KỸ NĂNG ĐỌC............................................ 26


2.1. Văn bản như một đơn vị lời nói. .......................................................... 26
2.2. Các giai đoạn làm việc với văn bản và q trình hình thành các kỹ
thuật lấy thơng tin từ văn bản......................................................................... 28
2.3. Các đặc điểm nội dung và cấu trúc của văn bản và cấu tạo lời nói trên
văn bản. .......................................................................................................... 32
2.4. Những yêu cầu đối với các văn bản giáo khoa .................................... 34
2.5. Sử dụng các văn bản “chính gốc” ....................................................... 35
2.6. Các bước tiến hành cho việc đọc một văn bản..................................... 37
Chương III......................................................................................................... 39
DẠY KỸ NĂNG ĐỌC TIẾNG NGA................................................................ 39
TRONG ĐÀO TẠO TÍN CHỈ Ở KHOA NGỮ VĂN NGA ............................. 39
3.1. Vị trí mơn Đọc tiếng Nga trong chương trình đào tạo theo hệ thống tín
chỉ của Khoa Ngữ văn Nga............................................................................. 39
3.2. Văn bản dạy Đọc tiếng Nga hiện nay ở Khoa Ngữ văn Nga. .............. 40
3.3. Những thuận lợi và khó khăn trong dạy kỹ năng Đọc tiếng Nga hiện
nay. 45
3.4. Đề xuất một số định hướng trong việc dạy đọc theo Bộ giáo trình “Đọc
tiếng Nga” trong đào tạo tín chỉ hiện nay. ..................................................... 47
KẾT LUẬN........................................................................................................ 51
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................. 54


DẪN LUẬN
Đọc là một trong các hình thức của hoạt động lời nói, nhằm lấy được thơng
tin có trong văn bản viết. Mục đích của đọc là mở ra các mối liên hệ ngữ nghĩa, là
hiểu thấu ý nghĩa của thơng báo lời nói được tiếp nhận bằng thị giác.

Đọc bằng ngoại ngữ đang học đã trở thành một bộ phận quan trọng và
khơng thể tách rời của q trình học ngoại ngữ. Tự thân khái niệm “đọc” đòi hỏi
một sự tư duy mới, cịn hiện thực hóa việc đọc như một phần nội dung học tập

ngoại ngữ thì phải phân tích một loạt những vấn đề liên quan đến phương pháp
cũng như cách thức tổ chức và thực hiện.

Đọc văn bản tiếng nước ngoài hiện nay được coi như một phần của đối
tượng học tập ngoại ngữ, bởi việc đọc văn bản bằng tiếng nước ngoài giúp tạo
điều kiện, khơng chỉ bảo đảm hình thành bền vững các loại kỹ năng và năng lực
giao tiếp, mà còn giải quyết những nhiệm vụ đòi hỏi bối cảnh nội dung và yêu cầu
riêng trong quá trình học tập ngoại ngữ.

Đọc bằng ngoại ngữ đang học tạo điều kiện phát triển khẩu ngữ - phát triển
kỹ năng nói, làm giàu và phong phú thêm khối lượng từ vựng, làm quen với nền
văn hóa và văn học của đất nước có ngơn ngữ đang học, hiểu biêt thêm nhiều một
thế giới mới thông qua ngơn ngữ đang học. Đọc cịn giúp phát triển khả năng tư
duy phân tích.

Song để việc đọc trở thành một hoạt động mang tính tạo sinh, cần phải tiến
hành làm việc với văn bản, trước khi đọc cũng như sau khi đọc văn bản, từ đó có
thể giúp người học hiểu được văn bản và nội dung văn bản và sử dụng được những
hiện tượng ngôn ngữ mới xuất hiện trong văn bản.

1


Thêm nữa, thầy giáo dạy ngoại ngữ cần phải biết những kiểu bài tập khác
nhau khi làm việc với văn bản. Đọc và thực hiện các bài tập liên quan đến văn bản
giúp sinh viên làm quen với những hiện tượng ngơn ngữ và lời nói mới, làm quen
với những sự kiện cuộc sống và văn hóa của đất nước của ngơn ngữ đang nghiên
cứu. Trong q trình đọc sinh viên học cách tư duy phê phán, kiểm tra tính chính
xác của sự kiện và tính kế tục logic của văn bản, tìm hiểu trong văn bản ngữ cảnh
và các luận chứng cho quan điểm của riêng mình, nghiên cứu lựa chọn các giải

pháp khác nhau cho vấn đề liên quan.

Học cách đọc phân tích trên văn bản tiếng nước ngồi giúp người học cảm
thấy tự tin trong tìm kiếm các kiểu thông tin khác nhau. Những sinh viên biết làm
việc với các kiểu văn bản khác nhau sẽ biết tương tác tích cực và thích hợp với các
nguồn thơng tin.

Như vậy, tính cấp bách của đề tài nghiên cứu là phải xác định cho rõ ĐỌC
như một hình thức hoạt động lời nói độc lập, văn bản được xem như một đơn vị
của lời nói và tầm quan trọng của vấn đề học các phương pháp đọc các văn bản
ngoại ngữ. Thêm nữa, thực tế vấn đề dạy kỹ năng đọc tiếng Nga trong đào tạo theo
hệ thống tín chỉ ở Khoa Ngữ văn Nga – Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân
văn (Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh) cịn có nhiều bất cập, khơng đạt hiệu quả
cần thiết.

Trong nội dung nghiên cứu đề tài, trước khi đi vào tìm hiểu việc dạy mơn
Đọc tiếng Nga trong đào tạo theo hệ thống tín chỉ ở Khoa Ngữ văn Nga – Trường
Đại học Khoa học xã hội và nhân văn (Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh),
chúng tơi sẽ đề cập đến các vấn đề liên quan đến đọc như một hình thức hoạt động
lời nói độc lập, các phương pháp đọc văn bản ngoại ngữ, học cách làm việc với
các kiểu văn bản khác nhau.
2


Khách thể nghiên cứu trong đề tài này là học đọc văn bản ngoại ngữ trong
hệ thống giáo dục đại học nói chung, và học đọc văn bản ngoại ngữ bằng tiếng
Nga trong đào tạo tiếng Nga ở Khoa Ngữ văn Nga.

Đối tượng nghiên cứu trong đề tài nghiên cứu của chúng tôi là dạy kỹ
năng đọc trong học tập ngoại ngữ nói chung và trong giảng dạy tiếng Nga nói

riêng, vấn đề văn bản trong việc hình thành kỹ năng đọc và phát triển các kỹ năng
làm việc với văn bản khoa học bằng tiếng nước ngoài và bằng tiếng Nga, và cuối
cùng là tìm hiểu việc dạy đọc tiếng Nga hiện nay ở Khoa Ngữ văn Nga.

Mục đích nghiên cứu của chúng tôi là xem xét và phân tích các tài liệu văn
bản cùng hệ thống các bài tập để hình thành kỹ năng đọc, đặc biệt là kiểu đọc phân
tích, trong dạy đọc tiếng Nga hiện nay ở Khoa Ngữ văn Nga.

Phương pháp nghiên cứu chủ yếu trong đề tài là trên cơ sở các tài liệu
được tập hợp và hệ thống hóa, cùng với thực tế giảng dạy tiếng tại Khoa Ngữ văn
Nga, chúng tôi tiến hành tổng hợp và phân tích các vấn đề liên quan và phân tích
thực trạng việc dạy kỹ năng đọc tiếng Nga ở Khoa Ngữ văn Nga trong đào theo hệ
thống tín chỉ hiện nay.

Liên quan đến nhiệm vụ trong nghiên cứu đề tài, xuất phát từ mục đích
nói trên, chúng tôi cần phải giải quyết những nhiệm vụ sau:
1. Vai trò của kỹ năng đọc trong giảng dạy ngoại ngữ;
2. Nghiên cứu đọc như một hoạt động lời nói;
3. Xem xét các phương pháp đọc cơ bản các kiểu văn bản bằng tiếng
nước ngoài khác nhau;
4. Xác định các tiêu chí lựa chọn văn bản và các giai đoạn làm việc
với văn bản;
3


5. Dạy kỹ năng đọc tiếng Nga ở Khoa Ngữ văn Nga;
6. Văn bản cho dạy kỹ năng đọc tiếng Nga ở Khoa Ngữ văn Nga.
7. Những thuận lợi và khó khăn, cùng những định hướng trong dạy kỹ
năng đọc ở Khoa Ngữ văn Nga.


Cơ sở lý thuyết cho đề tài nghiên cứu của chúng tơi là các cơng trình
nghiên cứu về phương pháp giảng dạy ngoại ngữ và phương pháp giảng dạy tiếng
Nga của các tác giả trong và ngoài nước, của các nhà khoa học, các nhà nghiên
cứu hàng đầu về phương pháp giảng dạy và phương pháp giảng dạy ngoại ngữ.

Cơ sở thực tiễn của đề tài nghiên cứu là việc giảng dạy tiếng Nga, trong đó
có dạy kỹ năng đọc tiếng Nga hiện nay ở Khoa ngữ văn Nga – Trường Đại học
Khoa hoc xã hội và nhân văn (Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh).

Cấu trúc cơng trình nghiên cứu của chúng tơi gồm Phần mở đầu, 03
chương chính, Phần kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo.
Chương đầu trong phần nội dung chính chúng tơi tiến hành tìm hiểu “Dạy
kỹ năng đọc trong học tập ngoại ngữ”, trong đó chúng tơi chỉ ra vai trò quan trọng
của đọc trong học ngoại ngữ, nêu lên những đặc thù của đọc như một kỹ năng độc
lập trong giảng dạy ngoại ngữ.
Chương hai trình bày ngững vấn đề liên quan đến “Văn bản trong giảng dạy
và hình thành kỹ năng đọc ngoại ngữ”, trong đó khẳng định văn bản như một đơn
vị lời nói và nêu lên các giai đoạn làm việc với văn bản và q trình hình thành
các kỹ thuật lấy thơng tin từ văn bản.
Chương ba trình bày việc “Dạy kỹ năng đọc trong hệ thống đào tạo tín chỉ
ở Khoa Ngữ văn Nga hiện nay”, phân tích các vấn đề liên quan đến việc dạy đọc
tiếng Nga hiện nay ở Khoa ngữ văn Nga – Trường Đại học Khoa hoc xã hội và
nhân văn (Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh).

4


Đề tài được xác định là cơng trình nghiên cứu khoa học cấp trường. Hi
vọng kết quả của việc nghiên cứu đề tài này sẽ ít nhiều đóng góp trong việc
nâng cao chất lượng giảng dạy ngoại ngữ nói chung, và đặc biệt là, trong giảng

dạy tiếng Nga nói riêng. Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ và đóng góp q
báu của các thầy cơ giáo, các đồng nghiệp trong và ngồi trường, các em sinh
viên trong q trình thực hiện và hoàn thành đề tài nghiên cứu này.

5


Chương I.
DẠY KỸ NĂNG ĐỌC
TRONG GIẢNG DẠY NGOẠI NGỮ

1.1. Vai trò của kỹ năng đọc trong giảng dạy ngoại ngữ.
Đọc là một trong các hình thức/ dạng của hoạt động lời nói. Các hình thức
của hoạt động lời nói bao gồm nghe – nói – đọc – viết. Đọc là chuyển mã (code)
chữ viết qua mã âm thanh, mà được thể hiện hoặc bằng lời nói bên trong (nội tại –
đọc thầm), hoặc bằng lời nói bên ngồi (đọc to).
Đặc trưng của đọc là sự hiểu thấu văn bản được tiếp nhận bằng thị giác để
giải quyết nhiệm vụ giao tiếp đã được xác định: nhận rõ và tái hiện suy nghĩ của
người khác chứa trong văn bản, từ đó người đọc bằng cách nào đó phản ứng lại
suy nghĩ này. Tiếp đó, nhờ đọc con người hiện thực hóa những khả năng của cái
gọi là giao tiếp gián tiếp: sự tiếp thu và hiểu rõ văn bản chứng tỏ sự tác động lẫn
nhau của người đọc với tác giả văn bản, các quá trình tư duy phức tạp mà chúng
song hành với nhận thức của tác giả văn bản.
Tiếp thu văn bản và xử lý tích cực thơng tin nhận được từ văn bản là những
thành tố quan trọng của đọc. Vì vậy, học đọc như một trong số các hình thức của
hoạt động lời nói là nhiệm vụ học tập quan trọng nhất mà người thầy dạy ngoại
ngữ phải giải quyết trong giờ dạy và học đọc ngoại ngữ.
Đọc đóng vai trị rất quan trọng trong học ngoại ngữ, trước đây cũng như
hiện nay, và ngày nay còn quan trọng nhiều hơn trước đây. Đọc, như mọi người
đều biết, là một trong các dạng hoạt động lời nói, mà mỗi người học ngoại ngữ đều

cần phải nắm vững. Đọc càng trở nên cần thiết khi người học ngoại ngữ ở mơi
trường ngồi ngơn ngữ như học tiếng Nga ở Việt Nam.
Mục đích của học đọc là hình thành các kỹ năng, kỹ xảo, cho phép tiếp
nhận và thu nhân nguồn thông tin bằng tiếng Nga và từ tiếng Nga. Song, ngồi
mục đích quan trọng nêu trên, đọc cịn có thể là phương tiện, bởi vì nhờ việc đọc
6


người học có tài liệu, có dữ liệu, có kiến thức để hình thành các kỹ năng trong các
lĩnh vực của hoạt động lời nói khác. Mức độ hình thành kỹ năng trong lĩnh vực
nghe, nói và viết phụ thuộc rất nhiều vào mức độ hình thành kỹ năng đọc, đặc biệt
là trong học tập ngoại ngữ.
Vì vậy, đọc khơng thể đứng độc lập hay tách rời các hình thức hoạt động
lời nói khác. Đọc là mơi trường giáo khoa tích cực, trên cơ sở đó phát triển các kỹ
năng khác như nghe, nói và viết. Xác định đúng đắn vai trị của đọc tạo điều kiện
tăng cường hóa q trình học ngoại ngữ và kích thích tính tích cực của người học
trong q trình học ngoại ngữ.
Khi phân tích mối liên hệ giữa đọc với các hình thức hoạt động lời nói
khác, thì đọc được xem như một hình thức của hoạt động lời nói mà tạo điều kiện
phát triển các kỹ năng, kỹ xảo trong nghe, nói và viết. Khi đọc sinh viên thường
đọc to để có thể kiểm tra được phát âm, trọng âm, ngữ điệu, khả năng diễn cảm.
Đây chính là mối liên hệ chặt chẽ giữa đọc và nghe, đặc biệt trong giai đoạn đầu
khi bắt đầu học ngoại ngữ, vì vậy ở giai đọan này thầy giáo thường yêu câu sinh
viên đọc to bằng ngoại ngữ lên là xuất phát từ lý do này. Cả thầy giáo và sinh viên
cùng tham gia vào sự kiểm tra này và hiệu quả học tập sẽ được tăng lên rõ rệt.
Sau khi đọc xong toàn bộ nội dung văn bản, sinh viên có thể kể lại ngắn
gọn thơng tin vừa đọc dưới hình thức khẩu ngữ - và đây chính là mối liên hệ gắn
bó giữa đọc và nói. Đọc xong văn bản và chuyển qua nói sinh viên sẽ phải vận
dụng tất cả sự hiểu biết về ngơn ngữ của mình, sử dụng tất cả vốn liếng từ vựng
của mình để truyền đạt lại thơng tin nhận được từ đọc. Nói là một hoạt động có

tính tích cực cao nhất trong số các hoạt động lời nói và cũng là hình thức lời nói
thể hiện rõ nhất năng lực học tập ngoại ngữ của sinh viên. Như vậy, đọc đã có một
ích lợi rất to lớn để giúp phát triển kỹ năng nói.
Cịn viết lại thơng tin đã đọc, hay truyền đạt lại thông tin đã đọc dưới dạng
viết – thì đó chính là mối quan hệ cũng gắn bó và chặt chẽ giữa đọc và viết. Viết
địi hỏi sự hiểu biết về ngơn ngữ ở một trình độ rất cao. “Bút sa thì gà chết”, như
vậy, khi viết người học ngoại ngữ cũng phải vận dụng tất cả khả năng và sự hiểu
7


biết về ngôn ngữ đang học để viết cho đúng, cho chính xác. Đọc góp phần cung
cấp thơng tin cho người học để tạo nên nội dung trong văn bản viết.
Như vậy, đọc đã đồng thời góp phần phát triển tất cả các dạng kỹ năng, kỹ
xảo khác nhau trong học ngoại ngữ. Trong trường hợp này đọc trở thành yếu tố
kích thích để thể hiện ý nghĩ và tư duy cá nhân. Đọc đã trở thành một nội dung
không thể thiếu được và đóng vai trị quan trọng trong học tập và giảng dạy ngoại
ngữ.
Hoạt động lời nói là sự thống nhất của hai quá trình – quá trình tạo sinh
(продуктивные процессы) và quá trình tạo sẵn (рецептивные процессы). Nói và
viết – là những hình thức giao tiếp lời nói tạo sinh, cịn đọc và nghe – là những
hình thức giao tiếp lời nói tạo sẵn. Tất cả các q trình và các hình thức lời nói này
đều nằm trong mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Trong quá trình học ngoại ngữ nói
chung, cũng như học tiếng Nga nói riêng, sinh viên khơng chỉ cần phải biết mối
liên hệ này, mà còn phải biết kết hợp chúng lại với nhau. Và chỉ khi đó việc học
ngoại ngữ và tiếng Nga mới đạt hiệu quả cao nhật và tốt nhất.
Như vậy, việc nghiên cứu độc lập các hình thức của hoạt động lời nói, tất
nhiên rất cần thiết trong mối tương quan lý thuyết. Nó giải thích những sự khác
biệt đang tồn tại giữa nhận thức và sự tái hiện của tư duy. Song trong quá trình học
tập ngoại ngữ, cũng như học tiếng Nga thật khó mà có thể hình dung việc dạy và
học đọc lại khơng có mối liên hệ với nghe, nói và viết.


1.2. Mục đích và chức năng của dạy đọc. Những đặc trưng của đọc ngoại
ngữ giỏi.

Mục đích của dạy đọc ngoại ngữ (trong đó có dạy đọc tiếng Nga) là dạy
sinh viên những cách thức hợp lý tiếp nhận và xử lý thông tin chứa trong các loại
văn bản có đặc điểm khác nhau và tùy thuộc vào nội dung và nhiệm vụ giao tiếp.
Tiếp theo, trong dạy đọc, người thầy phải nhận thức rõ ràng nhiệm vụ giao
tiếp, mà nó sẽ xác định đặc tính tiếp thu văn bản của sinh viên. Nhiệm vụ giao tiếp
8


trong trường hợp này được hiểu là xác định việc đọc này được thực hiện với mục
đích gì, thơng tin được lấy ra từ văn bản sẽ sử dụng ở đâu, khi nào và để làm gì.
Trong vấn đề này cần phải cân nhắc đến các chức năng, mà chúng vốn dành cho
đọc như một hình thức hoạt động lời nói, mà chúng được hiện thực hóa trong q
trình giao tiếp gián tiếp của người đọc với tác giả văn bản.
Thơng thường người ta hay nói đến 3 chức năng cơ bản của đọc: chức
năng nhận thức, chức năng điều tiết và chức năng định hướng giá trị.
Chức năng nhận thức được hiện thực hóa trong q trình tiếp nhận thông
tin về thế giới, con người, các sự kiện, các hiện tượng trong hiện thực. Chức năng
này gọi là “đọc để biết”.
Chức năng điều tiết hướng đến sự điều khiển hoạt động thực tiễn của người
học, đến sự phát triển kinh nghiệm của họ: hành động phù hợp với thông tin nhận
được, hồn thiện kinh nghiệm sống của mình, những kỹ năng cá nhân trong lĩnh
vực này hay lĩnh vực khác. Chức năng này gọi là “đọc để biết làm”.
Chức năng định hướng giá trị của đọc gắn với phạm vi cảm xúc trong cuộc
sống con người. Trong trường hợp này diễn ra sự tác động, ảnh hưởng đến cảm
xúc, tình cảm của người đọc, từ đó dẫn đến việc hồn thiện nhân cách con người,
nâng cao trình độ văn hóa của con người. Chức năng này gọi là “đọc để thưởng

thức”.
Biết đọc là phải nắm được kỹ thuật đọc, tức là đọc đúng văn bản mà được
viết theo một hệ thống chữ viết nhất định, và biết tư duy những điều đã đọc.
Những đặc trưng quan trọng của việc đọc ngoại ngữ tốt là có tốc độ đọc
(thầm) cao, được quy định bởi mức độ tự động xử lý tài liệu in ấn đang tiếp nhận;
tính uyển chuyển của đọc – tức là biết đọc với các tốc độ khác nhau tùy thuộc tình
huống lời nói.
Tốc độ cao và tính uyển chuyển của đọc là cơ sở hình thành nhiều kỹ năng
khác mà cần thiết để thực hiện quá trình đọc. Đó là những kỹ năng như kỹ năng
tập trung chú ý đến các vấn đề nội dung đã xác định; kỹ năng nhìn thấy trước cái
sẽ được nói tiếp theo trong quá trình đọc; kỹ năng xác định những chỗ then chốt
9


trong văn bản; kỹ năng biết tách ra ý chính trong phát ngôn; kỹ năng phân biệt cái
quan trọng từ cái không quan trọng trong thông tin được tiếp nhận; kỹ năng xác
định những chi tiết thông tin thừa thãi; kỹ năng đặt câu hỏi trong quá trình tiếp thu
văn bản; kỹ năng xác định tính logic, cấu trúc của phát ngôn; kỹ năng biết kết luận
và tạo lập chúng bằng lời nói của chính mình; biết đánh giá có tính phê phán và
phản ứng với thơng tin nhận được và biết sử dụng chúng trong các tình huống đời
sống thích hợp.
Người học ngoại ngữ có thể học cách sử dụng nhiều kiểu đọc khác nhau.
Một số người đọc và hiểu văn bản rất nhanh, trong khi một số khác lại đọc rất
chậm và khó khăn để hiểu cái mình đang đọc.

Vậy điều gì làm nên một người đọc ngoại ngữ giỏi?
Karl Krahnke – một chuyên gia nghiên cứu phương pháp giảng dạy ngoại
ngữ, trong cuốn sách “Principles of Language Instruction” đã đưa ra lời giải thích
cho câu hỏi này như sau:
Thứ nhất, người đọc giỏi không đọc từng từ trong văn bản, giống như

người nghe giỏi không cố gắng nghe từng từ một, mà phải biết tập trung vào
những từ quan trọng trong văn bản. Người đọc giỏi sẽ đọc từng đoạn nhỏ trong
văn bản và cố gắng hiểu điều chính yếu từ những đoạn nhỏ này. Người đọc giỏi sẽ
học cách chú ý vào những từ quan trọng. Bằng cách chỉ đọc những từ được coi là
quan trọng này anh ta có thể hiểu phấn lớn cả một trích đoạn trong văn bản, và cứ
như vậy từng bước đọc nhanh hơn.
Thứ hai, người đọc giỏi luôn đọc trong im lặng – đọc thầm, mà không “lẩm
bẩm” các từ trong khi đọc. Đọc to hay “lẩm bẩm” như vậy sẽ làm người đọc chậm
lại và bắt buộc người đọc phải đọc từng từ, và có thể trên thực tế nó làm người đọc
bị kéo ra khỏi hay bị phân tâm trong việc hiểu trích đoạn đang đọc.
Thứ ba, một người đọc giỏi sẽ ln cố gắng dự đóan cái gì sẽ đến tiếp theo,
cái gì sẽ xảy ra sau đó trong văn bản. Nếu người đọc khơng hiểu cái mà anh ta vừa
đọc xong, thì người đó sẽ nhanh chóng và ngay lập tức quay lại đoạn vừa đọc và

10


đọc lại. Và như vậy sẽ làm quá trình đọc chậm đi rất nhiều, và như vậy cũng đồng
nghĩa với việc mất rất nhiều thời gian đọc, dễ tạo nên sự mệt mỏi và chán nản
trong học tập. Người đọc giỏi sẽ sử dụng những kiến thức của chính mình để giúp
hiểu dược cái anh ta đang đọc. Để hiểu được văn bản, người đọc giỏi đầy khôn
khéo sẽ nhớ lại những điều anh ta đã biết được liên quan đến chủ đề của văn bản.
Luôn suy nghĩ về chủ đề văn bản sẽ giúp người đọc hiểu văn bản đầy đủ và kỹ
lưỡng hơn.
Và cuối cùng, người đọc giỏi sẽ học cách đoán nghĩa của những từ mới. Họ
xem xét ngữ cảnh (context) của từ và các tiếp tố (affixes) của từ - tiền tố, trung tố,
hậu tố trong cách cấu tạo từ để có thể đốn ra nghĩa của từ mới. Bằng cách này
người đọc vẫn có thể tiếp tục đọc văn bản, thậm chí ngay cả khi không biết nghĩa
của mỗi từ. Người đọc giỏi trước hết tập chung vào nghĩa chính, nghĩa tổng quát
của từ, sau đó mới đến các nghĩa đặc trưng, các nghĩa riêng biệt. Đầu tiên họ cố

gắng nắm được ý chính của trích đoạn văn bản. Ý chính và những điểm thiết yếu
của văn bản quan trọng hơn những từ ngữ và câu nói trong văn bản có tính riêng
biệt. Người đọc giỏi sẽ sử dụng tất cả các kỹ năng có được khi đọc bằng tiếng mẹ
đẻ. Một lẽ tự nhiên là đọc bằng ngoại ngữ thì khó hơn nhiều so với đọc bằng tiếng
mẹ đẻ, song những sinh viên mà đọc bằng ngoại ngữ giỏi nhất định phải biết tận
dụng những kỹ năng đọc trong tiếng mẹ đẻ của mình, thậm chí là nếu khơng biết
thì phải tìm cách học thành thạo những kỹ năng đọc trong tiếng mẹ đẻ này.

Để có thể trở thành người đọc ngoại ngữ giỏi hãy nghe theo những lời
khuyên sau đây:
1. Hãy đọc nhiều giờ – khơng ít hơn 9 tiếng trong một tuần!
2. Hãy đọc thường xuyên – tốt nhất là đọc mỗi ngày! Trong bất kỳ trường
hợp nào cũng khơng ít hơn 3 ngày trong một tuần.
3. Hãy đọc lâu dài - ở mức độ ít nhất, đọc 2 tháng liên tiếp!

11


1.3. Những đặc thù trong dạy kỹ năng Đọc tiếng Nga
1.3.1. Đọc như một hình thức hoạt động lời nói độc lập và như là
phương tiện hình thành các kỹ năng và kỹ xảo ngơn ngữ khác
(nghe, nói và viết).

Đọc được xem như một hình thức hoạt động lời nói độc lập trong trường
hợp khi chúng ta đọc để lấy thông tin cần thiết từ văn bản. Trong việc này cần phải
giải thích rõ là việc nhận thơng tin đầy đủ và chính xác có thể rất khác nhau tùy
thuộc vào từng tình huống khi chúng ta lấy thơng tin.
Như vậy, nhiệm vụ dạy đọc như một hình thức hoạt động lời nói độc lập là
dạy người học hoặc sinh viên lấy thông tin từ một văn bản với khối lượng cần thiết
để giải quyết một nhiệm vụ lời nói cụ thể, bằng cách sử dụng những kỹ thuật đọc

nhất định nào đó.
Đọc có thể được xem như là phương tiện hình thành và kiểm tra các kỹ xảo
lời nói và các kỹ năng ngơn ngữ khác, bởi vì:
-

sử dụng việc đọc cho phép người học tối ưu hóa quá trình nắm bắt
tài liệu ngơn ngữ và lời nói;

-

các bài tập định hướng giao tiếp được đưa ra để kiểm tra từ vựng
và ngữ pháp, kiểm tra nghe, viết và nói, và chúng được xây dựng
trên cơ sở của các văn bản và chỉ dẫn mà được thể hiện dưới dạng
viết hoặc bằng hình thức viết;

-

các bài tập hình thành và hồn thiện tất cả các kỹ năng, kỹ xảo
ngơn ngữ và lời nói cũng được xây dựng dựa vào văn bản và các
bài tập thiết kế bằng viết thành văn bản.

Khuynh hướng hiện nay trong giảng dạy ngoại ngữ là dành sự chú ý to lớn
cho phát triển kỹ năng khẩu ngữ (hay kỹ năng nói). Điều này là hồn tồn có thể lý
giải được, bởi với chức năng quan trọng nhất của ngôn ngữ là giao tiếp, biểu hiện
đầu tiên của học ngoại ngữ là phải nói ra được. Nhưng cũng chính vì thế nhiều
12


giáo viên giảng dạy ngoại ngữ đã vơ tình, hoặc khơng chủ tâm biến tồn bộ giờ
học đọc để giải quyết nhiệm vụ phát triển kỹ năng nói này. Giờ học đọc trên lớp

dường như đã bị mất đi tính độc lập của mình và biến thành một giờ học mang
tính của khẩu ngữ, cịn tài liệu để đọc đã biến thành tác nhân kích thích cho phát
triển kỹ năng nói. Đây là một sai lầm to lớn và đang rất phổ biến hiện nay trong cả
nhận thức và cả trong quá trình giảng dạy các kỹ năng hoạt động lời nói, trong đó
có cả kỹ năng đọc, của thầy cô giáo dạy ngoại ngữ.
Dạy đọc như dạy một quá trình lấy thơng tin từ nguồn gốc các văn bản in
ấn đã bị biến đổi bằng cách “điều chỉnh” đọc tài liệu to lên, bằng hình thức làm
việc hỏi-đáp, bằng dịch, bằng kể lại, v.v… Đọc đã không được dạy như một hoạt
động lời nói, nó ln bị trượt khỏi tầm mắt, tầm nhìn, tầm quan tâm của giáo viên
dạy ngoại ngữ. Nói và đọc là hai hình thức khác nhau của hoạt động lời nói. Mặc
dù giữa chúng có mối quan hệ lẫn nhau rất chặt chẽ, nhưng chúng cũng có những
đặc trưng riêng, đặc thù riêng của mình. Đọc là một hình thức hoạt động lời nói có
tính độc lập của mình, vì vậy nó cũng có đặc thù riêng của chính mình. Thật sẽ
khơng cơng bằng nếu như dạy khẩu ngữ (dạy nói) chỉ trên cơ sở của những văn
bản in ấn, mà không áp dụng nhiều những phương tiện và tài liệu khác có thể
khuyến khích phát ngơn, khuyến khích nói, cũng như sẽ khơng hợp lý và không
hiệu quả nếu dạy đọc chỉ trên cơ sở để đọc!
Như vậy, cần phải nhận thức một cách hết sức rõ ràng và đầy đủ, rằng đọc
là một hình thức hoạt động lời nói độc lập, đọc là một mơn học hồn tồn có tính
độc lập, giống như nhiều môn học độc lập khác. Là môn học độc lập, nên đọc
cũng có đối tượng, có nội dung kiến thức, có các đặc thù, đặc trưng, có các
phương pháp giảng dạy và học tập riêng biệt của mình. Biết rõ điểu này mới thấy
được vai trò quan trọng của đọc trong học ngoại ngữ, từ đó mới có thể giảng dạy
và học tập hiệu quả môn học này.

13


1.3.2. Kỹ thuật đọc. Những đặc trưng hình thành kỹ thuật đọc.


Dạy đọc được bắt đầu từ việc hình thành kỹ thuật đọc, từ kỹ năng đọc lên
văn bản viết bằng chữ, mã hóa các chữ cái, kết hợp các chữ cái, các từ, cụm từ,
câu thành các âm thanh tương đương. Giai đoạn này thường trùng với việc hình
thành các kỹ năng, kỹ xảo đầu tiên ở các hình thức hoạt động lời nói khác.
Theo truyền thống, trong phương pháp giảng dạy ngoại ngữ người ta hay
nói về việc hình thành các kỹ năng ngơn ngữ và các kỹ xảo lời nói. Người ta cho
rằng, trong giảng dạy bất kỳ hình thức hoạt động lời nói nào giáo viên cần phải
hình thành khơng chỉ đơn giản các kỹ năng ngơn ngữ, mà cịn là các kỹ xảo lời
nói, được xác định bởi chương trình học tập cụ thể và phù hợp với các yêu cầu
giáo dục thực tế và phát triển nhân cách. Trong vấn đề này, như đã từng được đề
cập, cịn lâu mỗi người dạy mới có thể nắm được toàn bộ tổ hợp các kỹ xảo lời
nói. Bất kỳ một kỹ xảo lời nói nào cũng phải có được những kỹ năng nhất định,
tức là những hành động mà con người thực hiện hoàn toàn tự động, không cần
phải suy nghĩ xem là cần phải làm như thế nào và làm cái gì.
Nếu nói về đọc, thì đối với các kỹ xảo lời nói trong trường hợp này có thể
có liên quan với việc nắm vững các công nghệ lấy thông tin khác nhau từ văn bản,
việc sử dụng thích hợp chúng (các cơng nghệ này) tùy thuộc vào nhiệm vụ đặt ra.
Tuy nhiên, trên cơ sở của tất cả các kỹ xảo này đó chính là kỹ thuật đọc. Nếu
khơng hình thành kỹ thuật đọc ở mức độ tương đối, thì khơng thể đạt được mức độ
tự động hóa của kỹ năng này, và như thế tất cả các công nghệ và các kiểu đọc đều
sẽ bị đe dọa.
Người ta nói về đọc như nói về sự thống nhất của bình diện nội dung và
bình diện quy trình. Bởi vì kỹ năng ngơn ngữ là cái có trước, cịn kỹ xảo lời nói là
cái có sau, nên rõ ràng là khi dạy đọc thì đầu tiên phải là hình thành kỹ thuật đọc,
tức là bình diện quy trình.

14


Người học có thể khơng cần biết cái gì là cơ sở của kỹ năng này hay kỹ

năng khác, nhưng thầy giáo hoàn toàn cần thiết phải hiểu điều này để lựa chọn con
đường tối ưu nhất đạt được những nhiệm vụ giảng dạy thực tiễn đặt ra.
Sự hình thành kỹ thuật đọc trước tiên gắn với việc nắm vững bảng chữ cái
và các quy tắc đọc. Các quy luật của sự tương ứng chữ viết và âm thanh được
người học nắm bắt tùy theo mức độ làm quen với các từ vựng tương ứng, bởi vì
mỗi quy tắc cần phải được chứng minh bằng một số lượng các ví dụ về từ vựng
đầy đủ và thích hợp.
Trên cơ sở hình thành kỹ thuật đọc có những thao tác sau đây:
-

thao tác thứ nhất, mối liên quan giữa hình dung thị giác/ chữ viết
của đơn vị lời nói với hình dung dịng ngữ lưu thính giác (1);

-

thao tác thứ hai, mối liên quan giữa hình dung dịng ngữ lưu thính
giác của đơn vị lời nói với ý nghĩa của chúng (2).

Đơn vị lời nói có thể là một từ, một hệ hình (câu), và cả một đoạn văn.
Người ta đã phân ra 3 thành tố cơ bản của kỹ thuật đọc:
1. Hình dung thị giác của đơn vị lời nói.
2. Hình dung dịng ngữ lưu của đơn vị lời nói.
3. Ý nghĩa
Kết hợp 1-2 thuộc kỹ năng của thao tác thứ nhất, kết hợp 2-3 thuộc kỹ năng
của thao tác thứ 2.
Khi kỹ thuật đọc khơng được hình thành đầy đủ, thì cả 3 thành tố đọc sẽ tác
động dây chuyền đến q trình đọc. Thậm chí khi đọc thầm (khơng thành tiếng)
văn bản thì người đọc dở, như thường thấy, cũng chuyển động đôi môi, lẩm bẩm
điều đang đọc, bởi vì khơng lẩm bẩm họ sẽ khơng hiểu cái họ đang đọc.
Nhiệm vụ của thầy giáo khi hình thành kỹ thuật đọc bao gồm những yếu tố

sau:
1.

càng nhanh càng tốt bỏ qua giai đoạn trung gian lẩm bẩm này và
thiết lập sự tương ứng trực tiếp giữa hình dung chữ viết của đơn
vị lời nói với ý nghĩa của nó.
15


2.

tăng liên tiếp đơn vị văn bản tiếp nhận và đạt tới mức tối thiểu là
một hệ hình (câu).

3.

hình thành việc đọc chuẩn mực với sự tuân thủ nhịp độ, trọng âm
chuẩn, tạm dừng đúng chỗ và có ngữ điệu.

Các nhà nghiên cứu về phương pháp giảng dạy ngoại ngữ đã khẳng định
rằng, đọc là một trong những kỹ năng ngôn ngữ quan trọng nhất, mà người học
cần phải nắm cho được trong q trình học ngoại ngữ. Đọc khơng chỉ là mục đích
của việc học như là một hình thức độc lập của hoạt động lời nói, mà cịn là phương
tiện hình thành các kỹ năng. Đọc văn bản, người ta ôn lại các âm, các chữ cái, các
từ và ngữ pháp của ngoại ngữ, ghi nhớ cách viết các từ, ý nghĩa của từ, cụm từ, và
như vậy, hồn thiện kiến thức của mình về ngoại ngữ đang học. Vì vậy, đọc vừa là
mục đích cuối cùng, vừa là phương tiện để đạt mục đích này.
Để hình thành kỹ thuật đọc thường người ta hay sử dụng các bài tập sau
đây:
 đọc lên các từ, các âm tiết, các câu;

 đọc to các các câu có các cấu trúc ngữ điệu khác nhau;
 thầy giáo giơ lên vài giây một tấm bìa khổ lớn mà trên đó có viết các
từ, kết hợp từ, các câu cho sinh viên đọc;
 đọc các câu với số lượng các từ tăng dần, sau đó nhắc lại chúng mà
khơng nhìn vào văn bản;
 đọc và nhắc lại với số lượng các câu được tăng dần mà khơng nhìn
vào văn bản;
 đọc diễn cảm, đọc thuộc lịng các bài thơ hoặc các trích đoạn văn
học;
 đọc thầm văn bản với một khoảng thời gian giới hạn.

Một cách hợp lý là xem đọc như một hình thức hoạt động độc lập, mà trong
đó đọc “thầm” với mục đích lấy thơng tin chính từ các văn bản được đọc chiếm

16


một vị trí đặc biệt. Trong dạy đọc cần phải biết sử dụng cả những cơ chế của nó,
bởi vì việc hiểu văn bản được đọc phụ thuộc vào điều này. Thuộc vào các cơ chế
cơ bản của đọc là sự phán đốn ngơn ngữ, dự đốn điều có thể xảy ra, tăng tốc độ
đọc, tái hiện văn bản ở dạng nói và viết với sự đánh giá sau đó thông tin nhận
được. Trong việc đọc văn bản và lấy thơng tin chính và cần thiết sinh viên đụng
chạm đến hàng loạt các khó khăn. Nhiệm vụ của thầy giáo là phối hợp hoạt động
của các sinh viên và kéo dần họ đến việc đọc, gần giống như đọc tiếng mẹ đẻ. Với
mục đích này người thầy cần phải phối hợp rõ ràng công việc của người học và đề
xuất cho họ sự chỉ dẫn của mình để có thể làm nhẹ đi việc hiểu tổng thể văn bản.
Chỉ dẫn đề xuất sau đây có thể coi như một ví dụ:
1.

Đọc tựa đề và cố gắng theo tựa đề này xác định ý chính của văn

bản.

2.

Nghiên cứu kỹ các bài tập trước và sau khi đọc để có thể giúp
hiểu được nội dung.

3.

Đọc lướt qua tồn bộ bài khóa, khơng cần để ý đến các từ mới và
những khó khăn ngơn ngữ khác. Cố gắng hình dung nội dung của
bài đọc.

4.

Đọc lại bài khóa, tránh dùng từ điển để tìm nghĩa của mỗi từ mới.

5.

Hãy cố gắng đoán nghĩa của từ mới theo ngữ cảnh hoặc (nếu có
thể) theo các quy tắc cấu tạo từ.

6.

Chỉ dùng đến từ điển trong trường hợp khi từ mới có thể giúp
hiểu được ý chung của tồn bài.

7.

Hình dung trong đầu nội dung chung của bài đã đọc. Tách ra cho

mình thơng tin mà bạn vừa lấy từ bài đọc.

8.

Cố gắng hình dung “bài đọc” riêng của mình được xây dựng trên
cơ sở những thông tin nhận được. Hãy xem tương quan bài đọc
của bạn với những kiến thức mà bạn có và hãy nhận xét cho mình
những kiến thức mới có thêm.

17


9.

Hãy chú ý đến những chỗ khó trong bài đọc và các từ mới và cố
gắng xác định xem chúng có những nghĩa chính để hiểu chung ý
nghĩa tồn bài (nhiệm vụ này có thể được thực hiện trong trường
hợp nếu như người học đã bỏ qua những chi tiết quan trọng của
bài đọc hoặc là đã nhận được những thông tin thú vị và cần thiết
trong một khối lượng không đầy đủ).

1.3.3. Các kiểu đọc văn bản.

Hiện nay trong giảng dạy ngoại ngữ đang tồn tại rất nhiều cách phân loại
các hình thức (kiểu) đọc khác nhau. Mỗi kiểu đọc như vậy lại có các nguyên tắc
khác nhau. Tồn tại nhiểu kiểu đọc như vậy là do trong quá trình đọc phải giải
quyết nhiều nhiệm vụ giao tiếp khác nhau.
Ví dụ như, một số tác giả phân chia đọc thành các kiểu dựa trên cơ sở
những đặc trưng tâm lý của việc tiếp nhận chúng: đọc dịch – đọc khơng dịch, đọc
phân tích – đọc tổng hợp. Một số tác giả khác lại phân chia các kiểu đọc dựa trên

những điều kiện thực hiện chúng: tự mình đọc hay khơng tự mình đọc, đọc có
chuẩn bị - đọc khơng chuẩn bị. Còn dựa trên sự phong phú của tài liệu đọc người
ta chia thành đọc quảng canh hay đọc tăng cường.
Các nhà phương pháp giảng dạy ngoại ngữ Xô-viết thường chia thành các
kiểu đọc sau: - Đọc phân tích; - Đọc nghiên cứu; - Đọc lướt qua; - Đọc tìm kiếm; Đọc tìm hiểu.
Cịn trong phương pháp giảng dạy tiếng Anh người ta cũng chia ra một vài
kiểu và kỹ xảo đọc mà tạo điều kiện tốt nhất để giải quyết những nhiệm vụ lời nói
này hay khác, gắn với sử dụng các văn bản viết: - Skiming – đọc xác định chủ đề
hay ý tưởng chính của văn bản; - Scanning – đọc tìm kiếm thơng tin cụ thể trong
văn bản; - Reading for detail – đọc để hiểu chi tiết văn bản không chỉ ở mức độ
nội dung, mà cịn cả ý nghĩa của nó.

18


Nhiều nhà nghiên cứu phương pháp cho rằng, đó chỉ là những mục đích
khác nhau của đọc. Cũng có ý kiến cho rằng, không nên phân chia qúa nhiều kiểu
đọc thu nhận thông tin như vậy, và chỉ cần chia thành kiểu đọc nghiên cứu và kiểu
đọc tìm kiếm là đủ.
Đọc tổng hợp là kiểu đọc mà sự chú ý của người đọc chủ yếu là tập trung
vào nội dung, thêm nữa, nội dung này được tiếp nhận một cách tổng hợp hóa và
nhanh chóng.
Đọc phân tích là kiểu đọc mà sự chú ý của người đọc bị ngắt từng đoạn
theo bố cục ngôn ngữ của văn bản, từ lý do đó kiểu đọc này diễn ra rất chậm chạp.
Đọc tổng hợp giúp dạy đọc hiểu những bài khóa đơn giản, khơng cần áp
dụng phân tích hay dịch giải. Cịn đọc phân tích là phương tiện giúp đọc hiểu
những bài khóa phức tạp hơn, bao gồm trong đó những khó khăn ngơn ngữ mà chỉ
có thể vượt qua được nhờ đọc và dịch.
Trước đây người ta cho rằng, bắt đầu học đọc cần học cách đọc phân tích,
và cho nó là cơ sở cho đọc tổng hợp. Nhưng quan điểm như vậy không được

hưởng ứng do không đạt hiệu quả cao, bởi trong trường hợp này người học không
thể học đọc mà khơng có từ điển, khơng tin vào kiến thức của mình, dịch ngay
tồn bộ bài đọc, thậm chí cả những câu đơn giản mà không biết sử dụng những
phán đốn ngơn ngữ.
Bắt đầu dạy đọc bằng đọc tổng hợp hóa ra hiệu quả hơn, bởi vì người học
nắm được kỹ năng hiểu từng đoạn của bài khóa, tránh dùng đến từ điển, và như
vậy việc đọc những bài khóa phức tạp hơn sẽ diễn ra bình thường, khơng cần phải
dịch giải đầy khổ sở. Tài liệu ngôn ngữ xa lạ có thể gặp cả trong q trình đọc
tổng hợp mà không hề cản trở sự hiểu. Tiền đề cho việc hiểu trong trường hợp này
được bảo đảm như sau:
1. Việc nắm vững ngôn ngữ tối thiểu chắc chắn sẽ làm số lượng từ mới
ít ỏi nhanh chóng nhập vào số lượng từ vựng quen biết.
2. Biết phân biệt những từ mới và hiểu chúng hoặc là trên cơ sở ngữ
cảnh, hoặc là trên cơ sở phân tích cấu tạo từ.
19


3. Biết bỏ qua những đoạn đọc ít quan trọng cho việc hiểu nội dung bài
khóa.
Tuy nhiên ở giai đoạn đầu cần tiến hành dần dần việc đọc với các yếu tố
phân tích. Với mục đích này có thể đưa vào trong các bài đọc những từ mới nào
đó. Khối lượng từ mới trong các văn bản đọc phân tích chiếm khoảng 2% so với từ
mới.
Không nên cho rằng sự phân tích xuất hiện chỉ khi có các từ mới. Nó có thể
xuất hiện cả trong việc hiểu bài khóa mà khơng cần phải dịch giải, ví dụ như khi
tiến hành việc phân chia những đặc trưng ngôn ngữ nào đó của bài khóa hay nội
dung của nó. Việc tiếp nhận phân tích có thể xuất hiện liên quan với cả việc đọc sơ
bộ văn bản.
Dấu hiệu quan trọng của đọc phân tích là sự có mặt của mục đích phân tích
trong suốt q trình đọc, tức là có sự tiếp nhận chi tiết hóa. Trong q trình đọc

với các yếu tố phân tích sinh viên học cách vượt qua những trở ngại ngôn ngữ, và
như vậy, sẽ nắm được nội dung văn bản. Mối quan hệ qua lại giữa đọc tổng hợp và
đọc phân tích như sợi chỉ đỏ diễn ra suốt tất cả các giai đoạn của đọc phân tích. Sự
phân tích khơng bao giờ tồn tại tách biệt khỏi sự tổng hợp.
Thực chất chúng ta thường đụng chạm đến đọc tổng hợp hơn, bởi vì quá
trình đọc diễn ra qua 3 giai đoạn tiếp nhận: tổng hợp lấn thứ nhất, phân tích và
tổng hợp lần thứ hai. Người học đọc bài khóa mới, dựa vào tài liệu ngôn ngữ đã
biết làm sáng tỏ ý nghĩa chung của bài khóa. Sau đó họ phân tích những đơn vị
ngơn ngữ chưa quen biết, và sau đó lại diễn ra việc đọc tổng hợp, bởi vì kết quả
của sự phân tích đã tạo các tiền đề cho việc hiểu trực tiếp điều đang đọc. Sự hiểu ở
cấp độ này, một lẽ đương nhiên, sẽ sâu hơn và chính xác hơn nhờ sự phân tích.

Hiện nay, người ta thường hay nói đến 3 kiểu đọc đang rất phổ biến. Đó là
đọc nghiên cứu, đọc tìm hiểu và đọc lướt qua. Trong phương pháp giảng dạy ngoại
ngữ hiện nay vẫn còn đang tranh cãi về việc bắt đầu dạy đọc theo kiểu nào trước,
đọc nghiên cứu hay đọc tìm hiểu. Quan điểm được nhiều người chấp nhận hơn cả
20


đó là dạy song song cả hai kiểu đọc trên, nhưng ở giai đoạn đầu nên đọc kiểu
nghiên cứu trước.
Đọc nghiên cứu địi hỏi sự hiểu biết chính xác và đầy đủ tới mức tối đa
thơng tin có trong văn bản và sự tái hiện thông tin tương ứng trong các mục đích
học tập khác nhau. Và như vậy, người đọc cần phải nắm được toàn bộ nội dung
văn bản thật đầy đủ, hiểu thấu ý nghĩa của từng từ tạo nên văn bản.
Để tiến hành việc đọc nghiên cứu cần phải chọn những văn bản mà khối
của chúng nhỏ hơn nhiều so với văn bản đọc tìm hiểu, và nên sử dụng các văn bản
dạng miêu tả. Độ thông tin trong các văn bản này phải rất cao và người đọc phải
hướng tới tiếp thu chính xác và đầy đủ ở mức độ tối đa thơng tin có trong văn bản.
Trong các văn bản đọc nghiên cứu không nên có các cấu trúc ngữ pháp xa lạ với

người học. Số lượng từ mới có thể nhiều hơn kiểu đọc tìm hiểu, và sinh viên có
thể sử dụng từ điển để tra cứu, song cũng không nên quá nhiều so với trình độ của
sinh viên.
Đọc tìm hiểu được sử dụng tới nếu như người đọc đặt nhiệm vụ tìm ý
chính trong văn bản, làm rõ cái gì được thơng báo trong vấn đề đang được quan
tâm, hoặc là nắm được nội dung từng phần của văn bản ở dạng chung nhất.
Đọc tìm hiểu có thể sử dụng những văn bản có độ dài tương đối lớn. Thích
hợp hơn cả cho kiểu đọc này là các văn bản tường thuật, có chủ đề. Độ thông tin
trong các văn bản không cần cao lắm, có thể cho phép bỏ qua các thơng tin phụ.
Cứ liệu ngôn ngữ không nên quá phức tạp. Từ mới không quá 5-7 từ trên một
trang và không ảnh hưởng đếnthơng tin chính của văn bản.
Đọc lướt qua được dùng để đọc văn bản nếu như người đọc đặt ra nhiệm
vụ nhận biết sự hình dung chung nhất về nội dung văn bản, hiểu những nét chung
nhất của văn bản được đọc.
Đọc lướt qua đòi hỏi người đọc có nhiều kinh nghiệm đọc và nắm vững
khối lượng lớn cứ liệu ngơn ngữ. Vì vậy kiểu đọc này ít khi dạy trong các giai
đoạn đầu. Ngay từ những bước ban đầu trong việc dạy đọc kiểu này, người học
cần quen dần đến khả năng đọc văn bản với các kiểu khác nhau, học cách áp dụng
21


các phương thức mà thích hợp với các mục đích đọc khác nhau. Chỉ có đọc theo
kiểu này mới giúp tiết kiệm chi phí sức lực và thời gian, và mang đến cho người
đọc sự thỏa mãn, hài lòng.
Như vậy, khi đọc văn bản người học cần biết, anh ta đọc với mục đích gì,
và nhận thức được những mục đích và nhiệm vụ này, anh ta sẽ đọc được văn bản
khi sử dụng những cách thức của một trong các kiểu đọc trên.

1.4. Một số nguyên tắc cơ bản trong việc dạy kỹ năng đọc.


Đọc, cũng giống như nghe, là một kỹ năng mang tính tiếp nhận. Chúng ta
nghe một ngơn ngữ được nói hồn thiện trên truyền hình, truyền thanh, qua điện
thoại hay một cuộc đối thoại trực tiếp. Khi chúng ta đọc chúng ta cũng có thể hiểu
ngôn ngữ được viết trong sách, trong các bản ký hiệu, trong thư từ và nhiều thứ
khác nữa. Bởi vì đây là kỹ năng mang tính tiếp nhận, đọc cũng có nhiều đặc điểm
giống như nghe.
Trong việc dạy kỹ năng đọc trong học ngoại ngữ thường người ta hay đề
cập đến các nguyên tắc cơ bản sau đây:
1. Khi dạy đọc văn bản, sẽ rất có lợi khi thơng báo mục đích đối với
văn bản sẽ được đọc. Hãy nói cho sinh viên biết, chúng ta đọc văn
bản này để làm gì. Đọc lướt qua để tìm ý chính? Liếc nhanh tìm
thơng tin đặc trưng? Hay đọc để phê phán? Mục đích của nhiệm vụ
đọc nên thơng báo cho sinh viên trước khi tiến hành đọc vào văn
bản.
2. Chuẩn bị cho sinh viên đến việc đọc bằng cách giới thiệu chủ đề của
đọan văn bản sẽ đọc. Nếu văn bản nói về du lịch, hãy cho sinh viên
thảo luận về họ đã đi du lịch ở đâu, hoặc người ta thường đi du lịch
bằng phương tiện gì: bằng ngựa, xe hơi, máy bay hay tàu thủy, v.v…
Nếu chủ đề văn bản q khó thì phải cung cấp cho họ những thông

22


tin nền tảng. Có như vậy, khi sinh viên chuẩn bị đọc họ sẽ tập trung
vào văn bản tốt hơn và sẽ hiểu văn bản được đọc nhiều hơn.
3. Trước khi sinh viên đọc văn bản, hãy cho họ đọc những câu hỏi về
văn bản trước tiên, để giúp họ tập trung vào ý nghĩa nội dung văn
bản. Nếu văn bản khơng có câu hỏi đi kèm, hãy đặt một hay hai câu
hỏi mà giúp sinh viên tập trung hơn vào văn bản trước khi đọc. Sẽ
giúp được sinh viên rất nhiều nếu như bắt họ trả lời các câu hỏi này

trước khi đọc văn bản.
4. Không dạy trước và giải thích từ vựng trong văn bản, trừ trường hợp
thật cần thiết. Một trong những kỹ năng mà người đọc cần phải học
là đoán nghĩa của những từ mới. Nếu tất cả các từ được giảng giải
trước, điều đó sẽ làm sinh viên mất khả năng phán đoán từ dựa trên
ngữ cảnh. Thêm nữa, dạy ngay một loạt từ vựng có thể làm cho sinh
viên vừa chán, vừa khơng hiệu quả. Thay vì dạy trước các từ, hãy
bày cho sinh viên những kỹ năng mà có thể giúp sinh viên phán
đốn từ một cách trí tuệ và thơng minh. Sau đó, nếu sinh viên vẫn
khơng hiểu sau khi đã đọc văn bản, thầy giáo có thể giải thích nghĩa
của những từ mà sinh viên cần phải biết trong tương lai. Nếu một từ
mà hiếm khi dùng thì khơng cần thiết phải giải thích nghĩa của nó.
5. Hãy u cầu sinh viên đọc thầm mà không nên lẩm bẩm hay nhấp
nháy đôi môi đánh vần các từ. Điều này sẽ giúp họ đọc nhanh hơn và
tập trung hơn đến các từ quan trọng. Thêm nữa, đọc to chỉ là một
dạng luyện nói bài tập cho phát âm. Người học có thể đọc to và
không hiểu được điều mà họ đang đọc. Đọc thầm giúp họ chú ý
nhiều đến nghĩa hơn là hình thức của từ hay của âm.
6. Hãy chỉ thảo luận những từ khó sau khi đọc xong văn bản. Nếu sinh
viên không thể hiểu một số từ nhất định nào đó bằng cách phán đốn
nghĩa của từ thơng qua ngữ cảnh, thì thầy giáo hãy giúp họ bằng
cách giải thích nghĩa thơng qua định nghĩa hoặc là đưa ra ví dụ.
23


×