Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (683.47 KB, 97 trang )

Ebook.VCU – www.ebookvcu.com Giáo trình TTCK
______________________________________________________________________________
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ CÁC CHỦ THỂ THAM GIA TTCK
1.1.2. Khái niệm và các đặc điểm của TTCK
Thuật ngữ "thị trường" là một khái niệm cơ bản của kinh tế học và đã được nhiều nhà kinh tế
học định nghĩa. Nếu hiểu "thị trường" một cách đơn giản là nơi mua bán hàng hoá thì không sai,
nhưng không đầy đủ và không thấy được những loại thị trường không có "chợ" mua bán tập trung.
Hơn nữa, nếu hiểu như vậy thì thật khó giải thích được những loại thị trường "vô hình" với những
loại hàng hoá "vô hình" đã và đang ngày càng phát triển như thị trường vốn, thị trường dịch vụ,...
Xét về bản chất, thị trường là mối quan hệ kinh tế tổng hợp của 5 thành tố: hàng hoá, cung cầu,
giá cả, phương thức giao dịch và thanh toán. Như vậy, nơi nào, lúc nào có đủ 5 thành tố thì nơi đó,
khi đó diễn ra hoạt động của thị trường. Với nhận thức này chúng ta sẽ thấy được các loại thị trường
"vô hình", những loại thị trường không có chợ mua bán tập trung tại một địa điểm cố định. Những
khác biệt còn lại là quy mô của thị trường đó rộng hay hẹp, phổ biến hay chưa phổ biến, hiện đại
hay còn thô sơ.
Có nhiều loại thị trường khác nhau tùy theo tiêu thức phân chia. Căn cứ vào đối tượng giao
dịch thì có thể kể tới các loại thị trường như: thị trường hàng hoá và dịch vụ, thị trường sức lao
động, thị trường vàng, thị trường ngoại tệ, thị trường chứng khoán...
TTCK là gì?
TTCK là thị trường diễn ra các hoạt động phát hành, giao dịch mua bán chứng khoán. Việc
mua bán này được tiến hành ở thị trường sơ cấp, khi người mua mua được chứng khoán lần đầu từ
những người phát hành chứng khoán, và ở thị trường thứ cấp khi có sự mua đi bán lại các chứng
khoán đã được phát hành từ thị trường sơ cấp.
Như vậy, TTCK là 1 bộ phận của thị trường tài chính, là nơi diễn ra quá trình phát hành, mua
bán các chứng khoán, đó là các công cụ nợ và công cụ vốn (còn gọi là công cụ sở hữu). Bản chất của
TTCK là thị trường thể hiện mối quan hệ giữa cung và cầu vốn đầu tư. Giá chứng khoán chứa đựng
các thông tin về chi phí vốn, hay còn gọi là giá của vốn đầu tư. TTCK là hình thức phát triển bậc cao
của nền sản xuất và lưu thông hàng hóa.
Chứng khoán được phát hành và mua bán trên TTCK bao gồm nhiều loại khác nhau tùy theo


tiêu thức phân loại. Nếu căn cứ vào thời gian sử dụng vốn sẽ có chứng khoán ngắn hạn và chứng
khoán dài hạn. Các chứng khoán ngắn hạn thường được mua bán trên thị trường tiền tệ. Các chứng
khoán dài hạn như cổ phiếu, trái phiếu thường được phát hành, mua bán trên TTCK. Vì vậy trên
thực tế, đôi khi người ta đồng nhất giữa TTCK với thị trường vốn.
Đặc điểm của TTCK
Thứ nhất, hàng hoá của TTCK là các loại chứng khoán. Đó là những công cụ chuyển tải giá trị
như cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư, chứng khoán phái sinh. Chứng khoán có những đặc
điểm khác biệt so với các loại hàng hóa thông thường. Nếu như mỗi loại hàng hóa thông thường đều
có tính năng tác dụng và mục đích sử dụng riêng (mua để sử dụng làm nguyên liệu phục vụ sản xuất,
mua để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cá nhân như ăn, mặc…) thì chứng khoán không có những tính
năng tác dụng riêng đó. Vì thế ở các thị trường hàng hóa dịch vụ, người sản xuất - người bán và
người mua đều rất quan tâm tới hình dáng, mẫu mã, kích thước, chất liệu, tác dụng, giá thành và giá
cả của sản phẩm; thì ở TTCK, do chứng khoán là những công cụ chuyển tải giá trị nên người ta chỉ
quan tâm đến chứng khoán đó thật hay giả, khả năng sinh lợi và rủi ro tiềm ẩn thế nào, khả năng
thanh khoản ra sao. Nói cách khác, việc phát hành, giao dịch các chứng khoán với tư cách là hàng
1
Ebook.VCU – www.ebookvcu.com Giáo trình TTCK
______________________________________________________________________________
hoá trên TTCK của tổ chức phát hành, của nhà đầu tư nhằm mục đích huy động các nguồn vốn nhàn
rỗi cho đầu tư, đồng thời thực hiện việc chuyển dịch các dòng tiết kiệm và đầu tư nhằm mục tiêu tìm
kiếm lợi nhuận.
Thứ hai, TTCK được đặc trưng bởi định chế tài chính trực tiếp, những người có khả năng cung
ứng vốn có thể điều chuyển vốn trực tiếp cho người cần vốn mà không cần thông qua các trung gian
tài chính (ngân hàng, công ty tài chính,...) với tư cách là một chủ thể riêng biệt, độc lập thực hiện
huy động vốn để phân phối vốn nhằm đạt được những lợi ích riêng.
Chúng ta đều đã biết, các nguồn tài chính có thể được chuyển dịch từ người cung sang người
cầu bằng một trong hai hình thức: tài chính gián tiếp hoặc trực tiếp.
Tài chính gián tiếp: vốn được luân chuyển từ người cung vốn qua các trung gian tài chính (như
ngân hàng thương mại, công ty tài chính…) rồi mới được chuyển tới người cầu vốn. Trung gian tài
chính đứng giữa người cung và người cầu vốn, tiến hành tập trung các nguồn tài chính từ những

người cung vốn và trả cho họ một khoản tiền lãi nhất định; sau đó sử dụng các nguồn lực tài chính
huy động được để cho những người cầu vốn vay và thu từ họ một khoản tiền lãi nhất định. Trung
gian tài chính được hưởng một khoản thu nhập từ phần chênh lệch giữa thu từ cung ứng nguồn lực
tài chính và chi cho huy động các nguồn lực tài chính.
Tài chính trực tiếp: vốn hay các nguồn tài chính được luân chuyển trực tiếp từ người cung vốn
sang người cầu vốn. Trong quá trình vận động này, nguồn tài chính không dừng lại ở bất kỳ một tổ
chức tài chính trung gian nào. Người có nhu cầu sử dụng vốn phải trả chi phí sử dụng vốn cho người
cung vốn. Tuy nhiên, trong hình thức tài trợ trực tiếp, nguồn vốn có thể luân chuyển tới người có
nhu cầu theo 2 hình thức: tài trợ trực tiếp qua trung gian và tài trợ trực tiếp không qua trung gian.
Tài trợ trực tiếp qua trung gian là một hình thức luân chuyển các nguồn tài chính trong đó
ngoài người cung vốn và người cầu vốn còn xuất hiện một trung gian đứng ra tổ chức, thu xếp việc
thực hiện giao dịch tài chính giữa người cung và người cầu. Ở hình thức này, nguồn tài chính không
dừng lại ở trung gian (như trong tài trợ gián tiếp) song người cung và người cầu vốn phải trả một
khoản phí nhất định đối cho người trung gian ngoài chi phí sử dụng vốn, ví dụ: hoa hồng đại lí, phí
bảo lãnh phát hành chứng khoán… Đây là loại hình luân chuyển các nguồn tài chính phát sinh khá
phổ biến trên thị trường.
Tài trợ trực tiếp không qua trung: là hình thức luân chuyển trực tiếp các nguồn tài chính giữa
người cung vốn và người cầu vốn mà không cần qua bất kỳ một trung gian nào. Người cung vốn và
người cầu vốn trực tiếp thỏa thuận các điều kiện giao dịch. Trong hình thức này, người có nhu cầu
vốn chỉ phải trả chi phí sử dụng vốn cho người cung vốn để có quyền sử dụng vốn trong những
khoảng thời gian nhất định. Loại hình luân chuyển các nguồn tài chính này phát sinh phổ biến trong
phát hành chứng khoán nội bộ, mua chứng khoán trực tiếp từ tổ chức phát hành, hoặc trên thị trường
tự do (thị trường ngầm), .
Thực tế phát triển TTCK cho thấy, hầu hết các hoạt động phát hành chứng khoán để huy động
vốn của các tổ chức phát hành được thực hiện thông qua các hình thức tài trợ trực tiếp qua trung
gian hoặc không qua trung gian.
Thứ ba, hoạt động mua bán trên TTCK chủ yếu được thực hiện qua người môi giới.
TTCK được cấu thành bởi nhiều bộ phận thị trường, trong đó TTCK tập trung và thị trường
OTC là những bộ phận quan trọng. Do hàng hóa của thị trường này là các công cụ chuyển tải giá trị,
nên bằng những giác quan thông thường nhà đầu tư khó có khả năng phân biệt được chứng khoán đó

có đảm bảo yêu cầu về mặt pháp lí cũng như chất lượng của chúng. Vì vậy, để bảo vệ quyền lợi
chính đáng cho nhà đầu tư, đảm bảo TTCK hoạt động đúng pháp luật, công bằng, công khai và hiệu
quả, luật pháp các nước thường quy định hoạt động mua bán chứng khoán trên các thị trường có tổ
chức phải thông qua các trung gian, đó là những nhà môi giới chứng khoán đã được cấp phép là
thành viên giao dịch của thị trường đó. Các nhà đầu tư muốn mua hoặc bán chứng khoán không thể
2
Ebook.VCU – www.ebookvcu.com Giáo trình TTCK
______________________________________________________________________________
đến thị trường đàm phán để mua bán trực tiếp, mà bắt buộc phải đặt lệnh mua bán qua các nhà môi
giới chứng khoán.
Thứ tư, TTCK gần với thị trường cạnh tranh hoàn hảo.
TTCK bao gồm nhiều bộ phận thị trường khác nhau, trong đó TTCK tập trung là bộ phận trung
tâm. Ở thị trường này tất cả mọi người đều được tự do tham gia mua và bán theo nguyên tắc hoạt
động của thị trường. Không có sự áp đặt giá cả trên TTCK, giá cả ở đây được xác định dựa trên
quan hệ cung cầu của thị trường và phản ánh các thông tin có liên quan đến chứng khoán.
Thứ năm, TTCK về cơ bản là thị trường liên tục. Sau khi các chứng khoán được phát hành trên
thị trường sơ cấp, nó có thể được mua đi bán lại nhiều lần trên thị trường thứ cấp. TTCK đảm bảo
cho những người đầu tư có thể chuyển các chứng khoán của họ nắm giữ thành tiền bất cứ lúc nào họ
muốn.
Trên đây là một số đặc điểm cơ bản của TTCK. Chính những đặc điểm này là cơ sở để phân
biệt sự khác nhau giữa TTCK với các thị trường khác; đồng thời đó cũng là những điểm nhấn tạo ra
sự hấp dẫn của TTCK đối với các tổ chức phát hành, nhà đầu tư và kinh doanh chứng khoán. Đặc
biệt đối với các tổ chức phát hành, TTCK là kênh huy động vốn trung và dài hạn rất thuận lợi vì với
đặc điểm "thị trường chứng khoán là thị trường liên tục" đã tạo điều kiện cho các nguồn vốn ngắn
hạn của nhà đầu tư, trở thành nguồn vốn dài hạn của nhà phát hành.
1.1.3. Các chủ thể tham gia TTCK
Tham gia TTCK bao gồm nhiều chủ thể như: tổ chức phát hành, nhà đầu tư, tổ chức kinh
doanh chứng khoán, tổ chức phụ trợ, tổ chức quản lí TTCK .
● Tổ chức phát hành chứng khoán
Tổ chức phát hành chứng khoán là các tổ chức cần vốn và thực hiện huy động vốn thông qua

TTCK. Tổ chức phát hành là người cung cấp chứng khoán - hàng hóa của TTCK. Thông thường tổ
chức phát hành bao gồm:
- Chính phủ và các cấp chính quyền địa phương: phát hành trái phiếu chính phủ và chính quyền
địa phương.
- Doanh nghiệp (bao gồm cả các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực tài chính ngân hàng và phi tài
chính): phát hành cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp.
- Công ty quản lí quỹ đầu tư: phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư.
● Nhà đầu tư chứng khoán
Nhà đầu tư chứng khoán là những người bỏ tiền đầu tư vào chứng khoán nhằm mục đích thu
lợi nhuận. Nhà đầu tư có thể được chia thành nhiều loại như nhà đầu tư tổ chức, nhà đầu tư cá nhân,
nhà đầu tư trong nước và nước ngoài.
+ Nhà đầu tư cá nhân
Nhà đầu tư cá nhân là những người tham gia mua bán chứng khoán trên TTCK. Cũng giống
như những hoạt động đầu tư khác, mục đích của đầu tư chứng khoán để tìm kiếm lợi nhuận. Tuy
nhiên, mỗi nhà đầu tư có khả năng tài chính, tâm lí đầu tư và điều kiện nhân thân… khác nhau. Do
vậy, họ sẽ có thái độ khác nhau đối với rủi ro.
Các nhà đầu tư cá nhân thuộc trường phái thận trọng thường không thích rủi ro và rất bảo thủ
trong các phương thức đầu tư. Họ tìm mọi cách để giảm rủi ro và tìm kiếm lợi nhuận từ những
chứng khoán có rủi ro thấp, đầu tư dài hạn vào một số chứng khoán nhất định.
Các nhà đầu tư cá nhân thuộc trường phái mạo hiểm thường sẵn sàng chấp nhận rủi ro nhằm
mục đích tối đa hóa lợi nhuận thu được. Họ thường đầu tư vào các chứng khoán có tỉ lệ rủi ro cao
nhưng có lợi nhuận kì vọng lớn, thường đầu tư ngắn hạn mà không đầu tư lâu dài vào bất cứ một
loại chứng khoán nào.
3
Ebook.VCU – www.ebookvcu.com Giáo trình TTCK
______________________________________________________________________________
+ Nhà đầu tư tổ chức (còn gọi nhà đầu tư chuyên nghiệp)
Nhà đầu tư tổ chức là các tổ chức thường xuyên mua bán chứng khoán với số lượng lớn. Các tổ
chức này thường có các bộ phận chức năng bao gồm các chuyên gia có kinh nghiệm để nghiên cứu
thị trường và đưa ra các quyết định đầu tư. Nhìn chung có thể kể đến một số nhà đầu tư chuyên

nghiệp sau:
- Các quỹ tín thác đầu tư: được thành lập nhằm thu hút vốn của nhiều nhà đầu tư cá nhân đề
đầu tư trên TTCK. Ưu điểm nổi bật của hình thức đầu tư qua các quỹ tín thác là có thể đa dạng hóa
danh mục đầu tư và các quyết định đầu tư được thực hiện bởi các chuyên gia có kinh nghiệm.
- Các công ty bảo hiểm: Công ty bảo hiểm quản lí phí bảo hiểm của những người tham gia bảo
hiểm và sử dụng số tiền đó để đầu tư dưới các hình thức như: gửi ngân hàng, đầu tư vào chứng
khoán... Để đảm bảo khả năng thanh toán bảo hiểm của các công ty bảo hiểm, pháp luật các nước
thường có các quy định khá chặt chẽ về tỉ trọng các khoản đầu tư.
- Các quỹ hưu trí và quỹ bảo hiểm xã hội khác. Các quỹ này thu phí đóng góp định kì của các
cá nhân để sau này trả cho họ lương hưu hay các khoản trợ cấp khác. Phần phí thu được chưa phải
chi trả có thể được các nhà quản lí quỹ đầu tư vào các chứng khoán có độ an toàn cao như trái phiếu
chính phủ.
- Các công ty tài chính, các NHTM… cũng có thể trở thành nhà đầu tư chuyên nghiệp khi họ
mua bán chứng khoán cho chính mình.
● Người kinh doanh chứng khoán
Tham gia KDCK có thể bao gồm nhiều tổ chức như: CTCK, công ty quản lí quỹ đầu tư… và cá
nhân hành nghề độc lập.
+ Công ty chứng khoán
CTCK là tổ chức có tư cách pháp nhân kinh doanh trong lĩnh vực chứng khoán, thực hiện
một hoặc toàn bộ các hoạt động: môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư chứng khoán
với mục đích tìm kiếm lợi nhuận.
Tùy theo điều kiện về năng lực tài chính, cơ sở vật chất kĩ thuật và nguồn nhân lực mà một
CTCK có thể đảm nhận tất cả các nghiệp vụ kinh doanh hoặc chỉ đảm nhận một số nghiệp vụ nhất
định theo giấy phép kinh doanh.
+ Công ty quản lý quỹ đầu tư
Công ty QLQ là tổ chức có tư cách pháp nhân, hoạt động cung cấp dịch vụ quản lý quỹ đầu
tư chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư chứng khoán.
Công ty QLQ là người thành lập và quản lí quỹ tín thác bằng cách: (1) đứng ra xin phép
thành lập quỹ, phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư ra công chúng để tạo vốn cho quỹ; (2) lựa chọn và
thực hiện đầu tư vốn của quỹ vào chứng khoán hoặc tài sản khác phù hợp với điều lệ của quỹ; (3)

xác định lợi nhuận của quỹ và tư vấn cho người lưu giữ tài sản của quỹ để phân phối lợi nhuận. Việc
thành lập và hoạt động của quỹ và công ty QLQ được thực hiện theo luật tín thác đầu tư. Theo luật
này một hợp đồng tín thác được kí kết bởi tất cả các bên tham gia vào quỹ: công ty quản lí quỹ, tổ
chức giám sát bảo quản (thường là ngân hàng giám sát hoặc ngân hàng tín thác), và những người
đầu tư.
● Người cung cấp các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh chứng khoán (tổ chức phụ trợ)
Để đảm bảo cho TTCK có thể vận hành một cách bình thường, bên cạnh các chủ thể nêu trên
cần có các tổ chức cung cấp các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh chứng khoán như: tổ chức lưu kí chứng
khoán và thanh toán bù trừ, tổ chức đánh giá hệ số tín nhiệm, tổ chức tài trợ chứng khoán, tổ chức
kiểm toán, công nghệ thông tin TTCK…
- Tổ chức lưu kí chứng khoán và thanh toán bù trừ
Tổ chức lưu kí chứng khoán và thanh toán bù trừ là tổ chức nhận lưu giữ bảo quản các chứng
khoán của khách hàng và tiến hành các nghiệp vụ thanh toán bù trừ các giao dịch mua bán chứng
4
Ebook.VCU – www.ebookvcu.com Giáo trình TTCK
______________________________________________________________________________
khoán.
- Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm
Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm là tổ chức chuyên thực hiện việc đánh giá về tình hình hiện
tại và triển vọng hoạt động của các doanh nghiệp dưới dạng các hệ số tín nhiệm. Nhà đầu tư có thể
dựa vào các hệ số tín nhiệm do các công ty đánh giá hệ số tín nhiệm cung cấp để cân nhắc trước khi
ra quyết định đầu tư.
- Tổ chức tài trợ chứng khoán
Tổ chức tài trợ chứng khoán là các tổ chức được thành lập với mục đích khuyến khích mở rộng
và tăng trưởng TTCK thông qua các hoạt động cho vay bảo lãnh, cho vay để mua cổ phiếu, cho vay
chứng khoán cho các giao dịch chênh lệch… Các tổ chức tài trợ chứng khoán ở các nước khác nhau
có đặc điểm khác nhau, có nước không có loại hình tổ chức này.
● Người quản lí và giám sát thị trường
Tùy theo chính sách phát triển thị trường và thực tế phát triển TTCK của mỗi quốc gia mà việc
quản lí và giám sát TTCK được thực hiện bởi các chủ thể khác nhau. Thông thường tham gia quản lí

giám sát TTCK bao gồm: Nhà nước (thông qua các cơ quan chức năng như UBCKNN, NHNN…),
các tổ chức tự quản (Sở giao dịch, Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán…).
- Cơ quan quản lí nhà nước đối với TTCK
Sự quản lí của nhà nước đối với TTCK là nhân tố rất quan trọng để đảm bảo cho thị trường
hoạt động trật tự, công bằng, đúng pháp luật. Tuy nhiên mô hình quản lí nhà nước đối với TTCK ở
các nước đều có những điểm khác nhau. Nhìn nhận khái quát có thể thấy có hai loại mô hình về cơ
quan quản lí nhà nước đối với TTCK: Một số nước giao nhiệm vụ quản lí nhà nước đối với TTCK
cho một bộ của Chính phủ, thường là bộ Tài chính (Nhật Bản, Hàn Quốc…), một số nước thành lập
cơ quan độc lập trực thuộc Chính phủ: Ủy ban chứng khoán (Mĩ…). Bên cạnh bộ Tài chính hoặc Ủy
ban chứng khoán, một số bộ ngành khác cũng có chức năng tham gia quản lí TTCK ở một lĩnh vực
thuộc thẩm quyền. Ví dụ: Ngân hàng Trung ương quản lí các NHTM thực hiện các hoạt động kinh
doanh có liên quan đến chứng khoán như hoạt động thanh toán bù trừ, Bộ Tư pháp có trách nhiệm
xử lí các hành vi gian lận trên TTCK…
- Sở giao dịch chứng khoán
SGDCK là nơi giao dịch các chứng khoán đã được niêm yết. Nhiệm vụ của Sở giao dịch là tổ
chức vận hành thị trường thông qua các bộ phận chức năng như: quản lí niêm yết, quản lí giao dịch,
quản lí công bố thông tin, thanh tra giám sát… trên cơ sở các văn bản pháp luật của nhà nước và các
quy định của Sở.
Sở giao dịch ở nhiều nước là tổ chức tự định chế bao gồm các công ty chứng khoán thành viên,
trực tiếp điều hành và giám sát các hoạt động giao dịch chứng khoán. Khi phát hiện ra các hành vi vi
phạm quy chế thị trường, SGD tiến hành xử lí, áp dụng các biện pháp cưỡng chế thích hợp. Trường
hợp phát hiện có hành vi vi phạm nghiêm trọng các quy định của ngành chứng khoán, Sở có trách
nhiệm báo cáo lên Ủy ban chứng khoán để giải quyết. Hoạt động điều hành và giám sát của SGD
phải được thực hiện trên cơ sở phù hợp với các quy định pháp luật có liên quan.
- Hiệp hội các nhà KDCK
Hiệp hội các nhà KDCK là tổ chức của các CTCK và một số thành viên khác hoạt động trong
ngành công nghiệp chứng khoán được thành lập với mục đích bảo vệ lợi ích cho các công ty thành
viên nói riêng và cho toàn ngành chứng khoán nói chung. Hiệp hội các nhà KDCK thường là tổ chức
tự điều hành, tham gia quản lí giám sát thị trường theo một số nội dung chủ yếu sau:
+ Ban hành các quy định đối với thành viên và có trách nhiệm giám sát việc thực hiện các quy

định của các thành viên Hiệp hội.
+ Thu nhận các khiếu nại của khách hàng đối với các CTCK thành viên. Xử lí các vi phạm của
thành viên theo quy chế của Hiệp hội.
5
Ebook.VCU – www.ebookvcu.com Giáo trình TTCK
______________________________________________________________________________
+ Đề xuất các kiến nghị đối với các cơ quan quản lí Nhà nước về các biện pháp phát triển thị
trường.
1.2. PHÂN LOẠI THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1.2.1. Theo đối tượng giao dịch
● Thị trường cổ phiếu
Thị trường cổ phiếu, còn gọi là thị trường vốn (vốn cổ phần) là thị trường mà đối tượng giao
dịch là các loại cổ phiếu của các công ty cổ phần. Thị trường cổ phiếu được coi là bộ phận cơ bản và
giữ vị trí quan trọng nhất của hệ thống TTCK. Nói đến TTCK người ta thường đồng nghĩa với thị
trường cổ phiếu.
Thị trường cổ phiếu có một số đặc điểm sau:
+ Hàng hóa mua bán trên thị trường là các loại cổ phiếu (còn gọi là các công cụ vốn) như: cổ
phiếu thường (còn gọi là cổ phiếu phổ thông), cổ phiếu ưu đãi.
+ Nhà đầu tư nắm giữ cổ phiếu giữ vai trò là cổ đông, là đồng sở hữu một phần công ty cổ
phần - tổ chức phát hành ra cổ phiếu đó.
+ Do cổ phiếu không có thờì hạn nên để thu hồi vốn đầu tư, thông thường nhà đầu tư không thể
yêu cầu tổ chức phát hành mua lại mà phải đem bán chúng (chuyển nhượng quyền sở hữu) cho
những nhà đầu tư khác trên thị trường cổ phiếu .
● Thị trường trái phiếu
Thị trường trái phiếu, còn gọi là thị trường nợ là nơi giao dịch các loại trái phiếu. Trái phiếu
được giao dịch trên thị trường bao gồm trái phiếu chính phủ và chính quyền địa phương, trái phiếu
công ty, trái phiếu ngân hàng…
Thị trường trái phiếu có một số đặc điểm sau:
+ Hàng hóa mua bán trên thị trường là các loại trái phiếu (còn gọi là các công cụ nợ) như: công
trái quốc gia, trái phiếu đầu tư, trái phiếu chính phủ, tín phiếu kho bạc, kì phiếu ngân hàng...

+ Nhà đầu tư nắm giữ trái phiếu giữ vai trò là chủ nợ của tổ chức phát hành.
+ Do trái phiếu có kì hạn nên việc thu hồi vốn đầu tư có thể thực hiện trực tiếp từ tổ chức phát
hành (nếu trái phiếu đã đến ngày đáo hạn). Trường hợp ngược lại, nhà đầu tư phải đem bán chúng
(chuyển nhượng quyền sở hữu) cho những nhà đầu tư khác trên thị trường trái phiếu .
● Thị trường chứng chỉ quỹ đầu tư
Thị trường chứng chỉ quỹ là nơi giao dịch các loại chứng chỉ quỹ.
Thị trường chứng chỉ quỹ có một số đặc điểm sau:
+ Hàng hóa mua bán trên thị trường là các loại chứng chỉ quỹ do các công ty quản lí quỹ đầu tư
phát hành.
+ Nhà đầu tư nắm giữ chứng chỉ quỹ là người ủy thác cho công ty quản lý quỹ thực hiện hoạt
động đầu tư tập thể theo điều lệ của quỹ. Nhà đầu tư không có quyền kiểm soát hàng ngày đối với
hoạt động đầu tư của quỹ.
+ Tùy theo đặc điểm của từng loại quỹ đầu tư mà nhà đầu tư nắm giữ chứng chỉ quỹ có thể thu
hồi vốn đầu tư trực tiếp từ quỹ hoặc phải đem bán chúng (chuyển nhượng quyền sở hữu) cho những
nhà đầu tư khác trên thị trường chứng chỉ quỹ .
● Thị trường chứng khoán phái sinh
Là nơi giao dịch các loại chứng khoán phái sinh như quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền
chọn, hợp đồng kì hạn, hợp đồng tương lai... TTCK phái sinh là thị trường mà sự ra đời và phát triển
của nó bắt nguồn từ chính việc phát hành, giao dịch các loại chứng khoán gốc. Sự tồn tại và phát
triển của thị trường này có ý nghĩa quan trọng, góp phần thúc đẩy thị trường cổ phiếu và thị trường
trái phiếu hoạt động sôi động và hiệu quả hơn.
6
Ebook.VCU – www.ebookvcu.com Giáo trình TTCK
______________________________________________________________________________
Tiêu thức phân chia này giúp chúng ta có thể đánh trình độ phát triển của nền kinh tế nói chung
cũng như chính bản thân phát triển của TTCK nói riêng. Với những nước phát triển, sự phát triển
của thị trường cổ phiếu là biểu trưng cho sự phát triển của nền kinh tế. Song hành cùng với sự phát
triển và hoàn thiện của thị trường, các loại chứng khoán phái sinh cũng ngày càng gia tăng để đáp
ứng nhu cầu đa dạng, đồng thời cung cấp các công cụ phòng chống rủi ro cho các nhà đầu tư, kinh
doanh chứng khoán.

1.2.2. Theo các giai đoạn vận động (quá trình lưu thông) của chứng khoán
● Thị trường sơ cấp (Primary market)
Là thị trường diễn ra các giao dịch phát hành các chứng khoán mới.
TTCK sơ cấp có vai trò tạo vốn cho các tổ chức phát hành và chuyển hoá các nguồn vốn nhàn
rỗi trong công chúng vào đầu tư.
Đặc điểm của thị trường sơ cấp:
+ Trên thị trường sơ cấp, chứng khoán là phương tiện huy động vốn đối với nhà phát hành
đồng thời là công cụ đầu tư các nguồn tiền nhàn rỗi đối với các nhà đầu tư.
+ Chủ thể giao dịch: trên thị trường sơ cấp, người bán chứng khoán là các tổ chức phát hành,
người mua là các nhà đầu tư .
+ Kết quả giao dịch trên thị trường sơ cấp làm tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế.
+ Tính chất hoạt động của thị trường: thị trường sơ cấp là thị trường không liên tục.
● Thị trường thứ cấp (Secondary market)
Là thị trường diễn ra các giao dịch mua bán các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường
sơ cấp.
Vai trò của TTCK thứ cấp là thực hiện việc di chuyển vốn đầu tư giữa các nhà đầu tư chứng
khoán. Nếu xét trên góc độ kinh tế vĩ mô, TTCK thứ cấp là một định chế tài chính quan trọng trong
quá trình điều tiết vốn đầu tư giữa các ngành, các lĩnh vực, tạo ra một sự cân đối mới cho nền kinh
tế.
Đặc điểm của TTCK thứ cấp:
+ Trên thị trường thứ cấp, chứng khoán chỉ thuần túy là công cụ đầu tư mà không tồn tại với tư
cách là phương tiện huy động vốn cho các tổ chức phát hành.
+ Chủ thể giao dịch của thị trường thứ cấp chủ yếu là các nhà đầu tư, kinh doanh chứng khoán,
bao gồm: các nhà đầu tư cá nhân và các tổ chức đầu tư.
+ Kết quả hoạt động của thị trường thứ cấp không làm tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế mà chỉ
có vai trò làm thay đổi quyền sở hữu vốn đầu tư giữa các nhà đầu tư của thị trường.
+ Tính chất hoạt động của thị trường: thị trường thứ cấp là thị trường liên tục.
Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp một mối quan hệ hữu cơ, gắn bó với nhau, làm tiền đề
cho sự phát triển của TTCK. Thị trường sơ cấp có vai trò tạo hàng hóa cho hoạt động của thị trường
sơ cấp, thị trường thứ cấp làm gia tăng tính thanh khoản của chứng khoán, đảm bảo cho sự phát triển

của thị trường sơ cấp .
Phân chia và nghiên cứu TTCK theo tiêu thức này có ý nghĩa quan trọng trong việc phân tích
quan hệ cung cầu vốn trong nền kinh tế, đồng thời tạo cơ sở để đánh giá hiện trạng nền kinh tế cũng
như vị trí và uy tín của các tổ chức phát hành thông qua sự biến động giá chứng khoán trên thị
trường thứ cấp.
1.2.3. Theo cơ chế hoạt động
● Thị trường chứng khoán chính thức
TTCK chính thức (còn gọi là thị trường có tổ chức) là thị trường mà sự ra đời và hoạt động
được thừa nhận, bảo hộ về mặt pháp lý. Các hoạt động giao dịch của thị trường này nằm dưới sự
7
Ebook.VCU – www.ebookvcu.com Giáo trình TTCK
______________________________________________________________________________
kiểm soát và chịu sự ảnh hưởng bởi cơ chế điều tiết gián tiếp của Nhà nước. Nếu xét trên hình thức
và cơ chế giao dịch, thị trường có tổ chức bao gồm:
+ Thị trường tập trung
TTCK tập trung là thị trường ở đó việc giao dịch mua bán chứng khoán được thực hiện tại một
địa điểm tập trung gọi là sàn giao dịch.
Đặc điểm của TTCK tập trung:
- TTCK tập trung có địa điểm giao dịch cố định.
- Các chứng khoán được giao dịch tại TTCK tập trung phải thoả mãn những điều kiện nhất
định và hoàn tất thủ tục niêm yết, thường là chứng khoán của những công ty lớn, có danh tiếng, đã
qua thử thách của thị trường.
- Phương thức giao dịch chủ yếu là đấu giá hoặc ghép lệnh để hình thành giá cả cạnh tranh tốt
nhất trong các phiên giao dịch.
- Thành viên tham gia giao dịch có giới hạn, thường chỉ bao gồm những tổ chức hoặc cá nhân
có đủ điều kiện và đã được cơ quan quản lí của nhà nước về lĩnh vực chứng khoán và TTCK cấp
phép thành viên.
- Nhà nước quản lí đối với thị trường thông qua các pháp luật chuyên ngành về CK & TTCK.
+ Thị trường phi tập trung (còn gọi là thị trường OTC - Over the Counter)
Thị trường OTC là thị trường ở đó việc giao dịch mua bán chứng khoán không diễn ra tại một

địa điểm tập trung mà thông qua hệ thống máy vi tính và điện thoại kết nối giữa các thành viên của
thị trường.
Đặc điểm của TTCK OTC:
- TTCK OTC không có địa điểm giao dịch cố định. Các giao dịch được tiến hành qua mạng
lưới các CTCK phân tán trên khắp quốc gia.
- Các chứng khoán được giao dịch tại đây là các chứng khoán chưa được niêm yết trên bất kỳ
thị trường tập trung nào và thường bao gồm các chứng khoán có tiêu chuẩn thấp hơn chứng khoán
được niêm yết trên thị trường tập trung - chứng khoán của các công ty vừa và nhỏ.
- Giá cả trên thị trường được xác định chủ yếu theo phương thức thương lượng, thoả thuận.
- Nhà nước quản lí đối với thị trường thông qua các pháp luật chuyên ngành về CK & TTCK.
● Thị trường chứng khoán không chính thức (TTCK tự do )
TTCK tự do (The free markets): còn gọi là thị trường ngầm, hay thị trường chợ đen, là thị
trường ở đó các hoạt động giao dịch mua bán chứng khoán không được thực hiện qua hệ thống giao
dịch của thị trường tập trung và thị trường OTC, nó ra đời và hoạt động một cách tự phát theo nhu
cầu của thị trường.
TTCK tự do là thị trường mà hoạt động giao dịch mua bán, chuyển nhượng chứng khoán có thể
diễn ra ở bất cứ đâu, vào bất cứ lúc nào, có thể thông qua các nhà môi giới hoặc do chính những
người có nhu cầu đầu tư, mua bán chứng khoán thực hiện.
Dưới góc độ pháp lý, TTCK tự do là thị trường mà sự ra đời, tồn tại và hoạt động không được
thừa nhận và bảo hộ bởi các pháp luật chuyên ngành về chứng khoán và TTCK. Nó ra đời và hoạt
động bởi các nhu cầu tự phát của thị trường. Do không được bảo hộ về mặt pháp lý nên việc mua
bán chứng khoán trên thị trường tự do chứa đựng nhiều rủi ro như lừa đảo, hàng giả, hàng không có
thật…
Thị trường có tổ chức và thị trường tự do là hai bộ phận cùng song song tồn tại và phát triển.
Xét về lịch sử, thị trường tự do ra đời sớm hơn rất nhiều so với thị trường có tổ chức. Tuy nhiên,
cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường cũng như sự gia tăng vai trò kiểm soát của Nhà nước thì
quy mô và phạm vi hoạt động của thị trường tự do ngày càng giảm đi rõ rệt ngược lại với sự phát
triển nhanh chóng của thị trường có tổ chức.
Xem xét hoạt động TTCK theo tiêu thức này giúp chúng ta có thể đánh giá được vai trò cũng
8

Ebook.VCU – www.ebookvcu.com Giáo trình TTCK
______________________________________________________________________________
như mức độ kiểm soát của Nhà nước đối với hoạt động của TTCK nói riêng cũng như toàn bộ nền
kinh tế nói chung.
1.2.4. Theo thời hạn thanh toán
● Thị trường giao ngay
Thị trường giao ngay là thị trường mà việc giao nhận chứng khoán và thanh toán được diễn ra
ngay trong ngày giao dịch hoặc trong thời gian thanh toán bù trừ theo quy định.
Đặc điểm của TTCK giao ngay:
- Việc kí ký hợp đồng giao dịch mua bán chứng khoán được thực hiện ở hiện tại.
- Việc chuyển giao quyền sở hữu chứng khoán và thanh toán được thực hiện ngay trong ngày
giao dịch, hoặc trong thời gian thanh toán bù trừ theo quy định (T+1 hoặc T+2 hoặc T+3).
● Thị trường kỳ hạn
Thị trường kì hạn là thị trường mà việc giao nhận chứng khoán và thanh toán được diễn ra sau
ngày giao dịch một khoảng thời gian nhất định.
Đặc điểm của TTCK kì hạn:
- Việc kí ký hợp đồng giao dịch mua bán chứng khoán được thực hiện ở hiện tại.
- Việc chuyển giao quyền sở hữu chứng khoán và thanh toán được thực hiện trong một khoảng
thời gian nhất định theo hợp đồng đã kí kết. Tùy theo cơ chế hoạt động của thị trường theo kiểu Âu
hay kiểu Mĩ mà ngày thực hiện hợp đồng (chuyển giao quyền sở hữu chứng khoán và thanh toán)
được thực hiện sau ngày giao ngay một khoảng thời gian đã kí hay bất cứ ngày nào trong thời hạn
của hợp đồng.
1.3. CHỨC NĂNG VÀ VAI TRÒ CỦA TTCK
1.3.1. Chức năng của TTCK
TTCK là một bộ phận của thị trường tài chính được ví như là hệ thống các con kênh khơi
thông dòng chảy cho các nguồn vốn đầu tư. Thông qua các con kênh này, vốn sẽ chảy từ nơi thừa về
nơi thiếu, từ nơi sử dụng có hiệu quả thấp sang nơi sử dụng có hiệu quả cao hơn, vốn sẽ chảy sang
các ngành, các lĩnh vực cần ưu tiên phát triển theo đòi hỏi của xã hội cũng như các định hướng phát
triển nền kinh tế của Chính phủ.
Với tư cách là một định chế tài chính quan trọng trong nền kinh tế thị trường, TTCK được nhìn

nhận với hai chức năng cơ bản là tập trung vốn đầu tư và điều tiết các nguồn vốn trong nền kinh tế.
● Tập trung huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế
Thông qua các giao dịch trên được thực hiện trên TTCK sơ cấp, các nguồn vốn tạm thời nhàn
rỗi trong dân cư, trong các tổ chức chính trị, các tổ chức xã hội… được tập trung cho các hoạt động
đầu tư của các tổ chức phát hành.
- Thông qua phát hành trái phiếu, Nhà nước huy động vốn để thực hiện các chương trình đầu tư
xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển các công trình công cộng, thực hiện công nghiệp hóa và hiện đại
hóa đất nước.
- Các doanh nghiệp sử dụng vốn huy động được qua phát hành trái phiếu, cổ phiếu để đầu tư
đổi mới công nghệ, phát triển thị trường, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, nâng cao thị phần
doanh nghiệp, củng cố vị trí trên thương trường.
● Điều tiết các nguồn vốn trong nền kinh tế
TTCK nói chung, TTCK thứ cấp nói riêng là nơi tạo tính thanh khoản cho các loại chứng
khoán. Thông qua thị trường này nhà đầu tư có thể thu hồi vốn hoặc chuyển vốn đầu tư một cách dễ
dàng thông qua các hoạt động bán và mua các loại chứng khoán.
Mặt khác, trong nền KTTT, bên cạnh những doanh nghiệp thành đạt, không ít doanh nghiệp có
hiệu quả kinh doanh thấp kém, thậm chí có nguy cơ phá sản. Những doanh nghiệp này có thể phải
9
Ebook.VCU – www.ebookvcu.com Giáo trình TTCK
______________________________________________________________________________
chấp nhận giải pháp thu hẹp phạm vi kinh doanh ở một lĩnh vực nào đó bằng cách rút bớt vốn đầu tư
khỏi các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để đầu tư vào một lĩnh vực khác thông
qua việc mua các chứng khoán đang được giao dịch trên TTCK. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc
vốn đầu tư tự phát điều tiết từ các ngành, các lĩnh vực có hiệu quả sử dụng thấp sang các ngành, các
lĩnh vực có hiệu quả sử dụng cao hơn.
1.3.2. Vai trò của TTCK
Việc tạo lập và phát triển TTCK có ý nghĩa rất quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế
của các nước có nền kinh tế thị trường. Nó là kênh bổ sung nguồn vốn trung và dài hạn cho nền kinh
tế. Tuy nhiên, nếu không có đầy đủ các điều kiện cần thiết để đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển
thì TTCK cũng có thể gây nên những tác hại không lường đối với nền kinh tế - xã hội. Chính vì thế

nhận thức được đầy đủ vai trò tích cực cũng như những bất lợi của TTCK có một ý nghĩa quan
trọng trong việc sử dụng thị trường và xây dựng chính sách quản lý thị trường một cách hữu hiệu.
Ở hầu hết các nước có nền kinh tế thị trường phát triển đều tồn tại TTCK với các vai trò chủ
yếu sau:
- TTCK là kênh huy động, tập trung và luân chuyển vốn linh hoạt của nền kinh tế
Trong nền kinh tế thị trường, TTCK được xem như một trung tâm thu gom mọi nguồn vốn tiết
kiệm lớn nhỏ của từng hộ dân cư, các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong các doanh nghiệp, các tổ
chức tài chính và từ nước ngoài,... tạo thành một nguồn vốn khổng lồ tài trợ cho nền kinh tế, mà các
phương thức khác không làm được. Qua đó tạo ra cơ hội cho các doanh nghiệp có vốn để mở rộng
sản xuất kinh doanh và thu được lợi nhuận nhiều hơn. Nó giúp cho Nhà nước giải quyết thiếu hụt
ngân sách bằng cách phát hành trái phiếu, tạo và tăng thêm nguồn vốn để xây dựng các công trình cơ
sở hạ tầng, các ngành kinh tế mũi nhọn...
- TTCK góp phần kích thích cạnh tranh, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp
Thông qua TTCK, các doanh nghiệp có thể sử dụng vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi để đầu tư
chứng khoán như là một tài sản kinh doanh và ngược lại, các chứng khoán đó sẽ được chuyển thành
tiền khi cần thiết.
Hơn nữa TTCK còn giúp các doanh nghiệp xâm nhập lẫn nhau thông qua việc mua bán cổ
phiếu. Việc sáp nhập, mở rộng hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp đều có thể thực
hiện thông qua TTCK. Thậm chí khi một doanh nghiệp bị phá sản, nó cũng không mất đi, mà nó sẽ
được bán vào tay một số cổ đông khác và các cổ đông mới này sẽ tiếp tục duy trì sự hoạt động của
doanh nghiệp.
Luật lệ của TTCK bắt buộc các doanh nghiệp tham gia thị trường phải công bố công khai,
minh bạch tình hình tài chính, kết quả kinh doanh hàng quý, hàng năm trước dân chúng, để dân
chúng cũng như các nhà đầu tư khác có thể nhận định, đánh giá được công ty. Bên cạnh đó, việc
mua bán cổ phiếu của công ty một cách tự do, khiến người có cổ phiếu trở thành sở hữu chủ của
công ty, họ có thể kiểm soát công ty một cách dễ dàng qua các cơ quan quản lý công ty và nhận biết
được khả năng hoạt động của công ty qua sự chấp nhận của TTCK. Chính những điều này buộc các
doanh nghiệp phải tính toán kỹ lưỡng trong việc huy động và sử dụng vốn, qua đó góp phần nâng
cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

- TTCK góp phần đa dạng hóa các hình thức đầu tư và huy động vốn trong nền kinh tế
TTCK đưa đến cho công chúng những công cụ đầu tư mới, đa dạng, phong phú, phù hợp với
từng đối tượng có suy nghĩ và tâm lý riêng. Với một hệ thống các loại chứng khoán khác nhau của
nhiều ngành kinh tế và các chủ thể khác nhau, người tiết kiệm có thể tự mình lựa chọn, hoặc thông
qua những nhà tài chính chuyên môn lựa chọn những hình thức đầu tư thích hợp nhất. Nhờ vậy, vốn
nhàn rỗi trong xã hội sẽ được thu hút vào công cuộc đầu tư. Vốn đầu tư sinh lời, càng kích thích ý
10
Ebook.VCU – www.ebookvcu.com Giáo trình TTCK
______________________________________________________________________________
thức tiết kiệm và đầu tư trong dân chúng. Nếu không có TTCK thì nguồn tiết kiệm trong dân chúng
có thể vẫn tiếp tục nằm yên dưới dạng cất trữ, không sinh lời cho bản thân người tiết kiệm và cũng
chẳng đóng góp gì cho quá trình phát triển kinh tế.
Như vậy, TTCK là nơi cung cấp các cơ hội đầu tư có lựa chọn cho công chúng, từ đó nâng cao
tiết kiệm quốc gia, tạo điều kiện về vốn cho sự nghiệp phát triển kinh tế.
- TTCK là tấm gương phản ánh thực trạng và tương lai phát triển của doanh nghiệp
Thị giá chứng khoán của một doanh nghiệp đang giao dịch trên TTCK được coi là cơ sở quan
trọng đánh giá thực trạng hoạt động của doanh nghiệp đó trong hiện tại cũng như trong tương lai.
Thị giá cổ phiếu cao hay thấp biểu hiện trạng thái kinh tế của doanh nghiệp. Đặc biệt, mức độ cổ tức
và giá thặng dư của cổ phiếu (chênh lệch giữa giá thị trường và mệnh giá) thể hiện khả năng mang
lại lợi tức và thu nhập cho các cổ đông. Triển vọng tương lai của mỗi doanh nghiệp cũng được thể
hiện một cách trực tiếp trên thị giá cổ phiếu và sự diễn biến quá trình biến động thị giá cổ phiếu của
công ty.
Như vậy thông qua sự biến động về giá cả chứng khoán và các chỉ số trên TTCK, người ta có
thể đánh giá được tình trạng "sức khoẻ" của một doanh nghiệp nói riêng cũng như của nền kinh tế
nói chung cả trong hiện tại và tương lai.
- TTCK là công cụ hữu hiệu giúp Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết vĩ mô nền kinh tế
Các chỉ báo của TTCK phản ánh động thái của nền kinh tế một cách nhạy bén và chính xác.
Giá các chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tư đang mở rộng, nền kinh tế đang tăng trưởng; và
ngược lại giá chứng khoán giảm sẽ cho thấy các dấu hiệu suy thoái của nền kinh tế. Vì thế, TTCK
được coi là phong vũ biểu của nền kinh tế và là một công cụ quan trọng giúp chính phủ thực hiện

các chính sách kinh tế vĩ mô. Thông qua TTCK, chính phủ có thể mua và bán trái phiếu chính phủ
để tạo ra nguồn thu bù đắp thiếu hụt ngân sách và quản lí lạm phát. Ngoài ra, chính phủ cũng có thể
sử dụng một số biện pháp, chính sách tác động vào TTCK nhằm định hướng đầu tư, đảm bảo sự
phát triển cân đối của nền kinh tế…
- TTCK là công cụ góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
TTCK là công cụ cho phép vừa thu hút, vừa kiểm soát vốn đấu tư nước ngoài một cách hữu
hiệu, vì nó hoạt động theo nguyên tắc công khai. Nghĩa là mội đối tượng tham gia mua bán chứng
khoán phải công khai và cập nhật toàn bộ những thông tin liên quan đến giá trị chứng khoán, công
khai khả năng tài chính trong các giao dịch mua bán chứng khoán. Tính chuyên nghiệp của các nhà
đầu tư nước ngoài sẽ góp phần từng bước làm thay đổi tư duy trong đầu tư kinh doanh, đổi mới cơ
chế quản lí theo xu thế quản lí hiện đại, từng bước góp phần khắc phục tình trạng đầu tư thiếu thông
tin hoặc thông tin không trung thực, thiếu chính xác, đầu tư theo tâm lí, theo trào lưu đám đông của
các nhà đầu tư trong nước. Hoạt động mua bán chứng khoán của các nhà đầu tư nước ngoài góp
phần quan trọng vào sự phát triển của TTCK của các quốc gia, đặc biệt là ở các TTCK mới hình nổi;
là tấm gương để các nhà đầu tư trong nước theo dõi, quan sát và học tập.
Như vậy TTCK không chỉ là công cụ cho phép thu hút và kiểm soát vốn đấu tư nước ngoài; mà
còn góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của các quốc gia.
Ngoài ra, TTCK còn có các vai trò tích cực khác như: đảm bảo tính thanh khoản cho chứng
khoán, làm giảm áp lực lạm phát, thúc đẩy quá trình cổ phần hoá DNNN…
1.3.3. Các khía cạnh tiêu cực trên TTCK
TTCK không phải là một công cụ vạn năng, nó không thể giải quyết được tất cả các nhu cầu
của nền kinh tế đặt ra. Bên cạnh những tác động tích cực đó, do đặc điểm của các giao dịch chứng
khoán mà rất dễ nảy sinh các hành vi vi phạm các nguyên tắc, các quy chế trong hoạt động mua bán,
đó là "thao túng thị trường", "giao dịch nội gián", mua bán CK ngoài TTCK không chính thức làm
ảnh hưởng đến mục tiêu “công bằng, hiệu quả và phát triển ổn định” của thị trường.
11
Ebook.VCU – www.ebookvcu.com Giáo trình TTCK
______________________________________________________________________________
● Thao túng thị trường
"Thao túng thị trường" có thể được định nghĩa bằng nhiều cách khác nhau, nhưng tựu chung

lại đều là những hành vi cố ý gây tác động đến thị trường bằng cách vận dụng quy luật cung - cầu
hoặc các hành vi nhân tạo khác, để tác động đến giá cả chứng khoán, nhằm đạt được mục tiêu có lợi
cho riêng mình. Thao túng thị trường thường được thể hiện dưới các hình thức cụ thể sau:
- Một là, đầu cơ chứng khoán. Trên TTCK, hoạt động đầu tư chứng khoán được xem là hoạt
động cơ bản nhất của thị trường. Tuy vậy, cũng như bất kỳ hoạt động kinh tế nào, bên cạnh hoạt
động đầu tư chứng khoán tích cực thông thường thì hoạt động đầu cơ chứng khoán, hay các nhà
kinh tế còn gọi là hoạt động đầu tư mang tính chất đầu cơ, cũng song song tồn tại và là nhân tố hết
sức quan trọng và phức tạp trên TTCK. Đầu tư và đầu cơ đều là những hoạt động kinh doanh nhằm
tìm kiếm lợi nhuận. Hoạt động đầu tư có thể là ngắn hạn, trung hạn hoặc dài hạn, còn hoạt động đầu
cơ thường mang tính ngắn hạn. Các nhà đầu tư chứng khoán thường mua chứng khoán để nhận thu
nhập từ chứng khoán đó mang lại, còn các nhà đầu cơ thường là những người mua bán chứng khoán
để tìm kiếm lơi nhuận từ chênh lệch giá chứng khoán qua những lần mua đi bán lại trên TTCK.
Bằng sự táo bạo của mình, họ chớp lấy thời cơ để mua hoặc bán chớp nhoáng các chứng khoán. Như
vậy, mục tiêu của người đầu cơ không phải là nhận lợi tức của chứng khoán và thâm nhập vào các
công ty danh tiếng mà là kiếm lời thông qua việc mua bán để hưởng chênh lệch giá chứng khoán.
Họ sẵn sàng chấp nhận sự rủi ro, mạo hiểm để hy vọng thu được nhiều lợi nhuận cho mình. Vì vậy,
những người đầu cơ thường hay tập trung vào những chứng khoán mà nhiều người cho rằng chúng
có mức độ rủi ro cao. Họ thường quan tâm khai thác những thông tin có tính chất nhất thời, thẩm
định, dự đoán những khả năng có tính chất bất thường. Đầu tư và đầu cơ đều là những hoạt động
kinh doanh, giữa chúng có mức độ độc lập nhất định và có thể chuyển hoá lẫn nhau. Trên thực tế,
một người mua chứng khoán với mục đích ban đầu là đầu tư, nhưng do giá chứng khoán họ đang
nắm giữ lên giá hoặc sụt giá một cách nhanh chóng khiến họ phải quyết định bán đi các chứng
khoán mà mình đang nắm giữ nhằm kiếm lời từ sự chênh lệch giá mua bán, hoặc bán đi để hạn chế
rủi ro khi giá xuống, và vô tình họ đã trở thành một nhà đầu cơ chứng khoán tạm thời. Có thể nói
rằng, trong hoạt động đầu tư đã nhen nhóm những yếu tố mang tính chất đầu cơ và ngay trong đầu
cơ cũng có nhân tố của đầu tư. Thực tiễn hoạt động của TTCK có rất nhiều ví dụ sinh động về mối
liên hệ rất chặt chẽ cũng như ranh giới mỏng manh giữa đầu tư và đầu cơ.
Trên TTCK, các nhà đầu cơ là những người giám bỏ tiền ra mua những loại chứng khoán khi
có nhiều người bán, nhưng có rất ít người mua. Và ngược lại, họ cũng sẵn sàng bán khi có nhiều
người mua nhưng có ít người bán. Chính các nhà đầu cơ, bằng kinh nghiệm, óc kinh doanh và tiền

bạc của mình, họ đã giúp cho hoạt động của thị trường không bị gián đoạn. Trên góc độ đó, những
nhà đầu cơ cũng có vai trò tích cực làm cho TTCK có tính thanh khoản cao, hoạt động giao dịch trên
trên thị trường thêm phần sôi động. Vì vậy, những hoạt động đầu cơ này đều được các thị trường
cho phép thực hiện.
Tuy nhiên, cũng có những hành động đầu cơ bị cấm. Đó là những hành động nhằm tạo ra sức
ép về cung cầu một loại chứng khoán nào đó trên thị trường dẫn đến hình thành giá chứng khoán
không đúng với giá trị đích thực của nó, để có lợi cho người đầu cơ và gây thiệt hại cho những nhà
đầu tư khác. Ví dụ: các nhà đầu cơ kết hợp với nhau cùng liên tục mua, hoặc bán một loại chứng
khoán, gây nên sự khan hiếm hay thừa thãi một cách giả tạo, dẫn đến giá cả chứng khoán sẽ gia tăng
hoặc giảm sút một cách đột ngột. Khi giá đã tăng hoặc hạ đến một điểm tối ưu, một người trong số
đó sẽ bán ra hoặc mua vào hết,...
- Hai là, hiện tượng chèn ép, cá lớn nuốt cá bé. Đó là hành vi những thương gia lớn thường đẩy
giá lên hoặc gìm giá xuống để thu lợi, gây nên những thiệt hại cho những người có số lượng chứng
khoán ít ỏi, vì trên TTCK giá cả hoàn toàn do cung cầu quyết định.
- Ba là, loan truyền tin đồn không chính xác hay thông tin lệch lạc về hiện trạng và triển vọng
12
Ebook.VCU – www.ebookvcu.com Giáo trình TTCK
______________________________________________________________________________
của một đơn vị kinh tế. Điều này sẽ tạo nên những hậu quả xấu cho đơn vị kinh tế này, có thể đem
đến tình trạng cổ phiếu được đưa ra bán ồ ạt làm giá trị cổ phiếu giảm đột ngột. Những người có ý
đồ xấu có thể đứng ra mua cổ phiếu đó để khống chế công ty và hưởng một số lãi đáng kể sau khi
tin đồn đã được kiểm chứng.
- Bốn là, cố ý gây sai lệch hay sự hiểu lầm về hoạt động giao dịch của một loại chứng khoán.
- Năm là, tìm mọi biện pháp để duy trì, ổn định mức giá chứng khoán nhằm tạo ra những lợi
thế cho việc chào bán hoặc phát hành chứng khoán mới.
- Sáu là, thực hiện các giao dịch được sắp đặt trước, giao dịch giả tạo...
● Giao dịch nội gián
"Giao dịch nội gián" là những trường hợp người trong nội bộ tổ chức phát hành, hoặc những
người do trong quá trình thực hiện những nhiệm vụ nào đó mà có được những thông tin chưa công
bố ra công chúng, đã sử dụng hoặc trao cho người khác sử dụng những thông tin này để đầu tư,

tham gia giao dịch có lợi cho mình. Đối tượng để thực hiện hành vi giao dịch nội gián là những
người trong nội bộ bộ máy quản lý của tổ chức phát hành. Họ nắm được các thông tin nội bộ nhờ
vào tư cách thành viên của tổ chức quản lý, lãnh đạo, giám sát hoặc nhờ vào chức năng của họ trong
tổ chức phát hành.
Thông tin nội bộ là những thông tin quan trọng, chưa được công bố, liên quan đến một hoặc
nhiều người phát hành, một hoặc nhiều người mua, bán chứng khoán có kỳ hạn, một hoặc nhiều sản
phẩm tài chính đã được niêm yết, mà nếu thông tin đó được công bố sẽ có khả năng ảnh hướng đến
giá chứng khoán, giá hợp đồng hoặc giá sản phẩm tài chính có liên quan. Thông tin nội bộ bao gồm:
những thay đổi lớn trong chính sách đầu tư, quản lý của công ty niêm yết, giao dịch của công ty với
ngân hàng bị đình chỉ, công ty gặp tổn thất do hiểm hoạ thiên nhiên, các vụ kiện tụng lớn, tình trạng
phá sản hay thâu tóm của công ty, những khó khăn trong việc trả nợ của công ty, những thay đổi
trong ban quản trị, các kế hoạch sáp nhập, giải thể công ty, v,v...
Mua bán nội gián được xem như là một hành vi phi đạo đức về mặt thương mại và đi ngược lại
nguyên tắc: mọi nhà đầu tư phải có cơ hội như nhau.
● Các hành vi khác
Mua bán chứng khoán trên TTCK tự do cũng có thể gây nên những hậu quả khó lường, vì bộ
phận quản lý không thể biết được việc chuyển nhượng quyền sở hữu của một đơn vị nào đó. Mọi sự
mua bán bên ngoài có khả năng tạo áp lực cho các nhà đầu tư khác, thậm chí đưa đến việc khống
chế hay thay thế cả lãnh đạo của công ty. Do đó hầu hết các thị trường đều quy định mọi sự mua bán
cổ phiếu đã đăng ký với TTCK phải được thực hiện thông qua TTCK.
Những mặt tiêu cực nêu trên và những biến tướng tinh vi của nó có thể hạn chế và khắc phục
được bằng việc ban hành một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và có sự quản lý, giám sát thường
xuyên của các cơ quan chức năng Nhà nước.
1.4. CÁC ĐIỀU KIỆN ĐỂ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TTCK
TTCK là sản phẩm tất yếu khách quan của một nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường.
TTCK ra đời đã mở ra một kênh huy động vốn mới trong nền kinh tế. Tuy nhiên, để đảm bảo cho
TTCK ra đời và hơn thế nữa đó là sự phát triển ổn định, bền vững thì đòi hỏi phải có những điều
kiện nhất định. Kinh nghiệm phát triển TTCK ở các nước cho thấy, TTCK chỉ có thể phát triển khi
có đủ các điều kiện sau:
1.4.1. Điều kiện về kinh tế

- Sự phát triển của nền kinh tế
TTCK là một thị trường bậc cao. Vì vậy, nó chỉ tồn tại ở các quốc gia có nền kinh tế hàng hoá -
tiền tệ và các quan hệ thị trường ngày càng phát triển một cách ổn định, bền vững. Cũng giống như
13
Ebook.VCU – www.ebookvcu.com Giáo trình TTCK
______________________________________________________________________________
các thị trường khác, TTCK chỉ phát triển khi và chỉ khi nền kinh tế tăng trưởng ổn định biểu hiện ở
sự gia tăng đều đặn của tổng sản phẩm quốc dân và quốc nội, tỉ lệ thất nghiệp thấp…
- Tình hình lưu thông tiền tệ
Chỉ khi kinh tế phát triển, chế độ lưu thông tiền tệ ổn định, lạm phát được kiểm soát ở mức vừa
phải, lãi suất được hình thành theo quan hệ cung - cầu vốn trên thị trường, giá trị đồng nội tệ được
ổn định thì công chúng mới yên tâm, tin tưởng tham gia đầu tư chứng khoán.
- Hàng hóa
Trên TTCK, hàng hoá là yếu tố vô cùng quan trọng góp phần tạo nên tính sôi động của thị
trường. Vì vậy, để TTCK không ngừng phát triển và hoàn thiện phải tạo ra cho thị trường một lượng
chứng khoán đa dạng, phong phú, đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng, phù hợp với nhu cầu và
tâm lý đa dạng của công chúng đầu tư.
- Các chủ thể kinh doanh và các tổ chức phụ trợ khác
Một TTCK hoàn chỉnh không thể thiếu các CTCK, các tổ chức xếp hạng tín nhiệm, các quỹ
đầu tư, các tổ chức lưu kí và thanh toán bù trừ… Do đó, để TTCK phát triển cần có một hệ thống
các tổ chức KDCK và các tổ chức phụ trợ hoạt động có hiệu quả và không ngừng nâng cao năng lực
kinh doanh cho các tổ chức này.
- Thu nhập dân cư
Khối lượng và tỷ trọng tiết kiệm trong tổng số thu nhập sẽ quyết định mức độ hoạt động của
TTCK. Khi thu nhập bình quân đầu người thấp thì tỷ trọng chi tiêu cho tiêu dùng cao và tỷ trọng này
càng giảm khi thu nhập bình quân đầu người tăng. Vì thế, TTCK chỉ có thể phát triển khi và chỉ khi
thu nhập quốc dân cũng như thu nhập bình quân đầu người không ngừng tăng lên.
1.4.2. Điều kiện về pháp lý
Cũng giống như các thị trường khác, để TTCK ra đời, tồn tại và không ngừng phát triển không
thể thiếu các điều kiện về pháp lí. Môi trường pháp lí trong lĩnh vực CK và TTCK thường bao gồm:

- Các quy chế về quản lý nhà nước đối với quá trình hình thành và vận hành thị trường.
- Các quy chế quản lý đối với các chủ thể tham gia thị trường: chủ thể quản lý, chủ thể phát
hành, chủ thể kinh doanh dịch vụ, nhà đầu tư…
- Các quy chế quản lý đối với các hoạt động trên TTCK như: phát hành, niêm yết, giao dịch,
công bố thông tin, lưu kí và thanh toán bù trừ…
Thực tế phát triển TTCK ở các nước cho thấy, TTCK chỉ có thể phát triển nếu quốc gia đó ban
hành được một hệ thống các văn bản pháp lý đầy đủ, đồng bộ, có hiệu lực pháp lí cao (bao gồm các
văn bản luật và dưới luật có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến CK & TTCK), ổn định trong thời
gian dài. Một hệ thống pháp lý chắp vá, không đồng bộ, tính pháp lý thấp và thay đổi thường xuyên
sẽ làm TTCK hoạt động không ổn định, hiệu quả thấp kém và chậm phát triển.
1.4.3. Điều kiện về nhân lực
Con người là yếu tố có tính quyết định đến sự tồn tại và phát triển của thị trường. Vì vậy, để
đảm bảo cho TTCK không ngừng phát triển và hoàn thiện phải có đội ngũ chuyên gia chứng khoán
giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, có nhiều kinh nghiệm thực tiễn và phẩm chất, tư cách đạo đức tốt
trên các lĩnh vực:
- Các chủ thể hoạch định chính sách, tổ chức, quản lý thị trường,
- Các chủ thể tác nghiệp trên thị trường: môi giới chứng khoán, tự doanh, bảo lãnh phát hành,
lưu kí chứng khoán, tư vấn và quản lí danh mục đầu tư…
- Các nhà đầu tư và các nhà quản trị doanh nghiệp.
1.4.4. Điều kiện về cơ sở vật chất kỹ thuật
14
Ebook.VCU – www.ebookvcu.com Giáo trình TTCK
______________________________________________________________________________
Để phục vụ cho các giao dịch chứng khoán cần có hệ thống cơ sở vật chất kĩ thuật tương thích,
đó là:
- Hệ thống giao dịch: chuyển lệnh, ghép lệnh, hệ thống yết giá,
- Hệ thống công bố thông tin,
- Hệ thống lưu ký, thanh toán,…
TTCK phát triển đồng nghĩa với việc quy mô thị trường ngày càng mở rộng, khối lượng các
hoạt động trên thị trường ngày càng tăng lên. Điều đó đòi hỏi hệ thống trang thiết bị cho thị trường

cũng phải không ngừng nâng cấp, hiện đại hóa... mới có thể đảm bảo cho thị trường hoạt động một
cách nhanh chóng, an toàn và hiệu quả.
Trên đây là bốn điều kiện cơ bản để đảm bảo cho thị trường phát triển ổn định và bền vững.
Các điều kiện này có mối quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ ràng buộc lẫn nhau. Nếu như yếu tố
kinh tế và cơ sở vật chất kỹ thuật là nền tảng, yếu tố pháp lý là công cụ, yếu tố tâm lý là động lực thì
yếu tố con người là bao trùm lên tất cả các yếu tố đó. Có đủ các yếu tố nêu trên là điều kiện đảm bảo
TTCK hoạt động đều đặn, lành mạnh, có hiệu quả và ngày càng phát triển.

Chương 2 : CHỨNG KHOÁN
1.1. KHÁI NIỆM VÀ CÁC ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA CHỨNG KHOÁN
1.1.1. Khái niệm và phân loại chứng khoán
● Chứng khoán là gì ?
Có nhiều quan điểm khác nhau về chứng khoán. Tùy theo quan điểm, mục đích tiếp cận và
nghiên cứu, sự phát triển của thị trường chứng khoán cũng như sự đa dạng phong phú về chủng loại
chứng khoán mà người ta có thể khái quát, nhận dạng chứng khoán qua một số khái niệm sau :
- “Chứng khoán là mọi sản phẩm tài chính có thể chuyển nhượng được".
- "Chứng khoán là một văn bản pháp lý, chứng nhận cho người cầm giữ nó có những những
quyền nhất định đối với một loại tài sản nào đó."
- “Chứng khoán là thuật ngữ dùng để chỉ các chứng từ có giá xác nhận khoản tiền mà người
chủ sở hữu đã bỏ ra để được quyền hưởng các khoản lợi tức nhất định theo những kỳ hạn nhất
định”.
- “Chứng khoán là các công cụ xác nhận quyền chủ sở hữu (cổ phiếu) hoặc quyền chủ nợ (trái
phiếu) đối với tổ chức phát hành”.
- Theo luật chứng khoán năm 2006 của Việt Nam thì ‘‘chứng khoán là bằng chứng xác nhận
quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành.
Chứng khoán được thể hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử ’’.
Dù ghi nhận chứng khoán ở góc độ nào, theo cách nào, thì chứng khoán cũng đại biểu cho một
số tiền nhất định mà người đầu tư đã ứng ra với mục đích là nó sẽ đem lại cho người sở hữu các
quyền và lợi ích nhất định. Tùy theo loại chứng khoán đầu tư mà người sở hữu chứng khoán có
được các quyền và lợi ích khác nhau. Nếu đầu tư mua cổ phiếu, nhà đầu tư có quyền là người chủ sở

hữu một phần vốn của công ty cổ phần, được hưởng thu nhập do cổ phiếu mang lại đó là cổ tức.
Nếu đầu tư mua trái phiếu, nhà đầu tư có quyền là chủ nợ đối với tổ chức phát hành, được hưởng
thu nhập do trái phiếu mang lại đó là trái tức. Ngoài ra, nhà đầu tư còn có quyền chuyển nhượng
chứng khoán do mình nắm giữ theo các quy định của pháp luật. Vì thế, chứng khoán có thể được
mua bán và được lưu thông với tư cách là hàng hoá trên TTCK.
Tùy theo điều kiện phát triển kinh tế của mỗi quốc gia mà chứng khoán có thể phát hành theo
một, hai hoặc cả ba hình thức kể trên. Ở những nước phát triển, chứng khoán thường được phát hành
dưới hình thức bút toán ghi số và dữ liệu điện tử. Ở những nước kém phát triển, chứng khoán
thường được phát hành dưới hình thức chứng chỉ.
15
Ebook.VCU – www.ebookvcu.com Giáo trình TTCK
______________________________________________________________________________
● Phân loại chứng khoán
Chứng khoán có nhiều loại. Tùy theo các tiêu thức phân loại mà có thể chia chứng khoán thành
các loại khác nhau.
+ Theo khả năng chuyển nhượng, chứng khoán được phân thành chứng khoán ghi danh (ghi
tên) và chứng khoán vô danh (không ghi tên).
- Chứng khoán ghi danh là loại chứng khoán có ghi tên người chủ sở hữu. Loại chứng khoán
này có được phép chuyển nhượng nhưng phải tuân theo những quy định pháp lý cụ thể về chuyển
nhượng quyền sở hữu, như: thủ tục xác nhận của tổ chức phát hành, hoặc của cơ quan công chứng.
- Chứng khoán vô danh là loại chứng khoán không ghi tên người chủ sở hữu. Loại chứng
khoán này được chuyển nhượng dễ dàng, không phải tuân theo những quy định pháp lý cụ thể về
chuyển nhượng quyền sở hữu. Người mua có trách nhiệm chi trả cho người bán theo giá cả đã được
xác định.
+ Theo đặc điểm huy động vốn và nguồn gốc của chứng khoán, các chứng khoán được phân
thành chứng khoán vốn, chứng khoán nợ, chứng khoán phái sinh.
- Chứng khoán vốn là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu
đối với một phần vốn của tổ chức phát hành. Người mua chứng khoán này (điển hình là cổ phiếu) có
vai trò là người chủ sở hữu một phần vốn của tổ chức phát hành chứng khoán.
- Chứng khoán nợ là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu

đối với một phần vốn nợ của tổ chức phát hành. Người mua chứng khoán này (điển hình là tín
phiếu, trái phiếu) có vai trò là người chủ nợ, người cho vay đối với tổ chức phát hành chứng khoán.
Tổ chức phát hành có nghĩa vụ trả cho người sở hữu chứng khoán nợ một khoản tiền nhất định bao
gồm cả gốc và lãi trong những khoảng thời gian đã xác định.
- Chứng khoán phái sinh là các công cụ tài chính có nguồn gốc từ chứng khoán và có quan hệ
chặt chẽ với chứng khoán gốc.
+ Theo đặc điểm thu nhập do chứng khoán mang lại, chứng khoán được chia thành : chứng
khoán có thu nhập cố định, chứng khoán có thu nhập biến đổi, chứng khoán hỗn hợp.
2.1.2. Các đặc trưng cơ bản của chứng khoán
Chứng khoán có nhiều loại, mỗi loại có những điểm khác nhau nhất định, nhưng chúng đều có
các đặc trưng cơ bản sau :
● Tính sinh lợi (Yield)
Tính sinh lợi của chứng khoán là khả năng đem lại thu nhập cho người sở hữu chúng.
Các chứng khoán luôn chứa đựng một khả năng sinh lợi nhất định bởi lẽ khi phát hành ra
chúng, nhà phát hành luôn hứa hẹn, cam kết một khoản thu nhập sẽ thanh toán cho nhà đầu tư, chính
vì điều này mà nhà đầu tư mới bỏ vốn mua chứng khoán với tư cách là một hoạt động đầu tư.
Với các loại chứng khoán khác nhau thì mức độ và tính chất các khoản thu nhập mà chứng
khoán đem lại cho người nắm giữ cũng khác nhau. Có những loại chứng khoán mà thu nhập của nó
cho nhà đầu tư tương đối ổn định trong suốt thời gian đầu tư, ngược lại có những loại chứng khoán
mà thu nhập của chúng hoàn toàn phụ thuộc vào chất lượng, hiệu quả các hoạt động kinh tế của tổ
chức phát hành, cũng như tình hình quan hệ cung cầu loại chứng khoán đó trong nền kinh tế. Đối
với cổ phiếu, người nắm giữ cổ phiếu sẽ được hưởng cổ tức hàng năm khi công ty cổ phần hoạt
động sản xuất kinh doanh có hiệu quả và quyết định chi trả cổ tức cho cổ đông, ngoài ra họ còn có
thể có thêm một khoản thu nhập tiềm năng trong tương lai dưới dạng chênh lệch giá chứng khoán
nếu giá thị trường của cổ phiếu tăng. Đối với trái phiếu, theo các kỳ hạn cam kết của tổ chức phát
hành, các trái chủ được quyền nhận trái tức, ngoài ra họ cũng có thể nhận thêm một khoản thu nhập
thứ hai là chênh lệch giá nếu giá thị trường cuả trái phiếu đó tăng lên.
● Tính rủi ro (Risk)
16
Ebook.VCU – www.ebookvcu.com Giáo trình TTCK

______________________________________________________________________________
Tính rủi ro của chứng khoán là những sự cố bất lợi có nguồn gốc từ chứng khoán đối với
người chủ sở hữu dẫn tới những thiệt hại tổn thất cho người sở hữu chứng khoán.
Rủi ro cũng có thể hiểu là những hệ quả bất lợi ngoài sự kiểm soát của người chủ sở hữu, là
yếu tố khó tránh khỏi trong đầu tư và kinh doanh. Đó là việc không thu được lãi và / hoặc vốn đã bỏ
ra ban đầu. Có những rủi ro chung cho tất cả các loại chứng khoán (rủi ro hệ thống), và cũng có
những rủi ro riêng gắn liền với từng loại chứng khoán nhất định (rủi ro không hệ thống). Các chứng
khoán khác nhau, thì mức độ và tính chất rủi ro sẽ khác nhau. Khi đầu tư chứng khoán, nhà đầu tư
có thể gặp các loại rủi ro sau:
+ Rủi ro vỡ nợ: là rủi ro xảy ra khi người phát hành chứng khoán không thể thực hiện thanh
toán đúng hạn các khoản lãi và gốc cho người mua chứng khoán. Rủi ro vỡ nợ có thể do rủi ro kinh
doanh và rủi ro tài chính của tổ chức phát hành.
+ Rủi ro lạm phát: Trong lĩnh vực đầu tư vào các công cụ tài chính, lạm phát làm cho mức sinh
lời danh nghiã có sự khác biệt so với mức sinh lời thật. Khi mức sinh lời danh nghĩa nhỏ hơn sự mất
giá của đồng tiền thì đó chính là rủi ro lạm phát.
+ Rủi ro hối đoái: khi nhà đầu tư trong nước mở rộng đầu tư chứng khoán trên thị trường vốn
quốc tế, nếu sức mua của đồng ngoại tệ tại thời điểm thu hồi vốn đầu tư giảm so với lúc bỏ vốn đầu
tư, sẽ làm cho nhà đầu tư bị thiệt thòi khi chuyển sang đồng bản tệ.
+ Rủi ro thị trường: là những rủi ro do biến động trên TTCK gây ra dẫn đến giảm giá chứng
khoán, giảm tính thanh khoản của chứng khoán.
+ Rủi ro kĩ thuật: là những rủi ro do các sự cố kĩ thuật, hoặc kĩ năng tác nghiệp của những
người hành nghề chứng khoán gây nên.
+ v.v…
Các loại rủi ro liên quan đến đầu tư chứng khoán rất đa dạng. Hiểu rõ, tiên liệu và sẵn sàng có
các giải pháp hữu hiệu để ngăn ngừa, phòng chống rủi ro là điều kiện có ý nghĩa quan trọng khi
quyết định đầu tư vào chứng khoán. Hơn thế nữa, trên TTCK, hàng hóa được giao dịch rất phong
phú làm gia tăng cơ hội lựa chọn cho các nhà đầu tư. Song vấn đề đặt ra là sự lựa chọn đó xuất phát
từ những căn cứ nào? Rủi ro của chứng khoán là một trong những căn cứ quan trọng mà các nhà đầu
tư phải tính toán, so sánh để có một quyết định tối ưu cho đầu tư của mình.
● Tính thanh khoản (Liquidity)

Tính thanh khoản của chứng khoán (còn được gọi là tính hoán tệ, tính lỏng, tính lưu thông) là
khả năng chuyển đổi chứng khoán thành tiền của người nắm giữ chứng khoán .
Các chứng khoán khác nhau thì có tính thanh khoản khác nhau. Một chứng khoán được coi là
có tính thanh khoản cao nếu nó có thể chuyển đổi thành tiền một cách dễ dàng trong thời gian ngắn
và không có rủi ro sụt giảm giá trị tiền tệ của chứng khoán đó.
Tính thanh khoản của mỗi chứng khoán cao hay thấp phụ thuộc vào:
+ Thời gian và chi phí cho việc chuyển đổi chứng khoán thành tiền,
+ Việc đảm bảo, duy trì giá trị ban đầu của chứng khoán.
Ba đặc trưng: tính sinh lợi, tính rủi ro, tính thanh khoản nói trên của chứng khoán có mối liên
hệ chặt chẽ với nhau. Thông thường, các chứng khoán có rủi ro tiềm ẩn cao thì khả năng sinh lợi
cao. Đó chính là yếu tố hấp dẫn nhà đầu tư nắm giữ các chứng khoán có mức rủi ro dự kiến cao.
Giữa khả năng sinh lợi và tính hoán tệ cũng có mối liên hệ mật thiết. Các chứng khoán có tính hoán
tệ cao thì mức sinh lời thấp đồng thời ít rủi ro. Vì vậy các nhà đầu tư thường chọn các chứng khoán
có tính hoán tệ cao, bởi những chứng khoán này thường có lợi thế trong giao dịch. Bất cứ lúc nào
người nắm giữ chứng khoán cũng có thể bán nó với thời gian ngắn nhất, ở mức giá hợp lý nhất.
Tính sinh lợi của chứng khoán đã thu hút một số lượng nhất định nhà đầu tư nắm giữ chúng.
Tuy nhiên, tính rủi ro lại là yếu tố tác động buộc họ phải cân nhắc xem lúc nào thì nên đầu tư nắm
giữ chứng khoán và lúc nào nên rút vốn đầu tư. Còn tính thanh khoản của chứng khoán sẽ chuyển
17
Ebook.VCU – www.ebookvcu.com Giáo trình TTCK
______________________________________________________________________________
hoá hình thức đầu tư trung và dài hạn thành ngắn hạn, làm linh hoạt hoá các công cụ đầu tư, tạo điều
kiện cho các nhà đầu tư chứng khoán có thể thu hồi vốn đầu tư hoặc di chuyển vốn đầu tư một cách
dễ dàng.
* Ý nghĩa của việc nghiên cứu các đặc trưng của chứng khoán
- Không loại chứng khoán nào có lợi thế tuyệt đối. Vì vậy, nghiên cứu các đặc trưng của chứng
khoán giúp người đầu tư lựa chọn loại chứng khoán phù hợp với tâm lý, khả năng tài chính và kết
quả phân tích, đánh giá, dự báo về mỗi loại chứng khoán trong từng thời kì.
- Mỗi nhà đầu tư có tâm lý khác nhau. Để phát triển TTCK, nhà nước cần có cơ chế tổ chức,
quản lí phát hành thích hợp nhằm đa dạng hóa các loại chứng khoán phát hành. Đây cũng là điều

kiện quan trọng để khai thác triệt để tiềm năng cung ứng vốn của nền kinh tế, nâng cao khả năng
huy động vốn cho các tổ chức phát hành.
2.2. CÁC LOẠI CHỨNG KHOÁN
2.2.1. Trái phiếu (Bonds)
2.2.1.1 Khái niệm
Có thể nhìn nhận trái phiếu theo nhiều cách khác nhau.
- Trái phiếu là loại chứng khoán xác nhận khoản nợ vay của nhà phát hành đối với người nắm
giữ trái phiếu, nhà phát hành phải hoàn trả vốn vay gốc và lãi đầy đủ, đúng hạn như đã cam kết
trong trái phiếu.
- Trái phiếu là loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của người phát hành (bên vay) phải trả cho
người nắm giữ trái phiếu (bên cho vay) một khoản tiền xác định bao gồm khoản cho vay ban đầu và
lãi trong những khoảng thời gian cụ thể.
- Trái phiếu là chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, chứng nhận người sở hữu trái phiếu (trái chủ) đã
cho người phát hành trái phiếu vay một số tiền nhất định, theo các điều kiện nào đó.
- Theo Luật Chứng khoán năm 2006 của Việt Nam thì ‘‘trái phiếu là loại chứng khoán xác
nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn nợ của tổ chức phát hành’’.
Trái phiếu là hàng hoá được mua bán trên thị trường. Vì vậy, khi phát hành cũng như khi đầu
tư, người phát hành và người đầu tư cần hiểu rõ các thuật ngữ sau:
- Trái chủ: Chủ sở hữu trái phiếu, là người bỏ vốn mua trái phiếu.
- Mệnh giá trái phiếu: Mệnh giá trái phiếu hay còn gọi là giá trị danh nghĩa của trái phiếu là giá
trị được ghi trên trái phiếu. Giá trị này coi là số vốn gốc mà trái chủ đã đầu tư vào trái phiếu. Mệnh
giá trái phiếu là căn cứ để xác định trái tức (lợi tức trái phiếu) mà người phát hành phải trả cho trái
chủ. Mệnh giá cũng thể hiện số tiền người phát hành phải hoàn trả khi trái phiếu đến hạn thanh toán.
- Thị giá trái phiếu: Là giá trái phiếu được giao dịch, mua bán trên thị trường tại một thời điểm
nhất định.
- Lợi tức trái phiếu (còn gọi là trái tức hay tiền lãi của trái phiếu): là số tiền lãi mà trái chủ thu
được từ trái phiếu theo những kỳ hạn nhất định theo cam kết của tổ chức phát hành.
- Lãi suất: khi phát hành trái phiếu tổ chức phát hành thường công bố trước mức lãi suất mà họ
sẽ trả cho nhà đầu tư nắm giữ trái phiếu. Đó chính là lãi suất danh nghĩa.
+ Lãi suất danh nghĩa là chỉ tiêu phản ánh quan hệ tỷ lệ giữa trái tức và mệnh giá trái phiếu

theo một kỳ hạn nào đó thường là một năm. Lãi suất danh nghĩa là căn cứ để xác định lợi tức của
trái phiếu.
Lợi tức
Lãi suất (danh nghĩa) = ---------------
Mệnh giá
Khi đầu tư trái phiếu, ngoài lãi suất danh nghĩa, nhà đầu tư cần quan tâm đến lãi suất hiện
hành, lãi suất đáo hạn, lãi suất kì hạn.
18
Ebook.VCU – www.ebookvcu.com Giáo trình TTCK
______________________________________________________________________________
+ Lãi suất hiện hành (Current Yield - CY): là tỷ lệ % giữa tổng số tiền lãi trong năm với giá thị
trường hiện hành. Lãi suất này có thể lớn hơn, nhỏ hơn hoặc bằng lãi suất danh nghĩa.
Lợi tức
Lãi suất hiện hành = ---------------
Thị giá
+ Lãi suất đáo hạn (Yield to Maturity - YTM): là lãi suất hoàn vốn trung bình của một trái
phiếu, nếu mua trái phiếu đó vào thời điểm hiện tại và giữ trái phiếu cho tới ngày đến hạn thanh
toán. Lãi suất đáo hạn được tính dựa vào công thức:
C C

C C

F


n


1


F
PV = ------- + ------- + … + -------- + ------- + ------- = C ∑ -------- + --------
(1+y)
1
(1+y)
2
(1+y)
n-1
(1+y)
n
(1+y)
n

t=1
(1+y)
t
(1+y)
n

Trong đó: PV là giá trái phiếu, n là số kì trả lãi, C là tiền lãi của một kì trả lãi, F là mệnh giá
trái phiếu, y là lãi suất đáo hạn.
Lãi suất đáo hạn có thể xác định theo công thức gần đúng sau:
Trong đó: i
1
,

i
2
: mức lãi suất lựa chọn (i
2

> i
1
và i
2
- i
1
≤ 1%)
NPV
1
: giá trị hiện tại ròng ứng với lãi suất i
1
; NPV
1
>0
NPV
2
: giá trị hiện tại ròng ứng với lãi suất i
2
; NPV
2
<0
Lãi suất đáo hạn là đại lượng được sử dụng thường xuyên để đo lường mức sinh lời thực tế của
trái phiếu. Trên thị trường trái phiếu ở các nước, lãi suất đáo hạn của những trái phiếu chủ yếu
thường được niêm yết hàng ngày và được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng. Vì vậy,
lãi suất đáo hạn chính là một công cụ phân tích đầu tư rất hữu ích trong hoạt động kinh doanh mua
bán chứng khoán.
+ Lãi suất kì hạn: một nhà đầu tư có thể không nắm giữ trái phiếu đến ngày đáo hạn. Họ mua
trái phiếu và nắm giữ đến một ngày nhất định sau đó bán trái phiếu đi. Khoản tiền lãi mà nhà đầu tư
có thể nhận được trong thời gian nắm giữ có thể bao gồm: tiền lợi tức trái phiếu tính theo mệnh giá
và lãi suất, các khoản lãi hay lỗ từ chênh lệch giá bán và giá mua trái phiếu (còn gọi là lãi vốn).

Lãi suất kì hạn đo lường mức sinh lời khi nắm giữ một trái phiếu trong một kì hạn nhất định và
được xác định theo công thức sau:
C + P
t+1
– P
t
R = ----------------
P
t
Trong đó R là lãi suất kì hạn (lợi tức nắm giữ trái phiếu từ thời điểm t đến t+1), P
t
và P
t+1

giá trái phiếu ở thời điểm t và t+1, C là tiền lãi trái phiếu.
- Thời hạn của trái phiếu: là khoảng thời gian kể từ ngày phát hành chứng khoán đến ngày
người phát hành hoàn trả tiền vốn lần cuối. Ngày mà khoản vốn gốc trái phiếu được thanh toán lần
cuối cùng được gọi là ngày đáo hạn của trái phiếu.
19
y = i
1
+
NPV
1
(i
2
– i
1
)
/NPV

1
/ + /NPV
2
/
Ebook.VCU – www.ebookvcu.com Giáo trình TTCK
______________________________________________________________________________
- Kỳ trả lãi: Là khoảng cách (thời gian) giữa các thời điểm người phát hành trả lãi cho người
nắm giữ trái phiếu. Tại nhiều nước, lãi suất trái phiếu được xác định theo năm, nhưng việc thanh
toán lãi trái phiếu thường được thực hiện 6 tháng một lần.
- Giá phát hành: Là giá bán của trái phiếu khi phát hành. Thông thường, giá phát hành được
xác định theo tỷ lệ % của mệnh giá. Tuỳ theo tình hình của thị trường và điều kiện của người phát
hành, tuỳ theo khoảng thời gian cách quãng giữa ngày bán trái phiếu và ngày phát hành mà giá phát
hành trái phiếu có thể là 1 trong 3 trường hợp: hoặc giá phát hành bằng mệnh giá (ngang giá trái
phiếu), hoặc giá phát hành cao hơn mệnh giá (giá gia tăng), hoặc giá phát hành nhỏ hơn mệnh giá
(giá chiết khấu).
- Phí suất: là một khái niệm được sử dụng để xác định chi phí (giá cả) thực tế mà người phát
hành phải chi trả cho việc sử dụng một đơn vị tiền vay. Nó được xác định bằng tỷ lệ % giữa tổng chi
phí vay thực tế mà người phát hành phải trả trong một năm với giá bán trái phiếu. Chi phí vay thực
tế phải trả bao gồm: lãi trái phiếu, chi phí phát hành, hoa hồng trả các tổ chức bảo lãnh, v.v, ...
Việc nghiên cứu các thuật ngữ liên quan tới trái phiếu có thể coi là những căn cứ ban đầu giúp
cho các tổ chức phát hành cũng như các nhà đầu tư có thể đưa ra các quyết định tối ưu cho mình.
Đối với tổ chức phát hành, nó là cơ sở để lựa chọn các hình thức và phương thức phát hành có lợi
nhất, giảm thiểu chi phí phát hành và huy động vốn nhanh nhất phù hợp với thực tế cung cầu vốn
trên thị trường. Đối với các nhà đầu tư, việc lựa chọn loại trái phiếu, thời hạn đầu tư… sẽ là những
tiêu chí quan trọng để xác định hiệu quả vốn đầu tư cũng như rủi ro mà họ phải chấp nhận trong
tương lai.
2.2.1.2 Đặc điểm của trái phiếu
Thực chất phát hành trái phiếu là một hình thức vay nợ, người vay phát hành một chứng chỉ
(hoặc sử dụng các bút toán ghi sổ, hoặc các dữ liệu điện tử) trong đó xác định số tiền vay, thời hạn
vay, lãi suất vay và phương thức trả nợ. Chính vì vậy, trái phiếu có những đặc điểm sau:

- Trái phiếu là chứng khoán nợ và có thời hạn. Đến ngày đáo hạn, người sở hữu trái phiếu được
hoàn trái.
- Thông thường trái phiếu có lợi tức được xác định trước. Tùy theo từng loại trái phiếu mà lợi
tức có thể là cố định hoặc thả nổi theo lãi suất thị trường.
- Mệnh giá trái phiếu luôn được thể hiện trên bề mặt của trái phiếu.
- Trái phiếu có thể chuyển nhượng cho người khác sở hữu.
- Quan hệ kinh tế - tài chính phát sinh giữa người nắm giữ trái phiếu và tổ chức phát hành là
quan hệ giữa chủ nợ và khách nợ.
2.2.1.3 Phân loại trái phiếu
● Căn cứ vào chủ thể phát hành
- Trái phiếu công ty: là một loại giấy nhận nợ có kỳ hạn do các công ty phát hành. Trái phiếu
công ty có đặc điểm:
+ Tiền lãi trả cho trái chủ không phụ thuộc vào mức lợi nhuận của công ty.
+ Trái chủ không có quyền bỏ phiếu và tham gia vào các hoạt động quản lý công ty.
+ Trái phiếu đem lại cho trái chủ quyền ưu tiên phân chia tài sản khi công ty bị giải thể, hoặc
phá sản (được ưu tiên hoàn trả trước khi hoàn vốn cho các chủ sở hữu của công ty).
Trái phiếu công ty bao gồm nhiều loại như: trái phiếu không có đảm bảo, trái phiếu có đảm
bảo, trái phiếu thu nhập, trái phiếu chuyển đổi, trái phiếu có thể thu hồi, kì phiếu và trái phiếu ngân
hàng v.v....Mỗi loại thường chỉ khác nhau một số chi tiết nhỏ.
- Trái phiếu Chính phủ và trái phiếu chính quyền địa phương. Đây là công cụ vay nợ của
Chính phủ hay chính quyền địa phương nhằm bù đắp thiếu hụt ngân sách và xây dựng các công trình
20
Ebook.VCU – www.ebookvcu.com Giáo trình TTCK
______________________________________________________________________________
công cộng.
Thông thường, Chính phủ giao cho Bộ Tài chính phát hành TPCP và Bộ Tài chính cũng chịu
trách nhiệm trả nợ các loại trái phiếu này. TPCP là loại an toàn nhất vì có nguồn ngân sách của
Chính phủ đảm bảo, vì vậy giá TPCP trên thị trường thường ít biến động. Các loại trái phiếu ngắn
hạn có thể do Ngân hàng Trung ương phát hành theo sự uỷ nhiệm của Bộ Tài chính. Loại trái phiếu
này không chỉ nhằm mục đích vay vốn cho ngân sách quốc gia mà còn nhằm thực hiện chính sách

tiền tệ, khắc phục tình trạng lạm phát, đảm bảo hợp lý khối lượng tiền trong lưu thông.
TPCP và chính quyền địa phương có nhiều loại như: tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc
(hoặc công trái quốc gia), trái phiếu công trình (còn gọi là trái phiếu đầu tư), v.v...
● Căn cứ vào phương thức trả lãi
- Trái phiếu trả lãi trước (còn gọi là trái phiếu chiết khấu): là loại trái phiếu khi phát hành, tổ
chức phát hành thanh toán ngay tiền lãi trái phiếu cho người mua bằng cách khấu trừ tiền lãi vào
mệnh giá.
Trái phiếu này có đặc điểm là được phát hành theo giá chiết khấu, tiền lãi được thanh toán một
lần vào thời điểm phát hành, khi đến hạn thanh toán, tổ chức phát hành chỉ hoàn trả số tiền bằng
mệnh giá của trái phiếu.
- Trái phiếu trả lãi theo định kỳ (trái phiếu coupon): là trái phiếu mà trái tức được thanh toán
cho trái chủ theo những định kỳ nhất định nào đó (thông thường là một năm ).
Trái phiếu này được phát hành theo mệnh giá, đến những định kỳ đã cam kết của tổ chức phát
hành, các trái chủ được thanh toán trái tức tương ứng với thời gian của định kỳ đó.
- Trái phiếu trả lãi sau: là loại trái phiếu mà toàn bộ trái tức được thanh toán một lần vào thời
điểm trái phiếu đáo hạn. Trái phiếu này được phát hành theo mệnh giá, trái tức được được xác định
tương ứng với mệnh giá, lãi suất và thời hạn của trái phiếu. Trái tức được thanh toán đồng thời với
mệnh giá của trái phiếu cho trái chủ.
● Căn cứ vào tính chất lãi suất
- Trái phiếu có lãi suất cố định: là loại trái phiếu có lãi suất được xác định trước và không thay
đổi trong suốt thời gian tồn tại của trái phiếu. Với loại trái phiếu này, sau khi được phát hành, trái
tức luôn phải được thanh toán đúng với lãi suất mà tổ chức phát hành đã cam kết.
- Trái phiếu có lãi suất biến đổi (lãi suất thả nổi): Là loại trái phiếu mà tổ chức phát hành
không ấn định một mức lãi suất cố định trong suốt thời hạn lưu hành của trái phiếu. Loại trái phiếu
này, lãi suất được xác định căn cứ vào lãi suất trên thị trường vào thời điểm trả lãi để tính và trả lãi
cho trái chủ. Hay nói cách khác, lãi suất sẽ được xác định căn cứ vào mức độ lạm phát của nền kinh
tế và quan hệ cung cầu vốn trên thị trường vào các thời điểm trả lãi. Trên thực tế khi phát hành trái
phiếu lãi suất thả nổi người ta thường sử dụng một mức lãi suất nào đó (được coi là lãi suất chuẩn,
ví dụ như: lãi suất trái phiếu chính phủ, lãi suất LIBOR - London Interbank Offered Rate, SIBOR -
Singapore Interbank Offered Rate...) để tham chiếu và công thêm một mức bù rủi ro nhất định. Ví

dụ: SIBOR + 0,5% đối với trái phiếu kì hạn 1 năm, SIBOR + 2% đối với trái phiếu kì hạn 5 năm.
Ngoài ra, có thể phân chia trái phiếu theo một số tiêu thức khác như: căn cứ vào thời gian hoàn
vốn, trái phiếu bao gồm: trái phiếu ngắn hạn hạn, trái phiếu trung hạn, trái phiếu dài hạn; căn cứ vào
khả năng chuyển nhượng, trái phiếu bao gồm: trái phiếu ghi danh, trái phiếu vô danh; trái phiếu có
bảo đảm, trái phiếu tín chấp, trái phiếu chuyển đổi v.v...
2.2.2. Cổ phiếu (stocks / shares)
2.2.2.1 Khái niệm và đặc điểm của cổ phiếu
● Khái niệm
Có nhiều cách khái niệm về cổ phiếu.
- Cổ phiếu là chứng chỉ, hoặc bút toán ghi sổ, hoặc dữ liệu điện tử chứng nhận quyền sở hữu
21
Ebook.VCU – www.ebookvcu.com Giáo trình TTCK
______________________________________________________________________________
của một cổ đông đối với một công ty cổ phần.
- Cổ phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và các lợi ích hợp pháp của người chủ sở hữu
đối với một phần vốn của tổ chức phát hành (công ty cổ phần).
- v.v...
Dù diễn đạt bằng cách nào thì chúng đều thống nhất với nhau về bản chất, đó là: cổ phiếu là
chứng cứ pháp lý xác định việc đầu tư vốn vào công ty cổ phần và khẳng định các quyền và lợi ích
hợp pháp của người nắm giữ cổ phiếu là người chủ sở hữu một phần vốn của công ty cổ phần.
Cổ phiếu là quyền lực, người nắm giữ cổ phiếu được hưởng các quyền với tư cách là người
chủ sở hữu công ty theo mức độ tương ứng với số lượng cổ phiếu nắm giữ. Do vậy cổ phiếu còn
được gọi là chứng khoán vốn.
● Đặc điểm của cổ phiếu
- Cổ phiếu là chứng khoán vốn, xác nhận sự hùn vốn vào công ty cổ phần trên nguyên tắc lời
ăn, lỗ chịu.
- Cổ phiếu không có kỳ hạn, nó tồn tại cùng với sự tồn tại của công ty phát hành. Cổ phiếu chỉ
được hoàn vốn một cách trực tiếp khi công ty cổ phần kết thúc thời hạn hoạt động hoặc bị phá sản.
Thông thường cổ phiếu được hoàn vốn một cách gián tiếp bằng cách người nắm giữ bán cổ phiếu ra
thị trường.

- Cổ phiếu được phát hành khi thành lập công ty cổ phần hoặc khi công ty cần tăng thêm vốn
điều lệ để mở rộng kinh doanh, hiện đại hoá sản xuất.
- Người mua cổ phiếu được quyền nhận cổ tức hàng năm có thể cố định hay biến động tuỳ theo
từng loại cổ phiếu.
- Người mua cổ phiếu sẽ là người sở hữu một phần giá trị của công ty, do đó phải chịu trách
nhiệm hữu hạn về sự thua lỗ, phá sản của công ty.
- Người mua cổ phiếu được quyền chuyển nhượng cổ phiếu cho người khác để rút vốn ra khỏi
công ty.
- Người mua cổ phiếu có quyền kiểm soát sổ sách của công ty khi có lý do chính đáng, phù hợp
với điều lệ công ty và luật pháp hiện hành.
- Người mua cổ phiếu có quyền chia phần tài sản còn lại của công ty khi công ty bị giải thể
hoặc phá sản. Số tài sản mà họ được quyền nhận lại tương ứng với số cổ phiếu mà họ đang nắm giữ.
2.2.2.2 Phân loại cổ phiếu
● Theo các quyền lợi mà cổ phiếu mang lại cho cổ đông, cổ phiếu bao gồm: cổ phiếu thường
và cổ phiếu ưu đãi.
► Cổ phiếu thường (Common/Ordinary shares/stocks)
* Khái niệm cổ phiếu thường:
Cổ phiếu thường (còn gọi là cổ phiếu phổ thông) là loại cổ phiếu mà người sở hữu nó có các
quyền thông thường của một cổ đông.
* Đặc điểm của cổ phiếu thường:
+ Cổ đông nắm giữ cổ phiếu thường được hưởng các quyền và lợi ích cơ bản sau:
- Hưởng cổ tức theo tuyên bố trả cổ tức của hội đồng quản trị ( HĐQT).
Đặc điểm cơ bản nhất của loại cổ phiếu thường là có thu nhập (cổ tức) không được xác định
trước, mức cổ tức và phương thức chi trả (bằng tiền hay chứng khoán) phụ thuộc vào kết quả hoạt
động sản xuất kinh doanh và chính sách phân phối cổ tức của công ty phát hành. Cổ tức (hay lợi tức
cổ phần ) là thu nhập hàng năm của cổ phiếu. Cổ tức thường được xác định và chia theo năm tài
chính, nhưng cũng không ít công ty cổ phần quyết toán cổ tức theo năm tài chính và chia cho cổ
đông theo hai, hoặc bốn kỳ trong một năm (6 hoặc 3 tháng chia cổ tức một lần).
- Quyền sở hữu tài sản của công ty theo tỷ lệ % cổ phiếu nắm giữ.
22

Ebook.VCU – www.ebookvcu.com Giáo trình TTCK
______________________________________________________________________________
- Tham gia đại hội cổ đông bỏ phiếu bầu HĐQT, được quyền ứng cử và đề cử các chức vụ
quản lý theo qui chế và được quyền biểu quyết các vấn đề trong đại hội cổ đông.
- Kiểm tra sổ sách của công ty khi có lí do chính đáng, phù hợp với quy định của pháp luật và
điều lệ của công ty.
- Có quyền biểu quyết các vấn đề liên quan đến toàn bộ hoạt động kinh doanh của công ty
tương ứng với số cổ phiếu đang nắm giữ.
- Được quyền chuyển nhượng cổ phiếu cho người khác.
- Được mua cổ phiếu mới do công ty phát hành theo chính sách ưu đãi của công ty.
- Không được ưu tiên chia vốn khi công ty bị giải thể hay phá sản, có nghĩa là việc chia phần
tài sản cho cổ đông thường chỉ được thực hiện sau khi công ty trang trải xong các nghĩa vụ đối với
các chủ nợ và cổ đông ưu đãi .
+ Trên cổ phiếu chỉ ghi mệnh giá, không ghi cổ tức.
* Giá trị của cổ phiếu thường:
- Mệnh giá cổ phiếu: Hầu hết các công ty cổ phần đều ấn định mệnh giá cho mỗi cổ phiếu
thường. Mệnh giá này được in trên tờ cổ phiếu hoặc ghi trong sổ sách kế toán, trong điều lệ của
công ty phát hành. Mệnh giá cổ phiếu không liên quan trực tiếp đến giá trị thị trường của cổ phiếu
đó. Mệnh giá thể hiện tầm quan trọng nhất của nó vào thời điểm phát hành, là căn cứ để xác định số
lượng cổ phiếu dự kiến phát hành và tính tỉ suất cổ tức danh nghĩa. Tuy nhiên, một công ty cổ phần
cũng có thể phát hành cổ phiếu không có mệnh giá, chẳng hạn như các cổ phiếu đặc biệt dành cho
các sáng lập viên của công ty. Cổ phiếu này có đặc điểm là nó chỉ được hưởng lời sau khi tiền lời
thuần tuý đã chia cho các cổ đông (người chủ sở hữu cổ phiếu, là đồng sở hữu của công ty cổ phần).
- Thị giá cổ phiếu (Market Price): Do cổ phiếu thường có lợi tức không cố định mà phụ thuộc
vào mức lợi nhuận thu được của công ty cổ phần và chính sách chi trả cổ tức của công ty, nên nó là
loại chứng khoán có độ rủi ro cao. Đây cũng chính là nguyên nhân làm cho giá cổ phiếu trên thị
trường thường biến động mạnh hơn so với các loại chứng khoán khác. Giá hay thị giá cổ phiếu là
giá giao dịch, mua bán cổ phiếu trên thị trường vào một thời điểm xác định. Thị giá cổ phiếu có thể
bằng, thấp hơn, hoặc cao hơn mệnh giá và thư giá của cổ phiếu. Thị giá cổ phiếu biến động theo thời
gian và phụ thuộc vào tác động tổng hợp của nhiều yếu tố như: sự tăng trưởng hoặc suy thoái của

công ty cổ phần, tình hình kinh tế vĩ mô, tình hình chính trị, lãi suất thị trường… Sau đây là một số
nhân tố cơ bản:
+ Những nhân tố bên trong tổ chức phát hành.
Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau nhưng có thể thấy về cơ bản và lâu dài các nhân tố
thuộc về nội tại tổ chức phát hành là nhân tố có tác động lớn đến thị giá cổ phiếu. Nhân tố cơ bản
nhất gây nên sự dao động thị giá cổ phiếu nằm trong sự thay đổi mức thu nhập hiện tại (tỉ lệ cổ tức -
divident rate, giá trị sổ sách của cổ phiếu hay giá trị doanh nghiệp) và triển vọng phát triển trong
tương lai của doanh nghiệp. Kết quả kinh doanh hiện tại và tương lai của doanh nghiệp phụ thuộc
vào nhiều yếu tố như: trình độ trang thiết bị máy móc và công nghệ, khả năng cạnh tranh và mở
rộng thị trường, tiềm lực tài chính, trình độ quản lí của ban lãnh đạo, trình độ chuyên môn và kĩ
năng nghề nghiệp của người lao động…
+ Những nhân tố bên ngoài tổ chức phát hành : có thể chia thành 2 nhóm nhân tố cơ bản: (1)
Những thay đổi trong điều kiện chính trị xã hội như chiến tranh, những thay đổi trong bộ máy quản
lí, sự tác động của điều kiện tự nhiên, điều kiện văn hóa, khoa học kĩ thuật…, (2) Những nhân tố về
kinh tế, tiền tệ… Kinh tế trong nước và thế giới tăng trưởng, khả năng kinh doanh có triển vọng là
điều kiện tốt cho hoạt động đầu tư làm cho giá cổ phiếu có xu hướng gia tăng và ngược lại. Giá cổ
phiếu trên thị trường cũng rất nhạy cảm với sự thay đổi của lãi suất và tốc độ lạm phát. Lãi suất và
lạm phát gia tăng thường kéo theo sự giảm giá của cổ phiếu…
- Thư giá (hay giá trị sổ sách - Book Value, hay giá trị tài sản ròng - Net Asset Value) của cổ
23
Ebook.VCU – www.ebookvcu.com Giáo trình TTCK
______________________________________________________________________________
phiếu thường (CPT): là giá trị cổ phiếu tính theo số liệu trong sổ kế toán của công ty vào một thời
điểm xác định. Thư giá cổ phiếu không cố định mà thay đổi theo thời gian tùy thuộc vào giá phát
hành, kết quả kinh doanh, chính sách chi trả cổ tức, chính sách phân phối thu nhập giữ lại, số lượng
cổ phiếu đang lưu hành của công ty cổ phần...
Giá trị sổ sách của 1CPT = Tổng vốn CPT / Số CPT đang lưu hành
Số cổ phiếu đang lưu hành (hay số cổ phiếu đã phát hành vào lưu thông): là số cổ phiếu công
ty đã bán ra cho nhà đầu tư và công ty đã thu về được số tiền bán số cổ phiếu đó. Đó chính là tổng
số cổ phiếu do các nhà đầu tư vào công ty đang nắm giữ. Tổng số cổ phiếu đang lưu hành tại một

thời điểm nhất định phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Số cổ phiếu được phép phát hành lần đầu và
phát hành bổ sung trong quá trình kinh doanh, số cổ phiếu công ty mua lại, số cổ phiếu quỹ công ty
đã bán ra, số cổ phiếu trả cổ tức cho cổ đông, tình hình tách, gộp cổ phiếu của công ty...
Khi một công ty đăng ký vốn điều lệ (lúc thành lập) hoặc đăng ký phát hành cổ phiếu bổ sung,
sẽ được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép phát hành một lượng cổ phiếu nhất định. Đó là
số cổ phiếu được phép phát hành. Các công ty có thể không phát hành hết ngay số cổ phiếu được
phép phát hành, họ để lại một số để sử dụng về sau (để chi trả cổ tức, để phát hành tiếp khi cần
thiết…). Lượng cổ phiếu đã bán ra gọi là cổ phiếu đã phát hành. Số cổ phiếu còn lại trong số cổ
phiếu được phép phát hành nhưng chưa phát hành và số cổ phiếu đã phát hành nhưng được công ty
mua lại và hiện đang do công ty sở hữu gọi là cổ phiếu quỹ. Số cổ phiếu này không có quyền nhận
cổ tức, và không được hưởng các quyền lợi khác (như tham gia ứng cử, bầu cử, biểu quyết…) như
các cổ phiếu đang lưu hành.
► Cổ phiếu ưu đãi (Preferred shares/stocks)
* Khái niệm cổ phiếu ưu đãi:
Cổ phiếu ưu đãi là loại cổ phiếu cho phép người nắm giữ nó được hưởng một số quyền lợi ưu
đãi hơn so với cổ đông thường.
Có nhiều loại cổ phiếu ưu đãi như ưu đãi về cổ tức, ưu đãi về quyền biểu quyết… trong đó ưu
đãi về cổ tức là loại phổ biến hơn cả.
* Cổ phiếu ưu đãi cổ tức có một số đặc điểm chủ yếu sau:
- Quyền ưu tiên về cổ tức và thanh toán khi thanh lý công ty. Khác với cổ phiếu thường, cổ
phiếu ưu đãi cổ tức mang lại cho người nắm giữ nó được hưởng một khoản lợi tức cổ phần cố định,
được xác định trước mà không phụ thuộc vào kết quả hoạt động của công ty. Mặt khác cổ đông ưu
đãi cũng được nhận cổ tức trước cổ đông thường. Khi giải thể hay thanh lý công ty, cổ đông ưu đãi
được thanh toán giá trị cổ phiếu của họ trước các cổ đông thường.
- Sự tích lũy cổ tức: Phần lớn cổ phiếu ưu đãi của các công ty phát hành đều là cổ phiếu ưu đãi
tích lũy. Điều đó có nghĩa là, nếu một năm nào đó công ty gặp khó khăn trong kinh doanh thì có thể
tuyên bố hoãn trả lợi tức cổ phần ưu đãi. Số cổ tức đó được tích lũy lại, chuyển sang kỳ kế tiếp và
được trả trước khi công ty công bố trả cổ tức cho cổ đông thường. Các quy định này được coi là một
biện pháp bảo vệ cổ đông ưu đãi.
- Không được hưởng quyền bỏ phiếu: không giống với các cổ đông thường, các cổ đông ưu đãi

không được hưởng quyền bỏ phiếu để bầu ra Hội đồng quản trị và biểu quyết quyết định các vấn đề
về quản lý công ty. Ngoài ra, một số công ty cổ phần ở các nước, khi phát hành cổ phiếu ưu đãi có
điều khoản quy định cổ đông ưu đãi có quyền biểu quyết nếu công ty không trả được lợi tức cổ
phiếu ưu đãi trong một thời kỳ nhất định, ví dụ: ở Pháp thường quy định nếu 3 tài khóa liền mà công
ty không chi trả được lợi tức cổ phiếu ưu đãi thì cổ đông ưu đãi được quyền biểu quyết, và quyền
này sẽ hết hiệu lực khi lợi tức cổ phần nợ những năm trước đã được thanh toán đủ.
- Trên cổ phiếu có ghi cổ tức và mệnh giá.
* Các loại cổ phiếu ưu đãi cổ tức:
- Cổ phiếu ưu đãi tích luỹ (Cumulative Preferred P/S)
24
Ebook.VCU – www.ebookvcu.com Giáo trình TTCK
______________________________________________________________________________
Là loại cổ phiếu mà nếu một năm nào đó công ty không có lãi để chi trả cổ tức và cổ tức đó
được nợ lại trong năm tới và sẽ được trả gộp luôn cùng với cổ tức năm tới hay sẽ được trả vảo một
năm nào đó mà công ty có đủ tiền để trả.
- Cổ phiếu ưu đãi không tích luỹ (Non-Cumulative Preferred P/S)
Là loại cổ phiếu mà trong trường hợp công ty làm ăn thua lỗ, công ty không có tiền để trả cổ
tức cho cổ phiếu ưu đãi loại này thì khoản cổ tức đó sẽ bị mất luôn. Kỳ hoạt động tiếp theo, dù công
ty làm ăn rất hiệu quả, khoản cổ tức chưa chi trả của kì trước cũng không được truy lĩnh mà chỉ chi
trả khoản cổ tức của kì hiện hành.
- Cổ phiếu ưu đãi tham dự (Participating Preferred P/S)
Là loại cổ phiếu ưu đãi mà ngoài việc nhận cổ tức theo mức đã công bố trước người chủ sở
hữu nó còn được nhận thêm khoản cổ tức đặc biệt nếu năm đó công ty hoạt động kinh doanh có hiệu
quả cao vượt ngưỡng theo quy định.
- Cổ phiếu ưu đãi không tham dự (Non-Participating Preferred P/S)
Là loại cổ phiếu ưu đãi mà người chủ sở hữu chỉ được nhận cổ tức theo mức đã công bố trước,
ngoài ra không được nhận thêm khoản cổ tức nào vào những năm công ty hoạt động kinh doanh có
hiệu quả cao.
- Cổ phiếu ưu đãi có thể chuyển đổi (Convertible Preferred P/S)
Là loại cổ phiếu mà khi phát hành có ghi kèm điều khoản cho phép người chủ sở hữu chuyển

đổi nó thành một số lượng nhất định cổ phiếu thường. Giá cả loại cổ phiếu ưu đãi được chuyển đổi
dao động nhiều hơn các loại cổ phiếu ưu đãi khác vì nó gắn liền với cổ phiếu thường. Nếu công ty
thành đạt, giá trị cổ phiếu thường trên thị trường tăng lên thì giá cổ phiếu ưu đãi được chuyển đổi
cũng gia tăng tương ứng.
- Cổ phiếu ưu đãi có thể thu hồi (Redeemable Preferred P/S)
Là loại cổ phiếu ưu đãi mà khi phát hành có ghi kèm điều khoản là công ty có thể thu hồi bằng
cách bồi hoàn một số tiền, cộng thêm một khoản thưởng nhất định cho người chủ sở hữu. Thường
thì các công ty sử dụng quyền thu hồi này để thu hồi các cổ phiếu có lãi suất cổ phần cao và thay thế
bằng những cổ phiếu có lãi suất thấp hơn nhằm cải thiện tình hình tài chính của công ty.
* Ở Việt Nam, theo Luật doanh nghiệp, công ty cổ phần có thể phát hành các loại cổ phiếu ưu
đãi sau:
- Cổ phiếu ưu đãi biểu quyết: loại cổ phiếu này chỉ phát hành cho tổ chức được Chính phủ ủy
quyền và cổ đông sáng lập. Thời gian hiệu lực của cổ phiếu là 3 năm kể từ khi được cấp giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh, sau đó chuyển thành cổ phiếu thường.
- Cổ phiếu ưu đãi về cổ tức.
- Cổ phiếu ưu đãi hoàn lại.
- Cổ phiếu ưu đãi khác (do điều lệ công ty quy định).
● Theo khả năng thu nhập và trạng thái công ty phát hành
- Cổ phiếu thượng hạng (blue chip stocks)
Cổ phiếu thượng hạng là cổ phiếu do các công ty lớn, ổn định trong sản xuất kinh doanh, có uy
tín tên tuổi trên thương trường phát hành. Vì lý do cổ tức được chia hàng năm ổn định nên giá loại
cổ phiếu này thường ổn định và sẽ có xu hướng gia tăng khi lãi suất vay vốn trên thị trường giảm.
- Cổ phiếu tăng trưởng (Growth stocks)
Cổ phiếu tăng trưởng do các công ty cổ phần đang trong giai đoạn tăng trưởng nhanh phát
hành. Đây là những công ty cổ phần có tốc độ tăng thị phần và thu nhập công ty nhanh hơn so với
tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Ngược lại với cổ phiếu thượng hạng, cổ phiếu tăng trưởng có tỷ
lệ cổ tức thấp, thậm chí có năm không có cổ tức. Lý do của đặc trưng này bắt nguồn từ quan điểm
tái đầu tư của công ty phát hành muốn giành phần lớn lợi nhuận để tài trợ cho chiến lược phát triển
kinh doanh .
25

×