Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Tài liệu Luật thi đấu quần vợt doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.1 KB, 24 trang )

Luật thi đấu quần vợt
Bắt đầu từ năm 1924, các thành viên của Liên đoàn Quần vợt thế giới (ITF) đã
đề ra một số quy định chung đối với những người chơi quần vợt. Qua nhiều lần
sửa chữa và bổ sung, Luật thi đấu đã được hoàn thiện và trở thành quy tắc mà
tất cả VĐV chuyên nghiệp và nghiệp dư phải tuân thủ.
Điều 1: Sân
Sân quần vợt có hình chữ nhật với chiều dài 23,77 m, và chiều rộng 8,23 m.
Lưới được căng ở chính giữa, chia sân thành hai phần đều nhau, buộc bằng một
sợi dây thừng hoặc kim loại có đường kính tối đa 0,8 cm vào hai cột lưới. Cột
lưới tròn có đường kính 15 cm, nếu vuông, có chiều dài cạnh 15 cm. Cột lưới chỉ
được phép cao hơn mép trên của lưới tối đa 2,5 cm. Tâm của cột đặt cách mép
ngoài đường biên dọc mỗi bên 0,914 m. Chiều cao cột lưới phải buộc làm sao
để mép trên lưới có độ cao 1,07 m so với mặt sân.
Khi kết hợp sân đánh đôi với sân đánh đơn và dùng lưới của sân đánh đôi để
đánh đơn, lưới phải có chiều cao 1,07 m bằng cách dùng hai cọc chống ở hai
bên. Cọc chống nếu tròn, đường kính là 7,5 cm, nếu vuông, cạnh bằng 7,5 cm.
Tâm của các cọc chống đặt cách mép ngoài của mỗi đường biên dọc của sân
đơn là 0,914 m.
Lưới phải được căng sát đến hai cột lưới. Mắt lưới phải nhỏ để bóng không thể
chui lọt. Chiều cao lưới ở giữa sân là 0,914 m, ở điểm này có một dải băng màu
trắng, bản rộng 5 cm buộc giữ cho lưới ở độ cao quy định. Cạp lưới màu trắng,
bản rộng không nhỏ hơn 5 cm, không lớn quá 6,35 cm. Từ mép trên đến mép
dưới và ở hai bên của cạp hoàn toàn màu trắng.
Ở cuối hai bên sân là đường biên ngang (đường cuối sân), và ở hai bên mép là
đường biên dọc. Ở mỗi bên của lưới, kẻ đường song song, cách lưới 6,4 m, gọi
là đường giao bóng. Trong khoảng sân giữa lưới với đường giao bóng, kẻ một
giới hạn phát bóng ở chính giữa rộng 5 cm, chia khoảng sân thành hai phần
bằng nhau, song song với đường biên dọc và gặp điểm giữa của đường giao
bóng. Hai phần sân này được gọi là ô giao bóng. Ở chính giữa đường biên
ngang, kẻ một vạch mốc giao bóng rộng 5 cm, dài 10 cm, vuông góc với đường
cuối sân và hướng vào trong mặt sân.


Tất cả các đường kẻ khác trên sân không được phép nhỏ hơn 2,5 cm và lớn
hơn 5 cm, ngoại trừ đường cuối sân có thể kẻ rộng 10 cm. Tất cả kích thước của
những đường kẻ này được tính đến mép ngoài. Các đường kẻ phải cùng một
màu.
Không được phép sử dụng cọc chống, sợi dây băng trắng và cạp lưới để quảng
cáo. Nếu có quảng cáo hoặc các đồ vật khác ở quanh sân thì chúng không được
sử dụng màu trắng hoặc vàng. Có thể dùng màu nhạt nếu không ảnh hưởng đến
tầm nhìn của các tay vợt.
Ghi chú 1: Tại các giải đấu chính thức của Liên đoàn Quần vợt thế giới, cần có
một khoảng rộng ở sau mỗi đường biên ngang không dưới 6,4 m và ở hai bên
không ít hơn 3,66 m. Các ghế của trọng tài biên có thể đặt ở cách sau khoảng
cách chạy đà cuối sân 6,4 m trở ra và ở hai bên cũng phải ngoài giới hạn 3,66
m.
Ghi chú 2: Tại Davis Cup và Fed Cup thì khoảng trống của sân quần vợt ở sau
hai bên đường cuối sân không nhỏ hơn 8,23 m và khoảng trống ở hai bên
đường biên dọc không ít hơn 4,57 m.
Ghi chú 3: Ở các CLB hoặc khu giải trí, khoảng trống ở sau hai bên đường cuối
sân không nhỏ hơn 5,5 m và khoảng trống ở hai bên đường biên dọc không nhỏ
hơn 3,05 m.
Điều 2: Thiết bị cố định
Các thiết bị cố định của sân không chỉ gồm có lưới, cột lưới, cọc chống, dây
căng lưới, cạp lưới, mà còn cả tường hay lưới chắn quanh sân, các bậc ngồi,
ghế ngồi cố định hay di động xung quanh sân và cả những người ngồi. Mọi thứ
khác xung quanh và trên sân, trọng tài chính, trọng tài biên và người nhặt bóng
khi đứng đúng vị trí cũng được coi là thiết bị cố định.
Ghi chú: Trong khuôn khổ luật này, từ trọng tài bao hàm cả người ngồi trên sân
điều khiển trận đấu và những người khác được chỉ định giúp đỡ trọng tài chính
trong suốt trận.
Điều 3: Bóng
Tất cả các loại bóng được sử dụng tại các trận đấu quần vợt phải đáp ứng các

tiêu chuẩn của Liên đoàn Quần vợt thế giới, bao gồm:
a. Bóng phải có mặt ngoài giống nhau, phủ bằng một lớp nỉ và có màu vàng
hoặc trắng. Nếu có đường chắp nối, phải không để lộ mũi khâu.
b. Bóng có đường kính từ 6,35 cm đến 6,67 cm và trọng lượng nằm trong
khoảng từ 56 g tới 59,4 g.
c. Mỗi quả bóng phải có độ nảy nằm trong khoảng từ 134, 62 cm đến 147, 62 cm
khi thả từ độ cao 254 cm xuống nền bê tông. Loại thứ nhất (tốc độ nhanh) có độ
biến dạng về phía trước lớn hơn 0,495 cm và nhỏ hơn 0,597 cm; biến dạng sau
lớn hơn 0,749 cm và nhỏ hơn 0,965 cm khi có lực tác động 8,165 kg vào bóng.
Đối với loại hai và ba (tốc độ trung bình và chậm) phải có độ biến dạng về phía
trước lớn hơn 0,559 cm và nhỏ hơn 0,737 cm; độ biến dạng sau lớn hơn 0,800
cm và nhỏ hơn 1,080 cm khi có lực tác động 8,165 kg.
Các biến dạng này là trị số trung bình ba lần đọc số riêng rẽ theo ba trục của quả
bóng, và các số đọc từng đôi không khác nhau quá 0,076 cm trong mỗi trường
hợp.
d. Khi thi đấu ở độ cao trên 1.219 m so với mặt nước biển, có thể sử dụng hai
loại bóng bổ sung:
- Loại thứ nhất có các quy định giống như đã mô tả ở trên, trừ trị số độ nẩy có
thể lớn hơn 121,92 cm, nhỏ hơn 134, 62 cm và có một áp suất bên trong lớn
hơn áp suất bên ngoài. Loại này thường được gọi là bóng có độ nén.
- Loại thứ hai cũng có các chỉ tiêu như đã mô tả ở trên, trừ trị số về độ nảy nhiều
hơn 134,62 cm, nhỏ hơn 147,32 cm và có áp suất bên trong tương đương với áp
suất bên ngoài. Ngoài ra, loại bóng này còn phải được thích nghi với khí hậu và
độ cao ở nơi diễn ra giải đấu, ít nhất là 60 ngày. Loại bóng này thường được gọi
là bóng có độ nén bằng không hoặc bóng không có độ nén.
Loại thứ ba như đã nói ở phần c (loại có tốc độ chậm) có thể sử dụng cho bất kỳ
mặt sân nào ở độ cao trên 1.219 m so với mặt nước biển.
- Mọi sự kiểm tra về độ nảy, kích thước và độ biến dạng đều phải tuân theo các
quy định riêng (trong phụ lục 1).
Điều 4: Vợt

Các loại vợt không theo đúng những quy định trong luật này sẽ không được
dùng trong thi đấu:
a. Mặt lưới (mặt dùng để đánh bóng) phải là một mặt phẳng, dây được căng vào
khung theo tiêu chuẩn, một sợi trên, một sợi dưới. Độ dày mắt lưới không được
có sự khác biệt, đặc biệt ở khu giữa của mặt vợt không được thưa hơn các chỗ
khác. Dây của vợt không được buộc thêm hay có nút lồi ngoài các vật hay nút
sử dụng đơn lẻ nhằm hạn chế, đề phòng đứt hoặc rung động. Các vật và nút này
phải hợp lý về kích thước và vị trí so với từng mục đích.
b. Tổng chiều dài tối đa của vợt không được quá 73,66 cm, tính cả phần cán vợt
(phần tay cầm). Chiều rộng tối đa của vợt không được vượt quá 31,75 cm. Mặt
lưới không vượt quá 39,37 cm chiều dài và 29,21 cm chiều rộng.
c. Vợt, kể cả cán, không được buộc thêm bất kỳ một thiết bị hoặc vật dụng nào
để hạn chế, tránh hỏng dây, gẫy vợt, chống rung hoặc để phân phối trọng lượng.
Bất kỳ thiết bị nào sử dụng cũng phải phù hợp về kích cỡ và vị trí cho từng mục
đích nhất định.
d. Cấu trúc vợt kể cả cán và dây không được có bất cứ cơ cấu gì có thể làm thay
đổi cơ bản hình dáng bề ngoài của vợt hoặc làm thay đổi sự phân phối trọng
lượng theo chiều dọc hoặc chiều ngang trên trục đối xứng của vợt, dẫn đến vợt
bị rung lắc trong khi thi đấu. Không được sử dụng bất cứ một nguồn năng lượng
nào (dưới bất kỳ hình thức nào) lắp bên trong hoặc gắn vào vợt.
Liên đoàn Quần vợt Thế giới (ITF) sẽ quyết định kiểu hoặc mẫu vợt có thể đáp
ứng các chỉ tiêu trên đây, được chấp nhận hay không cho các giải đấu. Quyết
định như vậy được đưa ra theo sáng kiến của Liên đoàn hoặc trên yêu cầu của
một bên có liên quan (vận động viên, các nhà sản xuất trang thiết bị, các liên
đoàn quốc gia và thành viên của liên đoàn đó). Các quyết định và vận dụng phải
được đưa ra phù hợp với thủ tục báo cáo và thẩm định hiện hành của ITF.
Trường hợp 1: Có thể có hơn một bộ dây đan trên mặt vợt không?
Quyết định: Không. Vì luật đã quy định rõ ràng chỉ một chứ không phải nhiều
kiểu dây đan trên mặt vợt.
Trường hợp 2: Một dây đan của vợt có thể được coi là phẳng và đồng nhất nếu

các dây nằm trên hơn một mặt phẳng?
Quyết định: Không.
Trường hợp 3: Có thể lắp đặt trên dây của vợt một cơ cấu làm giảm độ rung
không, và nếu có thể như vậy thì nó phải được đặt ở đâu?
Quyết định: Có. Nhưng cơ cấu này chỉ có thể được đặt ở bên ngoài vùng đan
dây.
Trường hợp 4: Trong một trận đấu, dây vợt của một vận động viên bị đứt. Anh ta
có thể tiếp tục chơi với chiếc vợt trong điều kiện như thế không?
Quyết định: Có.
Trường hợp 5: Có thể lắp một bộ pin vào vợt để tạo ảnh hưởng đến trận đấu
được không?
Quyết định: Không. Vì pin là một nguồn năng lượng.
Điều 5: Giao bóng và đỡ giao bóng
Hai tay vợt tham gia trận đấu đứng ở hai bên lưới. Tay vợt đánh đường bóng
đầu tiên được gọi là người giao bóng và tay vợt bên đối diện là người đỡ giao
bóng.
Tình huống 1: Trong khi đánh bóng, một tay vợt có bị mất điểm không nếu người
đó vượt qua đường tưởng tượng kéo dài từ hai đầu lưới
a. Trước khi đánh bóng
b. Sau khi đánh bóng.
Quyết định: Cả hai trường hợp đều không mất điểm nếu tay vợt đó không xâm
phạm vào sân của đối phương. Trường hợp một người cố ý ngăn cản đối
phương, người còn lại có thể yêu cầu trọng tài giải quyết.
Tình huống 2: Tay vợt giao bóng yêu cầu tay vợt đỡ giao bóng phải đứng trong
khu vực sân có các vạch giới hạn của tay vợt đỡ. Điều đó có cần thiết không?
Quyết định: Không. Người đỡ giao bóng có thể đứng bất kỳ đâu người đó muốn,
miễn là ở phía bên kia của lưới.
Điều 6: Chọn sân và giao bóng
Việc chọn sân, quyền giao hoặc đỡ bóng trong game đầu tiên của trận đấu
thường được quyết định bằng bốc thăm (tung đồng tiền). Người thắng trong

cuộc bốc thăm này có thể tự lựa chọn hoặc nhường quyền lựa chọn cho đối thủ.
- Nếu một tay vợt chọn giao bóng hoặc đỡ bóng thì người còn lại phải được
chọn sân.
- Ngược lại, nếu một tay vợt đã chọn sân thì người kia sẽ được quyền chọn giao
bóng hoặc đỡ bóng.
Trường hợp: Các tay vợt có được phép thay đổi sự lựa chọn của mình không
nếu trận đấu bị hoãn trước khi bắt đầu?
Quyết định: Có. Nhưng sự lựa chọn mới vẫn phải tuân theo những quy định về
chọn sân và giao bóng.
Điều 7: Giao bóng
Quá trình giao bóng được tiến hành như sau:
Trước khi giao bóng, tay vợt thực hiện phải đứng bằng cả hai chân ở ngoài
đường cuối sân và trong khu vực đường tưởng tượng kéo dài của vạch cuối sân
mốc giao bóng và đường biên dọc. Tay vợt giao bóng sẽ tung bóng lên không
theo bất kỳ hướng nào và phải đánh bóng đi trước khi nó chạm đất. Quá trình
giao bóng được coi là kết thúc khi bóng chạm mặt vợt. Tay vợt chỉ sử dụng một
tay trong thi đấu có thể dùng vợt để tung bóng khi giao bóng.
Trường hợp 1: Trong một trận đấu đơn, tay vợt giao bóng có thể đứng ở phía
sau đường cuối sân, chỗ giao giữa đường biên dọc của sân đánh đơn và đánh
đôi không?
Quyết định: Không.
Trường hợp 2: Khi giao bóng, nếu một tay vợt tung hai hoặc nhiều bóng lên, thay
vì chỉ một quả, có bị coi là lỗi giao bóng không?
Quyết định: Không, nhưng sẽ giao bóng lại. Trong trường hợp trọng tài cho rằng
hành động đó là cố tình thì sẽ quyết định theo điều 21.
8. Lỗi chân khi giao bóng
Trong quá trình giao bóng, tay vợt phải:
- Không được thay đổi vị trí bằng đi hoặc chạy. Chỉ với những chuyển động nhỏ
của bàn chân, tay vợt giao bóng không được làm ảnh hưởng đến vị trí ban đầu
đã đứng.

- Không được chạm bất kỳ chân nào vào vạch kẻ của đường cuối sân và vượt
qua giới hạn đường tưởng tượng kéo dài của vạch mốc giao bóng và đường
biên dọc.
Điều 9: Trình tự giao bóng
a. Trong quá trình giao bóng, đấu thủ giao bóng sẽ lần lượt đứng ở bên phải rồi
bên trái phần sân mình và bắt đầu từ bên phải ở mỗi game. Nếu giao bóng
không đúng vị trí mà không bị phát hiện, tất cả những điểm đã và đang tính đều
không phải thay đổi. Tuy nhiên, phải đổi vị trí giao bóng cho đúng ngay sau khi
phát hiện ra lỗi này.
b. Bóng đã giao phải bay qua lưới và rơi trong ô giao bóng chéo với vị trí đứng
giao bóng hoặc trên các vạch của ô giao bóng trước khi đấu thủ đỡ đánh trả
bóng lại.
Điều 10: Lỗi giao bóng
Giao bóng bị coi là phạm lỗi:
- Nếu đấu thủ giao bóng vi phạm điều 7, 8 hoặc 9b.
- Nếu đấu thủ giao bóng đánh không trúng bóng khi bóng đã được tung lên.
- Nếu bóng đã giao chạm những thiết bị cố định trên sân (lưới, cột lưới hoặc cạp
lưới) trước khi chạm đất.
Trường hợp 1: Sau khi đã tung bóng để chuẩn bị giao, đấu thủ giao bóng quyết
định không đánh quả bóng đó và giữ lại. Như thế có coi là phạm luật không?
Quyết định: Không
Trường hợp 2: Khi giao bóng đánh đơn trên sân đôi với cột lưới sân đôi và cọc
chống đơn, bóng chạm cọc chống đơn và chạm đất trong phạm vi ô giao bóng.
Quả giao đó có coi là lỗi không hay phải giao lại?
Quyết định: Trường hợp như vậy bị coi là lỗi vì cọc chống đơn, cột lưới sân đôi...
được coi là những thiết bị cố định (xem điều 2 và 10).
Điều 11: Quả giao bóng thứ hai
Sau một lỗi giao bóng (nếu là lỗi thứ nhất), đấu thủ giao bóng được giao tiếp quả
thứ hai cũng ở cùng vị trí. Trong trường hợp vị trí đó được phát hiện nhầm lẫn
thì sau khi thay đổi, đấu thủ giao bóng cũng chỉ được giao một quả ở vị trí mới.

Tình huống 1: Khi đấu thủ giao bóng đứng không đúng sân và bị thua điểm. Anh
(chị) ta cho rằng vì lỗi sai vị trí mà giao bóng hỏng. Trường hợp này được quyết
định như thế nào?
Quyết định: Điểm vẫn giữ nguyên, nhưng quả giao bóng sau phải được giao từ
vị trí đúng theo tỷ số điểm.
Tình huống 2: Tỷ số đang là 15-15, đấu thủ giao bóng do nhầm lẫn, đứng ở bên
trái sân của mình và thắng điểm rồi lại tiếp từ bên phải và phạm lỗi. Vị trí đứng
sai bị phát hiện. Điểm số sẽ được tính như thế nào và quả giao bóng tiếp sau
được thực hiện từ bên nào?
Quyết định: Điểm trước đó vẫn giữ nguyên. Quả giao bóng tiếp theo sẽ được bắt
đầu ở bên trái của phần sân, tỷ số là 30-15 và đấu thủ giao bóng đã giao một
quả hỏng.
Điều 12: Thời điểm giao bóng
Đấu thủ giao bóng chỉ được thực hiện công việc của mình khi đối phương đã
sẵn sàng đỡ. Tuy nhiên nếu đấu thủ nhận bóng ra dấu hiệu vẫn chưa sẵn sàng
thì cũng không được tính lỗi của người giao bóng.
13. Quả thực hiện lại
Trong mọi trường hợp, một quả đánh lại theo đúng luật hoặc khiến trận đấu gián
đoạn, phải hiểu theo nghĩa sau:
a) Khi tuyên bố riêng lẻ với một quả giao bóng có nghĩa là chỉ một quả giao bóng
lại.
b) Khi tuyên bố trong mọi tình huống khác có nghĩa là điểm đó được tính lại.
Trường hợp 1: Một quả giao bóng bị gián đoạn do một nguyên nhân ngoài
những nguyên nhân đã được xác định trong điều 14 thì có phải chỉ quả giao
bóng đó được thực hiện lại?
Quyết định: Không, toàn bộ điểm của trận đấu phải được tính lại.
Trường hợp 2: Nếu một quả bóng đang trong quá trình diễn ra trận đấu bị vỡ,
hỏng, thì quả phát bóng vừa tiến hành có được thực hiện lại?
Quyết định: Có.
Điều 14: Đánh lại trong giao bóng

Quả giao bóng được thực hiện lại nếu:
- Bóng giao chạm lưới, cạp lưới hoặc dải băng, hoặc sau khi chạm lưới, cạp lưới
hoặc dải băng lại chạm tiếp vào người đỡ giao bóng hay bất kỳ vật nào trên
người của đấu thủ đỡ bóng trước khi bóng chạm đất.
- Nếu một quả giao bóng hoặc một lỗi xảy ra khi đấu thủ đỡ bóng chưa sẵn sàng
vào cuộc.
Trong trường hợp của một quả đánh lại, quả giao bóng đó sẽ không được tính
đến và đấu thủ giao bóng phải giao lại lần nữa, nhưng một quả bóng đánh lại
không huỷ bỏ được một lỗi trước đó.
Điều 15: Thứ tự giao bóng
Sau game thứ nhất, đấu thủ giao bóng sẽ trở thành đấu thủ đỡ bóng và ngược
lại. Trình tự này sẽ tiếp tục trong tất cả các game tiếp sau của trận đấu. Nếu phát
hiện trình tự giao bóng sai thì phải điều chỉnh lại ngay lập tức. Tuy nhiên, tất cả
các điểm tính trước đó vẫn được giữ nguyên. Quả giao bóng hỏng trước khi
trình tự giao bóng sai được phát hiện sẽ không được tính. Nếu một game đã
hoàn thành trước khi phát hiện ra sai sót trong trình tự giao bóng thì trình tự đó
giữ nguyên như đã bị thay đổi.
Điều 16: Khi nào đấu thủ đổi bên
Đấu thủ đổi bên sau các game thứ nhất, thứ ba… và mỗi game lẻ tiếp theo ở
mỗi set, và cuối mỗi set trừ khi tổng số game của set đó chẵn. Trong trường hợp
này thì không đổi bên cho đến khi kết thúc game thứ nhất của set sau mới đổi.
Nếu có lỗi dẫn tới trình tự giao bóng sai, không theo đúng sự nối tiếp, các đấu
thủ phải trở về vị trí đúng của mình ngay khi phát hiện ra và tiếp tục theo sự nối
tiếp ban đầu.
Điều 17: Bóng trong cuộc
Bóng trong cuộc tính từ lúc quả giao bóng được thực hiện, trừ khi phạm lỗi hoặc
có quyết định đánh lại, cho đến khi điểm được xác định.
Tình huống 1: Đấu thủ đánh trả bóng không thành công, tuy nhiên, không có dấu
hiệu nào từ trọng tài và bóng vẫn trong cuộc. Đối phương khiếu nại đòi thắng
điểm sau khi bóng đã ở ngoài cuộc. Sự phản đối có được chấp nhận?

×