Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG TRUYÊN NGẮN NGUYỄN NGỌC tư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 109 trang )

Ơ

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------

VŨ THỊ HẢI YẾN

NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT
TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC TƯ

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Hà Nội - 2012


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------

VŨ THỊ HẢI YẾN

NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT
TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC TƯ

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số : 60 22 01 21

Người hướng dẫn khoa học :


PGS. TS Hà Văn Đức

Hà Nội - 2012


Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................ 1
1.Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................ 3
3.Đối tượng, phạm vi và mục đích nghiên cứu ............................................. 12
4.Phương pháp nghiên cứu. .......................................................................... 13
5.Cấu trúc luận văn ...................................................................................... 13
PHẦN NỘI DUNG ...................................................................................... 14
CHƯƠNG 1: NGƯỜI KỂ CHUYỆN TRONG TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN NGỌC TƯ .................................................................................. 14
1.1Giới thuyết về người kể chuyện trong tác phẩm tự sự .......................... 14
1.1.1 Khái niệm người kể chuyện......................................................................14
1.1.2 Vai trò, chức năng của người kể chuyện ..................................................16
1.1.3 Người kể chuyện chi phối điểm nhìn trần thuật trong tác phẩm tự sự.18
1.2 Ngơi kể và điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư.. 19
1.2.1 Người kể chuyện lộ diện trực tiếp ở ngơi thứ nhất với điểm nhìn
bên trong ............................................................................................................19
1.2.1.1 Cái tơi tự kể về mình .............................................................. 20
1.2.1.2 Cái “tôi” kể chuyện người khác ............................................. 25
1.2.2 Người kể chuyện ẩn mình qua hình thức trần thuật từ ngơi thứ ba..........27
1.2.2.1 Kể theo điểm nhìn của chính mình ......................................... 28
1.2.2.2 Kể theo điểm nhìn của nhân vật .............................................. 30
1.2.3 Người kể chuyện tồn tri với điểm nhìn di động......................................32

CHƯƠNG 2: NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC CỐT TRUYỆN VÀ KẾT CẤU
TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC TƯ ....................................... 36
2.1 Nghệ thuật tổ chức cốt truyện ............................................................. 36
2.1.1 Khái niệm cốt truyện ................................................................................36

Vũ Thị Hải Yến

Luận văn Thạc sĩ


Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư

2.1.2 Tổ chức cốt truyện trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư .........................38
2.1.2.1 Cốt truyện truyền thống .......................................................... 39
2.1.2.2 Cốt truyện tâm lý .................................................................... 46
2.1.3 Nghệ thuật xây dựng cốt truyện trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư ...56
2.1.3.1 Chi tiết nghệ thuật .................................................................. 56
2.1.3.2 Kết thúc mở gợi nhiều day dứt, trăn trở .................................. 59
2.2 Nghệ thuật tổ chức kết cấu. ................................................................. 61
2.2.1 Khái niệm kết cấu. ....................................................................................61
2.2.2 Tổ chức kết cấu trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư..............................64
2.2.2.1 Truyện thường có lời đề từ ..................................................... 64
2.2.2.2 Kết cấu đảo trật tự thời gian, sự kiện ...................................... 69
2.2.2.3 Kết cấu mở ............................................................................. 73
CHƯƠNG 3: NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU TRẦN THUẬT TRONG
TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC TƯ ..................................................... 77
3.1 Ngôn ngữ trần thuật ............................................................................ 77
3.1.1 Giới thuyết về ngôn ngữ trần thuật trong tác phẩm tự sự.........................77
3.1.2 Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư .......................79
3.1.2.1 Ngôn ngữ đậm chất Nam Bộ .................................................. 79

3.1.2.2 Tính chất đa thanh trong ngơn ngữ trần thuật.......................... 82
3.2 Giọng điệu trần thuật........................................................................... 88
3.2.1 Giới thuyết về giọng điệu trần thuật trong tác phẩm tự sự .......................88
3.2.2 Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư ....................89
3.2.2.1 Giọng điệu trữ tình – lo âu, khắc khoải ................................... 89
3.2.2.2 Giọng điệu dân dã, mộc mạc................................................... 94
KẾT LUẬN................................................................................................ 100
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 103

Vũ Thị Hải Yến

Luận văn Thạc sĩ


Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nguyễn Ngọc Tư là nhà văn trẻ của vùng đất tận cùng Tổ quốc. Chị
sinh năm 1976 tại xã Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau trong một
gia đình nơng dân. Sau hơn mười năm cầm bút, chị đã trở thành một hiện
tượng độc đáo khiến bạn đọc trong nước và ngoài nước quan tâm. Người
con đất Mũi, người con gái miền Tây xuất thân từ nơng dân bằng tài năng
của mình đã góp phần làm sống động nền văn học đương đại. Nhà văn Dạ
Ngân đã tâm sự: “tôi nhớ mãi cảm giác của người trong nghề, lại là dân
biên tập, tôi nghĩ hình như mình đang tiếp cận một ngơi sao khơng biết nó
sẽ tỏa sáng đến đâu” (“May mà có Nguyễn Ngọc Tư” – Báo Văn nghệ).
Với Nguyễn Ngọc Tư “viết văn là một lựa chọn khó, đầy nhọc nhằn, nặng
nề, dằn vặt”. Nhiều khi nhà văn phải nuôi nỗi cô đơn “cô đơn là sự tối cần
của người viết, nó là một điều kiện hàng đầu của nhà văn” (Nguyễn Ngọc

Tư). Nhưng với tài năng thiên bẩm, với đam mê nghiệp văn, Nguyễn Ngọc
Tư đã gặt hái được những thành công liên tiếp. Thành công khởi nghiệp của
Nguyễn Ngọc Tư là tác phẩm Ngọn đèn không tắt, đạt giải 3 Báo chí trong
năm 1997. Năm 2000, chị nhận Giải nhất cuộc vận động sáng tác văn học
tuổi 20 lần II với tác phẩm Ngọn đèn không tắt. Ngay năm sau, chị được
trao tặng giải B giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam với tập truyện ngắn
Ngọn đèn không tắt. Cùng năm 2001, Nguyễn Ngọc Tư nhận tặng thưởng
dành cho các tác giả trẻ của Ủy ban toàn quốc liên hiệp các Hội văn học
nghệ thuật Việt Nam cho tập Ngọn đèn không tắt. Truyện ngắn Cánh đồng
bất tận là một trong mười truyện ngắn hay nhất năm 2005 do báo Văn nghệ
bình chọn. Hội nghị Ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam lần thứ 6, khóa
VI (13-10-2006) đã quyết định trao tặng giải thưởng của Hội nhà văn Việt

Vũ Thị Hải Yến

1

Luận văn Thạc sĩ


Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư

Nam năm 2006 cho truyện Cánh đồng bất tận. Năm 2008, chị được Hội nhà
vănViệt Nam đề cử nhận giải thưởng Văn học ASEAN. Đây cũng là năm
đầu tiên Hội nhà văn đề cử trao giải cho một tác giả trẻ dưới 40 tuổi. Đó là
niềm vinh dự lớn đối với Nguyễn Ngọc Tư. Bên cạnh truyện ngắn, Nguyễn
Ngọc Tư còn sáng tác nhiều tản văn. Nhưng có thể thấy, ở lĩnh vực truyện
ngắn chị đang khẳng định được ưu thế của mình. Truyện của Nguyễn Ngọc
Tư vừa mang hơi thở của cuộc sống hiện đại vừa mang nét duyên của “trái
sầu riêng” Nam Bộ, có người thích, khen thơm, có người bưng mũi quay đi

vì chê nó nặng mùi. Tuy vậy, chúng tôi nhận thấy truyện ngắn của chị thực
sự tạo được “hiệu ứng” với bạn đọc. Điều gì đã làm nên thành công vang
dội của một nhà văn trẻ tuổi ở những bước đầu tiên đến với văn chương
nghệ thuật? Muốn lí giải điều đó chúng tơi đã chọn đề tài: Nghệ thuật tự sự
trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Đặc trưng của phương thức tự sự nói chung và truyện ngắn nói riêng là
nghệ thuật trần thuật. Nắm được những đặc điểm trần thuật sẽ giúp chúng ta
khám phá những tầng sâu kín, những vẻ đẹp độc đáo của truyện ngắn. Ở
lĩnh vực văn xuôi, truyện ngắn đang khẳng định được ưu thế. Với những
đặc điểm riêng, truyện ngắn có thể coi là một thể loại bắt nhịp nhanh với
những chuyển biến muôn màu của đời sống hiện đại. Nó là thể loại phát
triển mạnh nhất trong văn học đương đại, góp phần làm nên diện mạo chính
của nền văn học hơm nay. Việc tìm hiểu nghệ thuật trần thuật trong truyện
ngắn của một nhà văn trẻ như Nguyễn Ngọc Tư sẽ cho chúng ta thấy được
sự đóng góp của chị trong quá trình vận động chung của truyện ngắn Việt
Nam đương đại. Qua đó cũng cho người đọc một cái nhìn khái quát về
những chuyến biến mạnh mẽ cả về nội dung phản ánh và hình thức thể hiện
của thể loại truyện ngắn trong nền văn học hiện nay.

Vũ Thị Hải Yến

2

Luận văn Thạc sĩ


Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư

2. Lịch sử vấn đề
PGS.TS Lý Hoài Thu khi tổng kết sự vận động của các thể loại văn xuôi

trong thời kỳ đổi mới đã nhận xét “Bên cạnh tiểu thuyết, truyện vừa và
truyện ngắn (trung thiên tiểu thuyết và đoản thiên tiểu thuyết) trong các
thập niên vừa qua phát triển mạnh mẽ, có thể gọi là rực rỡ. Khơng phải
ngẫu nhiên mà người ta gọi đây là thời kỳ “lên ngơi” của truyện ngắn.
Điều này hồn tồn có thể cắt nghĩa được bởi nhịp độ của đời sống công
nghiệp hiện đại, dưới sức ép từ phía các phương tiện nghe nhìn, truyện
ngắn đã phát huy được ưu thế của mình một cách hiệu quả”(Lý Hoài Thu,
Sự vận động của các thể loại văn xuôi trong văn học thời kỳ đổi mới, http:
//www. Tapchisonghuong. com. vn). Đã có cả một đội ngũ đông đảo các nhà
văn với sức trẻ, tài năng, họ đã tạo cho nền truyện ngắn Việt Nam đương
đại một vườn hoa nhiều màu sắc rực rỡ. Bên cạnh những tên tuổi quen
thuộc như: Sương Nguyệt Minh, Đỗ Bích Thúy, Phong Điệp, Nguyễn Thị
Châu Giang,… Nguyễn Ngọc Tư cũng là một nhà văn trẻ đầy tài năng. Là
một nhà văn được u mến khơng chỉ trong nước mà cịn cả ở nước ngồi,
vì thế những bài viết tìm hiểu về truyện ngắn và tạp văn của chị thường
xuyên được đăng tải trên các phương tiện truyền thông. Từ tập truyện ngắn
đầu tay năm 2000 Ngọn đèn không tắt đến tập truyện ngắn xuất bản năm
2010 Khói trời lộng lẫy, Nguyễn Ngọc Tư thực sự đã tạo nên “thương hiệu”
riêng cho mình trong nền văn học hiện đại. Khen có, chê cũng khơng ít
khiến cho việc tìm hiểu và nghiên cứu văn chương của chị càng hấp dẫn với
độc giả yêu văn.
Trên cơ sở tìm hiểu những bài nghiên cứu, phê bình, thảo luận về
Nguyễn Ngọc Tư, chúng tơi xin điểm lại một số ý kiến bàn đến sáng tác của
Nguyễn Ngọc Tư có liên quan đến phạm vi nghiên cứu của đề tài.

Vũ Thị Hải Yến

3

Luận văn Thạc sĩ



Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư

2.1 Lịch sử nghiên cứu truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nơng dân nghèo ở Cà Mau – vùng
đất phương Nam cuối cùng của Tổ quốc, mới mở mắt chào đời Nguyễn
Ngọc Tư đã quen với mùi hăng hăng của cỏ khi sa mưa, mùi nồng nồng oi
oi của đất, mùi thơm dậy từ nồi mắm chấm rau đồng,…Chị chỉ học hết lớp
chín phổ thông, cấp ba bổ túc, sống giản dị cùng người chồng thợ bạc chẳng
bao giờ đọc truyện vợ viết nhưng chị thực sự là một tài năng rực sáng của
Văn học Việt Nam đương đại. Chị cầm bút viết văn từ chính hiện thực quê
nghèo với kênh rạch chằng chịt, con người đi lại đều trên mặt nước, một
bước cũng phải ghe xuồng.
Xuất hiện lần đầu tiên với truyện Ngọn đèn không tắt, Nguyễn Ngọc Tư
ngay lập tức chiếm được cảm tình của đơng đảo độc giả bằng giọng văn nhẹ
nhàng, một tấm lòng trong trẻo, sự tài hoa mộc mạc đầy nắng gió phương
Nam. Từ sự hứng khởi ban đầu đó, người đọc tiếp tục chào đón những tập
truyện khác của chị như: Nước chảy mây trôi, Giao thừa, Cánh đồng bất
tận, Gió lẻ và chín câu chuyện khác và Khói trời lộng lẫy với một sự thích
thú đặc biệt.
Từ tập truyện ngắn đầu tay Ngọn đèn không tắt (2000), Nguyễn Ngọc
Tư đã sớm nổi tiếng. Mặc dù không gây xôn xao dư luận, nhưng tập truyện
ngắn đã chiếm được cảm tình của đơng đảo bạn đọc và giới chun mơn.
Khi viết bài “May mà có Nguyễn Ngọc Tư” đăng trên báo Văn nghệ, nhà
văn Dạ Ngân đã bộc bạch tâm sự: “Chính văn nghệ đã in cho tác giả này
một truyện đậm chất Nam Bộ dù truyện khá mảnh”. Cũng trên báo Văn
nghệ, nhà văn Dạ Ngân đã trả lời: “tôi đã viết bài “Nguyễn Ngọc Tư như
thế nào?” bằng tâm trạng thú vị khi nhớ tới lời khen mà người ta từng
giành cho Solokhov: “trên bầu trời văn học nước Nga, một con đại bàng

non vừa cất lên đôi cánh mênh mông từ sông Đông”.

Vũ Thị Hải Yến

4

Luận văn Thạc sĩ


Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư

Nhà văn Nguyễn Quang Sáng - Tổng thư ký Hội nhà văn Thành Phố Hồ
Chí Minh, trưởng ban chung khảo cuộc thi sáng tác văn học tuổi 20 lần thứ
II năm 2000 đã nhận xét về tập truyện ngắn Ngọn đèn không tắt như sau:
“Tập truyện ngắn “Ngọn đèn không tắt” của Nguyễn Ngọc Tư có truyện
“Ngọn đèn khơng tắt” là truyện ngắn nổi bật nhất. Với giọng văn mộc mạc
bình dị, với ngôn ngữ đời thường đã tạo nên một khơng khí rất tự nhiên về
màu sắc, hương vị của mảnh đất cuối cùng Tổ quốc – mũi Cà Mau của
những con người mà cha ông là người tứ xứ về mũi đất của rừng, của sông
nước, của biển cả đã dày công khai phá, đã đứng lên khởi nghĩa. Qua ngòi
bút của Nguyễn Ngọc Tư, những con người lam lũ, giản dị, bộc trực ấy
chứa bên trong cả một tâm hồn vừa nhân hậu vừa tinh tế qua cách đối nhân
xử thế…”.
Nhà văn Huỳnh Kim cũng nhận xét: “đọc tập truyện “Ngọn đèn khơng
tắt” thật là thích vì văn chương sâu sắc mà dung dị, tinh tế mà lại tràn trề
tánh nết của người dân Nam Bộ trong khi tác giả mới 24 tuổi. Với tôi truyện
của Nguyễn Ngọc Tư là những câu chuyện nhà quê. Ở trong đó, ai đọc, dù
khơng hợp gu, cũng như tìm gặp được bóng dáng nhà q của riêng mình”.
Nhà văn Phạm Xn Nguyên lại tiếp cận tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư từ
góc độ khác: “Truyện “Ngọn đèn khơng tắt” đã cho thấy Tư biết kể những

truyện nhân tình bằng một giọng chân tình khiến người đọc dễ nghe và dễ
chịu”. Hồng Thiên Nga đã tâm sự: “tôi chưa từng gặp nhưng đã yêu
Nguyễn Ngọc Tư qua ngòi bút chị quá đỗi tinh tế, nhân hậu và trong lành”
[20, 3].
Cũng vì yêu mến Nguyễn Ngọc Tư mà giáo sư kinh tế Trần Hữu Dũng một Việt kiều Mỹ đã lập một tủ sách Nguyễn Ngọc Tư trong trang web
“Văn hóa và giáo dục” của mình. Ơng tự bạch trong website của mình: “tơi
lập trang web với mục đích trước hết, cho tơi thu thập vào một nơi những

Vũ Thị Hải Yến

5

Luận văn Thạc sĩ


Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư

bài của (và về) Nguyễn Ngọc Tư rải rác trên các web và sau đó chia sẻ với
những bạn thích văn Nguyễn Ngọc Tư như tơi”. Ơng đặc biệt ấn tượng với
truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư vì theo ơng trong văn chương của
Nguyễn Ngọc Tư, chúng ta, khắp mọi phương trời, tìm lại được cái q
hương đích thực trong tâm tưởng, những tình tự ngủ qn trong lịng mình,
những kỉ niệm mà mình tưởng khơng ai chia sẻ cùng. Ơng đánh giá “những
trang viết của Nguyễn Ngọc Tư là bữa ăn thịnh soạn, dọn bày chu đáo với
đặc sản miệt vườn, với những vật liệu hảo hạng, tươi sống” [11,1].
Có thể thấy, ấn tượng mà Nguyễn Ngọc Tư để lại trong độc giả là một
nhà văn có “bút pháp giản dị, gọn ghẽ, đầy ắp âm sắc Nam Bộ”. Nhưng
nhiều người bắt đầu sốt ruột về Nguyễn Ngọc Tư khi nghĩ rằng chị đang
bằng lòng với những vinh quang chị đã có: “Đọc mãi, thấy lo lo, hình như
tác giả viết bắt đầu trơn tay, ít thể nghiệm. Có cảm giác Nguyễn Ngọc Tư

đang quá thảnh thơi trên con đường mà dư luận nhiều ưu ái đã phát quang
cho, sự kỳ vọng bắt đầu trở thành sự sốt ruột, kiên nhẫn” [21,1]. Giáo sư
kinh tế Trần Hữu Dũng trong bài viết: Nguyễn Ngọc Tư, “đặc sản” miền
Nam, cũng có những nhận xét tương tự: “Phần nào, sự chuyên biệt của
Nguyễn Ngọc Tư vào những truyện loại này, có thể làm người đọc lo ngại.
Chẳng lẽ nghiệp văn của cô sẽ khoanh trong thể loại những mối tình khơng
trọn, những kí sự đồng quê? Quả là Nguyễn Ngọc Tư có tài thiên phú, cơ
viết rất nhiều (trong vịng 3 năm đã ra bốn tập truyện ngắn). Nhưng cái
đáng lo là ở chỗ đó. Người đọc bắt đầu thấy quá quen thuộc với truyện của
cô. Chúng na ná như nhau…Sự quanh quẩn trong những khơng gian, hồn
cảnh quen thuộc có thể là cái chớp đèn vàng (nhưng chưa đỏ) trên con
đường văn chương của Nguyễn Ngọc Tư” [11,3].
Tháng 8 năm 2005, truyện Cánh đồng bất tận đã ra mắt bạn đọc. Một
Nguyễn Ngọc Tư rất mới khuấy động đời sống văn học, những nhận định

Vũ Thị Hải Yến

6

Luận văn Thạc sĩ


Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư

trái chiều về chị được đăng trên các báo tạo thành một “hiện tượng văn học”
đáng chú ý của năm 2005. Đã có nhiều ý kiến, đánh giá và những bài báo tỏ
ra khơng có cảm tình thậm chí phê phán gay gắt về tác phẩm. Ban tuyên
giáo Tỉnh Ủy Cà Mau yêu cầu kiểm điểm nhà văn Nguyễn Ngọc Tư. Thạc
sĩ Vưu Nghị Lực, phó giám đốc sở văn hóa - thể thao tỉnh Cà Mau viết bài
đăng trên báo Tuổi trẻ với tiêu đề Có một vũng lầy bất tận. Trong đó ơng đã

lên án gay gắt: “ “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư là ở đâu vậy;
một cánh đồng bệnh hoạn về nhân cách; tồn tại không kỉ, không cương,
không pháp luật” [4, 22]. Trên báo Tuổi trẻ, Đỗ Hồng Ngọc đã nhận xét:
“Tôi như cảm thông sâu sắc với người cha của Nguyễn Ngọc Tư khi ơng
đọc bản thảo của con mình đã im lặng…Nguyễn Ngọc Tư của ơng đã là một
cơn gió mát rượi của đất phương Nam bỗng trở thành cơn lốc xoáy lên,
chướng lên trên cánh đồng bất tận thì ơng đành phải im lặng và giấu sau đó
một tiếng thở dài. Tiếng thở dài rất nhẹ mà tôi ngờ rằng một người rất nhạy
cảm như Nguyễn Ngọc Tư cũng có thể sẽ khơng nghe thấy, nhưng đó sẽ là
tiếng thở dài bất tận nếu Nguyễn Ngọc Tư tiếp tục thổi phồng lên, tiếp tục
khai thác, tiếp tục tô đậm phần con, phần cái ác cái xấu…” [22,1].
Tuy nhiên, đã có nhiều ý kiến đánh giá của các nhà phê bình, các nhà
văn lên tiếng ủng hộ Cánh đồng bất tận và Nguyễn Ngọc Tư.
Đoàn Ánh Dương khẳng định: “đến truyện ngắn “Cánh đồng bất tận”
trong tập truyện cùng tên, người đọc thực sự ngỡ ngàng trước sự bứt phá
của tác giả. Tác phẩm kết thúc một bước quá độ dài để khẳng định sự
trưởng thành của ngòi bút Nguyễn Ngọc Tư, đồng thời cũng là một tín hiệu
đáng mừng cho đời sống văn học đương đại” [10,1].
Phạm Xuân Nguyên thì nhận thấy: “ “Cánh đồng bất tận” đã chia đoạn
sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư thành những truyện trước và sau nó” [23,1].

Vũ Thị Hải Yến

7

Luận văn Thạc sĩ


Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư


Nhà văn Hữu Thỉnh - chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam nhận xét: “đây là
một tác phẩm văn chương, không phải là một bút kí hay phóng sự. Tác giả
hồn tồn có quyền hư cấu hay sáng tạo nhằm chuyển tải tốt nhất thông
điệp nghệ thuật đến người đọc” [4,57].
Nhà văn Dạ Ngân đã phát biểu trên báo Văn Nghệ: “theo tơi chúng ta
đáng lẽ phải mừng vì ở tận cùng đất nước, ở miền đất xa xơi ấy, có một cây
bút nữ như Nguyễn Ngọc Tư. Tôi luôn cho rằng văn học Nam Bộ mà có
thêm Nguyễn Ngọc Tư là cao thêm mấy tấc nữa rồi”. Và “tôi tin Nguyễn
Ngọc Tư có bản lĩnh. Khơng thể so sánh một tác phẩm văn học với hiện
thực đời sống một cách máy móc…nhà văn nào cũng phải chịu xây xước để
khẳng định mình” [4, 27].
Những khó khăn, vấp váp trên con đường văn chương đối với một người
trẻ tuổi như Nguyễn Ngọc Tư là khó tránh khỏi. Đáp lại những nhận xét,
đánh giá, Nguyễn Ngọc Tư vẫn tiếp tục trau dồi và khơng ngừng sáng tác.
Khi Gió lẻ và chín câu chuyện khác ra đời, cũng có nhiều cảm nhận về
tập truyện mang nhiều nét mới trong cách kể, ngôn ngữ,... Phạm Xuân
Nguyên trên báo Tuổi trẻ nhận thấy: “Truyện hứa hẹn là một đột phá mới
của người viết. Nhưng “Gió lẻ” chưa được đến độ như mong đợi”.
Sau này, khi Khói trời lộng lẫy ra mắt bạn đọc, Phạm Xuân Nguyên
cũng khẳng định: “Sách mỏng mà hay như thế này ngày nay cực hiếm”.
Đúng là, mỏng manh, nhẹ nhàng như khói nhưng vẫn có thể gây cay mắt và
chống ngợp.
Hiện nay, Nguyễn Ngọc Tư vẫn đang sung sức trên con đường văn
chương và những nhận xét, đánh giá về chị cũng rất sơi động. Đó là những
gợi ý sâu sắc cho chúng tơi trong q trình thực hiện luận văn này.

Vũ Thị Hải Yến

8


Luận văn Thạc sĩ


Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư

2.2 Lịch sử nghiên cứu nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn
Ngọc Tư
Đến với văn học bằng những truyện ngắn giản dị mà sâu sắc, Nguyễn
Ngọc Tư nhanh chóng tìm được chỗ đứng trong nền văn học hiện đại và
trong lịng độc giả. Những bài nghiên cứu, phê bình hoặc những cảm nhận
ban đầu về truyện ngắn của chị xuất hiện ngày càng nhiều. Hiện có nhiều
bài viết in trên các báo và tạp chí của các nhà nghiên cứu tìm hiểu sáng tác
của chị dưới góc nhìn Trần thuật học về cốt truyện, nhân vật, kết cấu,
giọng điệu, ngôn ngữ,…. Chúng tôi xin điểm qua một số bài viết và những
nhận xét tiêu biểu
Giáo sư kinh tế Trần Hữu Dũng - người đặc biệt quan tâm đến các sáng
tác của Nguyễn Ngọc Tư có nhận xét: “Trong cách lựa chọn tình tiết, cốt
truyện, Nguyễn Ngọc Tư “trung thành” với cái tình tự Nam Bộ của q
hương cơ. Chỉ những người sống và lớn lên ở địa phương, thật sự mến u
họ hàng, làng xóm của mình, mới thể hiện tình tự với quê hương mình được
như thế. Và bởi ở đâu cũng có cái đặc thù, chính tính đặc thù lại là độc đáo
nhất. Sự cá biệt của phương ngữ, khi được sử dụng để diễn đạt những tình
tự của cuộc sống con người, có khả năng vạch ra cái chung của cái riêng”
[11,2].
Khi viết bài “Sức lôi cuốn của ngịi bút Nguyễn Ngọc Tư”, Phan Q
Bích nhận định: “Nhiều người viết truyện ngắn thường cố tìm ra những cốt
truyện li kỳ, những sự kiện mà người ta hay gọi là đắt giá. Không phải
trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư khơng có những chân dung lạ, những sự
kiện ít gặp trong cuộc sống của chúng ta vì hình như bức tranh khơng có
chút gì đặc biệt thì nó khó thành bức tranh của truyện ngắn. Nhưng những

câu chuyện như thế khơng nhiều. Thường thì Nguyễn Ngọc Tư cho ta biết
những cái “tin” giản dị: một cô gái sửa soạn đồ mang theo trong ngày

Vũ Thị Hải Yến

9

Luận văn Thạc sĩ


Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư

cưới, một anh bạn trẻ thấy nhớ ơng già hàng xóm đã đi xa. Những cái tin
như thế không cần đến những cốt truyện li kỳ, những biến cố giật gân, mà
chỉ như sự thơng báo về những gì diễn ra quanh ta với những con người mà
ta có thể bắt gặp thường ngày mà thơi. Tuy vậy, nó vẫn là “tin”, vẫn đáng
chú ý vì có một cái gì đó khiến ta phải suy nghĩ, phải chiêm nghiệm. Và đây
mới là điều đáng nói” [8, 1]. Đồng thời, nhà nghiên cứu cũng nhận thấy:
“Nguyễn Ngọc Tư thường kể cho ta nghe những chuyện buồn, rất buồn.
Những cảnh đời éo le, những thân phận đau đớn” [8, 2].
Về nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, Trần Phỏng Diều có
những nhận xét rất tinh tế: “Mặc dù phần lớn người nông dân Nam Bộ
trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư đều nghèo, đều có một số phận long
đong, vất vả, nhưng trên hết, họ sống với nhau bằng cái tình, bằng sự yêu
thương và đùm bọc lẫn nhau…Nguyễn Ngọc Tư quả có cái nhìn sâu sắc,
tinh tế, có khả năng phát hiện ra những ngõ sâu trong tâm hồn những người
nông dân Nam Bộ, những niềm vui, nỗi buồn, cốt cách đặc trưng cũng như
bản chất cố hữu của họ” [9, 4].
Nhà phê bình Văn Cơng Hùng đã khẳng định: “Cái làm nên Nguyễn
Ngọc Tư cịn là ngơn ngữ. Nguyễn Ngọc Tư đã thiết lập cho riêng mình một

hệ thống ngơn ngữ đậm chất Nam Bộ nhưng không dị mọ ăn theo mà tung
tẩy, thăng hoa theo từng ngữ cảnh cụ thể” [17, 1].
Đoàn Ánh Dương trong bài viết “Cánh đồng bất tận nhìn từ mơ hình tự
sự và ngơn ngữ trần thuật” nhận xét: “Tác giả đã lồng ghép hai hệ thống tự
sự với ba mơ hình cốt truyện trong “Cánh đồng bất tận”. Trực diện với tác
phẩm, cốt truyện sự kiện đã ít nhiều bị phân rã và cốt truyện tâm lí đã có
phần lấn lướt. Truyện như một bức tranh ghép mảnh những mảng kí ức
chắp nối, đứt đoạn của nhân vật. Ở đó, nhân vật tan chảy thành dòng xúc
cảm hỗn độn giữa quá khứ và hiện tại, tâm cảnh và ngoại cảnh mà một sự

Vũ Thị Hải Yến

10

Luận văn Thạc sĩ


Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư

phục dựng đầy đủ chỉ có được khi người đọc đã lật đến trang cuối cùng.
Điều này đem đến cho người đọc cái hứng thú được thể nghiệm “một hiện
thực chưa hoàn kết”, được cùng theo đuổi và trải nghiệm với nhân vật, tức
là gia tăng sự tham gia của người đọc vào câu chuyện. Đó là khuynh hướng
tự sự giàu tính hiện đại” [10, 2]. Đồng thời ơng cịn chú ý đến giọng điệu và
người kể chuyện: “Để có một giọng văn chân thật, một mặt như đã nói, tác
giả rời chuyển ngôi kể từ người kể chuyện sang nhân vật chính, cho nhân
vật “nói” bằng ngơn ngữ cảm xúc, suy tưởng, mặt khác, đẩy ngôn ngữ đối
thoại, ngôn ngữ của nhân vật khác lọc qua lăng kính tâm lý của nhân vật
chính, đưa nó vào trường cảm nhận của nhân vật chính” [10, 3].
Phạm Phú Phong trong bài Lời đề từ trong Truyện ngắn Nguyễn Ngọc

Tư nhận xét: “Lời đề từ có thể là một danh ngơn, một đoạn trích từ kinh
Phật, một câu hát dân gian, hoặc đơi khi chỉ là một ý nghĩ bâng quơ, nêu
một sở thích ngộ nghĩnh, hoặc một đoạn tự sự tồn tại song song với
truyện…nhưng tất cả đều có thể vận vào, đều thể hiện chiều sâu của tư
tưởng, là một phần bổ sung không thể thiếu cho văn bản tác phẩm…” [25].
Ở cuối bài viết tác giả khẳng định: “Những gì hiện ra trên văn bản, trên
ngôn từ mà ta thường gọi là hiển ngôn hữu hạn hơn rất nhiều so với sự hàm
ngơn, ở tầng sâu hơn, chị có khả năng mở ra những ngóc ngách tận đáy
tâm hồn của con người, trong sự đồng hiện, đồng cảm giữa người đọc và
thế giới nhân vật. Một trong những thủ pháp nghệ thuật tạo cho chị thành
cơng, đó chính là việc sử dụng nhuần nhuyễn các lời đề từ” [25].
Có thể nói, những ý kiến, nhận định về truyện ngắn của cây bút trẻ
Nguyễn Ngọc Tư đều có những phát hiện sâu sắc về nét riêng trong cách kể
chuyện, hành văn của chị. Điều đó góp phần làm cho các sáng tác của chị
ngày càng được độc giả đón nhận nồng nhiệt.

Vũ Thị Hải Yến

11

Luận văn Thạc sĩ


Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư

Hiện cũng đã có một số luận văn thạc sĩ, khóa luận tốt nghiệp đề cập
đến một vài khía cạnh của nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn
Ngọc Tư như:
Khám phá thế giới nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, Khóa
luận tốt nghiệp của Vũ Thị Thu Hà, Đại học KHXH & NV Hà Nội, năm

2006.
Tiếp cận sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư và Đỗ Bích Thúy từ phương
diện giá trị văn học - văn hóa, Luận văn thạc sĩ của Dương Thị Kim Thoa,
Đại học KHXH & NV Hà Nội, năm 2008.
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư, Khóa
luận tốt nghiệp của Lương Thúy Hà, Đại học KHXH & NV Hà Nội, năm
2009.
Tuy nhiên, hiện vẫn chưa có một cơng trình nào nghiên cứu sâu và có
hệ thống về nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư. Trên
tinh thần kế thừa những thành tựu nghiên cứu của người đi trước chúng tôi
tiếp tục đi sâu nghiên cứu một cách tồn diện, có hệ thống về nghệ thuật
trần thuật trong truyện ngắn của chị; hi vọng sẽ góp tiếng nói của mình vào
việc khẳng định tài năng, cũng như những đóng góp của Nguyễn Ngọc Tư
với thể loại truyện ngắn nói riêng và với nền văn học đương đại nói chung.
3. Đối tượng, phạm vi và mục đích nghiên cứu
Trong phạm vi luận văn này, chúng tôi khảo sát các tập truyện ngắn sau
của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư:
- Ngọn đèn không tắt (Tập truyện ngắn , NXB Trẻ, 2000).
- Ông ngoại (Tập truyện, NXB Kim Đồng, 2001).
- Biển người mênh mông (Tập truyện, NXB Trẻ, 2003).
- Giao thừa (Tập truyện, NXB Trẻ, 2003).

Vũ Thị Hải Yến

12

Luận văn Thạc sĩ


Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư


- Nước chảy mây trơi (Tập truyện và kí, NXB Văn nghệ
TPHCM, 2004).
- Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư (Tập truyện, NXB Văn hóa
Sài Gịn, 2005).
- Cánh đồng bất tận (Tập truyện, NXB Trẻ, 2005).
- Gió lẻ và 9 câu chuyện khác (Tập truyện, NXB Trẻ,
2008).
- Khói trời lộng lẫy (Tập truyện, NXB Thời đại, 2010).
Tìm hiểu nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn của một nhà văn trẻ
đang trên con đường kiếm tìm và định hình phong cách, chúng tơi hy vọng sẽ
góp phần làm nổi bật một số nét phong cách trong nghệ thuật viết truyện ngắn
của Nguyễn Ngọc Tư đồng thời cũng thấy được rõ hơn những đóng góp của
chị trong sự vận động của Văn học Việt Nam đương đại.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Để đạt được mục đích trên, chúng tôi sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau: Phương pháp phân tích tác phẩm; Phương pháp so sánh, đối
chiếu; Phương pháp phân loại, thống kê; Phương pháp hệ thống, tổng hợp.
5. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Luận văn được
triển khai phần nội dung thành 3 chương :
Chương 1: Người kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư.
Chương 2: Nghệ thuật tổ chức cốt truyện và kết cấu trong truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư.
Chương 3: Ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn
Ngọc Tư.

Vũ Thị Hải Yến

13


Luận văn Thạc sĩ


Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NGƯỜI KỂ CHUYỆN TRONG TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN NGỌC TƯ

1.1 Giới thuyết về người kể chuyện trong tác phẩm tự sự
1.1.1 Khái niệm người kể chuyện
Tz.Todorov đã khẳng định: “Người kể chuyện là yếu tố tích cực trong
việc kiến tạo thế giới tưởng tượng…Khơng thể có trần thuật thiếu người kể
chuyện. Người kể chuyện khơng nói như các nhân vật tham thoại khác mà kể
chuyện. Như vậy, kết hợp đồng thời trong mình cả nhân vật và người kể, nhân
vật mà nhân danh nó cuốn sách được kể có một vị trí hồn tồn đặc biệt…”.
Vấn đề người kể chuyện là một trong những vấn đề trung tâm của thi pháp
văn xi hiện đại. Tìm hiểu người kể chuyện sẽ giúp ta hiểu được phương
diện chủ thể của tác phẩm tự sự, sẽ hiểu tác phẩm một cách sâu sắc, trọn vẹn
hơn. Trong tác phẩm trữ tình và trong kịch không cần sự xuất hiện của người
kể chuyện nhưng trong tác phẩm tự sự người kể chuyện lại đóng một vai trò
hết sức quan trọng. Người kể chuyện được xây dựng để phát ngôn cho ý đồ
nghệ thuật của nhà văn. Người kể chuyện chính là loại người mơi giới giữa
các hiện tượng được miêu tả và người tiếp nhận tác phẩm, là người chứng
kiến, cắt nghĩa của sự việc xảy ra còn nhà văn giống như người “chép hộ” lời
lẽ của người kể chuyện do mình tạo ra, “chỉ như người ghi, người sao lục lời
kể hoặc là người nghe trộm người kể”. Cho nên không thể đồng nhất tác giả
với người kể chuyện bởi khi đó tác giả đã hóa thân vào hình tượng tác giả
trong tác phẩm, xuất hiện như cái tôi thứ hai, trung tâm giá trị trong tác phẩm.

Người kể chuyện do nhà văn sáng tạo ra và phụ thuộc chặt chẽ vào tác giả
nhưng nó vẫn có những chức năng nhất định như can thiệp vào việc kể
chuyện, kể nhanh, chậm, mách bảo, phân tích miêu tả hay chỉ điểm cho người

Vũ Thị Hải Yến

14

Luận văn Thạc sĩ


Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư

đọc…Vì vậy mà người kể chuyện khơng chỉ có mối liên hệ gắn bó với tác giả
mà cịn với bản thân câu chuyện kể và người tiếp nhận nó.
Trong tác phẩm tự sự, nhà văn trình bày, tái hiện một cách sáng tạo thế
giới hiện thực thông qua lời kể, lời miêu tả,…của một người trần thuật nào
đó. Người kể chuyện là sản phẩm của quá trình hư cấu của nhà văn, nó khác
với người kể chuyện thực tế trong đời sống. Khi nhà văn lựa chọn dạng thức
xuất hiện của người kể chuyện trong tác phẩm tự sự cũng là cách để nhà văn
thể hiện ý đồ sáng tác. Có nhiều cách phân loại người kể chuyện. Nếu căn cứ
vào vị trí của người kể chuyện trong tác phẩm, ta có: người kể chuyện ở ngơi
thứ nhất, ngơi thứ ba, cá biệt có trường hợp người kể chuyện vừa ở ngôi thứ
nhất vừa ở ngôi thứ ba (Linh Sơn – Cao Hành Kiện). Người kể chuyện ở ngôi
thứ nhất kể về câu chuyện mình chứng kiến hay câu chuyện của bản thân
mình nên khoảng cách giữa người kể với câu chuyện được kể bị triệt tiêu
(Lão Hạc – Nam Cao, Sợi tóc - Thạch Lam, Chiếc thuyền ngồi xa – Nguyễn
Minh Châu). Tham dự vào truyện như một nhân vật, người kể chuyện đứng ở
vị trí bên trong như một chủ thể, được tự do quan sát bàn luận, có điều kiện đi
sâu tìm hiểu, khám phá thế giới hiện thực trong tác phẩm. Lời kể bộc lộ tính

chất chủ quan và sắc thái cảm xúc cao độ. Người kể chuyện ở ngơi này có thể
mang quan điểm của tác giả nhưng khơng phải lúc nào cũng trùng khít với tác
giả. Người kể chuyện ở ngôi thứ ba phổ biến hơn, là hình thức kể khi người
kể chưa được ý thức (như trong truyện thần thoại, truyện cổ tích,…) hoặc là
đã được ý thức nhưng cố ý giấu mình (như trong truyện ngắn, tiểu thuyết hiện
đại). Ngôi kể này làm cho câu chuyện hoàn toàn khách quan, người kể chuyện
vốn có tài “hiểu biết hết” mọi chuyện. Nếu căn cứ vào vai trị của người kể
chuyện, sẽ có hai loại: Người kể chuyện không đáng tin cậy, không biết hết và
người kể chuyện đáng tin cậy

Vũ Thị Hải Yến

15

Luận văn Thạc sĩ


Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư

Tuy nhiên, vấn đề người kể chuyện trong tác phẩm tự sự “cho đến nay, nó
vẫn là vấn đề địi hỏi phải tiếp tục xem xét và nghiên cứu” (Nguyễn Hải
Phong). Mặc dù vậy chúng ta không thể phủ nhận vai trò và chức năng của
người kể chuyện trong tác phẩm tự sự nói chung và trong truyện ngắn nói
riêng.
1.1.2 Vai trò, chức năng của người kể chuyện
Là một nhân vật đặc biệt trong tác phẩm tự sự, người kể chuyện là một
sản phẩm của sự sáng tạo nghệ thuật, một công cụ do nhà văn hư cấu nên để
kể chuyện. Việc tác giả lựa chọn kiểu người kể chuyện nào để kể hồn tồn
khơng phải là một sự ngẫu nhiên mà nó mang tính quan niệm, nhằm mục đích
chuyển tải tư tưởng, nội dung một cách hiệu quả nhất. Có thể khẳng định

trong truyện ngắn nói riêng cũng như trong tác phẩm tự sự nói chung người
kể chuyện có vai trò quan trọng trong việc tổ chức kết cấu tác phẩm. Viết
truyện, nhà văn thường xây dựng những kết cấu riêng. Người kể chuyện phải
thay mặt nhà văn cố gắng tìm cho mình một kết cấu tốt nhất để làm câu
chuyện hấp dẫn, lôi cuốn được người đọc. Với những cách kể chuyện khác
nhau, cách xuất hiện khác nhau của người kể chuyện, ta sẽ có các dạng cốt
truyện khác nhau: cốt truyện tuyến tính, cốt truyện tâm lý, cốt truyện “chuyện
lồng chuyện”…Có tác phẩm chỉ có một người kể chuyện và cũng chỉ kể một
câu chuyện (Đồng hào có ma - Nguyễn Cơng Hoan). Có tác phẩm chỉ có một
người kể chuyện nhưng kể nhiều câu chuyện khác nhau (Đất kinh kì - Nguyễn
Khải). Có tác phẩm trong đó nhiều người kể chuyện cùng kể về một câu
chuyện (Khách ở quê ra - Nguyễn Minh Châu). Cũng có tác phẩm trong đó
nhiều người kể chuyện kể nhiều chuyện khác nhau (Người đàn bà trên chuyến
tàu tốc hành - Nguyễn Minh Châu),…Có thể thấy, người kể chuyện có một
vai trị rất lớn trong việc tổ chức kết cấu tác phẩm. Timofiev đã từng khẳng
định: “Hình tượng này có tầm quan trọng hết sức to lớn trong việc xây dựng

Vũ Thị Hải Yến

16

Luận văn Thạc sĩ


Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư

tác phẩm bởi các quan niệm, các biến cố xảy ra, cách đánh giá các nhân vật
và các biến cố đều xuất phát từ cá nhân người kể” [44, 204].
Không chỉ góp phần tổ chức kết cấu tác phẩm, người kể chuyện cịn có
chức năng mơi giới, dẫn dắt người đọc tiếp cận thế giới nghệ thuật. Nhà văn

Gorki khẳng định: “Trong tiểu thuyết, trong truyện ngắn, những con người
được tác giả thể hiện đều hành động với sự giúp đỡ của tác giả; tác giả luôn
bên cạnh họ, tác giả mách cho người đọc hiểu rõ cần phải hiểu như thế nào,
giải thích cho người đọc hiểu những ý nghĩa thầm kín, những động cơ bí ẩn ở
phía sau những hành động của các nhân vật được miêu tả”. “Tác giả” mà
Gorki nói tới chính là người kể chuyện, bởi trong tác phẩm người kể chuyện
thay mặt tác giả dẫn dắt người đọc thâm nhập vào thế giới nghệ thuật. Người
kể chuyện sẽ gợi mở, giúp người đọc tiếp cận với nhân vật, hiểu được những
động cơ thầm kín trong những hành động của nhân vật, rút ngắn khoảng cách
giữa nhân vật với mình. Khơng chỉ giúp người đọc hiểu rõ hơn, sâu hơn về
nhân vật mà người kể chuyện còn hướng người đọc cùng suy ngẫm, chia sẻ và
đồng cảm với những chiêm nghiệm, những suy nghĩ của mình về cuộc đời.
Nhiều khi, người kể chuyện còn đối thoại, tranh luận với người đọc để cùng
nhau khám phá, kiếm tìm những chân lý của cuộc sống.
Mang tiếng nói, quan điểm của tác giả, người kể chuyện thay mặt nhà
văn trình bày những quan điểm về cuộc sống, nghệ thuật. Mỗi tác phẩm nghệ
thuật là một đứa con tinh thần của nhà văn và thơng qua tác phẩm nhà văn
trình bày một cách nghệ thuật những quan niệm của mình.
Qua sự phân tích trên, ta có thể thấy vai trị đặc biệt quan trọng của
người kể chuyện trong tác phẩm tự sự để từ đó giúp chúng ta đánh giá, phân
tích tác phẩm sâu hơn, trọn vẹn hơn. Khảo sát các tập truyện ngắn của
Nguyễn Ngọc Tư, có thể thấy nhà văn đã sử dụng tất cả các dạng thức xuất

Vũ Thị Hải Yến

17

Luận văn Thạc sĩ



Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư

hiện của người kể chuyện tạo nên nét duyên, cái tạng riêng cho mỗi trang văn
của chị.
1.1.3 Người kể chuyện chi phối điểm nhìn trần thuật trong tác phẩm tự sự
Văn học là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Nhà văn muốn
phản ánh được thế giới ấy thì phải chọn cho mình một chỗ đứng, một điểm
nhìn để từ đó quan sát, chiêm nghiệm. Marcel Proust cho rằng vấn đề quan
trọng nhất của phong cách là điểm nhìn. Điểm nhìn chi phối cảm hứng sáng
tác và bộc lộ cá tính sáng tạo của nhà văn. Chọn được điểm nhìn thích hợp
nhà văn sẽ tạo được cho mình một ấn tượng riêng, độc đáo trong từng trang
viết, làm nên phong cách không thể trộn lẫn với ai. Theo GS. Trần Đình Sử
thì “trước đây người ta thường chú ý tới “ngôi” trần thuật, nhưng đó chỉ là
một biểu hiện ngữ pháp, nội hàm vấn đề chỉ gắn với điểm nhìn mới được xem
xét tồn diện”. Khi trần thuật thì bất kì một người kể chuyện nào cũng phải
xác định cho mình một điểm nhìn để tái hiện đời sống, nó giống như “ mở
một con đường đi vào rừng rậm” vậy. Điểm nhìn là “cái vị trí dùng để quan
sát, cảm nhận, đánh giá, bao gồm cả khoảng cách giữa chủ thể và khách thể,
cả phương diện vật lí, tâm lí, văn hóa” [42, 149].
Bản chất của khái niệm điểm nhìn là sự phản ánh mối quan hệ giữa chủ
thể ngôn từ tức là người kể chuyện và khách thể ngôn từ là đối tượng được kể
lại. Điểm nhìn trần thuật gắn bó mật thiết với ngơi kể. Điểm nhìn thể hiện vị
trí người kể dựa vào điểm quan sát trần thuật các nhân vật và sự kiện. Người

ta phân chia thành nhiều loại điểm nhìn trần thuật: điểm nhìn bên trong, điểm
nhìn bên ngồi, điểm nhìn khơng gian - thời gian, điểm nhìn di động. Điểm
nhìn bên trong là kể xuyên qua cảm nhận của nhân vật. Điểm nhìn bên trong
được “biểu hiện bằng hình thức tự quan sát của nhân vật “tơi”, bằng sự thú
nhận, hoặc bằng hình thức người trần thuật tựa vào giác quan, tâm hồn nhân
vật để biểu hiện cảm nhận về thế giới”. Điểm nhìn bên ngồi là điểm nhìn mà

Vũ Thị Hải Yến

18

Luận văn Thạc sĩ


Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư

người kể miêu tả sự vật từ phía bên ngồi nhân vật, kể những điều nhân vật
khơng biết. Điểm nhìn khơng gian là nhìn xa hay cận cảnh, điểm nhìn thời
gian là nhìn từ thời điểm hiện tại như sự việc đang diễn ra hay nhìn lại q
khứ, kí ức. Điểm nhìn di động là sự di chuyển điểm nhìn từ đối tượng này
sang đối tượng khác. Vận dụng linh hoạt các điểm nhìn trần thuật sẽ góp phần
tạo nên tính sinh động, hấp dẫn cho tác phẩm văn học bởi tác phẩm văn học
chính là tấm gương phản chiếu đời sống. Sự đa dạng về điểm nhìn có thể phản
ánh được hiện thực đời sống ở nhiều góc cạnh đa dạng nhất.
Tìm hiểu Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
chúng tôi nhận thấy các sáng tác của chị có sức hấp dẫn ở cách xây dựng nhân
vật người kể chuyện kết hợp với hệ thống điểm nhìn trần thuật vừa linh hoạt
vừa độc đáo.
1.2 Ngôi kể và điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
1.2.1 Người kể chuyện lộ diện trực tiếp ở ngôi thứ nhất với điểm nhìn bên

trong
Điểm nhìn bên trong giúp người kể chuyện dẫn người đọc vào trạng
thái tâm tình, khiến họ có cảm giác thấy cuộc sống qua tâm hồn người trong
cuộc, nên những gì họ thẩm thấu được đều đáng tin, đáng nhớ. Từ điểm nhìn
của một nhân vật trong câu chuyện những điều được kể mang đậm tính chủ
quan, những sự việc biến cố dần dần được hiện lên qua những gì nhân vật
cảm thấy, nhận thấy rồi suy ngẫm và bộc lộ thái độ. Với điểm nhìn này người
kể chuyện dễ dàng tái hiện các quá trình trong tâm hồn nhân vật. Ở đó người
kể chuyện đồng thời cũng là nhân vật chính, xưng “tơi”, vừa là chủ thể diễn
ngôn, vừa là chủ thể hành động trong câu chuyện. Để có thể diễn tả được tất
cả các ngõ ngách của đời sống và nội tâm con người của vùng đất Nam Bộ
máu thịt, Nguyễn Ngọc Tư đã chọn cho người kể chuyện kể lại câu chuyện từ
điểm nhìn bên trong.

Vũ Thị Hải Yến

19

Luận văn Thạc sĩ


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư


1.2.1.1 Cái tôi tự kể về mình
Một số truyện của Nguyễn Ngọc Tư có người kể chuyện ở ngơi thứ
nhất, kể về chính câu chuyện của bản thân mình. Là cái “tơi” tự kể về mình
nên câu chuyện thường được kể theo sự vận động của nội tâm, dòng chảy của
tâm lý nhân vật: Ngổn ngang, Nhà cổ, Một mối tình, Cánh đồng bất tận, Khói
trời lộng lẫy, Của ngày đã mất, Thổ Sầu, Khói trời lộng lẫy,…
Của ngày đã mất, người kể chuyện xưng “tôi” để giãi bày những trạng
thái yêu thương, dằn vặt, đau khổ,…của mình trước mối tình “so le” về tuổi
tác: “Khi ấy tơi đã sáu mươi chín tuổi. Em mới hai mươi hai”. “Tơi” ý thức
rất rõ sự chênh lệch đó: “Tơi khơng bao giờ muốn nhớ điều đó, nhưng đơi
kính lão, dáng người héo như chỉ là da bọc lấy những đốt xương rời, mái tóc
đã ngả màu bơng lau chín…tất cả những gì đã thuộc về tơi đều nhắc nhở, tôi
đã quá già”. Trong chuyến đi khảo cứu dân ca, nhân vật “tôi” - người thầy, đã
từ chối thẳng sẽ không cho cô sinh viên trẻ, mà thầy biết là rất u mình đi
theo. Nhưng cơ vẫn đi. Và trong chuyến đi ấy, biết bao cảm xúc của nhân vật
bùng nổ. Đó là những cảm xúc của con người đầy trải nghiệm nên càng sâu
sắc, càng đớn đau. Trước sự hồn nhiên, trẻ trung của “em”, “tơi” thấy mình
thật già nua: “Nhiều lần đầu em dục dặc mất điểm tựa, tơi đã lén kéo vào
mình, nhưng bàng hồng nhận ra vai tơi đã cứng kho…Cái cảm giác mình
đang khơ đi khiến tơi rã rời, hầu như khơng có một cơn rạo rực nào khiến tơi
có thể ơm lấy em”. Nhưng nhiều khi giữa những dằn vặt đầy đau khổ ấy nhân
vật cũng có những cảm xúc rất thật trước tình cảm mãnh liệt của cơ sinh viên
trẻ: “Cái cảm giác chỉ có em và tơi và cây cỏ dại trên đồng làm tơi thấy dễ
chịu. Thậm chí tơi chủ động nắm tay em, và bàn tay nhỏ nhắn đó thống lạnh
đi vì bất ngờ”. Nhưng đó chỉ là những phút giây ngắn ngủi, ngay khi gặp
người khác, ngay khi có thể nhìn thấy hình bóng mình ở đâu đó thì sự già nua
hiện hình rất rõ, nên nhân vật càng thấy thấm thía nỗi đau hơn: “Nhưng tơi đã

Vũ Thị Hải Yến


20

Luận văn Thạc sĩ


Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư

không giữ tay em được lâu, vì khi rình bắt con chuồn chuồn gần cái ao nhỏ
sắp cạn nước bên bờ ruộng, tơi đã thấy lại mái tóc trắng xóa của mình…vì chỉ
cần chút nữa, gặp người đời, tơi sẽ thấy lại tuổi sáu mươi chín của mình trong
mắt họ”. Hạnh phúc thống qua, cịn lại là những dằn vặt, đau đớn khi nhận ra
thực tại khiến nhân vật “gần như khơng dám nhìn vào cái cười trong trẻo đó
vì sợ mình sẽ nhớ lâu”. Và cho đến kết thúc truyện vẫn là sự trăn trở, nỗi đau
của một người từng trải, hiểu sâu sắc cuộc đời này: “May quá, mai kia khi trút
hơi thở cuối cùng, tôi chẳng phải nặng lo cho em, lúc đó ngồi cạnh tơi với
gương mặt ướt”. Những cảm xúc thật đó trải ra từng trang giấy khiến người
đọc có cảm giác như đang trực tiếp nghe nhân vật giãi bày.
Cũng giống như nhà văn Thạch Lam, các truyện ngắn của Nguyễn
Ngọc Tư khơng mang tính chất tự thuật về cuộc đời mà chỉ kể về những trải
nghiệm tâm lý của con người. Với tư cách là kẻ trong cuộc, hình thức cái
“tơi” trải nghiệm của người kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư đã
mang tính thuyết phục người đọc rất cao ở sự chân thực của cảm xúc.
Truyện Cánh đồng bất tận là những khúc xạ tâm lý và suy nghĩ của
một cô gái mới lớn sống cơ cực từ nhỏ. Câu chuyện thương tâm của gia đình
và cả những mất mát của bản thân cô được kể một cách chân thực. Không
rành rọt thời gian, hiện tại và quá khứ đan xen, người đọc nương theo những
cảm nhận và suy nghĩ của nhân vật sẽ thấy những cảnh đời, những con người
bất hạnh, những ngang trái ở đời. Có thể nói, tồn truyện là chuỗi tâm trạng,
những hồi ức, kỉ niệm đau đớn của nhân vật Nương về những gì cơ phải trải
qua và chứng kiến.

Kể theo dòng chảy nội tâm của nhân vật nên các sự kiện đứt nối, không
liền mạch. Đang từ cảnh sống trong hiện tại trên cánh đồng không có tên, chị
em Nương đã cứu cơ gái điếm, lại quay về kí ức ngày bà mẹ bỏ đi, rồi trở về
cuộc sống hiện tại, kí ức lại hiện về với những cuộc tình của người cha, sự bất

Vũ Thị Hải Yến

21

Luận văn Thạc sĩ


×