Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Nghiên cứu tác dụng hạ đường huyết và mỡ máu của dịch chiết cây sắn thuyền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 90 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC T NHIấN
KHOA SINH HọC

---------------------------

NGÔ THị QUỳNH

NGHIÊN CứU TáC DụNG Hạ ĐƯờng huyết
và mỡ màu của dịch chiết cây sắn thuyền
(Syzygium polyamthum (Wight)Walp)

Chuyên ngành: Sinh học Thực nghiệm
Mã số: 60 42 30

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

Hà Nội - 2012


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC T NHIấN
KHOA SINH HọC

---------------------------

NGÔ THị QUỳNH

NGHIÊN CứU TáC DụNG Hạ ĐƯờng huyết
và mỡ màu của dịch chiết cây sắn thuyền
(Syzygium polyamthum (Wight)Walp)



Chuyên ngành: Sinh học Thực nghiệm
Mã số: 60 42 30

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

Cán bộ hướng dẫn Khoa hc: GS. TS. Đỗ NGọC LIÊN

H Ni - 2012


Đặt vấn đề

1

Chương 1: Tổng quan

5

1. Các chất thứ cấp từ thực vật

5

1.1 Phân loại, cấu tạo hoá học và tính chất của các chất thứ cấp từ thực 5
vật

5

1.1.1 Nhóm các hợp chất terpen


6

1.1.2 Nhóm các hợp chất phenolic

9

1.1.3. Nhóm các hợp chât alkaloid

10

1.2.Tác dụng sinh học của các chất thứ cấp

10

1.2.1. Tác dụng chống oxy hoá

10

1.1.2. Tác dụng kháng sinh kháng khuẩn

10

1.2.3. Một số tác dụng khác

11

1.3. Các hợp chất thứ cấp và bệnh béo phì, ĐTĐ

11


1.3.1. Bệnh béo phì

20

1.3.2. Bệnh đái tháo đường(ĐTĐ).

23

1.3.3. Mối quan hệ giữa béo phì và ĐTĐ type 2
1.3.4. Tiêu chuẩn chẩn đốn ĐTĐ.

25

30

1.3.5. Tình hình nghiên cứu các hợp chất có hoạt tính sinh học chống béo
phì và đái tháo đường

30

1.4. Vài nét về cây sắn thuyền
1.4.1. Đặc điểm sinh học của cây sắn thuyền
1.4.3. Thành phần hóa học của cây sắn thuyền

30
30

1.4.4. Tính năng và cơng dụng của cây sắn thuyền
Chương 2: Đối tượng và phương pháp nghiên cứu


32

2.1.Đối tượng nghiên cứu

32

2.1.1. Mẫu thực vật


2.1.2. Mẫu động vật

32

2.2. Hố chất và dụng cụ thí nghiệm

32

2.3. Phương pháp nghiên cứu

32
32

2.3.1 Xử lý mẫu

32

2.3.2. Khảo sát sơ bộ thành phần hoá học của lá, vỏ cành sắn thuyền

33


2.3.3. Nghiên cứu tác dụng hạ đường huyết và chống béo phì của các phân

37

đoạn dịch chiết từ lá, vỏ cành sắn thuyền

38
39

2.3.4. Pha thuốc và hóa chất thí nghiệm
2.3.5. Tiến hành thí nghiệm
2.3.6. Tiến hành lấy mẫu thử nghiệm
2.3.7. Phương pháp xác định một số chỉ số hóa sinh trong máu chuột trước
và sau khi điều trị bằng bằng dịch chiết
2.3.8. Xác suất thống kê toán học xử lí số liệu
Chương 3: Kết quả và thảo luận
3.1. Quy trình chiết, tách các phân đoạn từ lá và vỏ cành sắn thuyền
3.2. Định tính sơ bộ thành phần phần hóa học của dịch chiết
3.3. Định lượng polyphenol tổng số trong các phân đoạn dịch chiết
3.4. Kết quả phân tích thành phần hợp chất tự nhiên trong lá và vỏ
cành sắn thuyền bằng sắc ký lớp mỏng
3.5. Kết quả thử độc tính cấp (LD50) theo đường uống
3.6. Kết quả tạo mơ hình chuột béo phì thực nghiệm.
3.6.1. Khối lượng chuột trung bình của các lơ chuột thí nghiệm
3.6.2 Một số chỉ số hóa sinh của các lơ chuột sau 38 ngày nuôi
3.7. Tác dụng của các phân đoạn dịch chiết lá và vỏ cành sắn thuyền
lên chuột béo phì thực nghiệm
3.7.1. Tác dụng của các phân đoạn dịch chiết lá và vỏ cành sắn thuyền lên



khối lượng cơ thể chuột
3.7.2. Nồng độ glucose (mmol/l) máu chuột béo phì sau điều trị
3.7.3 Nồng độ cholesterol (mmol/l) máu chuột
3.7.4. Nồng độ triglycerid (mmol/l) máu chuột
3.7. 5 Nồng độ HDLC (mmol/l) máu chuột
3.7.6 Nồng độ LDLC (mmol/l) máu chuột
3.8 Xây dựng mơ hình chuột ĐTĐ thực nghiệm
3.8.1 Nồng độ đường huyết của chuột béo phì sau khi tiêm ST
3.8.2 Kết quả thử dung nạp glucose bằng đường uống
3.8.3 Tác dụng của các phân đoạn dịch chiết lá và vỏ cành sắn thuyền lên
một số chỉ số glucose trong máu chuột ĐTĐ typ 2
3.8.4 Chỉ số GOT máu chuột…....................................................................................
3.8.5 Chỉ số GPT máu chuột……………………………………………………….
Kết luận và kiến nghị……………………………………………………...
Kết luận……………………………………………………………………………...
Kiến nghị ……………………………………………………………………………
Tài liệu tham khảo………………………………………………………………….
Phụ lục……………………………………………………………………………….


ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
“ Thế kỷ thứ 21 là thế kỷ của các Bệnh Nội tiết và Rối loạn chuyển
hoá”. Dự báo này của các chuyên gia y tế từ những năm chín mươi của thế
kỷ thứ 20 đã và đang trở thành hiện thực. Trong số các bệnh Nội tiết và Rối
loạn chuyển hóa có bệnh đái tháo đường (ĐTĐ) type 2 đã và đang là mối
quan tâm không chỉ của những người làm công tác y tế mà đã trở thành mối
quan tâm của toàn xã hội. Người ta đã chỉ ra rằng béo phì chính là yếu tố
nguy cơ gây ra nhiều bệnh về chuyển hoá nhưng đặc biệt là các bệnh ĐTĐ
type 2, tăng huyết áp, bệnh tim mạch, đột quỵ, sỏi mật, ung thư đường tiêu

hố...[1], [2].
Vậy béo phì là gì? Theo tổ chức Y tế thế giới(WHO) béo phì là tình
trạng tích luỹ mỡ q mức và khơng bình thường tại một vùng cơ thể hay
toàn thân đến mức rối loạn trao đổi chất, tim mạch… ảnh hưởng tới sức
khoẻ. Tổ chức Quốc tế theo dõi bệnh béo phì (International Obesity Tast
Force- IOTF) cho biết bệnh béo phì và các bệnh liên quan đang tăng lên với
tốc độ báo động. Hiện nay trên thế giới có khoảng 1,7 tỷ người thừa cân và
mắc bệnh béo phì [1], [54]. Ở Việt Nam theo điều tra mới nhất của Viện
Dinh dưõng (2007) [10] cho thấy tình trạng thừa cân, béo phì đang tăng
nhanh, trong đó béo phì ở người trưởng thành, từ 25 – 64 tuổi, lên tới 16,8%
Người ta ước tính chi phí cho điều trị chứa béo phì là rất tốn kém, tuy
nhiên nếu xét về mục đích dự phịng ĐTĐ type 2 thì cịn rẻ hơn nhiều. Ví dụ
như ở Hoa Kỳ, nếu năm 1997 chi phí cho điều trị bệnh ĐTĐ mất 98,2 tỷ đơ
la thì béo phì chỉ mất 47,6 tỷ đo la [1]. Vì vậy, việc điều trị béo phì là một
chiến lược tồn cầu nhằm ngăn chặn bệnh ĐTĐ type 2- một căn bệnh thế
kỷ- một đại dịch toàn cầu.


Đến nay, Y học hiện đại đã cho ra đời nhiều loại tân dược điều trị béo
phì như : Sibutramine, Orlistat, Metformin… Bên cạnh các thuốc có nguồn
gốc tổng hợp, các thuốc có nguồn gốc thảo dược cũng đang được quan tâm
và phát triển. Uỷ ban chuyên gia của WHO đã khuyến nghị nên phát triển và
sản xuất các thuốc có nguồn gốc thảo dược, bởi vì đây là nguồn ngun liệu
sẵn có, giá rẻ, dễ sử dụng, ít độc tính, ít tác dụng phụ, đồng thời tác dụng của
thuốc có hiệu quả hỗ trợ điều trị ĐTĐ lâu dài [18,42].
Việc nghiên cứu, khảo sát về thành phần hoá học và tácdụng dược lý
của các loại cây thuốc có giá trị của Việt Nam nhằm đặt cơ sở khoa học cho
việc sử dụng chúng một cách hợp lý, hiệu quả có tầm quan trọng đặc biệt.
Sắn thuyền (Syzygium resinosum Gagnep) là một cây thuốc trong các bài
thuốc dân gian với nhiều công dụng như dùng lá đắp vết thương và chỗ

sưng cho mau lành, dùng vỏ chữa tả lỵ, lá sắn thuyền tươi giã nát đắp chữa
vết thương chảy mủ dai dẳng, bỏng, vết mổ nhiễm trùng, gãy xương hở, hoại
tử…Theo Đỗ Tất Lợi [8] lá sắn thuyền giã nhỏ có tác dụng ức chế vi khuẩn
như một số thuốc kháng sinh thường dùng đối với Staphylacoccus aureus,
cũng như với Bacillus proteus.
Cho đến nay chưa có tài liệu nào nghiên cứu về khả năng chống béo phì
và ĐTĐ của các dịch chiết cây sắn thuyền.Chính vì những lý do đó, chúng
tôi quyết định chọn đề tài nghiên cứu ‘Nghiên cứu tác dụng hạ đường huyết
và mỡ máu của dịch chiết cây Sắn thuyền (Sizygium polyanthum (Wight)
Wamp).
2. Đối tượng và mục đích nghiên cứu
2.1.Đối tượng nghiên cứu
Lá và vỏ cây Sắn thuyền (Sizygium polyanthum (Wight) Wamp) được
thu hái vào tháng 3 năm 2010 tại xã Đại Lâm tỉnh Bắc Giang.


2.2 Mục đích nghiên cứu
2.2.1. Khảo sát sơ bộ thành phần hoá học của lá và vỏ cành Sắn thuyền
(Syzygium resinosum Gagnep).
2.2.2 Nghiên cứu tác dụng của dịch chiết các phân đoạn đến trọng lượng và
một số chỉ số hoá sinh của chuột béo phì thực nghiệm (BPTN).
2.2.3. Nghiên cứu tác dụng hạ Glucose huyết của một số phân đoạn dịch
chiết trên mơ hình chu ột béo phì ĐTĐ mơ ph ỏng type 2.
2.2.4. Nghiên cứu ảnh hưởng của các cao phân đoạn dịch chiết lá và vỏ cành
sắn thuyền lên các chỉ số enzym gan GOT và GPT trên mơ hình chuột ĐTĐ
type 2
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Chiết, tách các phân đoạn của lá, vỏ cành Sắn thuyền qua các dung mơi
hữu cơ.
3.2. Khảo sát thành phần hố học của lá, vỏ cành của Cây Sắn thuyền (định

tính, phân lập các hợp chất tự nhiên, định lượng polyphenol).
3.3. Thiết kế các mơ hình chuột BPTN, chuột ĐTĐ type 2.
3.4. Đánh giá tác dụng của các phân đoạn dịch chiết đến trọng lượng, một số
chỉ số lipid máu của chuột BPTN, nồng độ Glucose huyết và các chỉ số
enzym gan GOT và GPT trên mơ hình chuột ĐTĐ của chuột ĐTĐ type 2,
4.Phương pháp nghiên cứu
41. Phương pháp định tính thành phần hố học của lá, vỏ cành Sắn thuyền.
4.2. Phương pháp phân lập các hợp chất bằng kỹ thuật sắc ký lớp mỏng
4.3. Định lượng polyphenol tổng số theo phương pháp Folin – Ciocalteau.
4.4. Xây dựng mơ hình chuột thí nghiệm : chuột BPTN, chuột ĐTĐ type 2
4.5. Phương pháp định lượng một số chỉ số hoá sinh
4.6. Phương pháp xử lý thống kê


6. Những đóng ghóp mới của đề tài.
- Đưa ra quy trình chiết, tách các phân đoạn dịch chiết từ lá và vỏ cành
Sắn thuyền
- Phân lập một số hợp chất bằng sắc ký bản mỏng, định tính và định
lượng một số hợp chất tự nhiên từ lá và vỏ cành Sắn thuyền.
- Đánh giá được tác dụng của một số đoạn dịch chiết từ lá, vỏ cành cây
Sắn thuyền đến trọng lượng, một số chỉ số hoá sinh của chuột béo phì, ĐTĐ
thực nghiệm mơ phỏng type 2.


CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN
1. Các chất thứ cấp từ thực vật
1.1 Phân loại, cấu tạo hố học và tính chất của các chất thứ cấp từ thực vật
Chất thứ cấp từ thực vật là các sản phẩm của quá trình trao đổi chất được
sinh ra bởi thực vật. Chúng là các chất hoá học được tổng hợp và chuyển hoá từ
các chất trao đổi bậc nhất như acid amin, protein, acid nucleic, carbonhydrat, lipid

hoặc từ các sản phẩm trung gian của chu trình đường phân, chu trình Krebs…
Khác với các chất trao đổi bậc nhất, giữ một vai trò trung tâm và tham gia
trực tiếp vào quá trình trao đổi chất của cơ thể, các chất thứ cấp từ thực vật thứ
sinh không phải là các yếu tố đặc biệt cần thiết cho quá trình sinh trưởng, phát
triển, quang hợp và sinh sản, chúng được tạo ra từ các tế bào chun biệt với vai
trị điều hồ mối quan hệ qua lại giữa các tế bào trong cơ thể và giữa các cá thể với
môi trường sống.
Tuỳ thuộc vào cấu trúc hố học và các thuộc tính lý học của chúng mà các
chất thứ cấp từ thực vật được phân thành 3 nhóm chính là: nhóm terpene, nhóm
các hợp chất phenolic và nhóm alkaloid [7], [24].
1.1.3 Nhóm các hợp chất terpen
Terpene là nhóm hydrocarbon thực vật lớn và đa dạng nhất, được hình thành
từ q trình polymer hố các tiểu đơn vị isoprene 5 carbon (C5H8 ), có cơng thức
cấu tạo chung là (C5H8 )n. trong thực vật terpen e được tổng hợp thông qua con
đường trao đổi chất acetate/mevanolate hoặc con đường glyceraldehyde 3phosphat/ pyruvat.
Hầu hết các terpen đều bị khử hoặc bị oxy hố để hình thành nên các hợp
chất terpenoid khác như alcohol, ketone, acid và alđehyde do vậy một số tác giả sử
dụng thuật ngữ “terpene” để chỉ chung cho một nhóm các hợp chất bao gồm cả
terpene và terpenoid. Terpen là thành phần chính của các loại tinh dầu, được dùng
trong công nghệ hương mỹ phẩm, thực phẩm và dược phẩm. Những terpen bậc
cao thường là các chất có hoạt tính sinh học.[20,38]


1.1.4 Nhóm các hợp chất phenolic
Hợp chất phenolic là một nhóm gồm các chất thứ cấp từ thực vật tạo ra thông
qua các sản phẩm trung gian của con đường trao đổi chất từ acid shikimic, có chứa
ít nhất một vịng thơm với một hay nhiều nhóm thế hydroxyl. Nhóm hợp chất
phenolic phân bố rộng rãi trong giới thực vật và có khắp nơi trong tự nhiên.
Hiện nay đã biết hơn 8.000 loại hợp chất phenolic từ các nguồn khác nhau
trong tự nhiên. Các hợp chất phenolic có thể tồn tại ở dạng aglycon tự do, dạng

ester, dạng phức hợp với protein hoặc các dạng khác.
Về cấu tạo hoá học, nhóm các hợp chất phenolic có thể được phân thành 2
nhóm chính: nhóm phenol đơn giản và nhóm polyphenol. Nhóm phenol đơn giản
gồm 2 phân nhóm chính là nhóm acid phenolic và nhóm cumarin. Nhóm
polyphenol gồm các nhóm flavonoid và nhóm tannin.[20,23,24,38].
Các phenolic có hoạt tính đáng quan tâm trong y dược như các hợp chất
phenolic đơn giản, tannin, coumarin, flavonoid, glycoside, anthycyanin. khái niệm
acid phenolic trong thực vật dùng để chỉ các chất thứ cấp nguồn gốc thực vật có
tối thiểu một nhóm carboxyl và một nhóm hydroxyl phenolic. Gần đây các nhà
khoa học phân loại nhóm acid phenolic gồm các dẫn xuất của acid benzoic (C6 –
C1) và nhóm acid cinnamic (C6 – C3). Cả hai loại acid phenolic này thường tồn tại
trong cây dưới dạng liên kết hoặc ở dạng ester hố.
* Phân nhóm cumarin
Cumarin là các dẫn xuất của α – pyrone có cấu trúc C6 – C3, dị vòng chứa
oxy. Cumarin là những hợp chất hữu cơ được sinh tổng hợp khá đặc biệt trong cơ
thể thực vật. Curmarin là những chất kết tinh không màu hoặc màu vàng nhạt, vị
đắng, một số lớn dễ thăng hoa, có mùi thơm giống mùi thơm của vanilin hay của
cỏ mới khơ.
Về hố học, cumarin có thể tồn tại trong cây dưới dạng aglycon tan nhiều
trong các dung môi kém phân cực và dạng kết hợp với đường glucose tạo thành
glycoside dễ tan trong nước. Dưới tác dụng của kiềm, cumarin bị mở vịng (do có
vịng lacton) tạo thành muối tan trong nước, nếu acid hoá coumarin sẽ đóng vịng


trở lại. Các dẫn xuất của coumarin có nhóm OH tự do sẽ cho màu xanh với thuốc
thử sắt III. Hiện nay đã biết hơn 1.500 loại khác nhau tồn tại trong tự nhiên trong
800 loài thực vật đã được nhận dạng.
Trong cây, coumarin được coi là một trong số các chất “phịng thủ hố học
hữu hiệu” giúp thực vật tránh được những bất lợi do môi trường hay dịch bệnh gây
ra. Trong đời sống hằng ngày, coumarin được sử dụng làm nước hoa, hương liệu,

bán tổng hợp các chất hố học khác nhau đặc biệt là chất chống đơng máu và
chất diệt loài gặm nhấm. Trong y học, tác dụng đáng chú ý của cumarin là tác
dụng chống co thắt, làm giãn động mạch vành, làm bền và bảo vệ thành mạch.
Nhiều chất cumarin có tính kháng khuẩn, kháng nấm, kháng viêm, kháng khối u,
trừ giun sán, giảm đau và hạ nhiệt [7], [24].

Hình 1.1 Coumarin
* Phân nhóm Flavonoid
Flavonoid là những hợp chất tạo ra màu của hoa, quả, đơi khi của lá. Flavon
có màu vàng, anthocyan có màu tím (trong mơi trường trung tính) hoặc màu đỏ
(trong mơi trường acid), hoặc có màu xanh (trong mơi trường kiềm) và không màu
( isoflavin, catechin). Flavonol là một trong những nhóm hợp chất phenolic hay
gặp trong tự nhiên. Trong cây flavonol thường tồn tại dưới 2 dạng: dạng tự do là
các aglycol tan nhiều trong các dung môi hữu cơ và hầu như không tan trong nước
và dạng glycoside liên kết với đường tan nhiều trong nước và hầu như không tan
trong các dung môi hữu cơ. Khi thuỷ phân các flavonoid bằng acid hoặc enzym thì
chúng sẽ phân tách thành các phần aglycon và phần đường tương ứng.
Một đặc điểm quan trọng của flavonoid là khả năng hấp thụ tử ngoại.
Flavonoid có hai dải sóng hấp thụ ở bước sóng 290nm và 220 nm. Phụ thuộc vào
nhóm hydroxyl và các nhóm chức khác mà vị trí các bước sóng và cường độ hấp
thụ ở mỗi dải sẽ thay đổi.


Về hoá học, khung carbon của flavonoid là C6 -C3-C6, gồm 15 nguyên tử
carbon, hai vòng benzen (A và B)nối nhâu qua vịng pyren (C) [18], [24].
2'
8
7

9


1

10
5

2

B

1'

4'

C

A
6

3'

O

3

6'

5'

4


Hình 1.2 Flavan (2-phenyl chroman)
Flavononid có thể tham gia vào nhiều phản ứng hố học khác nhau như phản
ứng của nhóm hydroxyl(OH), Phản ứng của vịng thơm (diazo hố), phản ứng của
nhóm carbonyl (phản ứng shinoza) và phản ứng tạo phức với kim loại [7], [9].
Hiện nay có khoảng hơn 4500 các loại flavonoid khác nhau tồn tại trong thực vật
đã được nhận dạng.
Trong cây, flavonoid giữ rất nhiều vai trò mang chức năng sinh lý, sinh thái
có ý nghĩa sống cịn như: điều chỉnh sự phân bố năng lượng ánh sáng ở lá cây
(flavonol, anthocyane), làm tăng hiệu quả quang hợp, bảo vệ cây tránh được
những bức xạ sóng ngắn, có tính kháng khuẩn, kháng nấm, giúp cây chống được
bệnh tật… Trong y học, Flavonoid được sử dụng làm thuốc để chữa chị nhiều loại
bệnh khác nhau như: thuốc làm bền thành mạch, thuốc chống oxy hoá, thuốc
kháng viêm, chống nấm, chống dị ứng, chống ung thư…[7, 24, 29, 30, 33].
* Phân nhóm tannin
Tannin là những hợp chất phenolic phổ biến trong thực vật bậc cao. Về hoá
học, tannin được cấu tạo dựa trên acid tannic và acid gallic, phổ biến trong cây ở
dạng tự do hoặc ở dạng glycoside kết hợp với đường. Tannin là những chất vơ
định hình, màu trắng, màu vàng nhạt hoặc gần như khơng màu, có hoạt tính quang
học, có vị chát, dễ bị oxy hố khi đun nóng và khi để ngồi ánh sáng, có trọng
lượng phân tử từ 5.000 đến 20.000 kDa. Tannin tan nhiều trong nước (đặc biệt
trong nước nóng), tan tốt trong các dung môi hữu cơ như Ethanol, ete ethylic hầu
như không tan trong các dung môi kém phân cực như chloroform , benzen…
Tannin tạo phức đặc trưng với các kim loại nặng, tạo phức protein, tinh bột và
muối khoáng.


Về tác dụng sinh học, tannin là chất bảo vệ cho cây trước sự tấn công của vi
sinh vật gây bệnh, các động vật và côn trùng ăn [24],[33]. Về tác dụng y học,
tannin được sử dụng làm thuốc cầm máu, thuốc chữa đi ngoài, chữa ngộ độc kim

loại nặng, thuốc chũa ung thư, chữa trĩ, viêm xoang, viêm miệng, chứng cao huyết
áp và đột quỵ.
1.1.3. Nhóm các hợp chât alkaloid
Alkaloid là những hợp chất chứa nitơ, không những chỉ có ở thực vật mà cịn
có ở động vật. Ngun tử nitơ có thể là một phần, hoặc khơng phải là một phần
của hệ thống dị vịng. Chúng có các cấu trúc phân tử phức tạp, có hoạt tính sinhdược rõ rệt và phân bố hạn chế trong giới thực vật. Hiên nay, có hơn 12.000 loại
alkaloid được phân lập. Trong cây, alkaloid tồn tại dưới 3 dạng: dạng tự do, dạng
muối của các acid phổ biến như citric, lactic, oxalic, acetic, malic… và dạng oxit
nitơ.
Đa số các alkaloid không có mùi, vị đắng, một số ít có vị cay, ở dạng chất rắn
có màu trắng, trừ một vài chất có màu vàng (berberin, plamantin)
Về vai trị sinh học, alkaloid được coi là một trong những “ hàng rào phòng
thủ hoá học hữu hiệu” bảo vệ cây trước sự tấn công của các vi sinh vật và các loại
côn trùng sâu bệnh ăn lá. Về y học, alkaloid được sử dụng rất đa dạng: làm thuốc
gây ức chế hoặc kích thích hệ thần kinh trung ương, dùng làm thuốc điều hoà
huyết áp chữa loạn nhịp tim, thuốc diệt ký sinh trùng, kháng khuẩn, chống ung thư
và nhiều tác dụng khác[7], [24], [33].
1.2.Tác dụng sinh học của các chất thứ cấp
Tác dụng sinh học của các chất thứ cấp từ thực vật rất đa dạng và phong phú.
Cho đến nay, cơ chế tác dụng của chúng cịn nhiều điểm chưa hồn tồn sáng tỏ.
Một số tác dụng chính của các chất thứ cấp từ thực vật được tập chung nghiên cứu
là tác dụng chống oxy hoá, tác dụng chống viêm, cũng như gần đay là các nghiên
cứu về tác dụng chống các tế bào ung thư hay virut HIV.


1.2.1. Tác dụng chống oxy hoá
Một trong những cơ sở sinh hoá quan trọng để các chất thực vật thứ sinh thể
hiện được hoạt tính sinh học của chúng là khả năng kìm hãm các q trình oxy hố
được sinh ra bởi các gốc tự do hoạt động. Tuy nhiên hoạt tính này thể hiện mạnh
hay yếu phụ thuộc vào đăc điểm cấu tạo hoá học của từng chất cụ thể. Các nghiên

cứu tác dụng chống oxy hoá tập trung chủ yếu vào nhóm flavonoid. Do bản chất
cấu tạo từ polyphenol nên flavonoid ở trong tế bào thực vật hoặc trong cơ thể
người và động vật chịu tác động của các biến đổi oxy hoá - khử, bị oxy hoá từng
bước và tồn tại dưới dạng hydroquinon, semiquinon, quinon. Semiquinon hoặc
quinon là những gốc tự do bền vững, có thể nhận điện tử và hidro từ các chất cho
khác nhau để trở lại dạng hydroquinon. Các chất này có khả năng phản ứng với
các gốc tự do hoạt động để tiêu diệt chúng. Kết quả là hạn chế quá trình bệnh lý do
cắt đứt dây chuyền phản ứng oxy hố.
Ngồi cơ chế trên, flavonoid cịn kìm hãm sự phát sinh các gốc tự do hoạt
động do có khả năng tạo phức các ion kim loại chuyển tiếp như Fe2+, Cu2+,OH -.
1.1.2. Tác dụng kháng sinh kháng khuẩn
Tác dụng chống viêm và kháng khuẩn của các chât thứ cấp từ thực vật là một
trong những tác dụng được quan tâm nghiên cứu nhiều nhất. Nhiều hợp chất
alkaloid, flavonoid, terpene có tính kháng khuẩn kháng nấm được dùng làm
thuốc.một số tác giả nghiên cứu tác dụng của anthocyane và neucoanthocyan lên
vi khuẩn Samonella và thấy có sự kìm hãm phát triển rõ rệt.
1.2.3. Một số tác dụng khác
Các chất thứ cấp từ thực vật là nguồn cung cấp nguyên liệu dồi dào cho việc
Bán tổng hợp một số loại hoá dược. Nhiều hoạt chất quan trọng như quinine
dùng làm thuốc trị sốt rét, quinidin dùng làm thuốc trợ tim, daizen dùng làm thuốc
chống ung thư… cho đến nay vẫn phait chiết xuất từ dược liệu mà chưa thể sản
xuất bằng con đường tự tổng hợp, hoặc nhiều loại thuốc có thể tự tổng hơp nhưng
giá thành cao nên vẫn phải chiết xuất từ dược liệu.


Nhiều nguồn nguyên liêu giàu các hợp chất thứ cấp từ thực vật vừa được sử
dụng làm thuốc đồng thời cũng được sử dụng trong thực phẩm làm gia vị như
gừng, quế, hồi, hạt tiêu…vanillin thuộc nhóm chất phenol xó hương vị hấp dẫn
được sử dụng rộng rãi.
Nhiều chất thứ cấp có nguồn gốc thực vật như alkaloid, coumarin, saponin là

những chất có tính độc, nên được sử dụng làm thuốc bảo vệ thực vật chống lại các
tác nhân phá hoại mùa màng, không gây ôi nhiễm môi trường. Hợp chất cumarin
từ lồi cỏ ba lá có thể gây chảy máu nội tạng nên được sử dụng làm thuốc trừ động
vật gậm nhấm. Pyrethroid một loại monoterpen có trong các lồi cúc là chất có
tác dụng diệt cơn trùng rất hiệu quả, đang hứa hẹn là một loại thuốc trừ sâu hại
mới do có độ tồn lưu trong mơi trường ngắn và khơng gây hại cho động vật[17]
Ngồi ra các chất thứ cấp từ thực vật còn được sử dụng rộng rãi trong cơng
nghệ hố mỹ phẩm, cơng nghệ sản xuất hàng tiêu dùng…
1.3. Các hợp chất thứ cấp và bệnh béo phì, ĐTĐ
Trên thế giới đã có rât nhiều bài thuốc điều tri ĐTĐ từ thảo dược theo kinh
nghiệm dân gian. Trên cơ sở đó, việc nghiên cứu thuốc điều trị ĐTĐ có nguồn gốc
thảo dược đã thu được một số kết quả. Cho tới nay đã có rất nhiều nghiên cứu đã
được thực hiện trên thế giới cũng như trong nước về tác dụng hạ đường huyết,
giảm béo phì của dịch chiết của nhiều lồi thực vật, nhiều nhóm hợp chất đã được
tách mà có tác dụng hạ đường huyết. Trong đó có các flavonoid [39] alkaloid [44],
saponin [35]… Bên cạnh đó nhiều nghiên cứu cũng đã được tiến hành để xem xét
cơ chế tác dụng của các chất phân tách từ thực vật trong việc giảm trọng lượng và
glucose huyết trên mơ hình chuột thực nghiệm. Chúng ta có thể nêu ra đây một số
hợp chất và dược liệu đã được nghiên cứu và sử dụng trong điều trị béo phì và
ĐTĐ:


Bảng1.1. Một số hợp chất thực vật thứ sinh đã được nghiên cứu và sử
dụng trong điều trị béo phì và ĐTĐ
Loài thực vật
Bằng lăng nước

Hợp chất
Acid corosolic


Cơ chế tác dụng
Tăng dung nạp glucose,

(Lagerstroemia speciosa

kích thích Glut 4- yếu tố

L.Pers.)

vận chuyển glucose đi vào
mơ mỡ để chuyển hố βoxy hố

Chè xanh (Camella

Catechin và

Tăng hoạt tính insulin ở

sinesis(L) O.Kuntze)

Epigallocatechin-3-

mơ đích

gallat
Chuối hoa (Canna

Polyphenol

Tăng Glut 1 và 4. Cơ chế

tác dụng tương tự insulin

indica)

trên cùng receptor đặc hiệu
của hormon này.
Cỏ ngọt (Stevia

Stevioside

Ức chế các enzym trong

rebaudiana Bertoni)

(glycoside)

quá trình tân tạo glucose

Diệp hạ châu

Dịch chiết ethanol

Ức chế α- glucoxidase, ức

(Phyllanthus amarus)

của cây

chế quá trình hấp thu và
tiêu hoá glucide


Dây đau xương

Berberin (alkaloid)

(Tinospora cordifolia)

Tăng hoạt độ α- amylase
của tuỵ

Dây thìa canh

Dịch chiết ethanol lá Kích thích tế bào β sản

(Gymnema sylvestre

cây

xuất insulin

Dọc (Garcinia

Dịch chiết phân

Giảm trọng lượng

multiflora)

đoạn ethylacetat


cholesteron tổng số,

R.Br)

triglycerid, nồng độ


glucose huyết, tăng HDLc
Egenia jambolana

Dịch chiết Ethanol

Hoạt hoá hexokinase,

hạt cây

PFK1, 2 là các enzym
đóng vai trị chủ chốt trong
con đường đường phân

Các cây họ cam chanh

Naringin

Giảm cholesteron tổng số,

(Flavonoid)

triglycerid, nồng độ
glucose huyết, tăng HDLc


Mướp đắng (Momordia

Charantin

Tăng cường quá trình tổng
hợp, dự trữ glycogen ở

charantia L.)

gan, phục hồi số lượng thụ
thể insulin.
Ức chế sự hấp thụ glucose
ở ruột.

Nhân sâm (Panax

Ginsenoside

Có tác dụng làm giảm lipid
máu hoặc ức chế các yếu

ginseng C.A.Meyer)

tố tham gia vào q trình
peroxy hố lipid
Sinh địa (Rehmannia

Oligosaccarid


q trình tân tạo đường

glutinosa)
Quế (Cinnamomum

Ức chế các enzym trong

Polyphenol

verum)

Kích thích Glut 4, tăng q
trình vân chuyển glucose
vào tế bào đích

Thổ phục linh (Smilax

Dịch chiết các phân

Kích thích tế bào β sản

glabra Roxb.)

đoạn

xuất insulin

1.3.1. Bệnh béo phì
1.3.1.1. Khái niệm và phân loại béo phì



Theo tổ chức Y tế thế giới thì béo phì được định nghĩa là tình trạng tích luỹ
mỡ q mức và khơng bình thường tại một vùng cơ thể hay toàn thân đến mức ảnh
hưởng tới sức khoẻ [6,43].
Tổ chức Y tế thế giới thường dùng các chỉ số khối cơ thể viết tắt là BMI
(Body Mass Index) để nhận định vể tình trạng gày béo. BMI được tính theo cơng
thức:

Trong đó: W: Khối lượng của một người (kg)
H: Chiều cao của người đó(m)
BMI : đơn vị tính (kg/m)
Chỉ số BMI được Who thống nhất là một tiêu chuẩn để chuẩn đốn mức độ
béo phì và thừa cân. Tuy nhiên tiêu chuẩn này có sự thay đổi chút ít tuỳ theo các
vùng địa lý ở các châu lục khác nhau. Đối với người trưởng thành ở Châu Âu, chỉ
số BMI cao hơn các vùng khác chẳng hạn như ở Việt Nam.
Bảng 1.2. Phân loại BMI của người trưởng thành ở Châu Âu và Châu Á [3,10]
Mức độ thể

Đánh giá yếu tố nguy cơ bệnh

BMI

trọng

Châu Âu

Châu Á

Nhẹ cân


<18,5

18,5

Thấp, nguy cơ suy dinh
dưỡng và các bênhk khác

Bình thường

18,5-24,9

18,5-22,9

Bình thường

Quá cân

≥25-29,9

≥23

Nguy cơ tăng cân

Béo phì độ I

30-34,9

>23-24,9

Nguy cơ cao của bệnh béo phì


Béo Phì độ II

35-39,9

25-29,9

Nguy cơ nặng của bệnh béo
phì

Béo Phì độ III

≥ 40

>30

Nguy cơ rất nặng của bệnh
béo phì


1.3.1.2. Thực trạng béo phì trên thế giới và trong nước
Theo tổ chức Y tế thế giới, hiện nay số người bị béo phì trên thế giới đã lên
tới 1,7 tỷ người. Cịn hiệp hội béo phì Mỹ, hiện nay có khoảng 60 triệu người dân
Mỹ bị béo phì, tăng gấp gần 3 lần năm 1991 (25 triệu người). Số người béo phì
cũng đang báo động ở châu âu, đứng đầu bảng là nước Anh với hơn 23% số người
béo phì, và châu âu hiện có tới hơn 14 triệu trẻ em thừa cân và béo phì. Cịn ở
Nam mỹ thì Braxin cũng là nước có tỉ lệ người dân bị béo phì cao (chiếm 16%) [3
,18], trong đó tỷ lệ người trên 20 tuổi chiếm 40% dân số
Trong khi đó ở Châu Á, theo báo cáo của Trung Quốc, tốc độ gia tăng tình
trạng béo phì đã lên tới 97% trong năm qua.Tổ chức dinh dưỡng chính thức đầu

tiên của Trung Quốc và cơ quan khảo sát sức khoẻ cho biết từ giữa năm 1992 đến
năm 2002, đã có hơn 60 triệu người bị béo phì trong đó có 12% thanh thiếu niên
và 8% trẻ em.
Tình hình béo phì đang tăng lên với tốc độ báo động không những ở những
quốc gia phát triển mà cả ở các quốc gia đang phát triển. [10]
Theo điều tra mới nhất của viện Dinh dưỡng (2007) Việt Nam hiện có 16,8%
số người ở độ tuổi từ 25 – 64 đã thừa cân, béo phì. Theo đó thì cứ 100 người trong
độ tuổi trưởng thành thì có 17 người béo phì, và tỉ lệ người béo phì ở thành phố
gấp 3 lần ở nơng thơn. Tình trạng thừa cân béo phì tăng nhanh ở tuổi ngồi 45
(chiếm 2/3 số người béo phì) và nữ giới có tỉ lệ béo phì cao hơn nam giới. Cịn đối
với trẻ em thì tình trạng béo phì cũng ở mức đáng ngại . Tỷ lệ béo phì ở người dân
thành thị cao gấp 3 lần so với nơng thơn.Ví Dụ như: ở Hà Nội có tới 4,9% số trẻ ở
độ tuổi từ 4 – 6 bị thừa cân béo phì, ở thành phố Hồ Chí Minh tỉ lệ này cịn cao
hơn nhiều, có tới 6% số trẻ dưới 5 tuổi và 22,7% số trẻ đang học ở cấp I bị thừa
cân béo phì. Đây thật sự là mối đe dọa tiềm ẩn trong tương lai, ảnh hưởng lớn đến
sức khỏe của mỗi người và sự phát triển của kinh tế và xã hội. [10]


1.3.1.3 . Nguyên nhân gây ra bệnh béo phì [3]
Mọi người đều biết cơ thể giữ được cân nặng ổn định là nhờ trạng thái cân
bằng giữa năng lượng do thức ăn cung cấp và năng lượng tiêu hao cho lao động và
các hoạt động khác của cơ thể. Cân nặng của cơ thể tăng lên có thể do chế độ ăn
dư thừa vượt quá nhu cầu hoặc do nếp sống làm việc tĩnh tại ít tiêu hao năng
lượng.
Khẩu phần ăn và thói quen ăn uống: Năng lượng (calorie) được đưa vào cơ
thể qua thức ăn, thức uống được hấp thụ và được oxy hoá để tạo thành nhiệt
lượng. Năng lượng ăn quá nhu cầu sẽ được dự trữ dưới dạng mỡ(lipid).Chế độ ăn
giàu chất béo (lipid) có liên quan chặt chẽ với gia tăng tỉ lệ béo phì. Các thức ăn
giàu chất béo thường ngon nên người ta ăn q thừa mà khơng biết. Vì vậy, khẩu
phần ăn có nhiều mỡ, dù số lượng nhỏ cũng có thể gây thừa calorie và tăng cân.

Không chỉ ăn nhiều mỡ, thịt mà ăn nhiều chất bột, đường, đồ ngọt đều có thể gây
béo.Việc thích ăn nhiều đường, ăn nhiều món xào, rán, những thức ăn nhanh nấu
sẵn và miễn cưỡng ăn rau quả là một đặc trưng của trẻ béo phì. Thói quen ăn nhiều
vào bữa tối cũng là một điểm khác nhau giữa người béo và người không béo.
Hoạt động thể lực kém. Cùng với yếu tố ăn uống, sự gia tăng tỉ lệ béo phì
song song với sự giảm hoạt động thể lực trong một lối sống tĩnh tại hơn, thời gian
dành cho xem tivi, đọc báo, làm việc bằng máy tính, nói chuyện qua điện thoại
nhiều hơn.Kiểu sống tĩnh tại cũng giữ vai trò quan trọng gây nên béo phì. Những
người hoạt động thể lực nhiều thường ăn những thức ăn giàu năng lượng, khi họ
thay đổi lối sống và hoạt động nhưng vẫn giữ thói quen ăn nhiều cho nên họ bị béo
phì. Điều này giải thích béo phì biểu hiện ở tuổi trung niên, hiện tượng béo phì ở
các vận động viên sau khi giải nghệ và cơng nhân lao động chân tay có xu hướng
béo phì khi về hưu.
Yếu tố di truyền: Đáp ứng phát sinh nhiệt kém có thể do yếu tố di truyền.
Yếu tố di truyền có vai trị nhất định đối với những trẻ béo phì thường có cha mẹ
béo, tuy vậy nhìn trên đa số cộng đồng thì yếu tố này không lớn mà chủ yếu do
cách sống cũng như ăn uống của cha mẹ.


Yếu tố kinh tế xã hội:Ở các nước đang phát triển, tỉ lệ người béo phì ở tầng
lớp nghèo thường thấp (thiếu ăn, lao động chân tay nặng, phương tiện đi lại khó
khăn) và béo phì thường được coi là một đặc điểm của người giàu có. Ở nhiều
nước, tỷ lệ người béo lên tới 30-40% nhât là ở độ tuổi trung niên và chống béo
phì trở thành mục tiêu sức khoẻ cộng đồng quan trọng. Ở Việt Nam tỷ lệ người
béo co khuynh hướng gia tăng nhanh ở các đơ thị.
1.3.1.4. Bệnh lý học bệnh béo phì [3]
Cho đến nay, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng béo phì có quan hệ mật thiết
đối với nhiều bệnh khác nhau như bệnh tim, rối loạn trao đổ lipid máu, bệnh tiểu
đường, xơ vữa động mạch [1, 13]
Hai nguy cơ rõ rệt của người béo phì:

Tỷ lệ bệnh tật cao: Béo phì là một trong các yếu tố nguy cơ chính của các
bệnh mãn tính khơng lây như bệnh mạch vành, đái tháo đường không phụ thuộc
insulin, sỏi mật. Ở phụ nữ mãn kinh, các nguy cơ ung thư túi mật, ung thư vú và
ung thư tử cung tăng lên ở người béo phì, cịn ở nam giới béo phì, bệnh ung thư
thận và tuyến tiền liệt hay gặp hơn. Tỷ lệ tử vong cũng cao hơn, nhất là trong các
bệnh kể trên.
1.3.1.5. Béo phì và quá trình trao đổi Glucid- lipid
Đã có những nghiên cứu chứng minh rằng, tỷ lệ những người mắc bệnh béo
phì có nguy cơ mắc các bệnh về rối loạn lipid máu và xơ vữa động mạch là rất
cao, và cũng cao hơn so với người bình thường. Để xác định sự rối loạn lipid máu
và xơ vữa động mạch, người ta thường dựa vào một số chỉ số như: Cholesterol
máu, triglycerid, LDL (Low density lipoprotein - lipoprotein có tỷ trọng thấp),
HDL (High density lipoprotein - lipoprotein tỷ trọng cao).[43]
Cholesterol máu có vai trị rất quan trọng đối với sức khoẻ con người: giúp
cho sự hoạt động của màng tế bào thần kinh, là tiền chất tổng hợp nên các hormon
steroid (các hormone thượng thận, hormone sinh dục...). Cholesterol được tạo ra từ


hai nguồn là do cơ thể tự sản xuất ra (gan sản xuất ra 80%), và do thức ăn cung
cấp. Cholesterol ở người bình thường tương đối ổn định, khi vì một lý do nào đó
mà nó tăng q cao thì gây hiện tượng “tăng mỡ máu”.
Cholesterol thực chất khơng hồ tan trong máu, nên khi lưu thơng trong máu
chúng được bao quanh bởi một lớp áo protein (còn gọi là lipoprotein), chúng
giống như những chiếc xe vận tải chuyên chở Cholesterol. Có hai loại lipoprotein
quan trọng là lipoprotein tỷ trọng thấp (LDL) và lipoprotein tỷ trọng cao (HDL).
LDL có vai trò vận chuyển Cholesterol một chiều từ gan đến các mô của cơ thể.
Và khi lượng LDL trong máu cao, thành động mạch sẽ bị đóng mỡ gây xơ vữa
thành mạch, do đó chúng được gọi là Cholesterol “xấu”. Ngược lại, HDL có vai
trị vận chuyển Cholesterol dư thừa từ các mô và trong mạch máu đưa trở về gan,
chuyển giao cho mật để thải ra ngoài, ngăn cho chúng khơng xâm nhập vào thành

động mạch, do đó chúng được gọi là Cholesterol “tốt”.
Ngoài ra ta cũng cần quan tâm tới một loại lipid khác đó là các Triglycerid,
chúng được cung cấp từ thức ăn. Sự sinh tổng hợp Triglycerid nội sinh diễn ra ở
gan và mô mỡ. Trong mơ mỡ, chúng là nguồn dự trữ năng lượng chính của cơ
thể.Ở những người béo phì, nồng độ acid béo tự do và Triglycerid thường tăng cao
trong máu gây ra hiện tượng “nhiễm độc mỡ”. Cơ chế nhiễm độc mỡ là do các
acid béo dễ bị peroxit hoá tạo ra các gốc tự do gây độc cho các tế bào và cơ quan.
Một trong những tác động đó là làm tổn thương hệ gen tổng hợp insulin ở tế bào
 của tuyến tuỵ và làm biến đổi khả năng tổng hợp insulin gây bệnh ĐTĐ type 2
[6,14,43].
1.3.1.6 Phòng và điều trị bệnh béo phì
Ngun tắc cần thiết để phịng và điều trị bệnh béo phì là: Thực hiện một chế
độ ăn uống hợp lý và hoạt động thể lực đúng mức để duy trì sự ổn định cân nặng
của cơ thể. Các biện pháp cụ thể là:
- Chế độ ăn: đảm bảo đủ năng lượng, ít đường, ít chất béo, đủ đạm, vitamin,
nhiều rau quả...


- Luyện tập thể dục thường xuyên ở môi trường thoáng đãng.
- Xây dựng nếp sống năng động, tăng cường các hoạt động thể lực.
Đối với những bệnh nhân béo phì, ngồi các biện pháp kể trên cịn kết hợp
với sử dụng thuốc hoặc phẫu thuật.
- Sử dụng thuốc: Thuốc giảm cân khơng được sử dụng vì mục đích thẩm
mỹ, mà chỉ được sử dụng cho những bệnh nhân có BMI lớn hơn 27 và có các vấn
đề về sức khoẻ mà phải giảm cân thì mới cải thiện được. Các loại thuốc thường
được sử dụng hiện nay là:
+ Metformin: có tác dụng giảm mỡ máu dẫn đến giảm trọng lượng, tuy
nhiên nó cũng hay gây tác dụng phụ là buồn nôn, tiêu chảy, gây toan máu...
+ Orlistat (Xenical): làm ức chế lipase và sự hấp thu mỡ ở ruột, tác dụng phụ
của orlistat là làm suy giảm khả năng hấp thụ vitamin tan trong mỡ.

+ Các thuốc ức chế sự thèm ăn như: ephedrine, caffeine [3]
Phẫu thuật để giảm cân: áp dụng đối với những bệnh nhân có BMI trên 35,
kèm theo các bệnh lý và rối loạn liên quan. Phẫu thuật mang lại thành công rất lớn,
nhiều người giảm được đến 50% cân nặng trong vòng 1 – 2 năm đầu sau phẫu
thuật, tuy nhiên nó cũng gây ra nhiều tác dụng phụ như suy nhược, khô da, rụng
tóc tạm thời…
Tuy nhiên sử dụng thuốc cũng thường gây ra những tác dụng phụ khơng
mong muốn do đó một xu thế hiện nay là tìm kiếm các thảo dược từ thiên nhiên để
điều trị béo phì và các biến chứng của chúng. Ưu điểm của các dạng thuốc này là
ít tác dụng phụ, dễ kiếm, giá thành rẻ do có nguồn gốc tự do có nguồn gốc từ tự
nhiên. Cho tới nay, đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về tác dụng giảm trọng
lượng, chlolesteron, TG, LDLc, và làm tăng nồng độ HDLc của nhiều loại thảo
dược khác nhau. Chẳng hạn như Cassia mimosoid(Yâmmoto và cộng sự, 2000),
chè hoa vàng Camelia sinensis (Han và cộn sự, 2001: Wu và cộng sự, 2004),
Dioscorea nipponia(Kwon và cộng sự, 2003), Plantycodon grandiflorum (Kwon và
cộng sự, 2003), Salicia reticulata(Yoshikawa và cộng sự, 2002), Salix matsudara
(Han và cộng sự, 2003)[39,43].


1.3.2. Bệnh đái tháo đường(ĐTĐ)
Danh từ bệnh ĐTĐ (Diabetes mellitus) có nguồn gốc từ Hylạp . ĐTĐ là bệnh
phổ biến nhất và đang càng ngày phát triển trên toàn cầu. Biểu hiện của bệnh là sự
tăng đường huyết, không dung nạp glucose dẫn đến ĐTĐ. ĐTĐ cũng là nguyên
nhân gây ra các biến chứng mù mắt, suy gan, thần kinh, tim mạch, hoại tử cơ quan
vận động như chân...
1.3.2.1. Tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ
Tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ thay đổi theo lứa tuổi, dân tộc và các vùng địa lý khác
nhau và theo sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Những số liệu mới nhất đưa ra
tại hội nghị thượng đỉnh Quỹ ĐTĐ thế giới năm 2006 cho thấy, tỷ lệ mắc bệnh
ĐTĐ ở châu á hiện nay đã vựơt xa châu âu nơi vẫn được xem là ổ bệnh. Trong khi

có khoảng 5% số người trưởng thành ở châu âu mắc bệnh thì ở Châu á số người
mắc bệnh là từ 10 – 12% và ở những quốc gia đảo thuộc Thái Bình Dương là 30 –
40%. Điều nguy hiểm là châu á đang có chiều hướng gia tăng bệnh ĐTĐ ở lứa
tuổi thanh thiếu niên và trẻ nhỏ. Cũng theo tổ chức này thì nếu năm 2000 có 146
triệu người mắc bệnh ĐTĐ thì năm 2010 sẽ là 220 triệu người và năm 2025 sẽ có
thể lên tới 300 - 330 triệu người chiếm 5% dân số thế giới 3].
Ở Việt Nam, chỉ riêng năm 1991 tỷ lệ người mắc bệnh ở Hà Nội là 1,1%; ở
Huế là 0,96%; ở TP.HCM là 2,3%. Năm 2002, tỷ lệ bệnh ĐTĐ trên toàn quốc là
2,7%; riêng tại các thành phố, tỷ lệ mắc bệnh là 4,4% trong khi ở các khu vực
khác dao động từ 2,1 – 2,7%, và hiện nay có khoảng 2 triệu người mắc bệnh ĐTĐ,
nhưng có tới 65% người bệnh khơng biết mình đã mắc căn bệnh này. Trong 10
năm qua, số bệnh nhân ĐTĐ đă tăng 3 – 4 lần ở khu vực thành thị, khu vực nơng
thơn trước đây thường rất ít thì nay bệnh đã trở nên phổ biến 3].
Rõ ràng ĐTĐ đang có chiều hướng phát triển nhanh chóng nhất là khu vực
châu Á. Mối liên quan chặt chẽ giữa dinh dưỡng– lối sống và bệnh ĐTĐ, từ lâu đã
được nhiều nhà khoa học trên thế giới công nhận. Dinh dưỡng không hợp lý dẫn


×