VIỆN
VIỆNHÀN
HÀNLÂM
LÂM
KHOA
KHOAHỌC
HỌCXÃ
XÃHỘI
HỘIVIỆT
VIỆTNAM
NAM
HỌC
HỌCVIỆN
VIỆNKHOA
KHOAHỌC
HỌCXÃ
XÃHỘI
HỘI
PHẠM THỊ NHƢ QUỲNH
PHẠM THỊ NHƢ QUỲNH
THỰCHIỆN
HIỆNQUYỀN
QUYỀNTƢ
TƢPHÁP
PHÁPTRONG
TRONG
THỰC
TỐTỤNG
TỤNGHÌNH
HÌNHSỰ
SỰVIỆT
VIỆTNAM
NAM
TỐ
Chun ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 9380104
LUẬN
ÁNÁN
TIẾN
SĨ SĨ
LUẬT
HỌC
LUẬN
TIẾN
LUẬT
HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. TS. NGUYỄN VĂN HIỂN
2. TS. NGUYỄN VĂN ĐIỆP
HÀ NỘI - 2018
HÀ NỘI-2018
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên
cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận
án là trung thực. Những kết luận khoa học của
luận án chưa từng được ai cơng bố trong bất
kỳ cơng trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Phạm Thị Nhƣ Quỳnh
MỤC LỤC
Mở đầu
Chƣơng 1:
1.1.
1.2.
1.3.
Chƣơng 2:
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Tổng quan tình hình nghiên cứu trong nước và ngồi nước về
quyền tư pháp, thực hiện quyền tư pháp và thực hiện quyền tư
pháp trong tố tụng hình sự
Đánh giá tình hình nghiên cứu về đề tài và những vấn đề liên
quan đến đề tài
Những vấn đề được nghiên cứu trong luận án
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN QUYỀN TƢ PHÁP TRONG
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1
8
8
27
28
31
Khái niệm, đặc điểm quyền tư pháp và thực hiện quyền tư pháp
31
trong tố tụng hình sự
2.2. Cơ chế thực hiện quyền tư pháp trong tố tụng hình sự
43
2.3. Các yếu tố tác động đến thực hiện quyền tư pháp trong tố tụng
59
hình sự
2.4. Tham khảo kinh nghiệm các nước về quyền tư pháp và thực hiện
64
quyền tư pháp trong tố tụng hình sự
Chƣơng 3: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN QUYỀN TƢ PHÁP TRONG
72
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
3.1. Thực trạng về chủ thể thực hiện quyền tư pháp trong tố tụng hình sự
72
3.2. Thực trạng về các nguyên tắc thực hiện quyền tư pháp trong tố tụng
81
hình sự
3.3. Thực trạng thực hiện quyền tư pháp trong tố tụng hình sự thơng
91
qua hoạt động xét xử vụ án hình sự trên thực tế
3.4. Thực trạng các yếu tố tác động đến thực hiện quyền tư pháp
104
trong tố tụng hình sự
3.5. Đánh giá khái quát thực hiện quyền tư pháp trong tố tụng hình sự
113
thơng qua xét xử vụ án hình sự hiện nay
2.1.
Chƣơng 4: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN QUYỀN TƢ
122
PHÁP TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ Ở NƢỚC TA HIỆN NAY
4.1.
4.2.
Yêu cầu bảo đảm thực hiện quyền tư pháp trong tố tụng hình sự
122
Việt Nam
Các giải pháp bảo đảm thực hiện quyền tư pháp trong tố tụng
126
hình sự ở nước ta hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC CƠNG TRÌNH CƠNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
149
151
152
166
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS
Bộ luật hình sự
BLTTHS
Bộ luật tố tụng hình sự
CCTP
Cải cách tư pháp
CQĐT
Cơ quan điều tra
HĐXX
Hội đồng xét xử
HTND
Hội thẩm nhân dân
Nghị quyết số 08-NQ/TW
Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02- 01-2002 của
Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác
tư pháp trong thời gian tới
Nghị quyết số 49-NQ/TW
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ
Chính trị về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm
2020
TAND
Tịa án nhân dân
THA
Thi hành án
TTHS
Tố tụng hình sự
VAHS
Vụ án hình sự
VKS
Viện kiểm sát
VKSND
Viện kiểm sát nhân dân
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Trang
Bảng 3.1. Quyết định miễn trách nhiệm hình sự của Tịa án trong tồn
ngành xét xử phúc thẩm trong các năm từ năm 2008 - 2017
Bảng 3.2. Số người bào chữa tham gia xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tồn
166
ngành trong các năm từ năm 2008 - 2017
Bảng 3.3. Số vụ án thụ lý, giải quyết theo thủ tục sơ thẩm vụ án hình sự
167
tồn ngành trong các năm từ năm 2008 - 2017
Bảng 3.4. Tòa án cấp sơ thẩm ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án trong
các năm từ năm 2008 - 2017
168
Bảng 3.5. Tòa án xét xử sơ thẩm ra quyết định chuyển hồ sơ, đình chỉ vụ án
trong các năm từ năm 2008-2017
Bảng 3.6. Tòa án cấp sơ thẩm hoàn lại hồ sơ Viện kiểm sát yêu cầu điều tra bổ
sung trong các năm từ năm 2008 - 2017
Bảng 3.7. Số vụ xét xử theo thủ tục phúc thẩm các bản án của Tòa án cấp dưới
bị kháng cáo, kháng nghị trong các năm từ năm 2008 - 2017
Bảng 3.8. Tỉ lệ số kháng cáo, kháng nghị bị rút/số bị cáo đã thụ lý của Tòa án
cấp phúc thẩm toàn ngành trong các năm từ năm 2008 - 2017
Bảng 3.9. Tỷ lệ giữ nguyên án sơ thẩm/số bị cáo đã xét xử của Tịa án cấp phúc
thẩm tồn ngành trong các năm từ năm 2008 - 2017
Bảng 3.10. Quyết định của Tòa án phúc thẩm về sửa án, tăng án, giảm án,
chuyển thành án treo, miễn trách nhiệm hình sự đối với bị cáo
theo thủ tục phúc thẩm của toàn ngành trong các năm từ năm
2008 - 2017
Bảng 3.11. Quyết định hủy án sơ thẩm của Tòa án phúc thẩm toàn ngành
trong các năm từ năm 2008 - 2017
Bảng 3.12. Quyết định tái thẩm, giám đốc thẩm toàn ngành trong các năm
từ năm 2008 - 2017
Bảng 3.13. Số vụ án tồn của toàn ngành trong các năm từ năm 2008 - 2017
Hình 3.1. Biểu đồ Tỷ lệ y án hình sự sơ thẩm của xét xử phúc thẩm của tồn
ngành trong các năm từ năm 2008 - 2017
Hình 3.2: Biểu đồ về tình hình thụ lý và giải quyết vụ án hình sự tồn
ngành Tịa án trong các năm từ năm 2008 - 2017
Tình hình thụ lý, giải quyết, xét xử vụ án hình sự từ năm 2008 đến 2017
169
170
171
173
174
175
176
177
178
180
172
179
181
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo đảm quyền
lực nhà nước là thống nhất có sự phân cơng, phối hợp và kiểm sốt trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp là định hướng cơ bản thực hiện cơng
cuộc đổi mới tồn diện ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Nhận thức tầm quan
trọng của quyền tư pháp trong hệ thống quyền lực nhà nước, Đảng ta đã chỉ đạo,
định hướng công tác tư pháp tại rất nhiều các văn bản chung và nhiều văn bản
chuyên ngành như Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm
vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị (khóa IX) về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020 và Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục
thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị khóa IX về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII
một lần nữa khẳng định: tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp,
xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, từng bước
hiện đại; bảo vệ pháp luật, công lý, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế
độ xã hội chủ nghĩa, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan,
tổ chức và cá nhân [37, tr.178-179]. Đây là những văn bản chính trị có ý nghĩa vô
cùng quan trọng trong việc chỉ đạo, định hướng nhiệm vụ công tác tư pháp, cải
cách tư pháp mà trọng tâm là xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Tòa
án nhân dân. Trên cơ sở các Nghị quyết của Đảng về công tác tư pháp, Nhà nước
cụ thể hóa, chi tiết hóa trong quy định của Hiến pháp và các văn bản quy phạm
pháp luật. Tuy nhiên, việc triển khai quan điểm chỉ đạo của Đảng về công tác tư
pháp trong văn bản quy phạm pháp luật còn chậm và chưa đầy đủ, thống nhất.
Hiến pháp năm 2013 cũng chỉ truyền tải một bước tinh thần Chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020, còn nhiều nội dung của Chiến lược cần phải tiếp tục nghiên
cứu và triển khai trong các quy định của pháp luật.
1
Trên phương diện lý luận, tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về quyền tư
pháp và thực hiện quyền tư pháp dẫn tới những nhầm lẫn, không thống nhất về chủ
thể, chức năng, nhiệm vụ, nội dung, đặc biệt trong tố tụng hình sự địi hỏi sự quy
chuẩn trong lý luận và thống nhất trong thực hiện quyền tư pháp khi tiến hành điều
tra, truy tố, xét xử vì quá trình tố tụng hình sự là quá trình giải quyết vụ án hình sự,
Tịa án đưa ra phán quyết người thực hiện hành vi có tội hay khơng có tội, nếu có
tội, người vi phạm sẽ bị hạn chế một số quyền, thậm chí bị tước cả quyền sống. Một
hệ thống lý luận khoa học, khái quát được thực tiễn thực hiện quyền tư pháp trong
tố tụng hình sự thơng qua việc giải quyết các vụ án hình sự và các hoạt động khác
những lý luận về quyền tư pháp nói chung và quyền tư pháp trong tố tụng hình sự
nói riêng được kiểm nghiệm.
Trong lĩnh vực khoa học, có rất nhiều cơng trình cấp nhà nước, các đề tài
nghiên cứu, sách chuyên khảo, giáo trình, các bài viết đăng trên các tạp chí…nghiên
cứu về quyền tư pháp đã đóng góp đáng kể trong việc xây dựng và hồn thiện các quy
định của pháp luật về quyền tư pháp và áp dụng trong thực tiễn cuộc sống. Tuy nhiên,
các công trình nghiên cứu này nghiên cứu một cách tổng thể về quyền tư pháp hoặc
nghiên cứu chuyên sâu từng khía cạnh về quyền tư pháp mà chưa có nghiên cứu
chuyên sâu về thực hiện quyền tư pháp trong tố tụng hình sự Việt Nam.
Các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự triển khai trên thực tiễn đã phát huy
vai trị và ngày càng tạo niềm tin, uy tín trong Nhân dân. Việc thực hiện các thủ tục
tố tụng ngày càng tốt hơn, hạn chế được tình trạng xét xử oan, sai hay bỏ lọt tội
phạm. Chất lượng xét xử được nâng lên [35, tr.160]. Bên cạnh đó, vẫn cịn hiện
tượng Tịa án chưa thể hiện đúng vị trí, vai trị mang tính quyết định thực hiện
quyền tư pháp trong tố tụng hình sự thơng qua giải quyết vụ án hình sự, cịn nhiều
trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, vi phạm các quyền tự do, dân chủ
của công dân, vi phạm quyền con người, làm giảm sút niềm tin của Nhân dân đối
với Đảng, Nhà nước vào các cơ quan tư pháp. Chính vì vậy, cần phải có một cơ sở
pháp lý thống nhất, một cơ chế thực hiện rõ ràng, phân định rõ vai trò quyết định trong
thực hiện quyền tư pháp của Tòa án đối với các hoạt động tố tụng hình sự.
2
Với những nội dung trình bày ở trên cho thấy, việc truyền tải các quy định của
Đảng vào văn bản quy phạm pháp luật, trong hệ thống lý luận và đặc biệt thực hiện
quyền tư pháp trong tố tụng hình sự còn rất nhiều hạn chế, bất cập cần phải tiếp tục
nghiên cứu nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện quyền tư pháp trong tố tụng hình sự
Việt Nam. Đó cũng chính là lý do để tác giả chọn đề tài “Thực hiện quyền tư pháp
trong tố tụng hình sự Việt Nam” làm đề tài luận án Tiến sỹ luật học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực trạng thực hiện quyền tư pháp
trong tố tụng hình sự thơng qua xét xử vụ án hình sự nhằm đưa ra các giải pháp bảo đảm
thực hiện quyền tư pháp trong tố tụng hình sự ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận án thực hiện những nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, nghiên cứu cơ sở lý luận về khái niệm, đặc điểm quyền tư pháp và
quyền tư pháp trong tố tụng hình sự; khái quát quá trình hình thành, phát triển
quyền tư pháp và thực hiện quyền tư pháp trong tố tụng hình sự; cơ chế thực hiện
với việc nghiên cứu về chủ thể, nội dung, nguyên tắc và quan hệ giữa Tòa án với cơ
quan tiến hành tố tụng, cơ quan bổ trợ trong thực hiện quyền tư pháp trong tố tụng
hình sự Việt Nam; các yếu tố tác động đến thực hiện quyền tư pháp trong tố tụng
hình sự; kinh nghiệm của các nước về quyền tư pháp và thực hiện quyền tư pháp
trong tố tụng hình sự và bài học rút ra cho Việt Nam.
Thứ hai, làm rõ thực trạng thực hiện quyền tư pháp trong tố tụng hình Việt
Nam thơng qua nội dung về chủ thể thực hiện quyền tư pháp trong tố tụng hình sự;
thực hiện quyền tư pháp thông qua xét xử vụ án hình sự trên thực tế của Tịa án;
thực trạng các yếu tố tác động đến thực hiện quyền tư pháp trong tố tụng hình sự;
trên cơ sở đánh giá chung chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế, bất cập thực hiện
quyền tư pháp trong tố tụng hình sự của Việt Nam hiện nay.
Thứ ba, đề xuất, luận chứng các yêu cầu, các giải pháp bảo đảm thực hiện
quyền tư pháp trong tố tụng hình sự Việt Nam: về nhận thức lý luận; hoàn thiện thể
3
chế; tổ chức thực hiện; tăng cường các điều kiện bảo đảm thực hiện quyền tư pháp
trong tố tụng hình sự.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận và thực trạng thực
hiện quyền tư pháp trong tố tụng hình sự thơng qua xét xử vụ án hình sự Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án giới hạn việc nghiên cứu làm rõ các vấn đề lý luận và thực trạng thực
hiện quyền tư pháp trong tố tụng hình sự thơng qua xét xử vụ án hình sự do Tịa án
thực hiện với vai trị là cơ quan thực hiện quyền tư pháp.
Về không gian nghiên cứu, luận án tập trung nghiên cứu thực hiện quyền tư
pháp trong tố tụng hình sự ở Việt Nam. Tuy nhiên, để phục vụ cho việc so sánh,
đối chiếu cơ sở pháp lý và thực tiễn thực hiện ở Việt Nam, luận án tìm hiểu một
số khái niệm, quy định của pháp luật ở một số quốc gia về quyền tư pháp, thực
hiện quyền tư pháp và thực hiện quyền tư pháp trong tố tụng hình sự.
Về thời gian nghiên cứu, luận án tập trung nghiên cứu thực hiện quyền tư
pháp trong tố tụng hình sự thơng qua tình hình xét xử vụ án hình sự của Việt
Nam trong thời gian 10 năm trở lại đây (từ năm 2008 - 2017).
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Phƣơng pháp luận
Luận án vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ
nghĩa duy vật biện chứng; chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
Nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước về
quyền lực nhà nước, sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước
trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì
Nhân dân, về quyền tư pháp, cải cách tư pháp, quyền con người. Bên cạnh đó,
luận án cũng tiếp thu tinh hoa tư tưởng pháp lý của nhân loại, các giá trị pháp
luật của một số quốc gia về quyền tư pháp, thực hiện quyền tư pháp trong tố
tụng hình sự.
4
4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu lịch sử để: tìm hiểu quá trình hình thành và phát
triển quyền tư pháp và thực hiện quyền tư pháp trong tố tụng hình sự Việt Nam từ
năm 1945 đến nay (chương 2).
Phương pháp tổng hợp để: hệ thống hóa tình hình nghiên cứu trong và ngoài
nước liên quan đến nội dung luận án (chương 1); hệ thống các quan điểm về quyền
tư pháp, thực hiện quyền tư pháp; hệ thống hóa kinh nghiệm của các nước và bài
học rút ra cho Việt Nam; các quan niệm, quan điểm về quyền tư pháp trên cơ sở đó
hình thành khái niệm quyền tư pháp, thực hiện quyền tư pháp, thực hiện quyền tư
pháp trong tố tụng hình sự (chương 2); hệ thống các yếu tố tác động đến thực hiện
quyền tư pháp trong tố tụng hình sự (chương 2).
Phương pháp so sánh để: đối chiếu các quy định của pháp luật với thực tiễn
thực hiện quyền tư pháp trong tố tụng hình sự thơng qua xét xử vụ án hình sự trên
cơ sở số liệu về tình hình thụ lý, giải quyết vụ án hình sự của Tịa án (chương 3).
Phương pháp phân tích để: đánh giá thực trạng các nguyên tắc thực hiện quyền
tư pháp trong tố tụng hình sự; thực trạng thực hiện quyền tư pháp trong tố tụng hình sự
thơng qua hoạt động xét xử vụ án hình sự trên thực tế; thực trạng các yếu tố tác động
đến thực hiện quyền tư pháp trong tố tụng hình sự (chương 3); các giải pháp bảo đảm
thực hiện quyền tư pháp trong tố tụng hình sự hiện nay (chương 4).
- Hướng tiếp cận của luận án
Tiếp cận dưới góc độ chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự: lý luận
về quyền tư pháp, thực hiện quyền tư pháp trong tố tụng hình sự Việt Nam qua đó
đối chiếu với thực trạng thực hiện quyền tư pháp trong tố tụng hình sự Việt Nam
hiện nay.
Tiếp cận hệ thống: phân tích và đánh giá các vấn đề về thực hiện quyền tư
pháp trong tố tụng hình sự Việt Nam đặt trong mối liên hệ, tác động qua lại với
nhau tạo thành một chỉnh thể thống nhất.
Tiếp cận liên ngành: có sự phối hợp của nhiều ngành khoa học xã hội và nhân
văn như triết học, chính trị học, luật học, xã hội học, khoa học lịch sử để xây dựng cơ sở
lý luận cho các vấn đề nghiên cứu.
5
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Thứ nhất, luận án đưa ra được khái niệm hoàn chỉnh về thực hiện quyền tư
pháp và thực hiện quyền tư pháp trong tố tụng hình sự trên cơ sở xem xét chủ thể,
nội dung của thực hiện quyền tư pháp và thực hiện quyền tư pháp trong tố tụng hình
sự. Mặc dù ở Việt Nam, quốc tế có rất nhiều cơng trình nghiên cứu đưa ra khái
niệm về quyền tư pháp, thực hiện quyền tư pháp nhưng thường tiếp cận một chiều
hoặc tổng thể về quyền tư pháp.
Thứ hai, luận án hệ thống hóa được q trình hình thành và phát triển quyền tư
pháp và thực hiện quyền tư pháp trong tố tụng hình sự từ 1945 đến nay, qua đó thấy
được sự kế thừa và phát triển của quyền tư pháp, thực hiện quyền tư pháp trong tố tụng
hình sự qua các giai đoạn và tính đặc thù thực hiện quyền tư pháp của Tịa án. Hiện
nay, chưa có cơng trình nghiên cứu nào của Việt Nam đề cập tồn diện vấn đề này.
Thứ ba, luận án phân tích, xác định rõ nội dung thực hiện quyền tư pháp
trong tố tụng hình sự là xét xử các vụ án hình sự, ban hành án lệ, hướng dẫn áp
dụng thống nhất pháp luật hình sự, tổng kết kinh nghiệm xét xử các vụ án hình sự.
Đến nay, chưa có cơng trình nào xác định nội dung thực hiện quyền tư pháp và các
biện pháp tác động đến tổ chức và thực hiện quyền tư pháp trong tố tụng hình sự
dẫn đến việc xác định không đầy đủ các yếu tố của thực hiện quyền tư pháp và các
biện pháp bảo đảm cho hoạt động tư pháp được độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Thứ tư, luận án đánh giá thực trạng thực hiện quyền tư pháp trong tố tụng
hình sự thơng qua hoạt động xét xử vụ án hình sự hình sự. Chỉ ra những bất cập,
hạn chế trong lý luận và thực tiễn về cơ cấu tổ chức, thẩm quyền, các yếu tố bảo
đảm thực hiện quyền tư pháp trong tố tụng hình sự của Tịa án hiện nay.
Thứ năm, luận án đưa ra giải pháp tổng thể nâng cao chất lượng, hiệu quả thực
hiện quyền tư pháp trong tố tụng hình sự hiện nay. Mặc dù, đã có nhiều tác giả đưa ra
các giải pháp về vấn đề này nhưng chỉ dừng lại ở những vấn đề cụ thể, chưa có tính
tổng thể.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận án nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn thực hiện
quyền tư pháp trong tố tụng hình sự Việt Nam trong bối cảnh xây dựng Nhà nước
6
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cải cách tư pháp và quá trình hội nhập quốc tế. Kết quả
nghiên cứu bổ sung vào lý luận về quyền lực nhà nước và quyền tư pháp, thực hiện
quyền tư pháp nói chung và thực hiện quyền tư pháp trong tố tụng hình sự nói riêng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo đối với
hoạt động nghiên cứu và giảng dạy về quyền tư pháp, thực hiện quyền tư pháp, thực
hiện quyền tư pháp trong tố tụng hình sự; đồng thời là nguồn tham khảo trong việc
sửa đổi, bổ sung pháp luật về tố tụng hình sự, thực hiện một số hoạt động, nhiệm vụ
cải cách tư pháp trong thời gian tới.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án được cấu
trúc thành 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2: Những vấn đề lý luận về thực hiện quyền tư pháp trong tố tụng
hình sự Việt Nam
Chương 3: Thực trạng thực hiện quyền tư pháp trong tố tụng hình sự Việt Nam
Chương 4: Yêu cầu và giải pháp bảo đảm thực hiện quyền tư pháp trong tố
tụng hình sự ở nước ta hiện nay
7
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu trong nƣớc và ngồi nƣớc về quyền tƣ
pháp, thực hiện quyền tƣ pháp và thực hiện quyền tƣ pháp trong tố tụng hình sự
1.1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
1.1.1.1. Một số vấn đề lý luận về quyền tư pháp, thực hiện quyền tư pháp và
thực hiện quyền tư pháp trong tố tụng hình sự
- Quan niệm về quyền tư pháp, bài viết, Về quyền tư pháp trong nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở nước ta, Tạp chí Nhà nước
và pháp luật, số 8/2003 của tác giả Võ Khánh Vinh cho rằng, quyền tư pháp là khả
năng và năng lực riêng có của các cơ quan Tịa án chiếm vị trí đặc biệt trong bộ máy nhà
nước thực hiện để tác động đến hành vi của con người, đến các quá trình xã hội. Bài
viết, Hệ thống tư pháp, hệ thống tư pháp hình sự và hệ thống pháp luật về đấu tranh
chống tội phạm trong nhà nước pháp quyền, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số
4/2010 của tác giả Lê Văn Cảm quan niệm, quyền tư pháp được thực hiện bởi hệ
thống các cơ quan tư pháp và cơ quan tư pháp được hiểu rất rộng, ngoài cơ quan xét
xử Tòa án nhân dân (TAND), cơ quan điều tra (CQĐT), cơ quan công tố và cơ quan
hay tổ chức bổ trợ tư pháp như: Luật sư, Công chứng, giám định, tư vấn pháp luật.
- Quan niệm thực hiện quyền tư pháp, đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước
năm 2003, Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện các thủ tục tư pháp, nâng cao
hiệu quả và hiệu lực xét xử của Tòa án trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân (mã số KX.04.06), chủ nhiệm đề tài Uông Chu Lưu
cho rằng, thực hiện quyền tư pháp về thực chất là việc các cơ quan, cá nhân có thẩm
quyền áp dụng pháp luật vào việc phát hiện, xem xét, đánh giá một cách khách
quan, chính xác, cơng bằng về tính đúng đắn, hợp pháp các hành vi hay sự kiện,
tranh chấp, đưa ra các phán quyết có hiệu lực bắt buộc thi hành và khi cần sẽ được
cưỡng chế thi hành đối với những cá nhân, tổ chức có liên quan, góp phần bảo vệ
pháp luật, duy trì cơng lý, bảo đảm sự an tồn pháp lý cho công dân, sự ổn định và
phát triển xã hội.
8
- Về chủ thể thực hiện quyền tư pháp, bài viết, Bàn về quyền tư pháp trong nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Tạp chí Luật học số 8/2010 của tác giả Đào Trí
Úc, bài tham luận, Quyền tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tại
Hội thảo khoa học cấp bộ Quyền tư pháp - cơ chế thực hiện và kiểm soát do Viện khoa
học pháp lý tổ chức tháng 12/2012 của tác giả Nguyễn Văn Cương, bài viết, Độc lập
tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm cho Tòa án thực
hiện đúng đắn quyền tư pháp đăng trên trang điện tử nhandan.com.vn ngày
10/9/2014 của tác giả Trương Hịa Bình, đều cho rằng chủ thể thực hiện quyền tư pháp
là Tòa án. Bài viết, Bàn về cơ quan thực hiện quyền tư pháp theo Hiến pháp 2013 đăng
trên Tạp chí Tịa án nhân dân, số 9/2016 của tác giả Hồng Minh Sơn đã sơ lược về cơ
quan thực hiện quyền tư pháp ở Việt Nam trước năm 2013, bài viết, Điểm mới trong
Hiến pháp năm 2013 về phân công quyền lực giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp của
tác giả Nguyễn Mạnh Hùng và Võ Hồng Tú, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 12/2016
khẳng định: chỉ có Tồ án mới thực hiện quyền tư pháp và quyền tư pháp tập trung
cho Tồ án chứ khơng chia sẻ cho các cơ quan khác như CQĐT, VKS.
- Về đặc điểm thực hiện quyền tư pháp, đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà
nước năm 2003, Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện các thủ tục tư pháp,
nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của Tòa án trong nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân (mã số KX.04.06), chủ nhiệm đề tài Uông Chu
Lưu chỉ ra, đặc trưng của thực hiện quyền tư pháp là hoạt động áp dụng pháp luật;
là một bộ phận kiểm tra, kiểm soát xã hội; được thực hiện bằng nhiều hoạt động độc
lập với các chức năng riêng, theo một quy trình chặt chẽ, tuân thủ nguyên tắc, thủ
tục nghiêm ngặt trên phương thức đặc thù, bài viết, Bài viết, Về quyền tư pháp và
các nguyên tắc cải cách tư pháp trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam hiện hành của tác giả Lê Văn Cảm, Tạp chí Tịa án nhân dân, số 21/2014, chỉ
ra bản chất của quyền tư pháp trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đương
đạị là: quyền tư pháp là nhánh quyền lực nhà nước được bảo đảm bởi sự lãnh đạo
của Đảng để độc lập với quyền lập pháp và quyền hành pháp; là một trong ba chức
năng độc lập của quyền lực nhà nước và là thẩm quyền riêng biệt chỉ của một hệ
9
thống cơ quan độc lập trong bộ máy công quyền của Nhà nước - Cơ quan tư pháp (Tòa
án); là quyền lực thực hiện hoạt động xét xử và hoạt động giải quyết những xung đột
giữa các quan hệ xã hội chỉ của một loại cơ quan tố tụng (tài phán) duy nhất (Tòa án)
để đưa ra các phán quyết mang tính pháp lý về các vụ việc tương ứng trong các lính
vực khác nhau của đời sống xã hội; có sứ mệnh cao cả là thực thi cơng lý, bảo vệ các
quyền và tự do của con người và của cơng dân cũng như các lợi ích hợp pháp của Nhà
nước và xã hội, đồng thời góp phần bảo vệ hịa bình và an ninh của nhân loại, hỗ trợ
cho cuộc đấu tranh phòng và chống các vi phạm pháp luật (kể cả tội phạm).
- Nội dung thực hiện quyền tư pháp, bài viết, Khi Hiến pháp chính thức giao
quyền Tòa án thực hiện quyền tư pháp đăng trên Tạp chí Tịa án nhân dân, Số
7/2013 của tác giả Nguyễn Minh Đoan cho rằng, TAND ở Việt Nam chưa được trao
quyền tư pháp một cách chính thức quyền giải thích pháp luật, quyền tuyên (phán
quyết) một hành vi hay văn bản nào đó của các tổ chức hay cá nhân vi phạm Hiến
pháp. Bài viết, Sửa đổi hay ban hành Hiến pháp mới thay cho Hiến pháp năm 1992,
Kỷ yếu hội thảo Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội, Hà Nội tháng 10/2010 của tác giả Phạm Hồng Thái cho rằng, quyền tư
pháp bao gồm quyền xét xử các vụ án hình sự (VAHS), dân sự, kinh tế, lao động,
hơn nhân gia đình và hành chính của Tịa án, quyền cơng tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp của Viện kiểm sát (VKS), quyền thực hiện các hoạt động hành chính tư pháp của các cơ quan, thể chế khác của Nhà nước và xã hội. Bài viết, Bảo đảm
thực hiện quyền tư pháp của tòa án nhân dân theo quy định của Hiến pháp và đổi
mới tổ chức hoạt động của tòa án nhân dân theo tinh thần cải cách tư pháp”của tác
giả Lê Văn Minh, Tạp chí Tịa án nhân dân, Số 3/2014 cho rằng, Tịa án khơng chỉ
là cơ quan xét xử mà cần phải được giao quyền phán quyết đối với mọi hành vi vi
phạm pháp luật, kể cả các vi phạm hành chính, giám sát hoặc quyết định việc quyết
định áp dụng các biện pháp có tính chất hạn chế quyền con người, quyền cơng dân,
bảo đảm áp dụng thống nhất trong xét xử, xây dựng và phát triển án lệ.
- Về nguyên tắc thực hiện quyền tư pháp, đề tài khoa học cấp bộ năm 2016,
Quyền tư pháp theo quy định của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, chủ nhiệm đề tài,
10
Phó Thủ tướng Trương Hịa Bình cho rằng, độc lập tư pháp được coi là nguyên tắc
quan trọng nhất đối với tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án, đề tài nghiên cứu
khoa học cấp nhà nước năm 2003, Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện các
thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của Tòa án trong nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân (mã số KX.04.06), chủ nhiệm
đề tài Uông Chu Lưu đã chia hệ thống các nguyên tắc thành các nhóm: các ngun
tắc có tính chất nền tảng về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước vận dụng
trong lĩnh vực tư pháp; các nguyên tắc chung chỉ đạo tổ chức thực hiện quyền tư
pháp; một số nguyên tắc cụ thể, riêng, đặc thù cho từng loại hoạt động tư pháp, từng
loại tố tụng trong đó tác giả phân tích các nguyên tắc đặc thù trong tố tụng hình sự
(TTHS) như: khơng ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tịa án đã có
hiệu lực pháp luật, nguyên tắc xác định sự thật vụ án. Sách chuyên khảo, Về nguyên
tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự của tác giả Nguyễn Văn Hiển xuất bản năm
2011 phân tích một cách có hệ thống, tồn diện các vấn đề lý luận của nguyên tắc
tranh tụng trong các mơ hình TTHS, khả năng xây dựng và áp dụng có hiệu quả
nguyên tắc này phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam.
- Về mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, tác giả Võ
Khánh Vinh trong Giáo trình các cơ quan bảo vệ pháp luật, Nhà xuất bản Công an
nhân dân năm 2012 khẳng định, những hành vi, những biện pháp của CQĐT đã mở
đầu cho quá trình tố tụng. CQĐT chính vì vậy có vai trị to lớn nhất trong việc phát
động các quan hệ TTHS. Tơ Văn Hịa trong sách chun khảo, Những mơ hình tố
tụng hình sự điển hình trên thế giới, Nhà xuất bản Hồng Đức năm 2012 cho rằng,
kết quả hoạt động của CQĐT, VKS chỉ đóng vai trị cung cấp nguồn thơng tin đầu
vào phục vụ cơng việc xét xử của Tịa án. Tịa án khi thực hiện chức năng xét xử là
thực hiện đầy đủ và rõ ràng nhất quyền tư pháp.
- Vấn đề kiểm soát thực hiện quyền tư pháp trong TTHS, bài viết Vấn đề
kiểm soát việc thực hiện quyền tư pháp giữa VKS và Tịa án trong TTHS đăng trên
thơng tin điện tử của Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội của tác giả Phạm Mạnh
Hùng cho rằng, theo quy định của Hiến pháp năm 2013, VKS có chức năng kiểm
11
sát các hoạt động tư pháp trong đó có cả hoạt động xét xử VAHS của Tòa án. Vấn
đề đặt ra là quyền tư pháp là của Tịa án thì có nên coi hoạt động xét xử của Tịa án
là đối tượng kiểm sát của VKS không? Theo hiến định hoạt động xét xử là hoạt
động tư pháp vẫn thuộc quyền kiểm sát của VKS. Bài viết Quyền tư pháp và thực
hiện quyền tư pháp ở Việt Nam hiện nay của tác giả Nguyễn Đức Bình đăng trên
Tạp chí Tịa án nhân dân, Số 5/2014, cho rằng kiểm soát quyền lực tư pháp cần có
sự kết hợp hợp lý giữa kiểm sốt từ bên ngồi và kiểm sốt từ bên trong, trong đó
nhấn mạnh cơ chế kiểm sốt nội bộ, theo hướng cơ quan xét xử cấp trên kiểm tra,
giám sát cơ quan xét xử cấp dưới để đảm bảo tối đa nguyên tắc độc lập, khách quan
khi thực hiện quyền lực tư pháp.
- Về sự lãnh đạo của Đảng đối với thực hiện quyền tư pháp, bài viết, Chiến
lược CCTP- Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số
9/2004 của tác giả Đào Trí Úc khẳng định, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam vừa là yếu tố khách quan của quá trình phát triển và đổi mới đất nước, vừa là
điều kiện không thể thiếu được bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp CCTP.
- Về vị trí, vai trị của cơ quan bổ trợ tư pháp, bài tham luận, Nâng cao vị trí,
vai trị của các cơ quan bổ trợ tư pháp trong cơ chế phân cơng và kiểm sốt quyền
tư pháp trong Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay tại Hội thảo khoa học cấp bộ
Quyền tư pháp - Cơ chế thực hiện và kiểm soát do Viện khoa học pháp lý tổ chức
tháng 12/2012 của tác giả Lưu Bình Nhưỡng cho rằng, các hoạt động bổ trợ tư pháp
đều liên quan đến hoạt động tư pháp, tức là hoạt động bảo vệ công lý, xét xử của Tịa
án, góp phần vào việc đánh giá sự thật khách quan, tính đúng đắn của pháp luật, các
phán quyết liên quan đến quyền, lợi ích của cá nhân, tổ chức, cơ quan.
- Về yếu tố bảo đảm độc lập của Tòa án trong thực hiện quyền tư pháp và
thực hiện quyền tư pháp trong TTHS, luận án tiến sỹ luật học, Các yếu tố bảo đảm
độc lập xét xử ở Việt Nam hiện nay của nghiên cứu sinh Nguyễn Hải Ninh bảo vệ
năm 2013, đã làm rõ những vấn đề lý luận về sự hình thành và phát triển tư tưởng
độc lập xét xử, khái niệm về độc lập xét xử, giá trị, ý nghĩa về độc lập xét xử, quan
niệm khoa học về các yếu tố bảo đảm độc lập xét xử, các yếu tố đặc thù bảo đảm
12
độc lập xét xử ở Việt Nam. Nguyễn Đăng Dung và Vũ Công Giao trong bài viết, Tư
pháp độc lập: một số vấn đề lý luận và thực tiễn in trong sách Hiến pháp: những vấn đề
lý luận và thực tiễn cho rằng, nội dung của nguyên tắc độc lập được thể hiện ở ba khía
cạnh: Tịa án phải độc lập về mặt thể chế; Tịa án phải có hành chính nội bộ riêng;
quyết định của Tịa án khơng bị sự can thiệp của các chủ thể khác trong xã hội.
1.1.1.2. Thực trạng thực hiện quyền tư pháp trong tố tụng hình sự
- Về sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của Tòa án, Lê Văn
Minh trong bài viết, Những ưu điểm, hạn chế, vướng mắc của hệ thống tổ chức Tòa
án Việt Nam đối chiếu với các nguyên tắc cơ bản về tổ chức bộ máy nhà nước thuộc
đề tài KHBĐ (2009) về Đổi mới hệ thống Tòa án Việt Nam theo định hướng CCTP
- thực trạng và giải pháp, đã nêu những bất cập, hạn chế trong việc chỉ đạo của cấp
ủy Đảng đối với các vụ án quan trọng. Nguyễn Văn Hiện trong Đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác Tịa án, đăng trên Tạp chí cộng sản số 17
(2005) đã nêu quan điểm trong việc chỉ đạo của cấp ủy Đảng đối với việc xem xét,
giải quyết các vụ án.
- Về vị trí, vai trị và cơ cấu tổ chức của Tòa án trong TTHS, bài tham luận,
Vị trí, vai trị của Tịa án trong tổ chức bộ máy nhà nước theo nguyên tắc của Nhà
nước pháp quyền thực tiễn và phương hướng hoàn thiện tại Hội thảo khoa học cấp
bộ Quyền tư pháp - cơ chế thực hiện và kiểm soát do Viện khoa học pháp lý tổ chức
tháng 12/2012 của tác giả Tơ Văn Hịa khẳng định, trong TTHS, Tòa án cần phải là
người phán xử khách quan trong quy trình tố tụng tư pháp mang tính chất tranh tụng và
Tịa án với vai trị của cơ quan thực hiện quyền tư pháp không thể bị đặt vào vị trí theo
thiên hướng buộc tội hoặc gỡ tội. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước năm
2011, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản về quyền tư pháp của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam giai đoạn 2011 -2020 (Mã số: CT 09 - 16 09) của Viện Nhà nước và pháp luật do Nguyễn Đức Minh làm chủ nhiệm đề tài đã
đưa ra mơ hình TTHS thẩm vấn kết hợp với mơ hình TTHS tranh tụng. Sách chuyên
khảo, Cải cách tư pháp vì một nền tư pháp liêm chính của Viện chính sách cơng và
pháp luật, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2014, xác định vị trí trung tâm
13
của Tòa án trong chiến lược CCTP ở Việt Nam, nhấn mạnh việc bảo đảm quyền con
người trong TTHS. Triển vọng và thách thức của Tòa án với CCTP. Sách chuyên
khảo, Hệ thống Tòa án của một số nước trên thế giới (Kinh nghiệm cho Việt Nam)
đồng tác giả Trương Hịa Bình, Ngơ Cường, xuất bản năm 2014, khái qt hệ thống
Tòa án của 13 quốc gia trên thế giới đại diện cho cả ba truyền thống pháp luật, với
từng Tịa án, tác giả tập trung phân tích, so sánh với sáu nội dung chính: vị trí, chức
năng; mơ hình tổ chức; giải thích pháp luật thơng qua cơng tác xét xử; đào tạo và
bồi dưỡng Thẩm phán; bổ nhiệm Thẩm phán và mơ hình quản lý Tịa án. Nguyễn
Mạnh Kháng trong bài viết, Bàn về chức năng tố tụng của Tòa án và vấn đề độc lập
của hoạt động xét xử, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 10/2008 cho rằng, Tịa án
ngồi chức năng truyền thống là xét xử được trang bị thêm chức năng khởi tố vốn dĩ
thuộc về cơ quan công tố. Quy định như vậy có lẽ khơng phù hợp với u cầu về
phân định chức năng tố tụng.
- Về nguyên tắc thực hiện quyền tư pháp trong TTHS, sách chuyên khảo,
Về nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự của tác giả Nguyễn Văn Hiển
xuất bản năm 2011, đánh giá khách quan thành công cùng những hạn chế, bất
cập, nguyên nhân của những hạn chế, bất cập trong xây dựng và tổ chức thi hành
pháp luật về vấn đề tranh tụng trong TTHS Việt Nam. Nguyễn Thái Phúc trong
Một số vấn đề về quyền công tố của Viện kiểm sát, Kỷ yếu Đề tài khoa học cấp
Bộ năm 1999 của Viện khoa học kiểm sát - VKSND tối cao khẳng định, thực
hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự trên thực tế sẽ trở thành yếu tố đối trọng
với chức năng buộc tội của cơ quan tiến hành tố tụng. TTHS không thể được
thừa nhận là dân chủ khi chức năng buộc tội khơng có đối trọng là chức năng
bào chữa. Bài viết, Cải cách tư pháp trong tổ chức quyền lực nhà nước của
Nguyễn Đăng Dung, Tạp chí khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, luật học số 25
năm 2009 phân tích sâu sắc thực trạng nguyên tắc độc lập tư pháp ở Việt Nam
hiện nay, những thành công và tồn tại trong công cuộc đổi mới và xây dựng Nhà
nước pháp quyền hiện nay.
14
- Về cơ chế thực hiện và kiểm soát quyền tư pháp, bài viết, Cơ chế thực hiện
và kiểm soát quyền tư pháp ở Việt Nam: Thực tiễn và phương hướng hoàn thiện của
tác giả Nguyễn Đăng Dung trong cuốn Cải cách tư pháp vì một nền tư pháp liêm
chính, Nhà xuất bản Quốc gia Hà Nội, năm 2014 đã chỉ ra những thách thức trong
tư pháp ở Việt Nam là hoạt động tư pháp ở Việt Nam khơng hồn tồn giống như
các Nhà nước tư bản khơng chỉ bao gồm cơ quan xét xử mà cịn có các CQĐT, công
tố, cơ quan bảo trợ tư pháp; nguyên tắc độc lập của Tòa án chưa được tuân thủ một
cách triệt để; khi xét xử không theo nguyên tắc tranh tụng; nguyên tắc tập quyền
trong tổ chức quyền lực nhà nước; tâm lý của người Việt Nam vẫn còn tư tưởng
ngại đến Tòa án. Hoạt động giám sát quyền tư pháp, đề tài nghiên cứu khoa học cấp
nhà nước năm 2011, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản về quyền tư pháp của
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 (Mã số: CT
09 - 16 -09) của Viện Nhà nước và pháp luật do Nguyễn Đức Minh làm chủ nhiệm
đề tài đánh giá thực trạng giám sát của các thiết chế quyền lực nhà nước đối với
quyền tư pháp; giám sát của Quốc hội đối với TAND tối cao thông qua xem xét các
báo cáo về tư pháp, bản án đã xét xử, chất vấn, bỏ phiếu tín nhiệm, giám sát phẩm
chất đạo đức của cán bộ tư pháp; giám sát xã hội đối với quyền tư pháp. Lưu Tiến
Dũng trong sách Độc lập xét xử trong Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, đánh giá
trên thực tế vẫn tồn tại một số bất cập nhất định trong cơ chế giám sát của Quốc hội
đối với công tác xét xử của ngành Tòa án, làm ảnh hưởng đến sự độc lập của Tòa án.
- Vấn đề nhân sự thực hiện quyền tư pháp, luận án tiến sỹ luật học, Các yếu
tố bảo đảm độc lập xét xử ở Việt Nam hiện nay của nghiên cứu sinh Nguyễn Hải
Ninh bảo vệ năm 2013, phân tích thực trạng về tuyển dụng, bổ nhiệm, nhiệm kỳ,
điều kiện công tác, cơ chế kỷ luật đối với Thẩm phán. Tơ Văn Hịa trong Tính độc
lập của Tòa án - nghiên cứu pháp lý về các khía cạnh lý luận, thực tiễn ở Đức, Mỹ,
Pháp, Việt Nam và các kiến nghị đối với Việt Nam, Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội
năm 2007 cho rằng, cơ chế kỷ luật hiện đang áp dụng cho Thẩm phán Việt Nam có
ảnh hưởng tiêu cực cho thực hiện quyền tư pháp. Các hình thức kỷ luật phức tạp và
khó hiểu, thậm chí là đối với ngay cả Thẩm phán. Trong một số hình thức kỷ luật
15
hồn tồn khơng có các quy định về thủ tục khiếu nại. Những điều này dẫn đến tình
trạng các Chánh án Tịa án tỉnh, Chánh án TAND tối cao có vai trò quan trọng, chi
phối và quyết định vấn đề kỷ luật Thẩm phán.
- Về hoạt động bổ trợ tư pháp, nhận thức về bổ trợ tư pháp chưa đầy đủ dẫn
đến tư duy coi nhẹ hoặc chưa đặt bổ trợ tư pháp vào đúng vị trí cần thiết trong các
hoạt động tư pháp, người làm công tác bổ trợ tư pháp còn thiếu về số lượng và yếu
về chất lượng, hoạt động giám sát của bổ trợ tư pháp đối với việc thực thi của Tòa
án thiếu cơ chế pháp lý, thiếu sự thừa nhận công cộng là những nội dung được thể
hiện trong bài tham luận, Nâng cao vị trí, vai trị của các cơ quan bổ trợ tư pháp trong
cơ chế phân cơng và kiểm sốt quyền tư pháp trong Nhà nước pháp quyền ở nước ta
hiện nay tại Hội thảo khoa học cấp bộ Quyền tư pháp - Cơ chế thực hiện và kiểm soát
do Viện khoa học pháp lý tổ chức tháng 12/2012 của tác giả Lưu Bình Nhưỡng.
- Về những yếu tố tác động đến hoạt động xét xử của Tòa án, bài viết, Những
yếu tố tác động đến hoạt động xét xử và nhu cầu phương hướng nâng cao hiệu quả
ở nước ta hiện nay của tác giả Đoàn Đức Lương đăng trên Tạp chí khoa học, Đại
học Huế, số 47 năm 2008 đã chỉ ra nhiều yếu tố tác động đến hoạt động xét xử của
Tịa án, tình trạng xét xử oan sai vẫn cịn tồn tại. Trong tiến trình hội nhập và cải
cách ở nước ta, Tòa án giữ vai trò trung tâm của cải cách. Tác giả đã phân tích các
yếu tố tích cực, các yếu tố ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động xét xử.
- Vấn đề quản lý ngân sách của Tịa án, Tơ Văn Hịa trong Tính độc lập của
Tòa án - nghiên cứu pháp lý về các khía cạnh lý luận, thực tiễn ở Đức, Mỹ, Pháp,
Việt Nam và các kiến nghị đối với Việt Nam, Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội năm
2007 cho rằng, sự phụ thuộc của Tòa án, đặc biệt là các Tịa án địa phương vào các
cơ quan hành chính địa phương khơng cịn lớn như trước. Ngành Tịa án tự dự thảo
ngân sách cho mình theo nhu cầu và sau đó trực tiếp quản lý chi tiêu các khoản
ngân sách đó.
1.1.1.3. Một số giải pháp bảo đảm thực hiện quyền tư pháp trong tố tụng hình sự
- Về sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của Tòa án, bài viết
Đảng lãnh đạo các cơ quan tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền
16
XHCN của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân của tác giả Nguyễn Văn Quyền
đăng trên trên Tạp chí Cộng sản số 2/2007 cho rằng, cần phân loại rõ và cân nhắc
kỹ những loại việc nào, trường hợp nào cần báo cáo, xin ý kiến chỉ đạo của cấp ủy,
những loại việc nào, trường hợp nào do đồng chí cấp ủy viên được phân cơng chỉ
đạo cơng tác nội chính sẽ chủ trì cùng các ngành bàn bạc, giải quyết rồi báo lại để
cấp ủy biết. Lê Văn Minh trong bài viết Những ưu điểm, hạn chế, vướng mắc của hệ
thống tổ chức Tòa án Việt Nam đối chiếu với các nguyên tắc cơ bản của tổ chức bộ
máy nhà nước, kiến nghị phương thức lãnh đạo của Đảng đối với cơ quan Tòa án
phải bằng các quy định cụ thể hoặc quy chế cụ thể nhằm gắn tính thuyết phục, giáo
dục với tính bắt buộc, phục tùng.
- Về vị trí, vai trị và cơ cấu tổ chức của TAND, theo tác giả Lê Văn Minh
trong bài, Bảo đảm thực hiện quyền tư pháp của Tòa án nhân dân theo quy định
của Hiến pháp và đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân theo tinh
thần cải cách tư pháp đăng trên Tạp chí Tịa án nhân dân, số 3/2014 đề xuất, về
chức năng, quyền hạn của Tịa án, ngồi xét xử phải được giao quyền phán quyết
đối với mọi hành vi vi phạm pháp luật giám sát hoặc quyết định việc quyết định áp
dụng các biện pháp có tính chất hạn chế quyền con người, quyền cơng dân trong
q trình xử lý các vụ việc của CQĐT, VKS, cơ quan thi hành án (THA). Việc áp
dụng pháp luật trong xét xử phải bảo đảm tính thống nhất. Việc xác định địa vị pháp
lý của Tòa án, Thẩm phán, các chức danh tư pháp của Tòa án, các nguyên tắc tổ
chức và hoạt động và việc bảo đảm cho hoạt động của Tòa án phải được xử lý theo
đúng tính chất, đặc điểm riêng có và đặc thù của cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư
pháp. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước năm 2003, Cải cách các cơ quan tư
pháp, hoàn thiện các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của
Tòa án trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân (mã
số KX.04.06), chủ nhiệm đề tài ng Chu Lưu đã đưa ra bản thiết kế mơ hình tổ
chức của các cơ quan tư pháp và bổ trợ tư pháp: Tòa án, VKS, CQĐT, THA, các
tổ chức luật sư, tư vấn pháp luật, giám định tư pháp, công chứng…Viện chính sách
cơng và pháp luật trong Cải cách tư pháp vì một nền tư pháp liêm chính, Nhà xuất
17
bản Đại học Quốc gia, Hà Nội năm 2014, khi đưa ra vấn đề về mối quan hệ giữa các
Tòa án khẳng định: để mối quan hệ giữa các cấp Tòa án đơn thuần là mối quan hệ tố
tụng mà không phải là mối quan hệ vừa là quan hệ tố tụng vừa là quan hệ hành chính tổ chức như hiện nay. Ở Tịa án chỉ có quan hệ giữa tòa “cấp cao hơn” và “cấp thấp
hơn” về thẩm quyền tố tụng mà khơng có “Tịa cấp trên” và “Tòa cấp dưới”.
- Về cơ chế thực hiện và kiểm soát quyền tư pháp, Nguyễn Đăng Dung trong
bài tham luận, Cơ chế thực hiện và kiểm soát quyền tư pháp ở Việt Nam - thực tiễn
và phương hướng hoàn thiện tại Hội thảo khoa học cấp bộ Quyền tư pháp - Cơ chế
thực hiện và kiểm soát do Viện khoa học pháp lý tổ chức tháng 12/2012 đưa ra
phương hướng hồn thiện với việc quyền tư pháp khơng những chỉ được phân công,
phân nhiệm rõ ràng để không nhầm lẫn với các quyền khác, mà còn phải tiến tới
chỗ mở rộng đối tượng xét xử của các hành vi của hành pháp và lập pháp; đảm bảo
cho Tòa án độc lập - chính là đảm bảo cho Thẩm phán độc lập.
- Vấn đề nhân sự trong thực hiện quyền tư pháp, Phạm Văn Lợi trong Chế
định thẩm phán - một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội
năm 2004, khẳng định Thẩm phán phải luôn là người khách quan, vô tư và hoạt
động độc lập. Vị trí của Thẩm phán được phản ánh chủ yếu qua sự độc lập của họ. Ít
có lĩnh vực nào lại địi hỏi sự chí cơng, vơ tư cao và phụng công thủ pháp như đối
với Thẩm phán. Bài viết, Độc lập tư pháp trong Nhà nước pháp quyền XHCN, bảo
đảm cho Tòa án thực hiện đúng đắn quyền tư pháp đăng trên trang điện tử
nhandan.com.vn ngày 10/9/2014 của tác giả Trương Hịa Bình, cho rằng, năng lực,
đạo đức và tăng cường trách nhiệm của Thẩm phán, Hội thẩm về phán quyết của
mình, buộc họ phải độc lập, công tâm, bảo vệ công lý, thực hiện đúng đắn quyền tư
pháp và nghiêm cấm các hành vi can thiệp vào hoạt động xét xử; bài viết đặt ra, cần
có quy định chặt chẽ, cụ thể, chi tiết về chuẩn mực đạo đức, cũng như những hành vi
Thẩm phán không được làm hoặc phải tránh. Việc kỷ luật Thẩm phán phải được xem
xét minh bạch, độc lập; nhiệm kỳ của Thẩm phán cần bảo đảm lâu dài; bảo đảm chế
độ lương, tuổi về hưu và chế độ chính sách hợp lý đối với Thẩm phán; mối quan hệ
giữa quản lý hành chính với độc lập tư pháp và bảo đảm ngân sách cho Tòa án.
18
- Về các yếu tố bảo đảm thực hiện quyền tư pháp của Tòa án, bài viết, Cải
cách tư pháp trong tổ chức quyền lực nhà nước của Nguyễn Đăng Dung, Tạp chí
khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Luật học số 25 năm 2009 đã chỉ ra, trong một
Nhà nước pháp quyền cần phải có sự phân quyền giữa lập pháp, hành pháp và tư
pháp, tầm quan trọng phải phân quyền của cành quyền lực tư pháp vì cơng lý và
quyền lực có mối quan hệ mật thiết với nhau và hoạt động của Tịa án là tìm ra công
lý, công bằng cho tất cả mọi người, trọng tâm của công tác CCTP hiện nay là bảo
đảm cho ngun tắc Tịa án độc lập có hiệu lực trên thực tế. Bài viết, Độc lập tư pháp
trong Nhà nước pháp quyền XHCN, bảo đảm cho Tòa án thực hiện đúng đắn quyền
tư pháp đăng trên trang điện tử nhandan.com.vn ngày 10/9/2014 của tác giả Trương
Hịa Bình đề cập đến các yếu tố bảo đảm cho sự độc lập của Tòa án như cần phải
nhận thức đúng đắn về Tòa án - Cơ quan thực hiện quyền tư pháp, bảo vệ cơng lý.
Sách chun khảo, Cải cách tư pháp vì một nền tư pháp liêm chính của Viện chính
sách cơng và pháp luật, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2014, đặt ra vấn đề
liêm chính tư pháp những vấn đề và giải pháp với nội dung chủ yếu của liêm chính
tư pháp trong q trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam
hiện nay, những nhân tố ảnh hưởng đến sự độc lập của Tòa án, cơ chế giám sát hoạt
động của các cơ quan tư pháp, giám sát việc thực hiện quyền tư pháp. Đề tài khoa
học cấp bộ năm 2016, Quyền tư pháp theo quy định của Luật Tổ chức Tòa án nhân
dân, chủ nhiệm đề tài, Phó Thủ tướng Trương Hịa Bình đưa ra một số đề xuất để Tịa
án thực hiện tốt quyền tư pháp như độc lập tư pháp, bổ sung quy định Tịa án phải
kiểm sốt chặt chẽ các biện pháp ngăn chặn có liên quan đến quyền tự do của con
người, thẩm quyền của Tòa án đối với chứng cứ, thẩm quyền khởi tố VAHS của
Tòa án, vai trò của Tòa án trong việc nâng cao hiệu quả THA, cơ chế và thẩm quyền
của Tòa án trong việc bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, vai trò của Tòa án trong
việc đảm bảo áp dụng thống nhất pháp luật và chức năng công bố án lệ…
- Về ngân sách cho Tịa án, Trương Hịa Bình trong bài phát biểu trước Ủy
ban sửa đổi Hiến pháp cho rằng cần quy định ngay trong Hiến pháp về cơ chế phân
bổ ngân sách cho hoạt động Tòa án. Theo đó ngân sách hoạt động của Tịa án sẽ do
19
Chánh án TAND tối cao (hoặc TAND tối cao) trao đổi thống nhất với Thủ tướng
Chính phủ (hoặc Chính phủ) để trình Quốc hội phê chuẩn.
- Về nâng cao vị trí vai trị và hiệu quả hoạt động của các cơ quan bổ trợ tư pháp,
bài tham luận, Nâng cao vị trí, vai trị của các cơ quan bổ trợ tư pháp trong cơ chế
phân cơng và kiểm sốt quyền tư pháp trong Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay
tại Hội thảo khoa học cấp bộ Quyền tư pháp - Cơ chế thực hiện và kiểm soát do Viện
khoa học pháp lý tổ chức tháng 12/2012 của tác giả Lưu Bình Nhưỡng đưa ra một số
giải pháp cụ thể như nâng cao nhận thức, hoàn thiện thể chế, thiết chế bổ trợ tư pháp,
đào tạo, nâng cao năng lực cán bộ bổ trợ tư pháp toàn diện, minh bạch hóa, trong sạch
hóa, xã hội hóa hoạt động bổ trợ tư pháp, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng
cơ chế phối hợp, kiểm soát chéo giữa cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp với các cơ quan
Tịa án, kiểm sát, điều tra, THA.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
1.1.2.1. Một số vấn đề lý luận cơ bản về quyền tư pháp, thực hiện quyền tư pháp
- Khái niệm về quyền tư pháp, cơng trình mang tính sơ khai đầu tiên đặt nền
móng cho nghiên cứu về quyền tư pháp là tác phẩm Tinh thần pháp luật của
Montesquieu (Người dịch: Hoàng Thanh Đạm), Nhà xuất bản Lý luận chính trị, Hà
Nội, 2006 cho rằng, quyền tư pháp được xác định là quyền trừng trị tội phạm, phân xử
tranh chấp giữa các cá nhân. Sự độc lập của quyền tư pháp với quyền lập pháp và
hành pháp, nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền lập pháp thì người ta sẽ độc đoán
đối với quyền sống và quyền tự do của cơng dân, quan tịa sẽ là người đặt ra luật.
Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền hành pháp thì ơng quan tịa sẽ có sức mạnh
của kẻ đàn áp. Nếu một người hay một tổ chức của quan chức, hoặc của quý tộc,
hoặc của dân chúng nắm ln cả ba thứ quyền lực nói trên thì tất cả sẽ mất hết.
- Giám sát của cơ quan lập pháp với cơ quan tư pháp thông qua xét xử của
Tòa án, bài phát biểu tại Hội thảo quốc tế về sự cơng bằng và giám sát Tịa án, Bắc
Kinh, 2004, Legislative supervision of court cases (Giám sát của cơ quan lập pháp
đối với vụ án do Tòa xét xử), Paul Gewirtz, bàn về mối quan hệ giữa nhánh lập
pháp và tư pháp ở Mỹ nhằm khiến Thẩm phán chịu trách nhiệm giải trình và kiềm
20