Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

bai thi tim hieu lich su moi quan he Viet Lao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.95 KB, 17 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>BÀI DỰ THI “TÌM HIỂU LỊCH SỬ QUAN HỆ ĐẶC BIỆT </b>


<b>VIỆT NAM – LÀO, LÀO – VIỆT NAM</b>



Họ tên: Nguyễn Xuân Thắng


Địa chỉ: Trung tâm phát triển quỹ đất huyện Chi Lăng - tỉnh Lạng Sơn
<b> I - L CH S QUAN H Ị</b> <b>Ử</b> <b>Ệ ĐẶC BI T VI T NAM - L O T 1930 Ệ</b> <b>Ệ</b> <b>À</b> <b>Ừ</b> <b>ĐẾN NAY </b>
Từ giữa thập kỷ 80 thế kỷ XX, tình hình quốc tế và khu vực có những biến đổi
chưa từng thấy, xu thế tồn cầu hóa và khu vực hóa tiếp tục tác động sâu sắc đến
mọi quốc gia. Để hội nhập với khu vực và quốc tế, hai nước Việt Nam và Lào
đứng trước một yêu cầu tất yếu phải tiến hành đổi mới, nhằm hoàn thiện chế độ
xã hội của mình và từng bước quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Việc Việt Nam
và Lào xác định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội dài hạn chơ mỗi nước đã
tạo điều kiện thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam – Lào, Lào – Việt
Nam bước vào giai đoạn phát triển mới cao hơn. Căn cứ vào thoả thuận giữa Bộ
Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và Bộ Chính trị Trung ương
Đảng Nhân dân cách mạng Lào tháng 10 năm 1991 và thực hiện Hiệp định hợp
tác giữa hai Chính phủ ký ngày 15 tháng 2 năm 1992, Ủy ban Kế hoạch nhà
nước Việt Nam và Ủy ban Kế hoạch và Hợp tác Lào cùng phối hợp đề ra Chiến
lược hợp tác về kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật giữa Việt Nam và Lào.
Chiến lược này là cơ sở để hai bên phối hợp xây dựng và quyết định các chương
trình và dự án kế hoạch hợp tác trong thời gian tới.


Như vậy, với những điều kiện mới của quốc tế và khu vực, Việt Nam và Lào
đang có cơ hội khai thác vị trí địa lý, tiềm năng và lợi thế của mình nhằm bổ
sung cho nhau cùng phát triển. Việt Nam với thế mạnh về kinh tế biển và vận tải
biển, có thể phát huy vai trò là “cửa ngõ” ngắn nhất ra biển của Lào, để Lào có
điều kiện lưu thơng thương mại quá cảnh với khu vực và quốc tế. Tương tự như
vậy, với tư cách “một trạm trung chuyển” trong nền kinh tế tiểu vùng Mê Cơng
mở rộng, có lợi thế về vận tải và thương mại quá cảnh, Lào có thể giúp Việt
Nam mở rộng thị trường vào nội địa Đông Nam Á, châu Á và thế giới.



<b>Từ khi hai nước tiến hành đổi mới vào năm 1986, quan hệ hợp tác toàn diện</b>
<b>Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam tiếp tục được củng cố, tăng cường và đạt </b>
<b>những thành tựu rất lớn lao :</b>


- Hợp tác trong lĩnh vực chính trị và đối ngoại:


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

hai Bộ Chính trị là văn kiện quan trọng quyết định những phương hướng lớn của
quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam trong từng thời kỳ
và hàng năm.Lĩnh vực hợp tác về đối ngoại từ sau năm 1996 tiếp tục được tăng
cường cả về chiều rộng cũng như chiều sâu, đem lại nhiều kết quả khả quan.
Trong khi triển khai đường lối độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan
hệ đối ngoại, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, Việt Nam và Lào đều
hết sức coi trọng quan hệ đặc biệt giữa hai nước, cam kết giữ gìn và khơng
ngừng phát triển truyền thống q báu đó như một qui luật phát triển và là nhân
tố bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của mỗi nước.
<i><b>- Hợp tác trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh:</b></i>


Từ cuối thập niên 80 và những năm đầu thập niên 90 thế kỷ XX, giữa hai
Chính phủ, giữa hai bộ chức năng là Bộ Nội vụ và Bộ Quốc phòng của hai nước
đều ký những hiệp định, những nghị định về hợp tác, hỗ trợ nhau trong công tác
bảo vệ an ninh và củng cố quốc phòng. Bộ Nội vụ và Bộ Quốc phòng của cả hai
nước đều rất coi trọng việc trao đổi thông tin và kinh nghiệm xây dựng lực
lượng, chống xâm nhập, chống bạo loạn và vơ hiệu hóa các hoạt động diễn biến
hịa bình của kẻ địch. Trong mối quan hệ này, phía Việt Nam ln chủ động và
đảm nhiệm gánh vác các cơng việc khó khăn nhất với phương châm “giúp bạn là
mình tự giúp mình”, “an ninh của bạn cũng chính là an ninh của mình”... Việt
Nam đã hợp tác với Lào củng cố và xây dựng được một lực lượng an ninh Lào
có chất lượng cao, đủ khả năng hoàn thành nhiệm vụ.Sự hợp tác giúp đỡ lẫn
nhau giữa Việt Nam và Lào trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh đã tạo ra một


trong những nhân tố cơ bản thường xuyên, bảo đảm lợi ích trực tiếp về an ninh
và phát triển của mỗi nước, không chỉ tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh
và khả năng phòng thủ của mỗi bên mà còn làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn
chống phá của các thế lực thù địch, đồng thời góp phần khơng nhỏ vào sự
nghiệp đổi mới ở hai nước.


<i><b>- Hợp tác trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật:</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Trong chiến lược phát triển kinh tế, nông nghiệp và phát triển nông thôn là lĩnh
<i>vực kinh tế, xã hội quan trọng được Đảng, Nhà nước ở hai nước ưu tiên phát</i>
<i>triển hàng đầu. Bởi vì nó khơng chỉ là thế mạnh tiềm năng sẵn có của Việt Nam</i>
<i>và Lào, mà cịn có ý nghĩa then chốt đối với nền kinh tế của Lào. </i>


<i>Giáo dục và đào tạo luôn được hai Đảng, hai Nhà nước xác định là một nhiệm</i>
<i>vụ quan trọng, là lĩnh vực hợp tác chiến lược và là biểu hiện của mối quan hệ</i>
<i>đặc biệt Việt Nam – Lào. Việt Nam coi việc đào tạo cho Lào một nguồn nhân</i>
lực có trình độ cao là nhu cầu có tính chiến lược lâu dài, khơng những của Lào
mà cịn phục vụ cho q trình hợp tác của Việt Nam với Lào.


<i>Về giao thông vận tải giai đoạn 1996 – 2000, hai bên đã cùng nhau tìm nguồn</i>
đầu tư nâng cấp hệ thống đường thông thương nối liền hai nước, tạo điều kiện
cho Lào thông thương qua lãnh thổ và cảng biển Việt Nam ra các nước. Hai bên
đã đầu tư quốc lộ 43 (Mộc Châu – cửa khẩu Pa Háng), 6B (Hủa Phăn), đầu tư
xây dựng cửa khẩu Chiềng Khương (Sơn La), quốc lộ 42 Lai Châu – Tây Trang
– Phôngxalỳ). Cải tạo nâng cấp Quốc lộ 9A, cửa khẩu Lao Bảo (Quảng Trị)
-Xavẳnnakhệt; quốc lộ số 8 đi cửa khẩu Cầu Treo (Hà Tĩnh) - Bolikhămxay;
quốc lộ 7 đi cửa khẩu Nậm Cắn (Nghệ An) - Xiêng Khoảng; quốc lộ 217 đi cửa
khẩu Na Mèo (Thanh Hóa) và 6A (Hủa Phăn); Quốc lộ 12A đi cửa khẩu Chalo
(Quảng Bình) – Khăm Muộn. Cải tạo nâng cấp cảng Đà Nẵng, cảng Xuân Hải
và hoàn thành bến I cảng Vũng Áng để phía Lào sử dụng. Hai bên phối hợp


hoàn thành xây dựng cửa khẩu Cầu Treo và Nậm Phạo. Hai bên ký thỏa thuận
về nguyên tắc Việt Nam cho Lào vay ưu đãi xây dựng đường 18B tại Lào.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

những cơ hội hợp tác trong lĩnh vực này. Về phía Việt Nam, Chính phủ đã ban
hành các cơ chế, chính sách hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam
<i>Trong lĩnh vực năng lượng, điểm nổi bật trong giai đoạn 1986 – 1995 là hai bên</i>
đã phối hợp chặt chẽ, khẩn trương thiết kế và thi công một số tuyến đường dây
tải điện 35 KV từ Việt Nam qua Lào.


<i>Hợp tác chuyên gia giai đoạn 1996 - 2000 không ngừng được củng cố, đổi mới</i>
và hoàn thiện cả về cơ chế lẫn hình thức hợp tác. Theo u cầu của phía Lào,
Việt Nam đã cử 475 lượt chuyên gia tập trung vào các lĩnh vực kinh tế (63%),
quốc phòng, an ninh (28%) và các lĩnh vực khác. Trong những năm này, nhiều
đoàn chuyên gia vụ việc quan trọng của Việt Nam được cử sang Lào trao đổi và
xử lý các vấn đề về quản lý vĩ mô (1996), đổi mới doanh nghiệp (1998), tiếp
nhận viện trợ (1999)... Đặc biệt, sự có mặt kịp thời của Đoàn chuyên gia cao cấp
Việt Nam giúp Lào chống lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mơ năm 1999, được
phía Lào đánh giá có hiệu quả cao và thiết thực.


<i><b>- Hợp tác giữa các địa phương và hợp tác biên giới:</b></i>


Quan hệ hợp tác toàn diện và đa dạng giữa các địa phương và hợp tác biên giới
thực sự là nét nổi bật, tạo ra nền tảng và chiều sâu của quan hệ đặc biệt Việt
Nam – Lào, Lào – Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Về chính trị, các tỉnh biên
giới và các địa phương kết nghĩa của hai nước đã cử nhiều đoàn đại biểu Đảng,
chính quyền, đồn thể và các ngành, các cấp…duy trì các hoạt động đối ngoại
chính thức, hoặc trao đổi kinh nghiệm, thống nhất quan hệ hợp tác, giúp đỡ nhau
trên các lĩnh vực. Công tác đối ngoại nhân dân được chú trọng đã tăng cường sự
hiểu biết lẫn nhau, cùng vun đắp mối quan hệ đoàn kết đặc biệt thêm bền chặt.
Đặc biệt, hai bên luôn quan tâm và tạo điều kiện cho thế hệ trẻ, học sinh, sinh


viên được tham gia các hoạt động giao lưu, trao đổi để lớp lớp thế hệ mai sau
ln giữ gìn, bảo vệ và phát triển tình đồn kết hữu nghị đặc biệt Việt Nam –
Lào, Lào – Việt Nam, coi đó là quy luật tồn tại, phát triển của hai nước.


<b>II-MỘT SỐ BIỂU HIỆN SINH ĐỘNG CỦA MỐI QUAN HỆ ĐỒN KẾT,</b>
<b>GẮN BĨ, THỦY CHUNG SON SẮT CỦA HAI DÂN TỘC VIỆT NAM - LÀO</b>
<b>DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA HAI ĐẢNG, HAI NHÀ NƯỚC TRONG NHỮNG</b>
<b>NĂM QUA</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

của hai nước. Trong những lúc cam go, gian khổ nhất, cán bộ, đảng viên, quân
và dân hai dân tộc vẫn sát cánh bên nhau với nghĩa tình “hạt muối cắn đơi, cọng
rau bẻ nửa”, sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp cách mạng chung và vì nền độc lập tự
do của mỗi nước. Trong giai đoạn hồ bình với nhiều điều kiện thuận lợi, hai
dân tộc cũng không ngừng vun đắp mối quan hệ đoàn kết, thủy chung, son sắt để
cùng nhau tiến lên xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.


Sau đây xin nêu một số biểu hiện sinh động của mối quan hệ đồn kết, gắn
bó, thủy chung son sắt của hai dân tộc Việt Nam - Lào dưới sự lãnh đạo của hai
Đảng, hai nhà nước trong những năm qua:


<b> 1- Chủ tịch Hồ Chí Minh và quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào :</b>


<b> “Việt - Lào hai nước chúng ta/Tình sâu hơn nước Hồng Hà - Cửu Long”</b>


<i><b>(Hồ Chí Minh).</b></i>


Khi nói về mối quan hệ nghĩa tình giữa hai Đảng, hai nước, hai dân tộc
Việt Nam và Lào, Bác Hồ kính yêu của chúng ta - Người đã dày công vun đắp
cho mối quan hệ Việt - Lào đã nhấn mạnh, đó là mối “quan hệ đặc biệt”. Và
đúng như vậy, để nói cho hết về mối “quan hệ đặc biệt” ấy cần phải ngược dòng


lịch sử, để lịch sử chứng minh cái nghĩa, cái tình và tấm lịng thủy chung, son
sắt, sát cánh bên nhau của hai Đảng, hai dân tộc Việt - Lào trong cuộc đấu tranh
chống kẻ thù chung, giành độc lập cho dân tộc và cùng nhau xây dựng hịa bình,
hướng tới tương lai hạnh phúc. Nền tảng của quan hệ Việt - Lào xuất phát từ
quan hệ truyền thống lâu đời giữa hai nước láng giềng gần gũi, cùng chung sống
trên bán đảo Đông Dương. Mối quan hệ truyền thống ấy trở nên “đặc biệt” từ
khi Đảng Cộng sản Đơng Dương do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn
luyện (sau này là Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân Cách mạng Lào)
trở thành lực lượng lãnh đạo cách mạng của hai dân tộc Việt Nam và Lào, cùng
sát cánh bên nhau chiến đấu chống kẻ thù chung, xây đắp nên tình đồn kết keo
sơn, thuỷ chung, son sắt Việt - Lào. "Quan hệ đặc biệt” trên tinh thần “giúp bạn
là tự giúp mình”, coi trọng quyền dân tộc tự quyết cũng như tính độc lập, tự chủ
cách mạng của mỗi nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

tộc. Cũng với tình cảm đặc biệt ấy, Đảng, Chính phủ và nhân dân Lào đã dành
phần đất của mình cho Việt Nam mở tuyến đường vận tải chiến lược cho chiến
trường miền Nam (Đường Hồ Chí Minh) và với ý chí “xẻ dọc Trường Sơn đi
cứu nước”, lớp lớp các đoàn quân lên đường ra trận cùng nhân dân chiến đấu
đến thắng lợi cuối cùng bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mùa Xn 1975,
giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Thắng lợi quyết định ấy đã tạo điều
kiện thuận lợi cho cách mạng Lào giành thắng lợi hoàn toàn và lập nên nước
Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào ngày 2-12-1975. Khi nhận định về ý nghĩa
thắng lợi của cách mạng Việt Nam năm 1975, đồng chí Cay-xỏn Phơm-vi-hản,
Tổng Bí thư Đảng Nhân dân cách mạng Lào khẳng định “Do mối quan hệ khăng
khít giữa cách mạng ba nước Lào, Việt Nam, Căm-pu-chia và với tính chất
Đơng Dương là một chiến trường, thời cơ khách quan do thắng lợi hoàn toàn của
nhân dân hai nước anh em đem lại, nhất là của cách mạng Việt Nam, có ý nghĩa
cực kỳ quan trọng đối với cách mạng nước ta (Lào)”. Điều thần kỳ lịch sử đó
cịn phải kể đến một trong những nguyên nhân cơ bản là hai Đảng đã lãnh đạo
nhân dân hai nước luôn trân trọng và biết phát huy mối quan hệ đặc biệt Việt


-Lào.


2- <b>Dưới sự lãnh đạo của hai Đảng, hai Nhà nước, quân dân các dân tộc</b>
<b>Việt Nam - Lào đồn kết bên nhau, chung sức, chung lịng đánh thắng thực</b>
<b>dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược.</b>


<b>- </b><i><b>Tình cảm gắn bó keo sơn giữa hai dân tợc Việt Nam – Lào :</b></i>


<i>Một trong những nhân tố làm nên mối quan hệ đặc biệt Việt Nam- Lào, </i>
<i>Lào-Việt Nam, đó chính là tình cảm gắn bó keo sơn giữa hai Đảng, hai Nhà </i>
<i>nước và hai dân tộc trong những năm tháng chiến tranh trước đây cũng như </i>
<i>trong sự nghiệp xây dựng đất nước hiện nay.</i>


Những năm 1930 - 1939, các cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam và
Lào đã hỗ trợ lẫn nhau, góp phần thúc đẩy sự phát triển phong trào cách mạng
mỗi nước; tiếp đến là giúp nhau tiến hành cuộc vận động khởi nghĩa vũ trang
giành chính quyền thắng lợi (1939 - 1945) và liên minh Việt Nam-Lào, Lào-Việt
Nam chiến đấu chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược (1954-1975).


<i><b>-</b><b>Chiến dịch Thượng Lào - Một biểu tượng của liên minh chiến đấu </b></i>


<i><b>Việt-Lào :</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

vang như nhiệm vụ này, tức là giúp nhân dân nước Bạn. Mà giúp nhân dân nước
Bạn tức là mình tự giúp mình”


Thấm nhuần lời căn dặn thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày
8-4-1953, các đại đồn chủ lực Việt Nam nhận lệnh hành quân sang chiến trường
Thượng Lào theo ba cánh: Cánh chủ yếu gồm các Đại đoàn bộ binh 308, 312 (2
trung đoàn), 316 (1 trung đoàn), từ Mộc Châu theo đường 6 hành quân lên biên


giới Việt-Lào sang Sầm Nưa. Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Hoàng thân
Xu-pha-nu-vơng cùng đi với các đại đồn ở cánh chủ yếu sang Lào. Cánh thứ hai
gồm Đại đoàn Bộ binh 304, từ Nghệ An theo đường số 7 tiến sang Xiêng
Khoảng. Cùng đi theo cánh này về phía Lào có đồng chí Phu-mi Vơng-vi-chít.
Cánh thứ ba gồm Trung đồn bộ binh 148, từ Điện Biên tiến vào lưu vực sông
Nậm U. Trên cơ sở phương án tác chiến chiến dịch, các đơn vị của Việt Nam và
Lào tham gia chiến dịch được giao nhiệm vụ tiến công theo ba hướng:


Trên hướng Sầm Nưa (hướng chủ yếu), phía Việt Nam có các Đại đồn bộ binh
308, 312 (2 trung đồn), 316 (1 trung đồn), có nhiệm vụ đánh tập đồn cứ điểm
Sầm Nưa và Đồn 80 qn tình nguyện Việt Nam (2 đại đội tập trung, 4 đại đội
độc lập, 4 trung đội vũ trang tun truyền). Phía Lào có khoảng 500 bộ đội địa
phương, trong đó có một đại đội tập trung của tỉnh Hủa Phăn và lực lượng dân
quân du kích các huyện Xiềng Khọ, Mường Xon.


Trên hướng Xiêng Khoảng (hướng thứ yếu), phía Việt Nam có Đại đồn
bộ binh 304, có nhiệm vụ đánh vào thị xã Xiêng Khoảng và Đồn 81 qn tình
nguyện Việt Nam (gồm 1 đại đội tập trung, 4 đại đội độc lập, 1 trung đội vũ
trang tun truyền). Phía Lào có khoảng 400 bộ đội địa phương và 1.400 dân
quân du kích Mường Mộc và Bản Thín.


Trên hướng khu vực sơng Nậm U thuộc tỉnh Luổng Phạ-bang (hướng
phối hợp), có Trung đồn bộ binh 148 (Quân khu Tây Bắc) và Đoàn 82 qn
tình nguyện Việt Nam (4 đại đội độc lập). Phía Lào có 1 đại đội tập trung, 5
trung đội bộ đội địa phương và 300 du kích huyện Mường Ngịi.


Trong q trình các đại đồn chủ lực Việt Nam chia làm ba cánh hành
quân từ Việt Nam sang chiến trường Thượng Lào, địch phát hiện lực lượng ta từ
các ngả đang tiến về phía Sầm Nưa. Ngay sau khi nhận được báo cáo của Trung
tá Man-phát-tơ, chỉ huy Phân khu Sầm Nưa, trưa 12-4-1953, Tướng Xa-lăng liền


ra lệnh rút toàn bộ lực lượng khỏi Sầm Nưa hòng tránh bị tiêu diệt khi ta tiến
cơng. Đêm 12-4, tồn bộ lực lượng địch gồm khoảng 1.900 quân lần lượt rút
khỏi thị xã Sầm Nưa và đến trưa 13-4 thì rút hết về phía Mường Hàm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Sau Hiệp định Giơnevơ, theo yêu cầu của Chính phủ Kháng chiến Lào,
Đảng và Nhà nước Việt Nam quyết định để lại một bộ phận chuyên gia tiếp tục
giúp đỡ cách mạng Lào. Tổng số chuyên gia gồm 964 đồng chí. Đây là lực
lượng rất quan trọng đối với cách mạng Lào sau ngày đình chiến.


Thực hiện đề án đấu tranh ở hai tỉnh Sầm Nưa và Phôngxalỳ (là căn cứ tập
kết của lực lượng cách mạng Lào), được sự chỉ đạo phối hợp của Ban cán sự
miền Tây, chuyên gia quân sự Việt Nam đã giúp đỡ bạn xây dựng hai tỉnh thành
các khu chiến đấu liên hồn, đáp ứng tình hình thực tế của từng địa bàn, khả
năng tổ chức, quản lý của cán bộ Lào, đồng thời đề phòng chiến sự lan rộng.
Trong trường hợp bị chia cắt, từng khu có thể đảm bảo độc lập tác chiến; đồng
thời giúp bạn triển khai các mặt công tác chuẩn bị chiến trường, củng cố cơ sở ở
các địa phương tạo địa bàn vững chắc, ngăn chặn địch tấn cơng. Nhờ đó, lực
lượng Pathết Lào không chỉ đẩy lùi các đợt tấn công lấn chiếm của quân đội
Vương quốc Lào, mà còn mở trận đánh lớn thu thắng lợi, diệt được nhiều địch
và mở rộng vùng giải phóng, làm nức lịng nhân dân hai tỉnh Sầm Nưa và
Phơngxalỳ.


Sau khi thành lập Chính phủ liên hiệp Lào lần thứ nhất, Việt Nam đã nhận
đào tạo 330 cán bộ của Pa Thết Lào, nhằm chuẩn bị lực lượng cho phong trào
cách mạng cả nước. Bức thư của Ban chỉ đạo Đảng Nhân dân Lào gửi Ban chấp
hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã khẳng
định: “Trong kháng chiến cũng như trong đấu tranh thực hiện hịa bình, thống
nhất đất nước, cách mạng Lào luôn được sự giúp đỡ tận tình của cách mạng Việt
Nam, Đảng Lao động Việt Nam. Sỡ dĩ cách mạng Lào giành được thắng lợi to
lớn đó...cũng do sự đóng góp quan trọng của đồng chí và Trung ương Đảng Lao


động Việt Nam đã hết lòng giúp đỡ chúng tôi trong mỗi giai đoạn của cách
mạng”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Về quân sự, Việt Nam không chỉ sát cánh bên bạn trong thời kỳ đầu củng
cố, phát triển lực lượng, xây dựng hậu cứ, cung cấp vũ khí, quân trang mà còn
phối hợp với bộ đội PaThết Lào đánh địch giành thắng lợi oanh liệt. Từ ngày
18-8 đến 15-9-1959, một số đơn vị quân tình nguyện Việt Nam phối hợp với các
đơn vị PaThết Lào mở đợt hai hoạt động trong mùa mưa. Trong đợt hoạt động
này, quán triệt tinh thần chỉ đạo của Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt
Nam, một số đơn vị quân tình nguyện Việt Nam (chủ yếu là lực lượng quân khu
4 tác chiến ở các tỉnh Xiêng Khoảng, Liên huyện 90 và Khăm Muộn) đã vận
dụng nhiều hình thức tác chiến linh hoạt như phục kích, tập kích, bao vây, bắn
tỉa, địch vận, phá hoại cầu đường, đốt kho tàng địch, đánh cứ điểm bằng đặc
công kết hợp hoả lực...Đi đơi với tác chiến, các đơn vị tình nguyện Việt Nam đã
tích cực giúp Lào củng cố cơ sở, phát động nhân dân ủng hộ kháng chiến, tham
gia các lực lượng dân quân tự vệ chiến đấu bảo vệ vùng mới giải phóng. Các
đơn vị tình nguyện phối hợp chặt chẽ với lực lượng PaThết Lào và nhân dân địa
phương đánh 40 trận, giải phóng thêm 13 điểm. Sau đợt hoạt động này, các tiểu
đoàn 1, 2, 4 PaThết Lào được lệnh rút ra hoạt động ở biên giới Việt - Lào, sau
đó sang tập trung ở huyện Yên Lập (Phú Thọ) để chấn chỉnh lực lượng. Theo
yêu cầu của Trung ương Neo Lào Hắc Xạt, Bộ Quốc phòng Việt Nam giúp xây
dựng tiểu đoàn 1 và 2 PaThết Lào thành hai tiểu đoàn chủ lực mạnh, quân số
mỗi tiểu đoàn từ 650 đến 700 chiến sĩ; đồng thời bổ sung vũ khí, trang bị và cử
các tổ chuyên gia giúp hai tiểu đồn về qn sự, chính trị và chuyên môn kỹ
thuật.


Khi cuộc kháng chiến của hai dân tộc ngày càng phát triển, các trận đánh
phối hợp giữa quân tình nguyện Việt Nam với bộ đội PaThết Lào ngày càng có
quy mơ lớn hơn, nhịp nhàng và chặt chẽ hơn. Thực hiện nghị quyết Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ III (1960), Việt Nam đã chi viện pháo binh cho PaThết


Lào, đồng thời tăng cường hoạt động uy hiếp Thà Khẹc, giúp bạn bảo vệ thủ đô
Viêng Chăn trước sự tấn công của địch. Cuối năm 1960, quân tình nguyện Việt
Nam phối hợp với bạn giải phóng Cánh đồng Chum, Xiêng Khoảng, nối liền với
Sầm Nưa, tạo căn cứ địa vững chắc để Chính phủ hợp pháp của Hồng thân
Xuvănna Phuma đặt trụ sở chính thức ở Khăng Khay (Xiêng Khoảng).


Trên cơ sở thoả thuận giữa hai Đảng, ngày 9-1-1961, Quân ủy Trung ương
và Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam xác định nhiệm vụ quốc tế của
chuyên gia và quân tình nguyện Việt Nam đối với cách mạng Lào trong 5 năm
1961-1965 là: Giúp đỡ các lực lượng vũ trang cách mạng Lào về chuyên gia
quân sự, đào tạo cán bộ; củng cố, xây dựng vùng giải phóng và phát triển lực
lượng vũ trang của bạn; khi bạn có yêu cầu, tổ chức bộ đội tình nguyện Việt
Nam phối hợp chiến đấu với bộ đội bạn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Căn cứ nhiệm vụ trên, Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam
quyết định biên chế thời chiến cho Sư đoàn 325, Lữ đoàn 341, Trung đoàn 224
thuộc Quân khu 4; Lữ đoàn 316, Lữ đoàn 335 và Trung đoàn 148 thuộc Quân
khu Tây Bắc, sẵn sàng chi viện cho chiến trường miền Nam và chiến trường
Lào.


Trên tinh thần đó, các trận đánh phối hợp giữa hai bên ngày càng đạt hiệu
quả cao, thu thắng lợi giòn giã trên các chiến trường như cuộc tiến cơng giải
phóng đường 8, giải phóng huyện Xê Pơn (Savẳnnakhệt), đẩy lùi các đợt tấn
công của địch vào Xiêng Khoảng. Tiêu biểu là chiến dịch Nặm Thà năm 1962,
do Bộ tư lệnh chiến dịch Nặm Thà trực tiếp chỉ huy với sự tham gia của các
tướng lĩnh Việt Nam - Lào. Chiến dịch Nặm Thà đã làm xoay chuyển tình thế có
lợi cho cách mạng Lào, có ý nghĩa quan trọng về quân sự và chính trị. Liên quân
Lào - Việt không chỉ tiêu diệt được một bộ phận sinh lực tinh nhuệ của địch vừa
mới xây dựng, mà cịn giáng địn mạnh về chính trị, đánh vào âm mưu của Mỹ
và chính quyền tay sai Phumi Nơxavẳn, làm cho tinh thần đội quân đánh thuê


thêm hoang mang, dao động. Uy tín của Neo Lào Hắc Xạt, quân đội PaThết Lào
được nâng cao, khu giải phóng mở rộng thành căn cứ liên hoàn đến tận biên giới
Trung Quốc.


Sau Hiệp định Giơnevơ về Lào năm 1962, thực hiện cam kết của mình,
Trung ương Đảng Lao động Việt Nam quyết định rút tồn bộ qn tình nguyện
Việt Nam và đại bộ phận chuyên gia quân sự về nước. Thời gian này, Chính phủ
liên hiệp Lào đã lập quan hệ ngoại giao với nhiều nước, tuy vậy, Hồng thân
Xuvanuvơng vẫn khẳng định: Người bạn cùng sống chết, chung một chiến hào
với ta chỉ có Việt Nam.


Năm 1963, tình hình cách mạng Lào gặp khó khăn do đế quốc Mỹ và chính
quyền tay sai lật lọng âm mưu xóa bỏ Hiệp định Giơnevơ. Trước yêu cầu của
bạn, Trung ương Đảng và Chính phủ Việt Nam lại cử chuyên gia và quân tình
nguyện sang giúp đỡ. Điều đáng trân trọng, biểu hiện tình cảm thủy chung giữa
quân và dân hai nước là đoàn chuyên gia Việt Nam phần lớn là các đồng chí đã
từng hoạt động, chiến đấu trên đất bạn thời gian trước.


Cuối năm 1964, Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào mở “cuộc vận
động thu phục phỉ” nhằm ổn định vùng giải phóng. Việt Nam đã giúp Lào các
sản phẩm thiết yếu như muối, vải, quần áo, thuốc men; đồng thời tại Lào, các
đơn vị tình nguyện và chuyên gia Việt Nam đã sát cánh cùng quân, dân Lào
triển khai có hiệu quả cuộc vận động trên. Nhiều ổ phỉ lâu đời bị giải tán, tạo sự
ổn định mọi mặt cho các vùng giải phóng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Trước tình hình đế quốc Mỹ đánh phá vùng giải phóng Lào quyết liệt, đồng
thời mở các chiến dịch ngăn chặn, cắt đứt tuyến đường Hồ Chí Minh; dưới sự
lãnh đạo của hai Đảng, quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam tại Lào không
quản gian khổ, hy sinh chiến đấu anh dũng, kiên cường cùng quân, dân Lào bảo
vệ vùng giải phóng, tuyến hành lang chiến lược và mở các chiến dịch tấn cơng


địch giành thắng lợi to lớn. Có những cuộc chiến đấu diễn ra gay go, ác liệt, lực
lượng tuy mỏng nhưng quân tình nguyện Việt Nam vẫn đặt lên trên hết nhiệm
vụ bảo vệ nhân dân các bộ tộc Lào. Năm 1969, quân tình nguyện Việt Nam cùng
Pa Thết Lào tổ chức chiến dịch phản công cuộc hành quân Cù Kiệt đánh ra Cánh
đồng Chum - Xiêng Khoảng của địch. Tại khu vực điểm cao 1505, Lạt Huồng,
sau khi địch dùng trực thăng đổ quân xuống chiếm Phu Tôn, Cang Xẻng - Phu
Hủa Xàng, chúng dùng cối 106,7 ly và pháo 105mm từ trung tâm Cánh đồng
Chum bắn phá ác liệt các điểm cao xung quanh. Tiểu đoàn 924 thuộc Trung
đồn 866 qn tình nguyện Việt Nam đã kiên quyết giữ vững cao điểm 1505,
Bạn Thặm, đồng thời giúp nhân dân và cơ quan bạn sơ tán ra khỏi khu vực. Tuy
lực lượng chiến đấu có hạn nhưng các đại đội vẫn cử ra một số tổ công tác để
hướng dẫn và giúp dân sơ tán. Trong bom đạn ác liệt, bộ đội tình nguyện đã
chiến đấu quên mình, giúp đỡ nhân dân, nhường áo xẻ cơm, sẵn sàng xông pha
vào những nơi nguy hiểm để bảo vệ nhân dân. Ở xưởng may của tỉnh Xiêng
Khoảng, khi địch càn đến gần, anh chị em công nhân được lệnh di chuyển
nhưng có một chị tàn tật khơng đi được phải bị vào rừng lán nạn. Biết tin đó, tổ
cơng tác của trong đồn đã vào rừng tìm kiếm, cứu được chị đưa về nơi sơ tán
an toàn. Trong những ngày ác liệt này, bộ đội Việt Nam đã phối hợp với các cơ
sở Đảng, chính quyền đưa hơn 16.000 dân và gia đình cán bộ sơ tán qua Mường
Xéng, Kỳ Sơn (Nghệ An). Nhân dân Nghệ An nhiệt tình đón tiếp, nhường áo xẻ
cơm, cùng nhân dân Lào xây dựng nhà cửa, bệnh xá, trường học, ổn định cuộc
sống nơi sơ tán. Những tấm gương sáng, quên mình của bộ đội tình nguyện, sự
đón tiếp tận tình của nhân dân Nghệ An trong những ngày gian khó này đã góp
phần làm cho tình đồn kết chiến đấu của qn dân Việt Nam - Lào càng thêm
keo sơn, gắn bó.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

chuyến. Nhiều người tuy sức khoẻ yếu hay vừa chữa lành vết thương vẫn xung
phong đi phục vụ chiến dịch; có em nhỏ mới 13-14 tuổi đã tình nguyện đóng
góp sức mình vào việc khuân vác, chặt cây ngụy trang mặt đường, làm liên lạc...
Đang làm nương rẫy, dân bản thấy bộ đội hành quân liền tìm cách gây tiếng ồn


để át tiếng động của các đoàn quân, tránh sự phát hiện của thám báo địch. Thi
thoảng, người dân ra bờ suối vắng thấy những vết chân bộ đội in trên cỏ ướt đã
bảo nhau lùa trâu, bò ra để xáo trộn, xoá đi. Một số đồng bào bị địch bắt, chúng
dụ dỗ, mua chuộc hay tra tấn dã man, vẫn kiên quyết khơng khai báo, sắt son
một lịng một dạ trung thành với cách mạng.


Khi chiến dịch diễn ra ác liệt, trước yêu cầu phục vụ chiến trường, bà con
dân tộc Việt Nam và Lào nơi đây tiếp tục tự nguyện phối hợp với cùng các lực
lượng vận tải tham gia vận chuyển vũ khí, đạn dược, lương thực, thực phẩm,
thuốc men phục vụ bộ đội. Có những đoạn đường địch đánh phá dữ dội suốt
ngày đêm, nhưng từng đồn người gùi lương, tải đạn vẫn khơng ngừng toả đi
các hướng về nơi bộ đội đang chờ. Nhiều nơi, đồng bào tự nguyện chỉ ăn củ mài
và rau rừng, dành cho các chiến sĩ những hạt gạo, lát sắn, củ khoai cuối cùng để
“ăn no mà đánh thắng giặc Mỹ”.


Từng đồn dân cơng là con em các dân tộc ngày đem gùi lương, tải đạn ra
chiến trường, rồi lại tham gia vận chuyển thương binh về tuyến sau. Nhiều thơn,
bản thành lập các đội đi tìm kiếm chơn cất cán bộ, chiến sĩ hy sinh. Bom đạn
địch chà xát, tàn phá nhà cửa, nương rẫy nhưng không thể nào làm phai nhạt
tình đồn kết chiến đấu giữa hai dân tộc, tình qn dân thắm thiết, thủy chung.
Đó là nhân tố làm nên chiến thắng đường 9 - Nam Lào vang dội của quân và dân
hai nước.


Tinh thần đoàn kết, tình cảm thủy chung, gắn bó keo sơn của cán bộ, đảng
viên, chiến sĩ Việt Nam với dân tộc Lào anh em đã được Tổng Bí thư Cayxỏn
Phơmvihản nêu rõ: Nhiều đồng chí Việt Nam đã hy sinh trên chiến trường Sầm
Nưa, Cánh đồng Chum...Nhiều cán bộ Việt Nam đã sang Lào hoạt động từ lúc
cách mạng mới bắt đầu cho đến khi tóc đã bạc, coi nhân dân Lào như nhân dân
của mình, coi sự nghiệp cách mạng Lào như sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Đối với Việt Nam, sự hết lòng yêu quý, giúp đỡ của nhân dân các bộ tộc Lào


luôn là nguồn động viên, cổ vũ mạnh mẽ tinh thần chiến đấu của bộ đội tình
nguyện và các chuyên gia Việt Nam. Đặc biệt, nhân dân Lào đã cùng chia sẻ với
nhân dân Việt Nam trước bom đạn ác liệt của giặc Mỹ, tạo mọi điều kiện để bộ
đội Việt Nam mở đường Trường Sơn và mở các chiến dịch lớn, góp phần giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước.


<i><b>Đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh là biểu hiện vô cùng sinh</b></i>
<i><b>động mối quan hệ đồn kết, thủy chung, son sắt giữa hai dân tợc Việt Nam </b></i>
<i><b>-Lào.</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

thành lập đoàn 559 với nhiệm vụ mở đường, vận chuyển vật chất, đưa đón cán
bộ, bộ đội từ miền Bắc vào miền Nam, đồng thời vận chuyển vào bảo đảm hậu
cần cho đoàn 959 chuyên gia ở Lào và vận chuyển vật chất giúp bạn Lào.


Khi phát hiện ra tuyến đường vận tải chiến lược quan trọng này, đế quốc
Mỹ và chính quyền Sài Gịn đã kết hợp các lực lượng khơng qn, bộ binh với
phương tiện chiến tranh hiện đại liên tục đánh phá. Các đơn vị vận tải bị kẹt lại,
không qua được đường 9. Trước tình hình đó, trên cơ sở quan hệ truyền thống
vốn có giữa hai dân tộc, yêu cầu khách quan cần gấp rút chi viện cho chiến
trường miền Nam, Lào và Campuchia, hai Đảng, hai Chính phủ thống nhất mở
thêm đường phía Tây Trường Sơn chạy trên đất Lào. Từ tháng 4-1961, dưới sự
giúp đỡ của các đơn vị tình nguyện Việt Nam, lực lượng cách mạng Lào đã mở
nhiều đợt hoạt động quân sự ở miền Trung và Hạ Lào, giải phóng một vùng
rộng lớn từ Căm Cớt, Lắc Xao đến Mường Phìn, Sê Pơn, Bản Đơng, nối đường
12 với đường 9, nhanh chóng tạo thành một hành lang dài và rộng theo chiều
Đông - Tây. Toàn bộ 6 mường của Lào ở Bắc và Nam đường số 9 được giải
phóng.


Năm 1963, đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gịn tiếp tục đưa qn bao vây,
đồng thời đánh phá quyết liệt tuyến vận tải phía đơng Trường Sơn. Trước tình


hình đó, được sự lãnh đạo của hai Đảng, quân tình nguyện Việt Nam và bộ đội
Pa Thết Lào quyết định mở chiến dịch 128 giải phóng tồn bộ vùng cao ngun
Trung Lào có biên giới chung với Việt Nam dài trên 700km. Thắng lợi của
chiến dịch 128 đã tạo điều kiện cho Việt Nam chuyển toàn bộ đường vận tải
sang hướng Tây trên đất Lào.


Trong quá trình này, bộ đội tình nguyện, đồn chun gia cố vấn Việt Nam
dưới sự chỉ đạo của Bộ Tư lệnh Trường Sơn đã thường xuyên phối hợp với quân
khu Trung - Hạ Lào, Đảng bộ và chính quyền 7 tỉnh có đường Hồ Chí Minh
xun qua tổ chức khảo sát địa hình, phối hợp mở đường và chiến đấu bảo vệ
căn cứ và tuyến đường chiến lược, tổ chức đánh địch tại chỗ, giải phóng đất đai,
mở rộng vùng giải phóng, tạo điều kiện để tuyến đường được mở rộng và phát
triển.


Để có con đường chiến lược với hơn 20.000km, các chiến sĩ, lực lượng
thanh niên xung phong và nhân dân Việt Nam cũng như nhân dân Lào đã đổ bao
mồ hôi, xương máu, của cải và hàng ngàn người đã ngã xuống để xây dựng, bảo
vệ và vận chuyển hàng hóa, nhân lực phục vụ cuộc kháng chiến chống Mỹ của
hai nước Việt - Lào.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

dụng lực lượng lớn quân đội và vũ khí đánh vào các vùng thuộc hành lang của
tuyến đường, quy mô lớn nhất là chiến dịch Lam Sơn 719 với 20.000 quân Sài
Gòn cùng sự yểm trợ của 9.000 quân Mỹ, 2.000 máy bay các loại đánh vào khu
vực Đường 9 - Nam Lào. Riêng năm 1969, máy bay Mỹ đã đánh phá hàng nghìn
trận vào 180 bản làng của đồng bào các dân tộc Lào dọc tuyến đường Hồ Chí
Minh, thiêu hủy 845 nóc nhà, giết hại 482 người, làm bị thương 344 người, phá
337 nương rẫy. Bất chấp sự hủy diệt tàn bạo và những âm mưu thâm độc của kẻ
thù, dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân cách mạng Lào, nhân dân các bộ tộc
Lào đã hết lòng giúp đỡ bộ đội Việt Nam trong việc mở đường, bảo vệ tuyến
đường và vận chuyển hàng hóa phục vụ chiến trường. Từ năm 1965, khi đế quốc


Mỹ mở rộng đánh phá, nhân dân 17 huyện thuộc 7 tỉnh của Lào trên mảnh đất
Tây Trường Sơn đã tự động dời nhà, bỏ nương rẫy đi vào rừng sâu sinh sống.
Bộ đội và du kích Lào phối hợp chặt chẽ với bộ đội Việt Nam đánh trả máy bay
địch, ngăn chặn các cuộc hành quân lấn chiếm, tập kích của chúng. Nhân dân
Lào cịn đóng góp hàng triệu ngày cơng cùng bộ đội và lực lượng thanh niên
xung phong Việt Nam làm mới, sửa chữa đường xá, vận chuyển lương thực,
thương bệnh binh, góp phần vào mọi hoạt động của tuyến đường Hồ Chí Minh.


Khơng thể kể hết những tình cảm q báu của nhân dân các bộ tộc Lào
dành cho các chiến sĩ, cán bộ Việt Nam. Năm 1964, địch đánh phá ác liệt, thời
tiết phức tạp khiến việc vận chuyển hàng hóa và dẫn qn của đồn 559 trên
tuyến tây Trường Sơn gặp rất nhiều khó khăn. Có thời điểm đường bị tắc, khách
qua tuyến dồn ứ hàng ngàn người ở các trạm giao liên gần một tháng. Việc đảm
bảo lương thực, thực phẩm cho bộ đội trở thành vấn đề “nước sơi, lửa bỏng”.
Trước tình hình đó, chỉ huy đoàn 559 cùng đoàn chuyên gia 763 ở Hạ Lào trực
tiếp đề xuất với Tỉnh ủy Távên Oọc của Lào vận động nhân dân địa phương giúp
đỡ. Với tinh thần quốc tế cao cả, trong sáng, nhân dân tỉnh Távên Oọc, đặc biệt
là các huyện Cà Lươn, Xê Camản...nhanh chóng thu gom thóc, giã gạo phục vụ
bộ đội Việt Nam. Mặc dù là địa phương nghèo, nhân dân sống phân tán, nhưng
chỉ trong vòng nửa tháng, bạn đã huy động được hơn 30 tấn lương thực, góp
phần quan trọng giải quyết khó khăn cho đồn 559.


Nhờ sự phối hợp liên minh này mà hàng hố khơng cịn bị ứ đọng trên
tuyến đường 9, vào chiến trường miền Nam và nước bạn thơng suốt, kịp thời.
Tuy nhiên, sức người có hạn, việc vận chuyển hàng hố cịn phải dựa vào voi,
trâu, bị... Bà con dân tộc đơng - tây Trường Sơn rất quý voi, coi voi là thần, là
tượng trưng cho sự giàu có, danh giá. Làng nào có voi rất tự hào. Thế nhưng khi
cách mạng cần, nhân dân cả Việt - Lào đều sẵn sàng hiến voi, đưa voi ra trận
tuyến.



</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

cụ Hồ có phải như ơng Voi không? ông trời không? Những lúc giáp hạt, bị cái
đói hành hạ, bà con dắt nhau đi tìm rau rừng, xuống khe bắt ốc sống cầm hơi,
không hề nghĩ đến việc lấy một lưng gạo, hạt muối ở các kho lương thực, thực
phẩm của các binh trạm đặt giữa rừng trên đất bạn.


Trong những năm tháng khó khăn hay trong những trận đánh ác liệt, nhiều
bà mẹ, gia đình Lào trong khi cuộc sống còn rất thiếu thốn vẫn chắt chiu từng
bát gạo để nuôi dưỡng thương binh, vượt qua bom đạn của địch đưa rau, gạo,
thuốc men đến các binh trạm trên tuyến đường để trao tận tay cho các chiến sĩ
Việt Nam.


Đáp lại lòng quý mến và đùm bọc của nhân dân Lào trên dọc tuyến đường
Trường Sơn, các đơn vị bộ đội Việt Nam đã tích cực cùng với bộ đội PaThết
Lào chiến đấu bảo vệ vùng giải phóng, bảo vệ nhân dân các bộ tộc Lào, giúp
đồng bào tăng gia sản xuất, cứu đói cho dân khi gặp thiên tai, địch họa. Bộ đội
Việt Nam trên tuyến đường Hồ Chí Minh cịn giúp nhân dân Lào xây mới một
số tuyến đường liên bản, liên xã, liên huyện, góp phần cải thiện đời sống nhân
dân, phát triển kinh tế - xã hội vùng giải phóng. Chính vì vậy, tuy phải chịu
đựng hy sinh, gian khổ, nhưng nhân dân các bộ tộc Lào dọc tuyến đường vẫn hết
lòng yêu thương, ủng hộ quân đội cách mạng hai nước.


Nhờ có con đường chiến lược Hồ Chí Minh, tính chung trong vịng 16 năm
(1959-1975), tuyến giao thơng vận tải quân sự Trường Sơn đã vận chuyển được
1.349.000 tấn hàng hóa, vũ khí, trong đó giao cho các chiến trường và cách
mạng Lào, Campuchia hơn 583.000 tấn, 515 triệu m3 xăng dầu. Riêng 4 tháng
trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975, tuyến vận tải 559 qua
đường Hồ Chí Minh đã chuyển vào miền Nam Việt Nam hơn 110.000 cán bộ,
chiến sĩ, 230.000 tấn vật chất các loại, đưa sang Lào (1973-1975) trên 108.000
tấn hàng.



Đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh trở thành biểu tượng sáng ngời
của tình đồn kết chiến đấu, mối quan hệ thủy chung son sắt của hai dân tộc Việt
- Lào trong trường kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc.


<i><b>Quan hệ hữu nghị đồn kết giữa hai dân tợc Việt - Lào càng phát triển</b></i>
<i><b>sống đợng trong giai đoạn hồ bình, xây dựng đất nước phồn vinh, bảo vệ</b></i>
<i><b>vững chắc nền độc lập dân tộc</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

Trong thời kỳ mới, hai Đảng, hai Nhà nước đều nhận thức rõ việc củng cố,
mở rộng và phát triển một cách toàn diện mối quan hệ Việt Nam - Lào là yêu
cầu tất yếu. Vì vậy, hai nước nhanh chóng đi đến ký kết các Hiệp ước hữu nghị
và hợp tác vào ngày 18- 7-1977 như: “Hiệp ước hữu nghị và hợp tác giữa Cộng
hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào”, “Hiệp
ước hoạch định biên giới quốc gia giữa nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam và nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào” và “Tuyên bố chung” đã tăng
cường sự tin cậy và hợp tác lâu dài giữa hai nước. Hiệp ước hữu nghị và hợp tác
giữa Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào
là hiệp ước tồn diện, mang tính chiến lược lâu dài, tạo cơ sở chính trị và pháp
lý quan trọng để củng cố và tăng cường lâu dài tình đồn kết, mối quan hệ đặc
biệt Việt Nam – Lào, mốc lịch sử quan trọng đánh dấu bước ngoặt mới trong
quan hệ giữa hai nước. Đặt cơ sở pháp lý vững chắc, lâu dài cho quan hệ hai
nước trong thời kỳ mới. Trên tinh thần chỉ đạo của Trung ương Đảng và Chính
phủ, quan hệ Việt Nam - Lào nhanh chóng được triển khai thơng qua các tổ
chức đồn thể nhân dân và các ban, ngành, địa phương với nhiều hình thức sáng
tạo, phong phú, phù hợp với đặc điểm của từng ngành, từng địa phương. Ngành
thông tin, tuyên truyền, báo chí xuất bản của hai nước tăng cường các hoạt động
tuyên truyền nhân những ngày lễ trọng đại của hai dân tộc làm cho toàn Đảng,
toàn dân và toàn quân nhận thức đầy đủ hơn về tầm quan trọng, nội dung mối
quan hệ đặc biệt Việt - Lào trong giai đoạn mới của cách mạng. Từ đó đến nay,
trung bình mỗi năm, hai Đảng, hai Nhà nước đã cử trên 30 đoàn từ cấp trung


ương đến cấp tỉnh sang trao đổi với nhau những kinh nghiệm về giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa, về công tác tư tưởng, lý luận, dân vận. Quan hệ giữa
các bộ, ban, ngành, đoàn thể, địa phương, nhất là các tỉnh biên giới kết nghĩa
đều có những trao đổi hợp tác và mối quan hệ đó ngày càng đi vào chiều sâu với
nội dung thiết thực và có hiệu quả. Đặc biệt, hai bên phối hợp nghiên cứu, biên
soạn cơng trình “Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam- Lào, Lào- Việt Nam từ
1930- 2007” nhằm tổng kết quá trình liên minh chiến đấu và hợp tác toàn diện
Việt Nam- Lào, Lào- Việt Nam, đúc kết những bài học kinh nghiệm phục vụ
cho việc tiếp tục xây dựng và phát triển quan hệ đặc biệt Việt Nam- Lào,
Lào-Việt Nam lên một tầm cao mới. Đi đôi với quan hệ hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau
giữa hai Đảng, hai Nhà nước, các bộ, ngành Trung ương, giữa các tỉnh Việt
Nam với 12 tỉnh và thành phố của Lào cũng có nhiều hình thức hợp tác, giúp đỡ
lẫn nhau phong phú và hiệu quả.


Các tổ chức hội hữu nghị trên nhiều lĩnh vực với hàng nghìn hội viên từ
Trung ương đến cơ sở ra đời, nhiệm vụ chủ yếu là giới thiệu, thông tin cho các
tầng lớp nhân dân hai nước về lịch sử đất nước, con người, nền văn hóa, thành
tựu xây dựng và bảo vệ đất nước, làm cầu nối vận động và thúc đẩy các hoạt
động hữu nghị, hợp tác và giao lưu kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật một cách
có hiệu quả, thiết thực; tổ chức các đồn hữu nghị, giao lưu, trao đổi thông tin
với các tổ chức xã hội - kinh tế - văn hóa của hai nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

Viêng Chăn...Tại các tỉnh có đường biên giới chung, quan hệ kết nghĩa phát
triển đến tận cơ sở, đó là kết nghĩa huyện với huyện, bản với bản trên cơ sở phát
huy và duy trì mối quan hệ đoàn kết, hợp tác truyền thống láng giềng tốt đẹp,
bảo đảm an ninh xã hội vùng biên, giải quyết tốt những vấn đề nảy sinh, chủ
động phối hợp tìm kiếm hài cốt liệt sĩ quân tình nguyện Việt Nam trên đất Lào.


Tại Quảng Trị, quan hệ kết nghĩa bản - bản hai bên biên giới ngày càng đi
vào chiều sâu, đạt hiệu quả thiết thực. Đến nay toàn bộ 23/23 cặp bản đối diện


của tỉnh Quảng Trị với hai tỉnh Savẳnnakhệt và Xalavăn của Lào đã tổ chức kết
nghĩa. Đây là việc làm đáp ứng tâm tư, nguyện vọng của nhân dân hai bên biên
giới, góp phần gìn giữ và phát huy quan hệ hữu nghị đặc biệt giữa hai dân tộc
mãi mãi về sau.


<i>Chi Lăng, ngày tháng 9 năm 2012</i>
<b>Người dự thi</b>


</div>

<!--links-->

×