Tải bản đầy đủ (.docx) (108 trang)

Chinh sach dao tao va su dung quan lai thoi Le ThanhTong va y nghia doi voi cong tac can bo hien nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (446.36 KB, 108 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>MỞ ĐẦU</b>
<b>1. Tính cấp thiết của đề tài</b>


Khi xã hội phân chia thành giai cấp và cùng với nó là sự xuất hiện của
Nhà nước thì chính trị và con người chính trị cũng ra đời. Con người chính trị
có vai trị rất to lớn, là nhân tố quyết định sự vận động và phát triển của chính
trị nói riêng, của tồn xã hội nói chung. Nếu quyền lực chính trị được xác lập
trên thực tế thơng qua bộ máy nhà nước hay tổ chức chính quyền nhà nước –
cái quan trọng nhất trong chính trị - thì Nhà nước đó hoạt động như thế nào,
có thực hiện được các chức năng của nó hay khơng lại phụ thuộc rất nhiều
vào những chủ thể nắm quyền lực chính trị. Ở Việt Nam, dưới các triều đại
phong kiến dân tộc theo mơ hình Nho giáo, vua – quan là chủ thể quyền lực
chi phối toàn bộ sự hoạt động xã hội. Bộ máy quyền lực nhà nước đó do vua
đứng đầu và bên dưới là đội ngũ quan lại các cấp mà ngày nay trong đời sống
chính trị nước ta chính là đội ngũ cán bộ, cơng chức.


Lịch sử Việt Nam là quá trình đấu tranh lâu dài, gắn liền giữa dựng
nước và giữ nước, thường xuyên phải đối mặt với thiên tai và giặc ngoại xâm.
Bởi thế, việc tập hợp lực lượng, xây dựng sức mạnh đồn kết dân tộc ln
được đặt lên hàng đầu. Để giải quyết thành cơng các nhiệm vụ đó, Nhà nước
phong kiến Việt Nam nhất là trong các giai đoạn phục hưng và phát triển
mạnh mẽ của dân tộc đều coi trọng việc đào tạo, sử dụng đội ngũ quan lại
nhằm tăng cường sức mạnh của Nhà nước cũng như đảm bảo hiệu quả và hiệu
lực của chính quyền các cấp.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

trị và văn hoá – xã hội. Nhà nước Đại Việt được củng cố vững chắc, thống
nhất theo mơ hình nhà nước qn chủ trung ương tập quyền và thực hiện việc
cai trị đất nước, quản lý xã hội bằng pháp luật. Gắn liền với việc xây dựng,
củng cố thể chế chính trị quân chủ trung ương tập quyền tuyệt đối theo hệ tư
tưởng Nho giáo, Lê Thánh Tông đặc biệt quan tâm xây dựng con người chính
trị, trọng tâm là vấn đề đào tạo và sử dụng quan lại. Vì vậy, đội ngũ quan chức


triều đình cũng như quan lại địa phương đã được tăng cường về số lượng, nâng
cao chất lượng cả về trình độ, đạo đức và năng lực, đáp ứng kịp thời địi hỏi sự
phát triển của đất nước. Chính sách đào tạo và sử dụng quan lại thời Lê Thánh
Tông trở thành “khuôn phép”, hay “chế độ” như các sử gia phong kiến đã đánh
giá để các triều đại sau đó noi theo, xem như mẫu mực cho việc tổ chức và xây
dựng bộ máy nhà nước vững mạnh. Dưới góc nhìn của chính trị học ngày nay,
có thể nói triều đại Lê Thánh Tơng đã có nhận thức đúng đắn về mối quan hệ
giữa con người chính trị và thể chế chính trị, thấy được vai trị quyết định của
đội ngũ quan lại cũng như của việc dùng người trong hoạt động chính trị vì đó là
“cội gốc để tiến lên trị bình”, đồng thời cũng là “thềm bậc để đi đến hoạ loạn”
như lời nhà Vua nói với thượng thư các bộ vào năm 1643 [48, tr.399].


Từ khi thành lập, Đảng ta luôn chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, coi
đó là “nhân tố quyết định mọi thành bại của cách mạng” trong hai cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ cũng như trong giai đoạn đổi mới,
xây dựng và phát triển đất nước hiện nay. Bước vào thời kỳ mới, thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế, công tác
cán bộ càng trở nên quan trọng, là “khâu then chốt” của công tác xây dựng
đảng. Bên cạnh những kết quả to lớn đã đạt được, đội ngũ cán bộ và công tác
cán bộ hiện nay vẫn còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được đòi hỏi của đất
nước trong giai đoạn phát triển mới.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

vốn có của dân tộc trong kho tàng tư tưởng chính trị Việt Nam truyền thống,
góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ trong sạch, vững mạnh đảm bảo cho cơng
cuộc đổi mới thành cơng. Chính vì thế, tác giả chọn đề tài <i><b>“Chính sách đào</b></i>
<i><b>tạo và sử dụng quan lại thời Lê Thánh Tông và ý nghĩa đối với công tác</b></i>
<i><b>cán bộ hiện nay” làm luận văn thạc sĩ chính trị học.</b></i>


<b>2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài</b>



Từ trước tới nay, nhiều cơng trình nghiên cứu về sử học, văn học, triết
học, chính trị học, lịch sử tư tưởng, văn hoá, giáo dục Việt Nam của nhiều tác
giả trong nước được công bố. Trong các công trình đó, dưới góc độ tiếp cận
khác nhau của các khoa học cụ thể, một số tác giả đề cập đến vấn đề đào tạo
và sử dụng đội ngũ quan lại cũng như việc dùng người trong chính trị của các
nhà nước phong kiến Việt Nam trong lịch sử. Có thể dẫn ra một số cơng trình
nghiên cứu của các tác giả sau đây.


Bàn về con người chính trị Việt Nam, nổi bật là cơng trình nghiên cứu
<i>Con người chính trị Việt Nam - Truyền thống và hiện đại của một nhóm tác</i>
giả của Viện Chính trị học thuộc Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh do GS.TS Nguyễn Văn Huyên (chủ biên), Nhà xuất bản Chính
trị quốc gia, năm 2009. Tác phẩm đã hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản về
con người chính trị cũng như thực tiễn con người chính trị Việt Nam trong
truyền thống và thời hiện đại, đồng thời xác định những yêu cầu mới đối với
con người chính trị Việt Nam hiện nay.


Trong cuốn Lịch sử giáo dục Việt Nam trước Cách mạng Tháng 8
<i>-1945 do Nguyễn Đăng Tiến (chủ biên), Nhà xuất bản Giáo dục, năm 1996,</i>
các tác giả đã phân tích cụ thể về nội dung, phương pháp và kết quả đạt được
trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo ở nước ta từ thế kỷ X đến năm 1945, trong đó
nhấn mạnh những đóng góp tích cực của nền giáo dục Nho học vào việc đào
tạo đội ngũ quan lại cho các triều đại phong kiến dân tộc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

quốc gia, năm 1994 và cuốn Lược khảo về kinh nghiệm phát hiện, đào tạo và
<i>sử dụng nhân tài trong lịch sử Việt Nam của Phạm Hồng Tung, Nhà xuất bản</i>
Chính trị quốc gia, năm 2008 đã khái quát nhận thức của ông cha ta về vai trò
của người tài cũng như những kinh nghiệm, biện pháp thu hút, sử dụng hiền
tài trong lịch sử Việt Nam, chủ yếu dưới thời phong kiến.



Triều đại Lê Sơ, nhất là thời Lê Thánh Tông là giai đoạn phát triển tiêu
biểu trong lịch sử Việt Nam truyền thống. Lê Thánh Tông là một trong những
vị vua anh minh trị vì lâu, có nhiều đóng góp về mặt tư tưởng chính trị cũng
như trong thực tiễn cai trị đất nước. Cuốn Lịch sử tư tưởng Việt Nam tập I do
PGS.TS Nguyễn Tài Thư chủ biên, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, năm 1993,
đã dành riêng một chương bàn về thế giới quan, tư tưởng chính trị - xã hội và
đường lối trị nước của Lê Thánh Tông.


Năm 2002, trong cuốn Tìm hiểu tư tưởng chính trị Nho giáo Việt Nam
<i>từ Lê Thánh Tông đến Minh Mệnh, PGS.TS. Nguyễn Hồi Văn đã đi sâu phân</i>
tích những đóng góp của Lê Thánh Tơng trong việc vận dụng, phát triển Nho
giáo thành hệ tư tưởng chính trị chính thống, sử dụng nó trong việc cai trị đất
nước, đào tạo và xây dựng đội ngũ quan lại đáp ứng yêu cầu của sự phát triển
đất nước nửa cuối thế kỷ XV.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<i>đào tạo và tuyển dụng quan chức thời Lê Sơ (1428-1527), trong đó có một số</i>
kết quả nghiên cứu về lĩnh vực này thời Lê Thánh Tơng.


Trong những năm gần đây, trên các tạp chí nghiên cứu cũng đã cơng bố
một số bài viết, cơng trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề đào tạo, tuyển chọn
và sử dụng quan lại như Tuyển chọn quan lại dưới triều vua Lê Thánh Tông và
<i>vua Minh Mệnh: Di sản kế thừa và tham khảo của Bùi Huy Khiên trên Tạp chí</i>
<i>Quản lý nhà nước, số 144 năm 2008 ; Tuyển chọn và sử dụng quan lại ở nước ta</i>
<i>thời kỳ trung đại của TS. Đỗ Minh Cương trên Tạp chí Xây dựng Đảng, số 9</i>
năm 2006; Ơng cha ta sử dụng hiền tài của Lê Văn Huân trên Tạp chí Xây dựng
<i>Đảng, số 2+3 năm 2008; Tuyển chọn và sử dụng quan chức: Cách làm của ông</i>
<i>cha ta của Bùi Xuân Đính trên Báo Tiền phong số 40 năm 2009 …</i>


Các cơng trình, ấn phẩm nói trên đề cập đến con người chính trị Việt
Nam hoặc vấn đề đào tạo, sử dụng đội ngũ quan lại trong lịch sử Việt Nam


truyền thống nói chung, hoặc phân tích về tư tưởng chính trị hay một số khía
cạnh có liên quan đến việc đào tạo và sử dụng quan lại thời Lê Thánh Tơng
nhưng chủ yếu tiếp cận dưới góc độ sử học, văn học, triết học, lịch sử tư
tưởng và văn hoá, giáo dục. Việc sử dụng con người chính trị với tư cách là
một hoạt động cơ bản và quan trọng trong thực thi quyền lực chính trị đã
được các nhà khoa học quan tâm nhưng chưa nhiều. Chính sách đào tạo và sử
dụng quan lại thời Lê Thánh Tơng dưới góc nhìn chính trị học vẫn cịn là
khoảng trống cần được nghiên cứu, tìm hiểu một cách sâu sắc và tồn diện
hơn. Tuy nhiên, những cơng trình khoa học của các học giả, các nhà nghiên
cứu kể trên là rất quý báu để tác giả luận văn có điều kiện kế thừa, đồng thời
vừa có thể tự hệ thống và khám phá độc lập trong nghiên cứu riêng của mình.


<b>3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn</b>
<i>- Mục đích nghiên cứu</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<i>- Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn</i>


Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau:
+ Nghiên cứu làm rõ cơ sở hình thành chính sách đào tạo và sử dụng
quan lại thời Lê Thánh Tơng.


+ Trình bày một cách có hệ thống những chính sách, biện pháp thực hiện
và kết quả đạt được trong việc đào tạo và sử dụng quan lại thời Lê Thánh Tông.


+ Rút ra ý nghĩa thực tiễn cũng như mối liên hệ biện chứng giữa truyền
thống và hiện đại của tư duy chính trị Việt Nam nhằm đáp ứng những yêu cầu
của công cuộc đổi mới hiện nay.


<b>4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn</b>
<i>- Đối tượng nghiên cứu</i>



Luận văn tập trung nghiên cứu chính sách đào tạo và sử dụng quan lại
thời Lê Thánh Tông thông qua những tư liệu lịch sử gốc như các văn bản
chiếu, chỉ, lệnh dụ của Lê Thánh Tông được ghi chép trong các bộ chính sử,
các bộ luật, các bộ sách lịch sử chính yếu như Đại Việt sử ký tồn thư, Lịch
<i>triều hiến chương loại chí, Quốc triều hình luật, Lê triều quan chế… cũng</i>
như lời nói, việc làm của Lê Thánh Tơng trong lãnh đạo, quản lý đất nước để
phân tích, đánh giá và hệ thống hố về chính sách đào tạo và sử dụng quan lại
thời kỳ này.


<i>- Phạm vi nghiên cứu</i>


Luận văn tập trung nghiên cứu vào giai đoạn lịch sử Việt Nam thế kỷ
XV dưới triều Lê Sơ, trong đó đi sâu vào nửa cuối thế kỷ XV - thời kỳ trị vì
của Lê Thánh Tơng (1460-1497).


<b>5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Trên cơ sở đó, luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử - logíc,
đồng thời kết hợp nhiều phương pháp khác như: phương pháp phân tích - tổng
hợp, phương pháp so sánh, phương pháp hệ thống, khái qt hố.


<b>6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn</b>


Là luận văn thạc sỹ Chính trị học đầu tiên nghiên cứu về chính sách
đào tạo và sử dụng quan lại thời Lê Thánh Tơng. Luận văn góp phần trình bày
một cách có hệ thống, nhiều phương diện và đầy đủ hơn về chính sách đào tạo
và sử dụng quan lại thời Lê Thánh Tơng dưới góc độ của khoa học chính trị,
đồng thời nêu lên những giá trị lịch sử cũng như ý nghĩa của chính sách này
đối với công tác cán bộ hiện nay.



<b>7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn</b>


- Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp luận cứ khoa học
cho việc hệ thống, đánh giá những giá trị tiêu biểu trong đường lối trị nước
cũng như làm sâu sắc thêm tư tưởng chính trị của Lê Thánh Tơng - một nhà
lãnh đạo Nhà nước xuất sắc và nhà hoạt động tư tưởng, văn hoá, giáo dục lớn
của Việt Nam nửa cuối thế kỷ XV.


- Luận văn có thể sử dụng làm tư liệu tham khảo cho việc nghiên cứu,
giảng dạy về lịch sử tư tưởng chính trị Việt Nam và khoa học chính trị nói chung.


<b>8. Kết cấu của luận văn</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

<b>Chương 1</b>


<b>CƠ SỞ HÌNH THÀNH CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO </b>
<b>VÀ SỬ DỤNG QUAN LẠI THỜI LÊ THÁNH TÔNG</b>


<b>1.1. BỐI CẢNH VIỆT NAM THẾ KỶ XV VÀ SỰ LÊN NGÔI CỦA LÊ</b>
<b>THÁNH TÔNG</b>


<b>1.1.1. Về kinh tế - xã hội</b>


Sau cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược do nhà Hồ tiến hành
thất bại nhanh chóng vào năm 1407, Đại Việt rơi vào ách đô hộ tàn bạo của
quân xâm lược nhà Minh liên tục suốt hai mươi năm. Nền sản xuất bị tàn phá
nghiêm trọng, thiên tai, mất mùa, đói kém liên tiếp xảy ra. Vì vậy, sau khi
giành được quyền tự chủ, Lê Thái Tổ - vị vua đầu tiên của vương triều Lê Sơ
– đã thi hành các biện pháp khôi phục sản xuất nông nghiệp, giải quyết một số


vấn đề an sinh xã hội. Sau đó, Lê Thái Tơng, Lê Nhân Tơng tiếp tục chính
sách xây dựng đất nước, trọng tâm là lĩnh vực kinh tế. Cuộc sống tương đối
thanh bình được người dân khi ấy truyền tụng: “Đời vua Thái Tổ, Thái Tơng.
Thóc lúa đầy đồng, trâu chẳng buồn ăn” [34, tr.215]. Đến thời Lê Thánh
Tông, kinh tế Đại Việt phát triển mạnh mẽ, vững chắc, góp phần bảo đảm đời
sống nhân dân và duy trì sự ổn định xã hội.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Khác hẳn với các triều Lý - Trần, nhà Lê thực hiện chính sách lộc điền,
đem ruộng đất thuộc quyền sở hữu của Nhà nước ban cấp cho tầng lớp quan
lại cao cấp. Chế độ lộc điền được thi hành ngay từ những triều vua đầu tiên
của nhà Lê, nhưng chưa trở thành quy chế. Đến thời Lê Thánh Tông mới
được quy định và ban hành thống nhất trong cả nước vào năm 1477. Theo đó,
người được cấp là “những quan lại cao cấp từ thân vương đến tòng tứ phẩm
và những người thân thuộc gần gũi nhà Vua, các nữ quan thân cận trong
triều” và “quan lại từ tứ phẩm trở lên thường nắm giữ các trọng chức trong
triều hay đứng đầu các khu vực hành chính” [27, tr.20]. Chế độ lộc điền là
đặc quyền của tầng lớp cao nhất trong giai cấp thống trị, bao gồm hai phần:
một phần nhỏ là Nhà nước cấp vĩnh viễn, người được cấp có tồn quyền sở
hữu gọi là ruộng đất thế nghiệp; còn phần lớn lộc điền thuộc loại ban cấp tạm
thời, người được cấp chỉ có quyền chiếm hữu và sử dụng trong một đời, trong
đó có quyền phát canh thu tô, sau khi người được cấp lộc điền chết ba năm
phải trả lại cho Nhà nước. Bằng chế độ lộc điền, Nhà nước đã hạn chế và đi
đến thủ tiêu nền kinh tế điền trang thái ấp, thúc đẩy phát triển giai cấp địa
chủ, đánh dấu một bước tiến trong quá trình hình thành và xác lập chế độ
phong kiến Việt Nam.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

số ruộng đất công của mỗi xã. Người được cấp quân điền phải nộp tô cho Nhà
nước với mức nhẹ hơn các loại ruộng đất khác.


Như vậy, để thực hiện quyền sở hữu tối cao về ruộng đất của nhà vua,


nhà Lê đã thông qua đơn vị làng, xã thay mặt Nhà nước quản lý đất đai, tiến
hành thu tô thuế cho Nhà nước, biến giai cấp nơng dân thành tá điền của
mình. Đây là một loại quyền rất đặc trưng của các nhà nước phương Đông, là
“sở hữu kiểu châu Á” như Mác nói. Chính sách qn điền của nhà Lê Sơ một
mặt xuất phát từ việc bảo vệ lợi ích Nhà nước, mặt khác phần nào cũng đáp
ứng được lợi ích của đại bộ phận các tầng lớp nhân dân. Trong xã hội phong
kiến, đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu, bằng phép quân điền, nhà Lê đảm bảo
cho người nông dân số ruộng đất tối thiểu để cày cấy, đảm bảo cuộc sống.
Phép quân điền đã góp phần củng cố nền kinh tế tiểu nông, khôi phục và phát
triển sản xuất nông nghiệp. Đây là yếu tố tương đối tiến bộ của chính sách
kinh tế dưới thời Lê Sơ, góp phần giải quyết những mâu thuẫn giữa các lợi ích
trong xã hội, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước.


Ở thế kỷ XV, thủ công nghiệp được tạo điều kiện mở rộng và khởi sắc.
Nhiều nghề thủ công truyền thống như dệt vải, tơ lụa, làm giấy, làm gốm, đan
lát,…. khá phổ biến trong các gia đình nơng dân. Trong các làng xã ngày càng
có nhiều làng thủ công nổi tiếng như nghề gốm (Bát Tràng), nhuộm (Huê
Cầu), nung vôi (Yên Thế)… Ở thành thị, thợ thủ công được tổ chức thành
từng phường chuyên môn như Thăng Long có 36 phố phường với những cơ
sở sản xuất thủ công nổi tiếng (phường Yên Thái làm giấy, Nghi Tàm, Thụy
Chương dệt lụa, Hàng Đào nhuộm điều…) Bộ phận thủ công của Nhà nước
bao gồm những xưởng thủ công chun đúc tiền, đóng thuyền, sản xuất vũ
khí, làm đồ dùng cho các vua quan. Các hoạt động khai thác mỏ sắt, đồng,
vàng, bạc .. cũng được mở rộng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

hành “lệ họp chợ”, quy định việc chia chợ cũ thành các chợ mới và thống
nhất các đơn vị đo lường để tiện việc trao đổi hàng hóa trong vùng. Tình
hình ngoại thương khơng được phát triển như nội thương do những chính
sách “ức thương” như Nhà nước nắm độc quyền ngoại thương, hạn chế và
kiểm soát chặt chẽ các thuyền bn và thương nhân nước ngồi. Nhiều cơ


quan kiểm soát ngoại thương mọc lên khắp các cửa biển dọc miền dun
hải. Thuyền bn nước ngồi chỉ được cập bến ở một số địa điểm đã quy
định như Vân Đồn, Vạn Ninh (Quảng Ninh), Hội Thống (Nghệ An), Hội
Triều (Thanh Hóa) và một số địa điểm trên đất liền thuộc các tỉnh Lạng
Sơn, Tuyên Quang, Hà Tây. Việc buôn bán giữa người trong nước với
người nước ngồi cũng bị kiểm sốt chặt chẽ. Theo sách <i>Đại Việt Sử ký</i>
<i>toàn thư, vào những năm Quang Thuận đời Lê Thánh Tông, “thuyền đi</i>
biển của nước Xiêm La đến trang Vân Đồn dâng biểu văn khắc trên lá vàng
và dâng sản vật địa phương, vua khước từ không nhận” [48, tr.427]. Sở dĩ
triều Lê Sơ thi hành một chính sách “bế quan toả cảng” nghiêm ngặt là vì
đất nước mới trải qua hàng chục năm đấu tranh gian khổ chống ngoại xâm
để giành độc lập nên rất cảnh giác đề phòng âm mưu dò xét và xâm lược
của người nước ngoài.


<b>1.1.2. Về văn hoá, tư tưởng </b>


Cùng với những bước phát triển về kinh tế - xã hội, nền văn hóa, tư
tưởng của nước Đại Việt thế kỷ XV cũng phát triển mạnh mẽ và giành được
nhiều thành tựu rực rỡ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Lê Thánh Tông (1442-1497) là một nhà nho học uyên bác do được tiếp
thu Nho học từ nhỏ nên sau khi lên ngôi, từ những bài học kinh nghiệm lịch
sử của các triều đại trước và của các bậc cha ông để lại, Lê Thánh Tông chủ
trương và kiên quyết dùng Nho giáo để thống nhất về mặt tư tưởng trong
phạm vi cả nước, đưa nó lên địa vị độc tôn và ngự trị trong các thể chế của
Nhà nước. Các nhà nghiên cứu cho rằng Nho giáo thời Lê Thánh Tông là
Tống Nho, hay là “sự vận dụng Tống Nho vào thực tế xã hội Việt Nam trên
tinh thần dân tộc sáng tạo” [44, tr.18-19]. Đó là kết hợp giữa những biện pháp
dùng lễ giáo để nêu quy phạm và răn dạy với việc dùng lễ giáo để trừng trị
những người chống đối. Đường lối chung này vẫn nằm trong khuôn khổ lễ trị


của hệ tư tưởng Nho giáo chính thống, hay Nho giáo thời Lê Thánh Tơng
khơng còn đậm yếu tố “nhân” như thời Nguyễn Trãi mà chủ yếu là yếu tố
“lễ”, được các nho sĩ làng xã tiếp thu và truyền tải vào đời sống.


Giai cấp phong kiến chắt lọc lấy những yếu tố có lợi trong Nho giáo,
vận dụng vào đường lối trị nước phù hợp với thực tiễn Việt Nam thế kỷ XV
để tổ chức bộ máy nhà nước, xây dựng hệ thống pháp luật, điều chỉnh các mối
quan hệ xã hội phù hợp với lợi ích chung của cộng đồng. Với tư cách là hệ tư
tưởng thống trị tuyệt đối trong xã hội, Nho giáo đã góp phần tích cực củng cố
Nhà nước phong kiến Trung ương tập quyền thống nhất của một quốc gia tiểu
nông nghiệp, tạo ra trật tự kỷ cương xã hội.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

cuộc sống thường ngày. Mặc dù bị hạn chế, nhưng Phật giáo và Đạo giáo vẫn
tồn tại ở mức đáng kể, có ảnh hưởng lớn đến đời sống văn hố tinh thần,
khơng chỉ trong dân gian mà cả trong một bộ phận quan lại, thậm chí cả trong
đời sống cung đình.


<i>Giáo dục Nho học do Nhà nước phong kiến quản lý bắt đầu xuất hiện</i>
từ cuối thế kỷ XI khác hẳn nền giáo dục của nhà chùa đã tác động trực tiếp đến
sinh hoạt văn hóa, tư tưởng của nhân dân, đến sự hình thành đội ngũ trí thức dân
tộc và quan lại cũng như ảnh hưởng đến thế giới quan, phong cách tư duy và
những quy phạm chính trị và đạo đức của con người. Trong thế kỷ XV, giáo dục
và thi cử Nho học tiếp tục được mở rộng và không ngừng phát triển.


<i>Hoạt động văn hóa - nghệ thuật diễn ra sôi nổi. Văn học rất phong phú</i>
về thể loại với nội dung xoay quanh những vấn đề của đạo Nho và đề cập đến
đời sống hiện thực, phản ánh tinh thần dân tộc. Các ngành nghệ thuật sân
khấu ca vũ nhạc cũng có nhiều bước tiến bộ, đã xuất hiện những loại hình ca
kịch như hát ả đào, hát chèo, hát tuồng,... Bên cạnh nền văn hóa cung đình
cịn tồn tại một nền văn hóa dân gian rất đa dạng và phong phú, phục vụ đời


sống tinh thần của tầng lớp lao động. Ở các địa phương, các lễ hội truyền
thống thể hiện tinh thần thượng võ như bơi thuyền, đánh vật, đấu gậy, cướp
cù... rất thịnh hành. Các lễ hội thường xuyên gắn liền với việc nêu cao truyền
thống đánh giặc giữ nước và suy tôn các vị anh hùng dân tộc, những người đã
hy sinh vì sự nghiệp chống ngoại xâm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

<b>1.1.3. Lê Thánh Tông lên ngơi </b>


Thế kỷ XV với nhiều biến cố chính trị phức tạp, đánh dấu sự hình
thành và những bước phát triển quan trọng đối với Nhà nước phong kiến thời
Lê Sơ. Vào năm 1428, sau khi cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà
Minh thắng lợi, Lê Lợi - lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn lên ngôi vua,
tức Lê Thái Tổ, vương triều nhà Lê (Lê Sơ) được thiết lập. Thời kỳ này, nhà
Lê ra sức hàn gắn vết thương chiến tranh cũng như ổn định trật tự xã hội và
củng cố chính quyền. Sau khi Lê Thái Tổ qua đời năm 1428, Lê Thái Tông và
Lê Nhân Tơng lần lượt kế nghiệp đều lên ngơi khi cịn rất ít tuổi (10 và 2 tuổi)
nên mọi quyết sách trong triều đều nằm trong tay các đại thần và hồng thái
hậu nhiếp chính. Tình hình chính trị - xã hội ngày càng rối ren, trong nước
liên tục đối mặt với thiên tai, nhiều nơi mất mùa, nạn đói kém xảy ra liên
miên. Tình trạng tham ơ, tham nhũng, nhận hối lộ, hạch sách nhân dân ngày
càng diễn ra phổ biến, pháp luật không được thực thi nghiêm minh, nhân dân
bị nhiều oan sai, điêu đứng, tất cả những điều đó đã làm cho đất nước lâm vào
khủng hoảng nghiêm trọng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

Lê Thánh Tơng. Ơng là vị vua đã góp phần quan trọng nhất trong việc củng
cố chế độ quân chủ quan liêu tập quyền trung ương. Trong thời Lê Thánh
Tông, bộ máy nhà nước quân chủ trung ương đã phát triển tới mức cao nhất
của nó, các chế độ, qui chế về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hố, giáo dục
đều được hồn chỉnh, làm mẫu mực cho các triều đại phong kiến sau này. Lê
Thánh Tông đã được các nhà sử gia phong kiến khen là “vua sáng lập chế độ,


văn vật khả quan, mở mang đất đai, cõi bờ khá rộng, thực là bậc vua anh hùng
tài lược, dẫu Vũ Đế nhà Hán, Thái Tông nhà Đường cũng không thể hơn
được” [48, tr.387].


Lê Thánh Tơng khơng chỉ là nhà chính trị, vị vua anh minh mà cịn là
nhà văn hố, nhà tư tưởng lỗi lạc, học vấn uyên bác và có khả năng về nhiều
mặt. Ngoài việc hiểu đường lối và phương pháp trị nước, ơng cịn am hiểu
thiên văn, địa lý, lịch sử, văn học. Thông qua hoạt động thực tiễn của mình,
ơng cịn sáng tác thơ văn, tự mình chế định ra các loại chiếu, chế, cáo và các
văn kiện về pháp luật, giáo dục, quân sự, ngoại giao… Tác phẩm của ông
được tập hợp lại trong các bộ Thiên nam dư hạ tập, Hồng Đức quốc âm thi
<i>tập… không những cho thấy tài năng, trình độ của ơng về các mặt nói trên, mà</i>
cịn cho thấy những quan niệm, những tư tưởng của ông về xã hội, về nhân sinh.
Trong đó, những quan niệm, những tư tưởng chính trị của ông được thể hiện ra
với nhiều nét đặc sắc và có giá trị. Tuy mang nặng dấu ấn của Nho giáo, khơng
ngồi mục đích tăng cường chế độ qn chủ chuyên chế song nó đã đáp ứng
được một số yêu cầu dân sinh dân chủ của nhân dân, tạo được một số tiền đề cho
đất nước phát triển và ý thức tự cường dân tộc được đề cao.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

quan liêu theo mơ hình Nho giáo tuyệt đối - một bước phát triển mới về thể
chế. Đồng thời, Lê Thánh Tông đã tiến hành đổi mới đất nước, hoàn thành
việc hội nhập Việt Nam với sự lựa chọn mơ hình nhà Minh của Trung Quốc,
được xem là tiên tiến nhất lúc ấy. Với hai niên hiệu Quang Thuận
(1460-1469) và Hồng Đức (1470-1497), Lê Thánh Tông là vị vua ở ngôi lâu nhất ở
thời Lê Sơ, đã đưa đất nước Đại Việt ở nửa cuối thế kỷ XV vào thế ổn định,
có kỷ cương, luật pháp và phát triển mạnh mẽ, tồn diện về mọi mặt, đạt trình
độ ngang bằng với các quốc gia Âu - Á lúc bấy giờ, được coi là “cực thịnh”
không chỉ trong hơn một trăm năm của triều đại Lê Sơ mà còn là đỉnh cao sự
phát triển của chế độ phong kiến Việt Nam.



<b>1.2. QUÁ TRÌNH CỦNG CỐ, XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC QUÂN CHỦ</b>
<b>TRUNG ƯƠNG TẬP QUYỀN THỜI LÊ THÁNH TÔNG</b>


<b>1.2.1. Cải tổ bộ máy nhà nước ở Trung ương </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

trung quyền lực vào tay hoàng đế, giảm bớt các cơ quan trung gian rườm rà,
tăng cường hệ thống giám sát, hạn chế sự tham chính của quý tộc hoàng tộc,
loại trừ khả năng lộng quyền của triều thần ở trung ương và tệ nạn tập trung
quyền hành của các quan lại ở địa phương.


Tăng cường quyền lực và làm cho bộ máy nhà nước ở trung ương trở
nên thực quyền là mục tiêu quan trọng nhất trong khâu cải cách hành chính vì
chính quyền trung ương là cơ quan đầu não của đất nước trong việc hoạch
định và triển khai việc tổ chức thực hiện đường lối chính trị. Để thực hiện
mục tiêu đó, Lê Thánh Tơng bãi bỏ các chức quan Tam tư (Tư đồ, Tư mã, Tư
không), Tướng quốc, Đại hành khiển, Tả hữu bộc xạ… và những cơ quan
trung gian giữa vua và các cơ quan thừa hành như Thượng thư sảnh, Trung
thư sảnh, Môn hạ sảnh, Nội mật viện. Vua trực tiếp nắm quyền chỉ đạo, giải
quyết mọi công việc quan trọng của Nhà nước cũng như mối liên hệ với các
cơ quan thừa hành cùng sự giúp đỡ của các đại thần trọng chức là tứ Thái
(Thái sư, Thái uý, Thái phó, Thái bảo), tứ Thiếu (Thiếu sư, Thiếu uý, Thiếu
phó, Thiếu bảo) và các đại học sĩ… Những đại thần này khơng hình thành cơ
quan tư vấn mà chỉ là những người đáng tin cẩn làm việc riêng rẽ, góp ý kiến
cho nhà vua. Vua thực sự trở thành nguyên thủ quốc gia, nhân vật số một có
quyền lực tuyệt đối trong việc thực thi quyền lực nhà nước, có đặc quyền về
khen thưởng và xử phạt không những đối với quan lại, dân chúng mà cịn có
quyền sắc phong, lập đền thờ cho các công thần, phúc thần hoặc tước sắc
phong và triệt phá đền thờ đối với hung thần, gian thần.


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

các Thanh lại ty chuyên trách một số công việc nhất định và một cơ quan


thường trực là Tư vụ sảnh. Ngồi ra, cịn có các cơ quan chuyên môn thừa
hành những công việc do bộ giao cho là sáu tự (Hồng lô tự, Thượng bảo tự,
Đại lý tự, Thái thường tự, Quang lộc tự, Thái bộc tự) chuyên đảm bảo một số
công việc đặc biệt, chủ yếu là chuyên trách các hoạt động thuộc về hành pháp
ở trung ương và một số cơ quan chuyên mơn về văn hố, giáo dục khơng lệ
thuộc vào sáu bộ như Hàn lâm viện, Quốc sử viện.


Để kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật trong thực hiện chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các bộ, Lê Thánh Tông cho lập ra 6 khoa
tương ứng với 6 bộ (gồm Khoa Lại, Khoa Hộ, Khoa Lễ, Khoa Binh, Khoa
Hình và Khoa Công) và Ngự sử đài. Ngự sử đài do Đơ Ngự sử đứng đầu là cơ
quan có quyền kiểm sốt tồn bộ hoạt động của các cơ quan nhà nước ở
Trung ương và địa phương, có quyền đàn hặc (vạch rõ tội lỗi, vi phạm của các
quan từ bá quan đến hoàng thân, hoàng tử), quyền can gián nhà vua, quyền
tấu trình trực tiếp với nhà vua. Ngồi ra Ngự sử đài cịn có quyền bàn bạc
chính sự đương thời và duyệt xét án.


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

ở các triều vua Lê trước Lê Thánh Tông, Ngự sử đài và tất cả các quan lại đều
được quyền dâng sớ đàn hặc bất cứ một viên quan nào hoặc một cơ quan nào
đó trong triều thì đến thời vua Lê Thánh Tơng, ơng đã bãi bỏ lệnh đó và giao
hẳn cho sáu khoa chịu trách nhiệm này. Trong các buổi chầu, nhà Vua địi hỏi
sự có mặt của các văn võ đại thần, các viên quan phụ trách các bộ, khoa,
Thượng bảo tự, Thơng chính sứ ty, Đơng các, Ngự sử, Sử quan, nghĩa là cố
gắng tận dụng sự góp ý của tất cả những người có chức trách.


Dưới thời Lê Thánh Tông, bộ máy nhà nước ở Trung ương đã được xây
dựng theo hướng tinh gọn, hiệu quả và tập trung toàn bộ quyền lực nhà nước
vào trong tay nhà vua. Cùng với cải tổ về mặt tổ chức, Lê Thánh Tông đã sửa
đổi quy chế công chức, nếu như trước đó việc bổ nhiệm quan lại phần nhiều
lấy “quan to, tước cao” thì đến đời vua Lê Thánh Tơng đặt quan đều là “lương


ít, trật thấp”. Mặc dù, số lượng quan lại được đặt ra so với trước có tăng rất
nhiều về số lượng nhưng tiền lương chi tiêu so với trước kia khơng tăng. Nhờ
đó, “kẻ ăn hại đã khơng có, trách nhiệm lại quy đến nơi. Để cho lớn nhỏ cùng
ràng buộc nhau, khinh trọng cùng kiềm chế nhau. Uy quyền không giả mà lẽ
nước lại khó lay” [43, tr.13-14].


<b>1.2.2. Xây dựng bộ máy hành chính thống nhất ở các cấp </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

Tun chính sứ, sau đó đổi thành Thừa ty đứng đầu là chức Thừa chính sứ;
<i>thứ hai, quyền chỉ huy quân đội được giao cho Đô ty do Tổng binh phụ trách;</i>
đến năm 1471, Lê Thánh Tông đặt thêm ty thứ ba ở mỗi đạo là Hiến sát sứ ty do
chức Hiến sát sứ đứng đầu. Năm 1473, quy định rõ chức trách “Hiến sát sứ và
Hiến sát phó chuyên giữ các các chức vụ tâu bày, xét hỏi, tâu hặc hoặc khám xét,
xét kiện, hội đồng, đối chiếu, soát lại, xét công tội, đi tuần hành… cả thảy 32
điều” [48, tr.463]. Hàng năm, Hiến sát sứ phải đi kinh lý xứ mình để thăm hỏi
cuộc sống của nhân dân, kiểm tra hoạt động của các quan lại địa phương, phủ,
huyện, xã. Tất nhiên, những cơng việc như khuyến khích sản xuất, khám xét việc
kiện tụng, chỉ đạo công việc của các thuộc lại… cả hai ty Thừa, Hiến đều phải
chăm lo. Theo quy định năm 1471, nếu ở địa phương có tai biến nhưng Thừa ty,
Hiến ty phủ, huyện không đến xem xét ngay mà “chây lười để quá hạn, ta sẽ sai
vệ sĩ vệ Cẩm y đi điều tra, nếu thấy vẫn còn việc lợi nên làm, mối hại nên bỏ mà
các ngươi chưa nói tới thì quan phủ, huyện phải bãi chức, sung quân ở Quảng
Nam, quan Thừa ty bị phải giáng chức” [48, tr.457]. Ngoài Hiến ty, Lê Thánh
Tơng cịn đặt 13 cai đạo giám sát ngự sử chuyên theo dõi, kiểm tra hoạt động
của quan lại địa phương. Như vậy, mỗi ty có phần quyền hạn riêng của mình
đồng thời phải chịu trách nhiệm trước cấp trên của mình ở Trung ương. Các
chức quan ở ty Hiến sát cùng với 13 giám sát ngự sử là những người theo dõi,
giám sát hoạt động của quan lại các ty, các phủ, huyện. Năm 1489, khi dụ Ngự
sử đài và Giám sát ngự sử 13 đạo, Lê Thánh Tơng quy định “nếu là ba ty bên
ngồi trị lý dân chúng, khi phát hiện quan lại tham ô, hoặc có đơn khống tố về


kiện tụng oan ức, cùng tất cả việc riêng tư xảy ra trong phủ, huyện, châu thì do
phân ty các đạo xét xử thi hành” [48, tr.506].


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

đứng đầu, giúp việc có Thiếu doãn và Thị trung. Đơn vị quản lý hành chính cơ
sở là cấp xã được phân thành ba loại là đại xã, trung xã, tiểu xã căn cứ vào số hộ
dân. Năm 1466, Lê Thánh Tông đổi chức xã quan thành xã trưởng là những
người đứng đầu cấp xã giúp các đơn vị hành chính cấp trên nắm quyền quản lý
ruộng đất, thu thuế và quản lý hành chính ở địa phương. Đầu năm 1490, Lê
Thánh Tông ban hành thể lệ tách xã cũ, lập xã mới theo nguyên tắc, tiểu xã có từ
100 đến 299 hộ, trung xã có từ 300 đến 490 hộ, đại xã có trên 500 hộ; những đại
xã quá số quy định 100 hộ (tức là có khoảng 600 hộ trở lên) thì tách số hộ này ra
lập thành một tiểu xã mới. Cũng vào năm 1490, khi xác định bản đồ toàn quốc,
dưới 13 đạo thừa tuyên có “52 phủ, 178 huyện, 50 châu, 20 hương, 36 phường,
6851 xã, 332 thôn, 637 trang, 40 sách, 40 động, 30 nguồn, 30 trường” [48, tr.507].
Các chức quan từ cấp huyện trở lên đều do Nhà nước bổ nhiệm. Điều
kiện và thủ tục bổ nhiệm được quy định rõ ràng và có văn bản. Riêng chức xã
trưởng, tuy do dân bầu nhưng phải được sự duỵêt y của quan phủ, huyện. Xã
lớn (đại xã) được cử 3 xã trưởng, xã vừa (trung xã) cử 2 xã trưởng cịn xã nhỏ
(tiểu xã) cử 1 xã trưởng.


Cơng tác thanh tra, giám sát được Triều đình đặc biệt chú trọng vì việc
cai trị của quan lại các cấp, nhất là ở địa phương có liên quan trực tiếp đến
cuộc sống của nhân dân. Sử cũ ghi lại 22 lần (trong vòng 25 năm) nhà Vua
ban các sắc dụ nói về trách nhiệm của các quan ty thừa, hiến phủ, huyện, 13
giám sát ngự sử. Cùng với việc tăng cường hiệu lực hoạt động của bộ máy
chính quyền các cấp, Lê Thánh Tơng cịn ban hành hàng loạt các lệnh chỉ về
sổ hộ tịch, về kiểm tra dân số, ruộng đất… Đó là những biện pháp nhằm tăng
cường quyền lực của chính quyền trung ương đối với các địa phương để nắm
được tình hình thực tế về mọi mặt diễn ra ở cơ sở.



<b>1.2.3. Đề cao vai trò của pháp luật trong trị nước</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

về kiện tụng và phân chia ruộng đất công làng xã. Thời Lê Thái Tông, Nhà
nước xây dựng thêm một số quy tắc xét xử các vụ kiện tụng và một số điều
luật nghiêm cấm hối lộ. Thời Lê Nhân Tông liên tiếp ban hành nhiều điều luật
về quyền thừa kế ruộng đất, về bảo vệ quyền lợi của quan lại, quân lính và
việc bảo vệ tôn ti trật tự phong kiến. Đến thời Lê Thánh Tông, đi đôi với việc
củng cố bộ máy nhà nước, Triều đình rất coi trọng tới việc xây dựng thể chế
pháp luật để cai trị đất nước và quản lý xã hội. Năm 1464, khi biếm chức
Binh bộ Tả thị lang Nguyễn Đình Mỹ vì mắc tội tham tang, Lê Thánh Tông
nêu rõ: “Pháp luật là phép công của nhà nước, ta cùng các ngươi đều phải
theo” [48, tr.401]. Năm 1471, nhân hiệu định <i>Hoàng triều quan chế, </i>thực chất
là cuộc cải tổ chính trị, sắp xếp lại một cách có hệ thống bộ máy nhà nước
quân chủ tập quyền, Vua dụ các quan và trăm họ phải “thành thói quen theo
đạo giữ phép; khơng có lỗi trái nghĩa phạm hình” [43, tr.14]. Trong sắc dụ
quan lại cả nước vào năm 1474, Vua lại khẳng định “đặt luật để trừ kẻ gian,
sao dung được bọn coi thường pháp luật” [48, tr.463].


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

Nam, “mang đậm nét sáng tạo và tinh thần thực tiễn của giai cấp phong kiến
trong giai đoạn đi lên của nó” [34, tr.203]. Đây là thành tựu có giá trị đặc biệt
quan trọng trong lịch sử pháp luật Việt Nam, là đỉnh cao so với những thành tựu
pháp luật không chỉ của các triều đại trước đó mà cịn đối với cả bộ <i>Hoàng Việt</i>
<i>luật lệ</i> được biên soạn vào đầu triều Nguyễn sau này như Phan Huy Chú nhận
xét: “Hình luật đời Hồng Đức... các thời đều tuân theo, dùng làm phép sẵn, dù
các điều mục lặt vặt có thêm bớt, nhưng đại cương chế độ bao giờ cũng vẫn theo
đó, thật là cái mẫu mực để trị nước, cái khuôn phép để buộc dân” [5, tr.94].


Thời Lê Thánh Tông, với hệ thống pháp luật tương đối hoàn chỉnh, lấy


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

<i>Tóm lại, trong buổi đầu chính quyền nhà Lê về cơ bản vẫn phỏng theo</i>


tổ chức chính quyền của các triều đại trước. Trải qua nhiều lần sửa đổi và chấn
chỉnh, đến thời Lê Thánh Tông, thông qua cuộc cải cách được đẩy mạnh năm
1471 và Quốc triều hình luậtban hành năm 1483, bộ máy nhà nước phong kiến
trung ương tập quyền đã đạt đến giai đoạn phát triển cao nhất của mơ hình Nho
giáo. Hệ thống các cơ quan trong bộ máy quyền lực nhà nước được “xếp đặt
phân minh, phân công rõ ràng, không dẫm đạp lên nhau” [17, tr.449]. Ngoài việc
lập ra các cơ điều hành là sáu bộ, sáu tự, Lê Thánh Tơng cịn lập ra một mạng
lưới các cơ quan kiểm tra, giám sát việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của các
tổ chức, cá nhân nắm quyền lực là sáu khoa và Ngự sử đài.


Cả bộ máy triều đình đều đặt dưới quyền điều khiển trực tiếp của nhà vua,
khuynh hướng tăng cường sự chi phối của Triều đình và hạn chế quyền lực địa
phương được thể hiện rõ nét, coi trọng sự phân chia và kiểm soát lẫn nhau giữa
hệ thống hành chính, quân sự, tư pháp và giám sát. Nhờ đó mà Lê Thánh Tơng
đã thâu tóm được quyền hành, tạo ra một hệ thống hành chính phù hợp với trình
độ phát triển kinh tế - xã hội và dân trí đương thời. Để đáp ứng yêu cầu vận hành
của bộ máy nhà nước sau cải cách gắn liền với thực thi theo pháp luật, việc quản
lý xã hội địi hỏi phải có một đội ngũ quan lại có kiến thức, có văn hố, hiểu biết
về pháp luật, có phẩm chất đạo đức… Đó chính là những tiêu chuẩn của quan lại
nhà nước mà Lê Thánh Tông muốn hướng tới.


<b>1.3. NHỮNG YÊU CẦU ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ</b>
<b>QUAN LẠI</b>


<b>1.3.1. Chuẩn hóa, nâng cao chất lượng đội ngũ quan lại theo những</b>
<b>tiêu chí cụ thể</b>


<i><b>1.3.1.1. Có văn hố, tri thức cai trị theo tư tưởng Nho giáo</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25></div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

Thể chế chính trị nào cũng cần xây dựng được đội ngũ để duy trì quyền


lực của giai cấp thống trị. Do đó, cùng với việc cải cách hành chính, củng cố
và đổi mới bộ máy nhà nước từ Trung ương đến địa phương trên hệ tư tưởng
Nho giáo, Lê Thánh Tông đặc biệt chú trọng đến việc xây dựng đội ngũ quan
lại với tư cách là chủ thể vận hành bộ máy đó. Muốn thế, những người được
giao nhiệm vụ này phải có kiến thức về cai trị theo tư tưởng chính trị Nho
giáo. Lê Thánh Tông đặt ra những quy định nghiêm ngặt, đòi hỏi cao về học
vấn, người làm quan phải có tri thức và chủ trương lấy trình độ học vấn làm
cơ sở để tuyển chọn quan lại. Vì vậy, họ phải được đào tạo cơ bản, học hành
đầy đủ thông qua giáo dục và thi cử Nho học để từng bước tri thức hoá, văn
hoá hoá đội ngũ quan lại. Đã qua rồi thời các quan “mù tịt, dốt đặc, xiểm
nịnh”, thời đại mới với một bộ máy hành chính nhà nước được tổ chức khoa
học và phân minh hơn từng bước được thiết lập sẽ cần đến một đội ngũ quan
lại tương xứng “có học thức vững chắc và trung thành với dịng họ bằng trí
tuệ và đạo đức trong công việc” [44, tr.100].


<i><b>1.3.1.2. Hiểu biết pháp luật và có ý thức chấp hành pháp luật </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

trong bộ máy nhà nước, từ các quan có hàm từ chánh nhất phẩm (quan đại
thần) trở xuống cả ở trong Kinh đơ và ngồi các đạo thừa tuyên với các hình
thức từ quở trách, cách chức, bãi chức đến xử phạt như: đánh trượng Điện tiền
kinh lịch Cao Bá Tường và đày ra châu ngồi vì “bọn quan kiểm điểm Lê Thọ
Vực, Lê Bô, Phạm Văn Hiến coi giữ quân lính, bắt làm việc riêng và thả về để
lấy tiền mà Bá Tường không biết nêu ra để hặc tội”, thu lại quân quyền của
Tây quân đô đốc Lê Thiệt vì “con Thiệt là Bá Đạt đang giữa ban ngày phóng
ngựa ra phố, dung túng gia nơ đánh người”, bắt Giám sát ngự sử Quản Công
Thiêm do “dung túng kẻ đưa hối lộ là Hán Tông Nghiệp” hay Phó Tổng binh
trấn thủ Bắc Bình là Lê Lục và Đồng Tổng tri Nguyễn Lương “giữ trấn mình mà
để cho giặc cướp đốt quan ải” nên bị đày ra châu xa [48, tr.427, 413, 416, 423].


Quan lại có hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của


người dân đều bị trừng phạt nghiêm khắc và được quy định cụ thể trong Quốc
<i>triều hình luật. Theo đó, tại Điều 185, quan lại làm công vụ sách nhiễu dân bị</i>
tội xuy đến biếm một tư; Điều 632 quy định: “Các quan cai quản quân dân các
hạt, vô cớ mà đi đến những làng, xã trong hạt, hay là cho vợ cả vợ lẽ, người
nhà đi lại, mượn việc mua bán làm cớ, để quấy nhiễu nhân dân, lấy của biếu
xén, thì xử tội biếm hay bãi chức” hoặc theo các điều 636, 638, 639, nếu quan
lại tự tiện bắt dân phục dịch, hoặc vay mượn của dân hay cho dân vay để lấy
lãi cao, hoặc tự tiện lấy của dân để làm việc riêng thì đều phải bồi thường và
chịu hình phạt theo pháp luật [49, tr.87, 215-217]. Năm 1467, Lê Thánh Tông
đã bãi chức Tây quân đô đốc Lê Thiệt vì cấp dưới sai đi tuần ngồi biên giới
đã “doạ nạt lấy bạc của dân” [48, tr.423].


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

Phong xin cho Lê Bô phạm pháp bị tội kình (tội phải thích chữ vào mặt) được
chuộc tội, như thế là người giàu có nhiều của hối lộ thì được miễn tội, cịn
người nghèo thì vơ cớ mà bị trị tội, là cả gan vi phạm phép tắc của tổ tông lập
ra để trừng trị kẻ ngoan cố khơng biết răn chừa" và có sắc chỉ cho Pháp ty
không được nương nhẹ, phải xử công bằng các viên quan nội thần Nguyễn
Thư, Chu Đức Đại, Dương Minh Phong, Ngô Ất, Phan Tông Trinh “đều là
người hầu cận, quen thói ăn hối lộ, pháp ty giữ cơng bằng, tội đáng phải xử
tử’” [48, tr.435].


<i><b>1.3.1.3. Tận trung với vua và triều đình, tận tuỵ với cơng việc được giao</b></i>


Là bề tôi, quan lại phải tận trung với vua, tận trung với triều đình trong
mối quan hệ hàng đầu là “vua - tơi” theo tư tưởng chính trị Nho giáo. Vì thế,
ngay sau khi lên ngơi, nhằm “răn đe kẻ bất trung”, Lê Thánh Tông đã định tội
nặng đối với Lê Đắc Ninh vì “giữ cấm binh khơng biết bảo vệ xã tắc” lại giúp
kẻ phản nghịch giết vua Nhân Tông và Thái hậu; ba năm sau giết Thái uý Lê
Lăng vì tội “ngầm mưu làm phản” và đến năm 1485, Trần Phong bị kết tội
“mang lòng bất trung”, “phản quốc” [48, tr.389, 397, 498]. Quốc triều hình


<i>luật </i>đã thể hiện rõ nét nguyên tắc bảo vệ và củng cố vương quyền, chế độ
quân chủ quan liêu, trật tự “đẳng cấp” phong kiến, mọi hành vi xâm phạm đến
lợi ích, sự an tồn và sự “bình n” của vua và hoàng tộc, của thể chế đều bị
trừng trị nghiêm khắc. Trong “thập ác” (mười tội nặng phải chết) thì có 5 tội
xâm phạm đến vua và hồng tộc. Ngun tắc này cũng là tư tưởng chỉ đạo
xuyên suốt toàn bộ Bộ luật nhất là ở các chương Vi chế, Vệ cấm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

điện đại học sĩ Nguyễn Bá Ký được Lê Thánh Tông khen ngợi là “giữ mình
chính trực”, “lúc thoi thóp rồi mà lịng trung vẫn mãi chưa thơi” [48, tr.407].
Trước đó, năm 1464, nhà Vua có sắc dụ Hình Bộ tả thị lang Nguyễn Mậu
“ngươi chăm lo việc nước… thực đáng khen ngợi lắm” và biểu dương Thiêm
đơ ngự sử Nguyễn Thiện “hết lịng thành lo việc nước, kính cẩn chăm lo chức
nhiệm, nhiều lần dâng lời hay” [48, tr.402-403]. Vua muốn quan lại là trung
qn, cịn bản thân thì đối xử cơng bằng, chân tình, khơng vì tình riêng mà lẫn
lộn, sao nhãng cơng việc. Lê Thánh Tơng nói với Nguyễn Cự Đạo (Thượng thư
Bộ Hộ): “Về mặt thần hạ, ngươi với ta là người tri kỷ, là bạn học thức. Về mặt
vua tôi, ta với ngươi là duyên cá nước, là hội gió mây. Ngươi hãy hết lịng hợp
sức, gắng gỏi lo báo đền ơn nước, chí cơng vơ tư, để cho dứt hẳn tệ hối lộ” [48,
tr.435]. Lê Thánh Tông ưa dùng người thẳng thắn, tâm huyết, trung thành nên đã
khen ngợi, dặn dò Lê Cảnh Huy: “Ngươi đã hết lòng can ngăn nói thẳng, chỉ ra
lỗi lầm của trẫm, dẫu nửa được nửa hỏng, nhưng phương cứu tệ, giúp đời xuất
phát từ lòng trung quân ái quốc, đã liền dòng liền trang rồi. Từ nay về sau,… bàn
luận ở triều đình cho trắng đen sáng tỏ” [48, tr.401].


</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

khuyến khích, động viên sự làm việc chăm chỉ của quan lại, Điều 3 của <i>Quốc</i>
<i>triều hình luật nêu rõ “nghị cần, là những người cần cù, chăm chỉ” thuộc một</i>
trong tám đối tượng được xem xét giảm hình phạt khi những người này phạm
tội [49, tr.38].


Triều đình ln nhấn mạnh tinh thần trách nhiệm của quan lại đối với


cơng việc được giao. Năm 1484, nhà Vua có sắc chỉ “hai ty Thừa, Hiến ra
lệnh cho các quan Hà đê, Khuyến nông các phủ, huyện, châu .. phải nghĩ kế
chống đói cho dân… khơng được vứt bỏ chức trách của mình, coi thường đau
khổ của dân” khi đề điều bị vỡ, ngập mất lúa mùa [48, tr.491]. Quốc triều
<i>hình luật, tại Điều 284 đã nhấn mạnh trách nhiệm quan lại chăm lo cuộc sống</i>
của dân “nếu không biết làm việc lợi, trừ việc hại, để dân trăm họ phải phiêu
bạt đi nơi khác, hộ khẩu bị hao hụt và có trộm cướp tụ họp ở trong hạt, thì xử
tội bãi chức hay tội đồ”, Điều 220 nêu rõ khi có chiếu lệnh của Triều đình ban
xuống thì các quan ty phải có trách nhiệm sao lục niêm yết ra để biểu thị cho
quân dân biết rõ đức ý của vua, nếu “coi thường chiếu lệnh ấy là lời hão thì bị
<i>phạt, bị biếm hay bị bãi chức” hoặc Điều 294 quy định về việc chăm sóc</i>
những người “đau ốm mà khơng ai ni nấng”, lang thang cơ nhỡ [49, tr.95,
113, 116]. Đại Việt sử ký tồn thư ghi, năm 1467, Triều đình đã “giáng chức
bọn Thừa tuyên sứ các xứ Bắc đạo Lê Cơng Khác, mỗi người một bậc vì
trong xứ có nhiều sâu cắn lúa mà không biết tâu lên trước, chỉ ngồi nhìn tai
hại đối với dân” [48, tr.430].


<i><b>1.3.1.4. Tấm gương sáng về đạo đức</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

quan trong triều rằng Phạm Phổ là “tặc thần của nhà nước”, do đó bãi chức
[48, tr.437]. Trước đó hai năm, quan Chỉ huy sứ vệ Vũ Lâm là Lê Tông Vĩnh
cũng bị cách chức vì khai man lý lịch để được hưởng tập ấm [48, tr.418].


</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

quân Lê Hán Đình vì “trước đó Hán Đình làm Chuyển vận, khi tại chức tham
ô, sợ dân kiện, tâu xin nghỉ dưỡng bệnh” [48, tr.415-416]. Năm 1467, theo lời
hặc tâu, nhà Vua chuẩn y giao cho Pháp ty theo luật trị tội bọn Hình bộ Đỗ
Tông Nam “làm quan ăn hối lộ”, cho Binh bộ thượng thư Nguyễn Vĩnh Tích
“chơi khơng” vì “năm trước đã nhận bạc đút lót”, nay lại “xin bậy bổng lộc
cho một viên Tổng tri” [48, tr.420, 423].



Ngoài quan hệ “vua – tôi” được đặt lên hàng đầu theo nguyên tắc “tơn
qn quyền”, triều đình thời Lê Thánh Tơng địi hỏi đội ngũ quan lại phải chú
trọng tu dưỡng các chuẩn mực đạo đức theo tư tưởng Nho giáo, từ quan hệ vợ
chồng, đến anh em, bạn hữu. Nhiều viên quan bị xử phạt do khơng giữ trịn
nghĩa vợ chồng, như Thượng thư bộ Binh Nguyên Đình Mỹ bị cách chức
xuống làm Binh bộ Tả thị lang năm 1464 vì mắc tội tham tang, đến năm 1470
lại bị giáng từ quan tam phẩm xuống tịng tứ phẩm vì chỉ lo “củng cố quyền
vị”, “bán chác lời nói” [48, tr.401, 440]. Năm 1467, theo lời tâu hặc của
Lương Thế Vinh, vua giao cho Pháp ty trị tội theo luật Trấn điện tướng quân Bùi
Huấn “đương lúc còn tang vợ mà đi lấy con gái của người về hàng bạn hữu” là
việc làm có “quan hệ tới phong hố, làm rối loạn nhân luân” [48, tr.418]. Trước
đó, năm 1465, Trần Phong bị đổi ra làm Tuyên chính sứ Tây đạo khi “bới
móc hết cái xấu” định làm hại Trần Cẩn là em Trần Phong, “nhân ln bại
hoại khơng gì tệ bằng thế” [48, tr.406].


</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33>

<b>1.3.2. Khắc phục những bất cập trong đào tạo và sử dụng quan lại</b>
<b>trước thời Lê Thánh Tông </b>


Trước Lê Thánh Tông, các triều vua Lê Thái Tổ, Lê Thái Tơng, Lê Nhân
Tơng đều có những chủ trương, biện pháp chăm lo việc đào tạo và sử dụng quan
lại nhưng kết quả đạt được chưa nhiều và còn nhiều bất cập. Việc đào tạo quan
lại chưa đi vào nền nếp, quy củ, đối tượng và nội dung đào tạo còn nhiều hạn
chế. Với nhận thức “muốn có được nhân tài, trước hết phải chọn lựa kẻ sĩ, mà
phép chọn lựa kẻ sĩ phải lấy thi cử làm đầu” [48, tr.319], năm 1434, Lê Thái
Tông định thể lệ khoa thi, kỳ thi “hẹn tới năm Thiệu Bình thứ 5 (1438) thì thi
hương ở các đạo, đến năm thứ 6 (1439) thì thi hội ở Đơ sảnh đường. Từ đó về
sau, cứ 3 năm một khoa thi, đặt làm thường lệ. Ai thi đỗ đều cho là tiến sĩ xuất
thân theo thứ bậc khác nhau” [4, tr.155], nhưng phải đến 8 năm sau mới thực
hiện được (năm 1442, nhà Lê Sơ mở khoa thi tiến sĩ đầu tiên).



Mơ hình bộ máy cai trị đất nước lúc đầu thời Lê Sơ là phỏng theo chế
độ thời Trần nhưng đưa vào mơ hình đó là tầng lớp quan lại khác hẳn. Nhà Lê
Sơ xuất thân từ nguồn gốc bình dân mà trở thành quốc chủ, khơng thể sẵn có
đội ngũ quý tộc như nhà Trần mà xây dựng sự nghiệp dựa trên lực lượng của
cuộc kháng chiến mang tính nhân dân rộng rãi, đó chính là những người đã từ
“bốn phương manh lệ”, “dựng gậy làm cờ” mà theo về “Lam Sơn tụ nghĩa”.
Vì thế, gần như tự nhiên và tất yếu, những người có cơng trong cuộc kháng
chiến lâu dài và gian khổ vốn xuất thân phần lớn là từ nông dân đã được
tuyển dụng và bổ nhiệm vào đội ngũ quan lại các cấp khi triều đình Lê Sơ
được thiết lập sau chiến tranh, nhất là các vị trí quyền lực chủ chốt ở triều
đình. Như vậy, “trọng thị cơng thần” được xem là tiêu chí tuyển dụng và bổ
nhiệm quan trọng nhất như Phan Huy Chú nhận xét:


</div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34>

tam ty, tham dự triều chính, làm trọng chức của các đại thần văn võ,
trao cho các thân thuộc của nhà vua và bầy tơi có công [3, tr.448].
Cùng với các tướng lĩnh nghĩa quân Lam Sơn từ bốn phương tụ hội và
các “công thần khai quốc” có cơng trong chiến tranh giải phóng dân tộc, Nhà
nước cịn sử dụng các trí thức cũ với phương châm “cầu hiền” để quản lý đất
nước, đáp ứng được một số yêu cầu nhất định trong thời kỳ đầu của triều đại
Lê Sơ. Nhưng khi bước sang thời kỳ mới thì việc sử dụng đội ngũ quan lại đó
đã khơng cịn phù hợp, bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập cần khắc phục. Vấn đề
đặt ra ngay dưới triều vua Lê Thái Tổ (1428-1433) và càng về sau càng nổi rõ
là việc tuyển dụng quan lại theo tiêu chí “trọng thị công thần” chỉ thoả mãn
được nhu cầu của bộ máy quản lý nhà nước ở cấp cao, còn những chức vụ
thừa hành, thì vừa khơng xứng, vừa khơng hợp với những công thần, nhất là
các đại công thần, nên khuyết chỗ rất nhiều, đặc biệt là thiếu những người am
hiểu, thạo việc “văn thư hành chính”. Trong khi tình hình thực tế lúc đó thì:


Việc văn giáo lặng lẽ như băng hàn, người hiền từ phải bó
cánh. Bậc túc nho như Lý Tử Tấn, Trình Thuấn Du thì đẩy vào chỗ


nhàn, phường dốt đặc ồn ào như ong đàn nổi dậy, như chó chuột
nhe răng. Tể thần như Lê Sủng, Lê Sát thì ngu si khơng phân biệt
được sáu loại súc vật, Chưởng binh Lê Điên, Lê Luyện, thì mù tịt,
chẳng sao hiểu được bốn mùa một năm… Văn giai như Công Soạn
tuổi gần 80, tể thần như Lê Ê không biết một chữ… Hiền tài là
rường cột của triều đình mà sạch khơng như qt đất. Văn chương
là khí vận của nhà nước mà im ắng tựa cỏ khơ [48, tr.384-385].


</div>
<span class='text_page_counter'>(35)</span><div class='page_container' data-page=35>

Đó là chưa kể đến nguy cơ cát cứ mà những vị vua trẻ tuổi như Lê Thái Tông,
Lê Nhân Tông không đủ khả năng kiềm chế. Pháp luật không được thực thi
nghiêm chỉnh, dân bị nhiều oan trái; tệ hưởng thụ, tham ô, nhận hối lộ, diễn ra
ngày càng nhiều, nhất là quan lại cao cấp trong triều. Những bất cập của xã hội
nhà Lê thời kỳ này được “tổng kết” một cách đầy đủ trong lời chiếu do chính
vua Lê Nhân Tông đọc trong lễ cầu mưa vào mùa hạ năm Kỷ Tỵ (1449) với
nhiều điều trăn trở về sự bất lực của bậc làm vua “có phải trẫm khơng biết sử
dụng nhân tài, những kẻ được dùng đều là loại hèn kém”, “thói chạy chọt ngày
một tệ hại”, “nạn hối lộ công khai”, các quan “không biết yêu thương quân dân,
quen thói đục khoét”, các nhà quyền quý “cậy thế ra oai”… [48, tr.370-371].


Việc bố trí, sử dụng quan lại cịn nhiều tùy tiện, chưa có quy chế chặt
chẽ; tình trạng dung túng cho các quan trong triều lạm dụng quyền lực, vi
phạm pháp luật khá phổ biến dẫn đến “bán quan mua kiện, ưa giàu ghét
nghèo”, “bọn xiểm nịnh được tin dùng, kẻ đao bút được tiến cử” [48, tr.385].
Do phân tán quyền lực dẫn đến tranh giành, chia rẽ thành các phe nhóm đấu
đá lẫn nhau là một trong những nguyên nhân chủ yếu của các chính biến cung
đình. Nhiều viên quan đứng đầu triều đình khơng còn khả năng làm việc, già
yếu vẫn tham quyền cố vị, trở thành chướng ngại, thậm chí là “mối họa” cho
sự phát triển xã hội lúc đó. Việc giết hại công thần ở các đời vua Thái Tổ,
Thái Tông đã làm khuyết đi một mảng quan lại cao cấp là công thần, rồi tuổi
tác và tháng năm cũng làm mai một dần và mất hẳn đội ngũ này trong khi nhu


cầu phát triển bộ máy nhà nước ngày càng lớn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(36)</span><div class='page_container' data-page=36>

<b>Chương 2</b>


<b>CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO VÀ SỬ DỤNG QUAN LẠI</b>
<b>THỜI LÊ THÁNH TƠNG</b>


<b>2.1. CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO QUAN LẠI </b>
<b>2.1.1. Mục đích đào tạo</b>


<i><b>2.1.1.1. Chuẩn hố đội ngũ quan lại về trình độ và bằng cấp</b></i>


Khái niệm “quan lại” là do hai thuật ngữ “quan” và “lại” hợp thành.
Trong thời quân chủ phong kiến, “quan” dùng để chỉ những người giữ một
chức vụ ít nhiều quan trọng của Nhà nước, có trách nhiệm quản lý một địa
phương hay một hoạt động nhất định, lớn hay nhỏ, còn “lại” dùng để chỉ các
nhân viên phục dịch trong các cơ quan nhà nước, có thể là thư ký, kế toán, giữ
sổ sách, thu thuế, chạy giấy, ghi chép… Do đó, “quan lại” là để chỉ những
người làm việc cơng trong bộ máy chính quyền nhà nước từ Trung ương tới
các địa phương ngày xưa và là những cán bộ, công chức (gọi chung là cán bộ)
theo cách quan niệm ngày nay [36, tr.17].


Khi nói đến những người có chức tước trong đội ngũ quan lại, người ta
thường đề cập đến ba nội dung chính là chức quan, tước vị và phẩm hàm.
Chức quan là chức vụ cụ thể của người làm quan, quy định nhiệm vụ mà
người đó thi hành ở cương vị mình phụ trách. Tước vị là danh hiệu khen
thưởng của triều đình, thường tương đương với chức quan nhưng cũng có khi
tước cao mà chức thấp hoặc ngược lại. Phẩm là cấp bậc để phân biệt triều ban
được xếp theo chín bậc từ nhất phẩm đến cửu phẩm, mỗi phẩm lại chia ra làm
trật chánh và trật tịng, cộng thành 18 trật. Hàm thì có hàm Tản quan là loại


chức danh thời cổ được các triều đại sau sử dụng phong cho các quan làm
danh hiệu vinh dự, thực chất khơng có nhiệm vụ hay quyền gì, cịn Hn hàm
là danh hiệu để phong cho những người có cơng lớn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(37)</span><div class='page_container' data-page=37>

Vương triều nhà Lê hình thành từ trong khói lửa thời chiến, các đại thần trọng
chức trong triều, phần lớn tiến thân bằng con đường binh nghiệp. Sau khi
giành được độc lập, các triều vua Lê Sơ phải dùng con đường khoa cử cũng
như việc chọn người có văn học hay những người đỗ đạt qua thi cử Nho học
vào bộ máy Nhà nước là xu hướng tất yếu. Do đó, mục đích đào tạo trước hết
là để chuẩn hóa đội ngũ quan lại về mặt tri thức, văn hóa và bằng cấp bao
gồm cả việc bổ sung bộ phận quan lại mới được đào tạo cơ bản và tri thức hóa
(đào tạo lại) những người đang giữ chức vụ trong bộ máy nhà nước các cấp
nhưng chưa đảm bảo yêu cầu về mặt học vấn và bằng cấp.


Con đường khoa cử Nho học mở ra từ thời Lý nhưng chưa chú trọng
vào việc đào tạo đội ngũ quan lại bằng Nho học và thông qua thi cử. Đến thời
Trần, số người tiến thân bằng con đường cử nghiệp nhiều hơn, danh nho đông
đảo hơn các thời trước. Những thống kê từ sách <i>Các nhà khoa bảng Việt Nam</i>


cho thấy trong gần 4 thế kỷ tồn tại của hai vương triều này, chỉ tổ chức được
15 khoa thi, lấy đỗ được 60 người. Triều Hồ tuy tồn tại ngắn ngủi nhưng cũng
tổ chức được 3 khoa thi với 15 người đỗ. Sang thời Lê, việc mở các khoa thi
để tuyển chọn đội ngũ quan lại mới được chú trọng hơn. Trong 32 năm của ba
triều vua Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông và Lê Nhân Tơng (1428-1459), đã có 9
khoa thi với 107 người được nêu tên trên bảng vàng [2]. Phải đến thời Lê
Thánh Tông, chế độ khoa cử Nho học mới được mở rộng, phát triển mạnh mẽ


và đi vào nền nếp với theo phương châm coi việc thi cử là hàng đầu để “chọn
người có học”, “chọn kẻ sĩ”, trong đó chủ yếu là chọn người đảm nhiệm cơng
việc chính trị, ngoại giao.



</div>
<span class='text_page_counter'>(38)</span><div class='page_container' data-page=38>

phương, tuỳ vị trí cụ thể mà đặt ra tiêu chuẩn là tiến sĩ hoặc đã thi đỗ một số
khoa thi nhất định. Đối với cấp huyện, "khuyết chức chính quan nếu khơng có
người khoa mục thì cho lấy người thi đỗ tam trường mà thuyên bổ” [48, tr.428].
Thậm chí đến xã trưởng – tuy khơng phải là một chức quan triều đình – song việc
lựa chọn cũng dựa trên tiêu chỉ căn bản là có học, cịn “nếu khơng biết chữ thì
cho nghỉ” [3, tr.571]. Lê Thánh Tông mong muốn tạo được một đội ngũ quan
lại gồm những người ưu tú trong giới trí thức Nho học, được chọn lựa kỹ càng
làm chỗ dựa vững chắc cho triều đình, bởi vậy, trong buổi “lễ ăn thề” với
thượng thư các bộ vào mùa đông năm Quang Thuận thứ 4 (1463), ông dẫn lại
lời của Tư Mã Quang: “Người quân tử là cội gốc để tiến lên việc trị bình, kẻ
tiểu nhân là thềm bậc để đi đến họa loạn”, cho nên: “Ta và các ngươi đã thề
với trời đất dùng người quân tử, bỏ kẻ tiểu nhân, ngày đêm chăm chắm không
lơi” [48, tr.399].


<i><b>2.1.1.2. Thu hút, bồi dưỡng nhân tài</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(39)</span><div class='page_container' data-page=39>

quyền quý để cầu cạnh xin quan tước thì xử tội biếm hoặc đồ” [49, tr.75]. Từ
góc độ này, cũng là nhằm ngăn chặn tệ thao túng quyền lực từ tầng lớp vương
hầu.


Với chủ trương khuyến khích Nho học và một chế độ giáo dục khoa cử
nề nếp, cùng một lúc, Lê Thánh Tông đạt được hai mục tiêu: <i>thứ nhất</i>, tuyển
chọn được những người ưu tú cho bộ máy của nhà nước, thực hiện chuyển
giao quyền lực từ quý tộc sang quan liêu nho sĩ; <i>thứ hai</i>, đưa Nho giáo thâm
nhập sâu vào đời sống xã hội. Do đó, đây là thời kỳ Nhà nước gắn với sự cai
trị của các quan văn và tuân theo tư tưởng chính trị Nho giáo. Bản thân những
người thành công trong các kỳ thi dân sự mà được tuyển dụng vào bộ máy
chính quyền, cũng mong muốn xây dựng Nhà nước trong sạch, có kỷ cương
và vững mạnh theo phong cách trí thức của họ. Như vậy, trên nền tảng tư


tưởng chính trị Nho giáo, chính sách đào tạo thời Lê Thánh Tơng nhằm nâng
cao trình độ văn hóa trong tồn xã hội nói chung, đặc biệt là những người
được giao giữ chức vụ quan trọng trong các cấp chính quyền, bổ sung và đổi
mới đội ngũ quan lại với trình độ, năng lực ngày càng được nâng lên, thơng
đó để phát hiện, đào tạo nhân tài cho đất nước. Tư tưởng trọng dụng nhân tài
trở thành một chủ trương lớn, được xây dựng thành chính sách và hiện thực hóa
bằng những hành động cụ thể vì: “sự nghiệp trị nước lớn lao… khơng gì cần kíp
hơn nhân tài”, “trị nước mà không lấy nhân tài làm gốc … sao có thể đạt tới
chính trị phong hố phồn vinh, văn vật điển chương đầy đủ” [48, tr.492]. Vấn đề
quan tâm hàng đầu của triều đình trong khoa cử là tìm nhân tài quản lý đất nước.
Do đó, các nho sĩ phải đưa ra được kế thuật trị nước an dân và “chính sự đương
thời” trở thành một nội dung quan trọng trong thi cử.


</div>
<span class='text_page_counter'>(40)</span><div class='page_container' data-page=40>

được bổ nhiệm vào các vị trí quyền lực ở Kinh đơ và ở các đạo, phủ, huyện đã
cho thấy sự thịnh trị của giáo dục khoa cử cũng như vai trị của nó trong đời
sống chính trị - xã hội thời đó. Việc giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng gắn bó chặt
chẽ với sử dụng nhân tài, nhân tố quyết định đến sự tồn vong và hưng thịnh
của giang sơn, xã tắc như lời nhận xét của Phan Huy Chú: “Đến đời Quang
Thuận, Hồng Đức vận nước tươi sáng do khoa mục xuất thân, nhân tài đầy
dẫy, đủ cung cho nước dùng” [5, tr.5].


<b>2.1.2. Hệ thống đào tạo </b>


<i><b>2.1.2.1. Hệ thống trường công</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(41)</span><div class='page_container' data-page=41>

giảng riêng ở Tăng Quảng đường, không được cấp học bổng và phải ở ngoại
trú. Con các quan lại hỏng thi được tuyển vào đọc sách ở tam quán (Sùng
Lâm quán, Tú Lâm quán, Tú Lâm cục) hoặc học võ ở Vệ Kim Ngô.


Để tăng cường giáo dục Nho học và khoa cử Nho học, dưới thời Lê


Thánh Tông, Quốc Tử Giám và Văn Miếu ở Kinh đơ Thăng Long được tu bổ,
chỉnh trang, trong đó đáng lưu ý nhất là việc sửa nhà Thái học vào năm 1483
trở thành không chỉ là nơi thờ tự ông tổ của đạo Nho mà còn là một “học
cung”, học đường thật sự đáng kính trọng, nơi lưu giữ và đề cao tên tuổi
những người có trình độ Nho học uyên thâm của đất nước. Bên cạnh giảng
đường lớn là Minh Ln đường, có thêm hai giảng đường Đơng, Tây, có Bí
thư khố (kho sách) và các nhà nội trú cho 300 xá sinh ăn học trong trường. Hệ
thống Văn miếu ở các đạo thừa tuyên, phủ, huyện cũng được tu tạo hoặc xây
mới, trở thành biểu tượng văn học, giáo dục khoa cử của từng địa phương.


Việc lựa chọn những người đảm nhiệm việc giảng dạy học trò ở các
trường địa phương cũng được chú ý, đặt tiêu chuẩn và tổ chức thi để lựa chọn:
Nho học huấn đạo các xứ có khuyết thì Lại bộ theo như lệ
trước tâu lên, giao cho Quốc tử giám và quan các nha môn chọn bầu
các lại viên là chân nho sinh đã trúng trường và nho sinh tuổi từ 35 trở
lên, có học vấn và hạnh kiểm, khơng phạm lỗi, giao cho Lễ bộ khảo
xét, nếu bốn kỳ đều hợp cách cả thì theo lệ mà thuyên bổ [48, tr.515].
<i><b>2.1.2.2. Hệ thống trường tư</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(42)</span><div class='page_container' data-page=42>

kiện quy định của Nhà nước, bất cứ nhà Nho nào cũng có quyền mở trường
học, lớp học. Một số gia đình có điều kiện, đón thầy về nhà để dạy cho con
cái và có thể biến lớp học tư gia đó thành trường học chung cho cả làng. Những
trường lớp này thường gọi là các hương học (trường làng) vì nó nằm rải rác ở
các làng mạc trong cả nước, nhằm giúp những con em ở xa xơi và con nhà
nghèo khơng có điều kiện lên phủ, huyện ăn học hoặc ra Kinh đô học tập văn
bài. Gọi là hương học, nhưng học sinh cũng được học hành dạy dỗ đầy đủ các
chương trình từ thấp lên cao để có đủ trình độ và điều kiện để đi thi.


Giữa hai hệ thống trường cơng và trường tư khơng có gì khác nhau
ngồi việc các thầy giáo trường tư sống bằng tiền đóng góp của học trị cịn


các thầy giáo trường cơng thì hưởng lương bổng của Triều đình. Chương trình
học cùng cách thức học tập cũng giống nhau. Đến ngày đi thi các thí sinh
khơng có sự phân biệt giữa trường cơng, trường tư, tất cả đều phải thi chung
một trường với cùng một đề thi như nhau.


Xét về mặt hình thức, thời Lê Thánh Tơng khơng có trường lớp đào tạo
riêng một chun ngành nào cả nên cũng khơng có trường chun đào tạo
quan lại. Tuy nhiên, căn cứ vào nội dung, chương đào tạo và kết quả các kỳ
thi thì phần lớn quan lại, với tư cách là người làm công cho Nhà nước đều
được tuyển dụng từ những người thi đỗ trong các kỳ thi. Điều đó có nghĩa là,
các trường học (ở Trung ương và địa phương) tuy không phải là trường
chuyên đào tạo quan lại, nhưng trên thực tế, đã làm chức năng của một trường
đào tạo quan lại. Việc học và thi, do đó, trở thành phương thức chủ yếu đào
tạo, tuyển dụng quan lại thời Lê Thánh Tông. Nhà nghiên cứu Nguyễn Tài
Thư nhận định rằng: “Lê Thánh Tông tôn sùng Nho giáo và tự hào rằng quan
lại đương thời đều do cái mũ nhà Nho mà ra” [44, tr.93]. Với phương diện đó,
học là để làm quan và trở thành một nghề nghiệp xã hội.


</div>
<span class='text_page_counter'>(43)</span><div class='page_container' data-page=43>

Qua Dụ khuyến học của Lê Thánh Tông và các bài văn bia cho thấy các
thầy giáo ở Quốc Tử Giám và các trường lớp khác, một mặt xuất phát từ
những nguyên lý và lý tưởng của đạo Nho, mặt khác bám sát yêu cầu đào tạo
quan lại phục vụ bộ máy quản lý nhà nước nên cần phải có những nội dung
thích hợp để dạy dỗ học trị nhằm đào tạo họ thơng thạo tinh thần và tư tưởng
Nho giáo để có thể đảm nhận công việc cai trị dân chúng. Do vậy các sách giáo
khoa dùng trong các trường lớp ở thời kỳ này trước hết và chủ yếu là các sách
kinh điển Tống Nho của Trung Hoa như “Tứ thư, Ngũ kinh, Ngọc đường văn
<i>phạm, Văn hiến thông khảo, Văn tuyển và Cương mục học quan” [48, tr.490].</i>
Ngồi ra, chương trình học để đi thi còn phải kể đến những sử sách và thơ văn gọi
là ngoại thư như bộ Cổ văn, bộ Đường thi và mấy cuốn Thi văn đời đường [31,
tr.68].



Năm 1467, bắt đầu đặt chức “Ngũ kinh bác sĩ”, “mỗi người chuyên
nghiên cứu một kinh để dạy học trị” [48, tr.418]. Sở dĩ có lệnh này vì lúc ấy,
giám sinh nhiều người chuyên trị Kinh Thi, Kinh Thư, ít người học tập sách
Lễ Ký, Chu Dịch và Xuân Thu. Đồng thời, Nhà nước cịn cho lập Bí thư khố
để chứa sách, tổ chức in và phát hành rộng rãi sách <i>Ngũ kinh</i> cho xá sinh
Quốc Tử Giám nhằm khắc phục tình trạng thiếu sách học.


Ở các địa phương, việc khuyến học và nâng cao chất lượng giáo dục
cũng được chú trọng. Những sĩ nhân đã từng đi học, biết làm văn, có hạnh
kiểm, đã thi đỗ và được miễn tuyển thì cho miễn nửa phần thuế và sai dịch.
Sách giáo khoa cũng được in và phát đến các trường học của phủ để các “học
quan do đấy để giảng dạy, khoa cử do đấy để lấy nhân tài” [48, tr.490].


<i><b>2.1.3.2. Phương pháp đào tạo</b></i>


Phương pháp dạy và học ở Quốc Tử Giám và các trường cơng cấp đạo, phủ,
huyện trong nước buộc học trị phải học thuộc lịng, đồng thời cũng cần có sự liên
hệ và tìm tịi, sáng tạo thơng qua các hình thức giảng sách, làm văn và bình văn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(44)</span><div class='page_container' data-page=44>

nghe các vị học quan giảng sách kinh truyện. Ở Quốc Tử Giám, thỉnh thoảng
nhà Vua cũng ngự ra nghe giảng sách, các quan thông hiểu kinh điển Nho
giáo sẽ phụ trách việc giảng sách và kinh truyện cho Vua nghe.


- Làm văn: Cứ mỗi tháng cũng định những kỳ tập làm văn như nghe
giảng sách. Có hai lối tập làm văn, làm văn tại trường là thầy giáo ra đầu bài
buộc học sinh làm ngay tại trường và nộp bài ngay trong ngày hơm đó, cịn lối
văn tập làm tại nhà tức là học sinh mang đầu bài về nhà làm và đúng kỳ hạn
đem nộp bài.



- Bình văn: Học sinh nộp quyển cho thầy giáo, khi đã chấm xong định
ngày họp hội học sinh trở lại để phê bình. Những đoạn văn hay, những bài
đặc sắc sẽ được đọc lên cho học sinh nghe, thỉnh thoảng thầy giáo cịn đặt ra
những giải thưởng cho cuộc bình văn thêm sôi nổi, hứng thú.


<b>2.1.4. Đánh giá kết qủa đào tạo qua thi cử </b>
<i><b>2.1.4.1. Nội dung thi</b></i>


Toàn bộ việc học hành, dạy dỗ của học trò và thầy giáo trong nhà
trường đều phục vụ cho việc thi cử vì đây là khâu cuối cùng của việc đào tạo
và cũng là khâu đầu tiên của việc tuyển chọn quan lại cho bộ máy nhà nước.
Tuỳ theo mục đích, yêu cầu tuyển chọn mà Nhà nước quyết định mở các kỳ
thi như khoa thi tuyển Tiến sĩ, thi Hoành từ, thi khảo thí…


</div>
<span class='text_page_counter'>(45)</span><div class='page_container' data-page=45>

đầu đề mà diễn tả sao cho quan trường thấy rõ ý tưởng cao siêu cùng với cái
học uyên thâm của mình và phải tinh ý hết lịng tán dương triều đình và nhà
vua đương thời. Chiếu là lời vua ban bố, hiệu lệnh cho toàn thể nhân dân. Chế
là lời vua phong thưởng cho công thần, danh sĩ. Biểu là bài văn của thần dân
dâng lên vua để chúc mừng hoặc tạ ơn, bày tỏ ý kiến. Chiếu, chế, biểu là
những loại cơng văn mà học trị phải tập luyện rất lâu trong ghế nhà trường để
sau khi đỗ đạt ra làm quan có thể sử dụng được. Ngồi ra cịn một số những
môn thi khác như ám tả, tập viết, luật pháp, tốn pháp, tốn học… nhưng
khơng thường xun.


Cụ thể, theo quy định năm 1462 thì kỳ thi hương “trước hết là thi ám tả
để loại bớt” và nêu rõ đề mục thi gồm 4 kỳ là:


Kỳ thứ nhất thi Tứ Thư, kinh nghĩa gồm 5 bài. Kỳ thứ hai thi
chiếu, chế, biểu dùng cổ thể hay tứ lục. Kỳ thứ ba thi thơ, dùng
Đường luật, phú dùng cổ thể hay Ly Tao, văn tuyển, từ 300 chữ trở


lên. Kỳ thứ tư thi một bài văn sách, đầu đề hỏi về kinh, sử hay việc
đương thời, hạn 1000 chữ [48, tr.396].


Đối với thi hội, năm 1472 nêu rõ nội dung thi qua 4 kỳ như sau:


Kỳ thứ nhất ra 8 đề về Tứ thư, người thi tự chọn lấy 4 đề, làm
4 bài văn, Luận Ngữ 4 đề, Mạnh Tử 4 đề. Ngũ kinh: mỗi kinh 3 đề,
người thi tự chọn một đề mà làm. Duy kinh Xuân Thu thì 2 đề gộp
làm một mà làm. Kỳ thứ hai thi chế, chiếu, biểu; mỗi loại 3 đề. Kỳ
thứ ba, thơ, phú mỗi loại 2 đề, phú dùng thể Lý Bạch. Kỳ thứ tư, 1
bài văn sách, hỏi về chỗ dị đồng trong nghĩa lý của kinh truyện,
điều hay dở trong chính sự của các đời [48, tr.459].


</div>
<span class='text_page_counter'>(46)</span><div class='page_container' data-page=46>

thể Lý Bạch. Kỳ thứ ba, chiếu, chế, biểu mỗi thể loại một bài. Kỳ thứ
tư, sách vấn, đầu đề văn sách hỏi về ý nghĩa dị đồng của kinh, sử và
nội dung về thao lược của tướng soái [48, tr.465].


<i><b>2.1.4.2. Thể lệ thi </b></i>


Việc tổ chức thi cử là độc quyền của Nhà nước, giao cho Bộ Lễ đảm
nhiệm, đến thời Lê Thánh Tơng đã hồn thiện các thể lệ về thi cử, trở thành
chế độ của Nhà nước.


<i>- Cấp độ và tần suất tổ chức thi</i>


Việc tổ chức thi được tiến hành tuần tự theo cấp độ từ thấp đến cao qua
các kỳ thi hương, thi hội, thi đình. Thi hương là kỳ thi địa phương, thường tổ
chức ở các đạo thừa tuyên. Thi hội và thi đình là kỳ thi quốc gia dành cho
những người đã kinh qua thi hương và các giám sinh đã mãn khoá Quốc Tử
Giám, nếu đỗ sẽ mang lại vẻ vang tột đỉnh cho một Nho sĩ và cũng là cuộc


kiểm tra đánh giá cao nhất đối với các bậc tài năng của đất nước.


Năm 1463, Lê Thánh Tông bắt đầu định lệ thi hội và thi đình cứ ba
năm tổ chức một lần, năm trước thi hương thì năm sau thi hội. Hai kỳ thi hội
và thi đình diễn ra trong khoảng 8 tháng, thường thì mùa Xuân tháng Giêng
thi hội và đến mùa Thu tháng Tám năm ấy thi đình.


<i>- Đối tượng dự thi</i>


Đối tượng lựa chọn để tham gia vòng thi hương khơng phân biệt là dân
hay lính, nhưng phải có “đức hạnh”. Nhà nước quy định cấm thi một số
trường hợp liên quan đến xuất thân như “kẻ nào vào loại bất hiếu, bất mục,
bất nghĩa, loạn luân, điêu toa… thì dẫu học giỏi, văn thơ hay, cũng không cho
vào thi” hay “nhà phường chèo, con hát, những kẻ phản nghịch, nguỵ quan có
tiếng xấu, thì bản thân và con cháu đều không được dự thi” [48, tr.396]. Đến
năm 1483, đối tượng cấm thi được đưa vào Điều 629, Quốc triều hình luật:


</div>
<span class='text_page_counter'>(47)</span><div class='page_container' data-page=47>

Những thí sinh đỗ kỳ thi hương đều được vào thi hội. Ngồi các sĩ tử là
học trị “đơn thuần” là đối tượng dự thi chính, cịn có cả những người đã làm
quan. Năm 1486, những quan viên chưa trúng tuyển qua khoa thi hương được
vào hội thi nếu có nguyện vọng, các “thí sinh” này nếu là quan viên giữ chức
ở trong Kinh thì do phủ Phụng Thiên, nếu là quan ở các đạo thừa tuyên thì do
Thừa tuyên sát hạch theo thể lệ thi hương, người nào trúng tuyển mới cho vào
thi hội [48, tr.500]. Mục đích của việc làm này là “chuẩn hoá về mặt bằng
cấp” hay “bằng cấp hóa” các quan lại chưa có điều kiện thi trước đây.


<i>- Số lượng dự thi</i>


Các huyện quan được lấy số sĩ tử theo chỉ tiêu dành cho huyện mình
(huyện lớn 200 người, huyện vừa 150 người, huyện nhỏ 100 người), đưa lên cấp


trên duyệt lại, làm thành danh sách chính thức. Năm 1466 có 150 huyện của 6
trấn có trường thi: Thanh Hố có 22 huyện, Nghệ An 30 huyện, Sơn Nam 36
huyện, Kinh Bắc 20 huyện, Sơn Tây 24 huyện, Hải Dương 18 huyện, tính chung
có khoảng 30.000 người dự thi hương trong một năm (một kỳ thi) [31, tr.154].


Năm 1474, định thể lệ lấy cống sĩ ở các xứ Hải Dương, Sơn Nam, Tam
Giang, Kinh Bắc, mỗi xứ 130 người, Thanh Hoa, Nghệ An mỗi xứ 60 người,
Thuận Hoá, Yên Bang, Tuyên Quang, Hưng Hoá mỗi xứ 30 người [48,
tr.487]. Số lượng người dự các kỳ thi hội đều rất lớn, ít nhất khoa thi năm
Bính Tuất (1466) cũng có tới 1100 người, cịn khoa thi năm Q Mùi (1463),
có hơn 4400 người.


<i>- Quy chế thi</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(48)</span><div class='page_container' data-page=48>

hơn). Những người đỗ cả 4 kỳ thi hội thì được vào thi đình cịn gọi là Điện
thí, do vua trực tiếp hỏi bài.


Thi hương cũng như thi hội đều không có trường cố định, mỗi lần thi là
một lần làm trường. Trơng coi kỳ thi có các vị quan Đề điệu (chánh chủ
khảo), Giám thí (phó chánh chủ khảo), Tri cống cử và một số chức danh khác
như khảo quan, di phong, đối độc, đằng lục, tuần xước. Những ai đem theo
bản sao chép văn chương, sách vở vào trường thi hoặc đi thi hộ người khác
đều bị xử lý nghiêm khắc. Điều 99, Quốc triều hình luật nêu rõ: người thi
hương, thi hội mà “mượn người làm hộ bài thi” thì người đó cùng với người
làm hộ bài đều bị phạt biếm 2 đến 3 tư, còn nếu “giấu sách vở đem vào trường
thi phải phạt 80 trượng”. Quan giám sát thi hương, thi hội “không khám xét
hay khám xét giả dối” hoặc biết mà cố ý dung túng cho thí sinh mang sách vở
vào trường thi “thì đều xử phạt 60 trượng” - theo Điều 101 [49, tr.66]. Luật thi
không chấm trực tiếp bài làm của thí sinh mà sao chép rõ ràng, rồi đưa bản sao
đi chấm, quan Đề điệu phát bài cho nội liêm chấm trước, ngoại liêm chấm sau.



<i>- Danh hiệu cho người thi cử đỗ đạt</i>


Những người đỗ cả 4 kỳ thi hương gọi chung là hương cống hoặc cử
nhân; bậc thấp hơn gọi là sinh đồ hay đỗ tú tài.


</div>
<span class='text_page_counter'>(49)</span><div class='page_container' data-page=49>

<i><b>2.1.4.3. Các khoa thi thời Lê Thánh Tông</b></i>


Từ khi quy định và thực hiện 3 năm thi hội một lần, tính trong 38 năm
của triều đại Lê Thánh Tông, đã tổ chức được 12 khoa thi tiến sĩ: năm Quang
Thuận thứ 4 (1463) thi tiến sĩ, sĩ cử đông tới 4400 người, lấy được 44 người
đỗ tiến sĩ, Lương Thế Vinh đậu Trạng nguyên; năm Quang Thuận thứ 7
(1466) thi tiến sĩ, lấy đậu 27 tiến sĩ trong số 1100 người dự thi, Dương Như
Châu đậu Đình ngun Hồng giáp; năm Quang Thuận thứ 10 (1469) thi tiến
sĩ, lấy đỗ 22 người, Phạm Bá đậu Đình ngun Hồng Giáp; năm Hồng
Đức thứ 3 (1472) thi tiến sĩ, lấy đỗ 27 người, Vũ Kiệt đậu Trạng nguyên;
năm Hồng Đức thứ 6 (1475) thi tiến sĩ, 3000 người dự thi, lấy đỗ 43 người,
Vũ Tuấn Chiêu đậu Trạng nguyên; năm Hồng Đức thứ 9 (1478) thi tiến sĩ,
lấy đỗ 62 người, Lê Quảng Chí đậu Đình ngun Bảng nhãn; năm Hồng
Đức thứ 12 (1481) thi tiến sĩ, lấy đậu 40 người trong số 2000 người dự thi ,
Phạm Đôn Lễ đậu Tam nguyên Trạng Nguyên (khi đỗ 27 tuổi); năm Hồng
Đức thứ 15 (1484) thi tiến sĩ, lấy đỗ 44 người, Nguyễn Quang Bật đậu
Trạng nguyên; năm Hồng Đức thứ 18 (1487) thi tiến sĩ, lấy đậu 60 người,
Trần Sùng Dĩnh đậu Trạng nguyên; năm Hồng Đức thứ 21 (1490) thi tiến
sĩ, lấy đỗ 54 người, Vũ Duệ đậu Trạng nguyên; năm Hồng Đức thứ 24
(1493) thi tiến sĩ, lấy đỗ 48 người, Vũ Dương đậu Trạng nguyên; năm
Hồng Đức thứ 27 (1496), thi tiến sĩ, lấy đỗ 30 người, Nghiêm Viên đậu
Trạng nguyên.


</div>
<span class='text_page_counter'>(50)</span><div class='page_container' data-page=50>

thi ở thời Lê Thánh Tơng có gần 42 người đỗ, cao gấp 3,2 lần so với tỷ lệ đỗ


của cả 183 khoa thi và đây cũng là tỷ lệ cao nhất so với tỷ lệ bình quân của
các khoa thi trong các thời kỳ khác như Phan Huy Chú đã nhận xét: “Khoa cử
các đời thịnh nhất là đời Hồng Đức. Cách lấy đỗ rộng rãi, cách chọn người
công bằng, đời sau không thể theo kịp” [5, tr.12].


Số lượng người đỗ ở kỳ thi hội nhiều nhưng so với số người dự thi thì
tỷ lệ khơng cao; ví dụ năm 1463 có 4400 người dự thi, chỉ 44 người đỗ (chiếm
1%); năm 1466 có 1100 người dự thi, 27 người đỗ (chiếm 2,45%); năm 1475 có
3000 người dự thi thì 43 người đỗ (chiếm 1,43%); năm 1481 có 2000 người dự
thi và 40 người đỗ (chiếm 2%). Điều đó cho thấy việc tổ chức thi cử thời Lê
Thánh Tông tuy rộng rãi nhưng rất chặt chẽ và coi trọng chất lượng.


Cùng với 12 kỳ đại khoa được tổ chức thường xuyên, đều đặn để tuyển
chọn nhân tài, thời Lê Thánh Tơng cịn tổ chức một số khoa thi khác như thi
khảo hạch, thi hoành từ, thi con cháu quan viên và thi tuyển huấn đạo... Năm
1467, nhà Vua cho tổ chức thi khảo hạch những người đã đỗ trong kỳ thi hội
năm trước để tuyển chọn lại quan chức. Những tiến sĩ như Lê Đình Tuấn,
Lương Thế Vinh, Dương Như Châu đều tham gia trong kỳ khảo hạch này. Tại
kỳ thi này, Dương Như Châu vừa đỗ Đình ngun Hồng giáp năm trước, “vì
học nghiệp khơng tiến bộ” nên đang làm Hàn lâm viện thị chế phải chuyển
sang làm Hồng lô tự thừa [48, tr.430]. Cũng trong năm này, Nhà nước tổ chức
thi khảo hạch học sinh, giám sinh và nho lại để tuyên bổ vào các chức quan ở
huyện, phủ. Đến năm 1490, tổ chức khảo thí các quân dân bằng các mơn thư
tốn, ai trúng tuyển sẽ được làm lại viên ở các nha môn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(51)</span><div class='page_container' data-page=51>

quan viên, thí sinh phải làm một bài biểu, một bài tính. Các năm 1481, 1486, lại
tổ chức khảo thí con cháu các quan viên bằng văn thư và toán để tuyển chọn
quan chức hoặc tuyển lại viên ở các nha mơn.


Năm 1466, tổ chức khảo thí chức huấn đạo ở các phủ, giám sinh ở các


đường ty và lại viên ở các nha môn, người nào thi hội trúng các kỳ nhất, nhị,
tam trường có hạnh kiểm học vấn, nếu khảo thí 4 trường đều đỗ thì cho bổ
chức huấn đạo. Đến năm 1496, Bộ Lễ khảo xét chức huấn đạo với đối tượng là
các lại viên vốn là nho sinh có trúng trường, có học vấn, hạnh kiểm, ai trúng cả 4
kỳ thì được thăng bổ chức huấn đạo. Bên cạnh một chế độ khoa cử để tuyển
chọn quan văn, Nhà nước thời Lê Thánh Tông cũng đã xây dựng chế độ võ cử
để chọn quan võ - võ tướng, tiêu biểu là kỳ thi đơ thí (kỳ thi lớn về võ nghệ).


<b>2.2. CHÍNH SÁCH SỬ DỤNG QUAN LẠI </b>


<b>2.2.1. Tuyển dụng quan lại cho bộ máy nhà nước</b>
<i><b>2.2.1.1. Cơ quan tuyển dụng</b></i>


<i>- Bộ Lại, cơ quan chủ chốt thực hiện việc tuyển dụng</i>


Việc xuất hiện Bộ Lại, trên danh nghĩa, đã tồn tại từ trước thời Lê Sơ
theo như Phan Huy Chú cho biết trong Lịch triều hiến chương loại chí là cuối
thời Trần, cùng với việc đặt chức Thượng thư các bộ, thì trong đời Đại Khánh
(1214-1324) đã thấy có Dỗn Bang Hiến làm Lại bộ thượng thư [3, tr.466].
Nhưng phải đến triều Lê Sơ, đặc biệt là vào thời Lê Thánh Tông, Bộ Lại, với
tổ chức và cơ chế vận hành công việc của nó, mới thực sự là cơ quan có vai
trò thiết thực, cụ thể và quan trọng đặc biệt trong việc tuyển dụng quan lại.


Bộ Lại có ba nhiệm vụ chính là: thứ nhất, tuyển dụng và lựa chọn quan lại;
<i>thứ hai, khảo xét và thăng giáng các quan; thứ ba, phong tước cho các quan. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(52)</span><div class='page_container' data-page=52>

nhanh chóng và phân minh rõ ràng. Đứng đầu Thuyên khảo Thanh lại ty là
Lang trung, cấp phó là Ngoại lang. Bộ Lại có một cơ quan thường trực gọi là
Tư vụ sảnh làm nhiệm vụ trông coi, điều hành những công việc thường nhật
của Bộ. Với cơ cấu tổ chức như trên, Bộ Lại có một đội ngũ “biên chế” chính


thức gồm 80 thuộc lại [35, tr.4].


Về vai trò, Bộ Lại là quan trọng nhất và theo truyền thống là bộ đứng
đầu Lục bộ (6 bộ). Tính chất quan trọng của nó được thấy trước hết ở ngay
việc chọn người đầu tiên phụ trách cơ quan này ngay từ thời Lê Thái Tổ. Đó
phải là người tài đức và có cơng lao, lịng trung thành vượt trội như Nguyễn
Trãi. Người tiếp theo giữ chức Thượng thư Bộ Lại là Hà Lật (1431), cho thấy
một phẩm chất hàng đầu cần có nữa của người phụ trách cơ quan này là sự ngay
thẳng, trung trực (sau khi rời Bộ Lại thì Hà Lật được chuyển ngay sang làm Đơ
ngự sử). Đỉnh cao của sự phát triển Bộ Lại là ở vào thời Lê Thánh Tông với
những Thượng thư nổi tiếng như Nguyễn Như Đổ - tiến sĩ khoa Đại Bảo thứ 3
(1442), Quách Hữu Nghiêm - tiến sĩ khoa Quang Thuận thứ 7 (1446).


</div>
<span class='text_page_counter'>(53)</span><div class='page_container' data-page=53>

Ngoài việc phối hợp với “Lục bộ triều đình” trong cơng việc tuyển
dụng, Bộ Lại vẫn còn phải phối hợp với một số cấp, ngành khác nữa: “Bộ Lại
nhận trách nhiệm tuyển bổ quan lại, thăng giáng, giản thải trên cơ sở tâu báo
của các địa phương và các khoa đài” [35, tr.5]. Lệnh bảo cử ty quan của Hình
bộ năm 1489 nêu rõ trách nhiệm của từng cơ quan: Lục bộ làm 1 bản, hai ty
Thừa, Hiến bản xứ, mỗi ty làm 1 bản, khai ghi tên họ của người được bảo cử
cho rõ ràng, làm bản tâu lên, nếu được chỉ chuẩn y thì giao cho Lại bộ thuyên
bổ” [48, tr.505]. Hoặc trong lệnh bổ dụng sinh viên ba xá thì những ai thi hội
“trúng được ba kỳ thì sung làm thượng xá sinh, trúng được hai kỳ thì làm
trung xá sinh, trung một kỳ thì làm hạ xá sinh, mỗi xá là 100 người” và đến
khi bổ dụng thì “Lại bộ và quan Quốc Tử Giám chiếu chỗ khuyết mà bảo cử
thượng xá sinh 3 phần, trung xá sinh 2 phần, hạ xá sinh 1 phần” [48, tr.491].


<i>- Cơ chế kiểm tra, giám sát hoạt động của Bộ Lại</i>


Bộ Lại chịu sự kiểm soát của một cơ quan cùng tồn tại ở Triều đình,
gọi là “khoa". Với chức năng kiểm tra, theo dõi, đàn hặc công việc của “bộ”,


“Lại khoa có nhiệm vụ trả lại, bác đi" nếu Bộ Lại thăng bổ, bãi miễn quan lại
sai nguyên tắc. Chính Lê Thánh Tơng năm 1471 đã ra lệnh: “Bộ Lại tuyển
dụng khơng đúng nhân tài, thì khoa Lại được quyền bác đổi” [3, tr.482].


Việc sử dụng Khoa Lại để kiểm sốt cơng việc của Bộ Lại, khơng phải
là quy định hình thức bởi vì, theo tước phẩm, Đơ cấp sự trung - người đứng
đầu Khoa chỉ có hàm chánh thất phẩm, còn Thượng thư - người đứng đầu Bộ
thì hàm đến tịng nhị phẩm, nghĩa là ở vào vị trí kém hơn rất nhiều, nhưng Lê
Thánh Tơng lại đặt công việc thực tế của Khoa Lại vào hàng ưu tiên. Theo tờ
chiếu năm 1487 thì trong các buổi chầu, bàn việc với vua thì trước hết “Lục
khoa và Ngự sử đài là một thứ”, sau đó mới đến các “bộ” để cho “tuỳ từng
hạng mà bàn luận, cốt phải tường tận, rõ ràng, không được mập mờ, hùa theo
hay im lặng, lẩn tránh” [48, tr.502].


</div>
<span class='text_page_counter'>(54)</span><div class='page_container' data-page=54>

Hai đối tượng chính mà Nhà nước thời Lê Thánh Tông tuyển dụng gồm
những người chưa từng bao giờ làm quan và những người đang làm quan
nhưng cần thăng giáng, thuyên chuyển hoặc phải “đào tạo lại”. Đối tượng thứ
nhất gọi là phép “tuyển bổ”, đối tượng thứ hai gọi là phép “chọn bổ”.


- Những người chưa từng bao giờ làm quan chủ yếu bao gồm những sĩ
tử đậu đạt, tức là những người được đào tạo bằng con đường học hành, thi cử.
Đối tượng này được ưu tiên hàng đầu khi tuyển dụng. Song song với việc tổ
chức thi cử chính qui, cao cấp để tuyển dụng quan lại theo con đường chính
thống học hành – thi cử - đỗ đạt - làm quan, Triều đình cũng đã có những
hình thức thi cử khơng thường xun để nhằm vào các đối tượng có học hành
nhưng chưa được đỗ đạt để tuyển dụng các viên chức nhà nước.


- Những người đang làm quan, tức là “tuyển dụng lại” những người đã
được tuyển dụng; đó chính là đội ngũ quan liêu ngày càng đơng đảo trong bộ
máy chính quyền các cấp.



</div>
<span class='text_page_counter'>(55)</span><div class='page_container' data-page=55>

theo đúng lời dạy của thánh hiền trong các mối quan hệ giữa con người và xã
hội, đối với vua, với nước, với dân chúng, trong cơng việc và đối với việc tu
dưỡng của chính mình; còn tài là năng lực làm tròn trách nhiệm được giao
của người làm quan, là kết quả của cơng việc đó đối với vua và dân chúng mà
một số trường hợp cụ thể ở đây là “người ở chức thị tụng (hầu cận vua) thì
nghĩ sao hiến dâng mưu hay, người nắm việc kỷ cương thì nghĩ sao khiến
chính sự trong sạch, người cai trị địa phương thì lo sao cho rạng tỏ đức bề
trên mà thấu đạt tình kẻ dưới, người giữ quyền chăn thì nghĩ sao cho đời dân
no đủ gốc nước vững bền” [1, tr.71]. Hiền, tài có lúc được nhập lại như trong
trường hợp định nghĩa do Phụng trực đại phu, Hàn lâm viện thừa chỉ, Đông các
Đại học sĩ Thân Nhân Trung vâng sắc soạn năm 1484, cho thấy sự đề cao phẩm
chất hiền tài đã lên tới tột độ là phần tinh tuý cấu tạo nên sự sống của đất nước:
“Hiền tài là ngun khí của đất nước, ngun khí thịnh thì thế nước mạnh mà
vươn cao, ngun khí suy thì thế nước yếu mà xuống thấp” [32, tr.81].


Từ những phân tích trên, có thể cụ thể hố tiêu chuẩn hiền tài ở thời Lê
Thánh Tông như sau: một là, có trình độ học vấn thể hiện trước và trong khi
thi; hai là, có đạo đức tư cách trong suốt quá trình học tập, lúc đi thi (những
người đi thi đều phải trải qua thể lệ bảo kết và thi khảo hạch tức là phải đủ tư
cách) và khi làm quan; ba là, có năng lực làm việc trong thời gian tập sự cũng
như suốt quá trình làm quan. Như vậy, trong thời gian từ đầu thời Lê Sơ đến
triều đại Lê Thánh Tơng đã có sự diễn tiến của tiêu chuẩn tuyển dụng từ “thân
huân” tới “hiền tài” khá đặc sắc nhằm xây dựng đội ngũ quan lại đáp ứng
được địi hỏi của nền chính trị mới.


<i><b>2.2.1.3. Cách thức tuyển dụng</b></i>
<i>- Nhiệm tử (tập ấm)</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(56)</span><div class='page_container' data-page=56>

cháu người đó, nhờ được tín nhiệm về mặt lý lịch, cũng được “tập ấm”, được


phong “ấm tước” mà trở thành quan. Đến thời Hồng Đức, lệ nhiệm tử không
chỉ dừng lại ở con trưởng mà mở rộng ra cả các con thứ của quan viên, thậm
chí các cháu của quan viên cũng được hưởng lệ này. Trường hợp viên quan
nào có quyền tập ấm mà lại khơng có con trai thì được phép ni một người
con của họ hàng thân thích làm thừa kế để hưởng tập ấm. Con cháu của
những người có cơng đã chết có thể được ban thưởng, trọng dụng. Ví dụ, năm
1460, Lê Thánh Tơng ban quốc tính cho Lê Muộn (con trai của Lê Vấn), Lê
Dư (con trai của Lê Bôi), Lê Văn Lương (con trai của Lê Nhữ Soạn) hoặc
năm 1464, ban cho Anh Vũ (con trai của Nguyễn Trãi) chức quan huyện. Vua
cũng có chủ trương khuyến khích trung nghĩa bằng cách, cho một người con
cháu của người trung nghĩa có cơng với triều đình được đặc ân hưởng chức
quan an nhàn, nếu khơng có con cháu thì cho một người thân thuộc được
miễn quân dịch và thuế khoá để thờ cúng. Thậm chí, ngay cả trong trường
hợp những người đỗ tiến sĩ mà chưa được bổ dụng chẳng may ốm chết thì
cũng cho con cháu được tập ấm như lệ của các quan viên.


</div>
<span class='text_page_counter'>(57)</span><div class='page_container' data-page=57>

<i>- Tiến cử và bảo cử</i>


Theo sách Lịch triều hiến chương loại chí, giới thiệu người làm quan
có hai cách:


Một là tiến cử thì lấy người tài, đức hơn hẳn mà không cứ thân
phận. Hai là bảo cử thì lấy người danh vọng rạng rệt mà phải theo
tư cách. Hai lối ấy giống nhau mà thể thức hơi khác. Lệ bảo cử có
từ thời Hồng Đức. Bấy giờ việc ấy làm thận trọng, cho nên không ai
dám bảo cử thiên tư, các chức đều xứng đáng rút cục thu được hiệu
quả là chọn được người hiền tài [3, tr.580].


</div>
<span class='text_page_counter'>(58)</span><div class='page_container' data-page=58>

Bảo cử là hình thức chọn những quan lại có q trình cơng tác tốt, có
tài năng và có kinh nghiệm thực tiễn quan trường, mà bổ vào những chức vụ


quan trọng ở các cơ quan Trung ương và địa phương. Theo đó, các quan
đương chức có quyền và nghĩa vụ giới thiệu những người mà mình biết là có
đủ phẩm chất và năng lực, nhưng không nhất thiết phải là công thần hoặc đỗ
đạt đại khoa, để bổ sung vào những chức quan còn đang khiếm khuyết.
Phương thức để cho một thân nhân được giới thiệu (bảo cử) ra làm quan như
một cách thức tuyển dụng quan chức chính thức đã được áp dụng thường
xuyên, trở thành nề nếp. Năm 1482, lệnh bảo cử quan Thừa ty nêu rõ “quan
Thừa ty các xứ có khuyết, Lại bộ tâu lên rồi đưa xuống cho triều thần (tức các
quan ở chính đường) như lệ bảo cử hai ty Đô Hiến bảo cử các quan trong,
quan ngồi, ai đương được chức ấy thì đưa sang Lại bộ thi hành” [3, tr.580].
Năm 1484 ra sắc chỉ:


Các quan cai quản quân dân trong kinh ngồi trấn, trong đó
cả người liêm khiết, cũng có kẻ tham nhũng, nếu khơng phân biệt
nêu lên thì khun răn thế nào được? Trong thì Đơ đốc năm phủ,
ngồi thì đường quan ba ty Đô, Thừa, Hiến các quan hãy công bằng
mà bảo cử các quan vệ, phủ, huyện, châu trong ngoài, người nào
liêm khiết, người nào tham nhũng đều phải khai rõ sự thực, hẹn
trong ba tháng kể từ ngày sắc chỉ đưa tới, làm bản tâu lên, giao cho
Ngự sử đài xét lại mà thi hành khu xử để tỏ rõ cách khuyên răn và
để nới sức cho quân dân [48, tr.490-491].


</div>
<span class='text_page_counter'>(59)</span><div class='page_container' data-page=59>

người ấy, tâu hặc lên để tra xét”, nhất là “người nào dám vì tình riêng hay tiền
bạc mà bảo cử khơng đúng, thì Lục khoa và giám sát ngự sử điều tra sự thực, tâu
hặc lên sẽ theo đúng luật trị tội” [48, tr.493-494, 505].


Phép bảo cử thời Lê Thánh Tông đã tỏ rõ được thiện ý của Triều đình
trong việc tìm kiếm rộng rãi những người hiền tài tham gia vào bộ máy quản
lý nhà nước. Tuy nhiên, trong một xã hội ngày càng phân biệt tôn ti đẳng cấp,
nhất là khi giới quan lại câu nệ vào các tiêu chí cơng thần và đại khoa thì việc


thực hiện lệ bảo cử tất phải bị nhiều hạn chế và thường thì chỉ bảo cử được
những chức quan cấp thấp.


<i>- Khoa cử</i>


Khoa thi chọn nhân tài bổ sung vào đội ngũ quan lại đầu tiên trong lịch
sử Việt Nam được tiến hành vào năm 1075 đời Lý Nhân Tông. Tuy nhiên,
dưới thời Lý, việc thi cử chưa thành chế độ quy củ. Đến thời Trần và các triều
vua đầu nhà Lê, khoa cử được quan tâm hơn, dần đi vào nền nếp. Mặc dù vậy,
phải từ thời Lê Thánh Tông, chế độ khoa cử mới thực sự được phát triển, trở
thành hình mẫu tiêu biểu cho các triều đại sau này tiếp tục thực hiện. Từ đây,
khoa cử trở thành phương thức chủ yếu để Nhà nước tuyển lựa quan lại như
khoa thi tiến sĩ năm 1463, được đánh giá là “trung hưng bậc nhất, lấy được
nhiều người giỏi, xán lạn hơn đời trước. Nhiều người được dùng, la liệt trong
kinh ngoài trấn. Người chấn hưng lễ nhạc, giữ việc văn tự, đông như cá nối
đuôi, như ve liền cánh. Người nhậm chức Phiên tuyên, Thú lệnh nhiều tới
chen vai nối gót”; hay khoa thi năm 1475 đã “tìm rất rộng, kén rất kỹ, cho nên
được hiền tài, một thời khen thịnh. Nay đều xếp đặt các chức, hoặc giúp việc
bàn định, hoặc hầu nơi cấm cận, hoặc ở chốn phong sương, hoặc giữ quyền
thẩm phán, cũng có người làm đẹp loạn để yên dân... nổi danh rực rỡ, dựng
công nghiệp vẻ vang” [33, tr.81, 85]…


</div>
<span class='text_page_counter'>(60)</span><div class='page_container' data-page=60>

sĩ vào việc đảm nhiệm các vị trí khác nhau trong bộ máy nhà nước từ Trung
ương đến địa phương. Hơn nữa, chính họ sẽ là những người được cử vào hội
đồng giám khảo các kỳ thi hội, thi đình. Những chức vụ thấp hơn, kể cả các
thuộc lại ở ty, viện hay quan lại cấp huyện cũng đều dùng những người có
học thức và đều phải qua thi cử. Chẳng hạn, những ai “thi hội trúng nhị tam
trường thì bổ làm thuộc lại ở các nha môn. Khảo thi các viên giáo chức, ai
trúng cách được bổ các chức Kinh lịch. Lại sai Lại bộ khảo học sinh cận thị
để bổ làm huyện thừa các huyện và khảo thuộc lại các nha môn để bổ làm


giáo chức các phủ” [3, tr.566]. Năm 1472, Lê Thánh Tông quy định “lại viên
các nha môn nếu đỗ khoa thi hương thì được bổ lên chính quan” và đến năm
1480 có sắc chỉ các lại viên nếu "thi đỗ thì được bổ làm chánh quan các châu,
huyện và các chức kinh lịch, thủ lĩnh, phó sứ” cịn "khơng thi đỗ thì chỉ bổ
làm quan thủ lĩnh hoặc các quan ở châu, huyện" [48, tr.458, 481]. Ở thời Lê
Thánh Tông, lại sử (cũng gọi là lại điển) dùng để chỉ những chức Thư lại,
Thông lại... ở các nha mơn có nhiệm vụ thảo giấy tờ, thư trát, công văn…
Những người được tuyển dụng, nếu thi đỗ khoa thư tốn thì được gọi là lại sử
có xuất thân và được hưởng những đặc quyền hơn hẳn người khơng có bằng
của khoa thi này (tức lại sử không xuất thân) [3, tr.567].


</div>
<span class='text_page_counter'>(61)</span><div class='page_container' data-page=61>

học hành, thi cử đều giỏi văn chương, lịch sử, biết cách chăm nom và cai trị
nhân dân, có trình độ quản lý xã hội cao hơn và tương đối đồng đều.


<b>2.2.2. Sắp xếp, bố trí quan lại</b>


<i><b>2.2.2.1. Sắp xếp, bố trí quan lại theo trình độ, bằng cấp</b></i>


Nhà nước thời Lê Thánh Tơng chủ trương và có nhiều quy định, biện
pháp cụ thể để đưa tầng lớp nho sĩ vào nắm hệ thống quyền lực, thực hiện bổ
nhiệm những người có khả năng vào các vị trí khác nhau trong bộ máy chính
quyền nhằm coi trọng thực lực, phát huy sở trường, sở đoản của từng người.
Khoa cử trở thành “con đường tuyển chọn chính đối với đội ngũ quan lại các
cấp và những người đỗ đạt qua các kỳ thi là nguồn chính để bố trí quan lại
cho triều trình và một phần lớn cho bộ máy chính quyền địa phương” [46,
tr.129]. Đối với những người thi đỗ trong các kỳ thi hội, thi đình tức là có
bằng tiến sĩ, sau khi đã yết bảng vàng, cử hàng lễ phụng ban, vinh quy bái tổ
rồi trở về kinh, lúc ấy Triều đình mới bảo cử trao cho quan chức; đây là lần
trao chức đầu tiên:



Trạng nguyên trao cho chức Thị giảng. Bảng nhãn trao cho
chức Thị thư. Thám hoa chức Thị chế. Hồng giáp chức Hiệu lý.
Cịn các tiến sĩ khác thì trao cho chức giám sát hoặc chức cấp sự
trung. Trong số này người nào ít tuổi nhất được trao chức Hiệu
thảo, người nào ứng thí chế khoa (khoa thi đặc ân của vua ban ra,
khơng có thể lệ nhất định) được trúng cách cũng trao cho chức Hiệu
thảo [13, tr.128].


</div>
<span class='text_page_counter'>(62)</span><div class='page_container' data-page=62>

Giám sát ngự sử hay Tri huyện thì giữ nguyên phẩm cũ mà bổ’’ [48, tr.459].
Lệnh tuyển bổ quan viên các ty ở Hình bộ năm 1478 yêu cầu “lấy các tiến sĩ”
và các sĩ nhân “đã thi đỗ” hay đối tượng tuyển chức Hiến sát phó sứ năm
1496 là “chọn người đỗ tiến sĩ”, quan văn võ các nha môn, nho chỉ huy các
vệ, ty “đã trúng các kỳ thi hội" [48, tr.472, 515].


Lần đầu tiên, thời Lê Thánh Tông thực hiện chế độ thử việc đối với
quan lại. Người có chức vụ khơng chính thức (thí chức), sau một thời gian thử
việc nếu thấy được, khơng phạm lỗi gì thì được thăng cấp cho nhận chức
chính thức (thực thụ). Đối với các viên quan tân tiến sĩ được nhận chức giám
sát hoặc chức cấp sự trung thì sẽ làm thử trong một năm, sau đó xem xét nếu
“có thể làm nổi việc thì cho lưu nhiệm, khơng làm nổi việc thì đổi bổ chức
khác” [3, tr.569]. Đối với các chức quan văn, võ trong kinh (trung quan cũng
thế), người nào mới được bổ thí chức thì chỉ được “cấp cho một phần ba tiền
lương, con cháu vẫn như dân thường”, đến sau ba năm mà “xứng chức và
không phạm lỗi gì” thì được thăng cấp cho thực thụ cịn nếu “khơng xứng
chức” thì đuổi về làm các hạng qn sắc cũ; đối với “giám sinh, nho sinh, học
sinh, án lại, lại viên các nha môn thi hội đã trúng nhiều kỳ làm việc lâu năm,
biết việc, siêng năng và có quân công” sau khi được trao các chức Tri huyện,
Tri châu, Huyện thừa, Đồng tri châu, Thủ lĩnh, Tự ban thì phải “đủ 3 năm
khơng phạm lỗi gì thì mới cho thực thụ” [48, tr.456, 515].



</div>
<span class='text_page_counter'>(63)</span><div class='page_container' data-page=63>

tuy đỗ đến tiến sĩ đứng hàng tam khôi, nhưng chỉ làm đến chức quan tri
huyện. Bởi vì, việc sử dụng quan lại khơng hồn tồn căn cứ vào kết quả thi
cử mà cịn thơng qua nhiều yếu tố khác, quan trọng nhất là hiệu quả cơng việc
có “xứng chức” hay khơng.


<i><b>2.2.2.2. Thực hiện luật hồi tỵ trong sắp xếp, bố trí quan lại</b></i>


Hồi tỵ là một từ Hán - Việt cổ, “hồi” là trở về, “tỵ” là lánh ra. Hồi tỵ
nghĩa là tránh ra, hay lánh đi. Theo đó, những người có quan hệ huyết thống,
đồng hương, thầy trị, bạn bè không được cùng làm quan hay làm việc ở một
địa phương, cơng sở. Nội dung chính của “hồi tỵ” là: quan lại không được lấy
vợ, kết làm thông gia với người ở nơi mình cai quản; khơng đưa quan lại về
quê hương, bản quán nhậm trị; quan lại không được tậu đất, vườn, ruộng, nhà
tại nơi cai quản; quan lại không được lấy người cùng quê làm người giúp
việc; người có quan hệ thầy trị, bạn bè khơng được làm việc tại cùng một
công sở. Nếu phát hiện được một trong những trường hợp trên thì phải tâu
báo lên để thuyên chuyển những người thân thuộc đó đi các nơi khác nhau.
Đây là một chính sách quản lý quan lại quan trọng với mục đích ngăn chặn tệ
lợi dụng quan hệ thân tộc để gây bè, kéo cánh, thao túng quyền lực và tránh
kiểu làm việc không khách quan, né tránh hoặc bao che, nâng đỡ cho nhau,
gây ra nhiều tiêu cực trong bộ máy nhà nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(64)</span><div class='page_container' data-page=64>

còn là một vị vua rất có bản lĩnh và quyết đốn nên mới có khả năng thực
hiện hồi tỵ với các quan.


Để tránh tạo lập sự liên kết giữa quan địa phương và dân sở tại, Quốc
<i>triều hình luật (1483), Điều 316 quy định: “Các quan ty ở trấn ngồi mà lấy</i>
đàn bà con gái ở trong hạt mình, thì xử phạt 70 trượng, biếm ba tư và bãi
<i>chức”; hay </i>theo Điều 334 thì quan lại ở biên trấn kết thông gia với tù trưởng ở
vùng đó sẽ phải “tội đồ hay lưu” [49, tr.122, 126]. Năm 1486, Lê Thánh Tông


kiên quyết “Cấm quan lại nhận chức ở ngoài lấy đàn bà con gái trong bộ hạt
của mình” [48, tr.500]. Đầu năm 1497, Hồng thái tử của Lê Thánh Tơng có
lệnh đổi đi nơi khác với các viên quản quân, quản dân ở Nghệ An, nếu người
nào có q qn ở ngay phủ, huyện mình cai trị, có nhà gần nha mơn mình
làm việc thì Bộ Lại điều động đi nơi khác, chọn người khác bổ thay; tiếp đó
ban chiếu mở rộng phạm vi thực hiện trong toàn quốc: “Các chức quản quân,
quản dân ở các xứ, Lại bộ không được lấy người quê quán ở bản xứ, có nhà ở
gần nơi mình cai quản mà thuyên bổ” [48, tr.525].


</div>
<span class='text_page_counter'>(65)</span><div class='page_container' data-page=65>

[48, tr.515]. Biện pháp này có tác dụng ngăn chặn tệ lợi dụng quan hệ thân
tộc, vây bè kéo cánh cả về phía họ ngoại và thông gia trong việc nắm giữ các
chức danh trong bộ máy hành chính nhằm thao túng làng xã.


Hồi tỵ là một chế độ quản lý, sử dụng quan lại khơng chỉ quan trọng mà
cịn được lịch sử đánh giá là thành công trong thời Lê Thánh Tông. Ưu điểm
cơ bản là hạn chế được mặt tiêu cực của văn hóa và lối sống người Việt
thường tạo nên áp lực mạnh đối với những người nắm công quyền. Luật hồi
tỵ tạo cơ sở pháp lý để phát huy tính cơng tâm, khách quan trong việc phụng
sự lợi ích nhà nước của đội ngũ quan lại. Tuy nhiên, mặt hạn chế của nguyên
tắc hồi tỵ là không phát huy được sự hiểu biết về địa bàn của quan lại ngay
khi được bổ nhiệm và làm cho công việc quản lý đội ngũ quan lại trở lên phức
tạp nặng nề hơn.


<i><b>2.2.2.3. Chế độ giám sát, quản lý quan lại</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(66)</span><div class='page_container' data-page=66>

Ở địa phương, mỗi đạo lập cơ quan giám sát riêng là Hiến sát sứ ty với
chức trách thanh tra quan lại, nghĩa là đề cao vai trò và trách nhiệm các quan
lại trong đạo, phủ, huyện đối với công việc của Nhà nước ở địa phương và đối
với nhân dân. Giám sát Ngự sử cùng với các quan trong Hiến ty có nhiệm vụ
phối hợp “hặc tâu các quan làm bậy, soi xét uẩn khuất của dân”. Các cơ quan


thanh tra, giám sát này tạo thành từ một hệ thống kiểm sốt, đánh giá quan lại
theo ngun tắc “cơng việc liên lạc ràng buộc lẫn nhau”, để cho các cơ quan,
các chức tước “lớn nhỏ cùng ràng buộc nhau, khinh trọng cùng kiềm chế
nhau" [43, tr.13-14].


Công tác kiểm tra, giám sát trong việc thực hiện bố trí, sử dụng quan lại
rất được Lê Thánh Tông coi trọng, quy định rất chặt chẽ như :“Trưởng quan
các nha môn cần lựa thải thì phải cơng bằng sáng suốt, khơng được theo sự ưa
ghét riêng của mình… Nếu xét người hay dở mà sai sự thực thì Lục khoa,
Ngự sử đài, Hiến ty kiểm xét hoặc tâu để trị tội” (lệnh lựa thải quan viên năm
1478); “Lại bộ và quan các nha mơn trong ngồi, nên theo đúng lệ mà làm để
khuyến khích mọi người. Nếu dám nhu nhơ bỏ phép như trước, thì khoa phụ
trách kiểm xét nêu lên, theo luật mà trị tội” (sắc chỉ về phép khảo khoá năm
1480) [48, tr.472, 480]. Năm 1481, triều đình lệnh cho quan các vệ, ty, sở nếu
có người nào “chỉ chăm làm lợi cho mình, khơng nghĩ đến phép nước” thì các
chỉ huy, đề đốc, kiểm điểm, đơ đốc, đốn sự, kinh lịch (trong kinh), hai ty
Thừa, Hiến “đều phải công bằng xét xử, tham khảo dư luận mọi người” để
“kê ra từng loại tâu lên cả, trao cho Giám sát ngự sử ở đạo đó thẩm tra lại” xử
lý [48, tr.484].


</div>
<span class='text_page_counter'>(67)</span><div class='page_container' data-page=67>

Đơ ngự sử cũng có thể bị người khác tâu hặc nếu phạm lỗi. Ngoài chế độ
giám sát, tâu hặc theo thông lệ, Nhà nước phong kiến cịn có chế độ giám sát
đặc biệt. Năm 1467, Lê Thánh Tông định lệ chọn ở 6 bộ, 6 khoa và 6 tự, mỗi
cơ quan 2 người có hạnh kiểm để “đi thăm hỏi, điều tra nỗi đau khổ của sinh
dân và điều hay dở của chính sự” [48, tr.423]. Năm 1491, nhà Vua sai Đề
hình giám sát ngự sử kiểm xét quan lại ở Hình bộ “người nào mắc tội lười
biếng, gian tham, bng tuồng, phóng túng, thì làm bản tâu lên, theo luật mà
trị tội”; năm sau lại sai các quan Hàn lâm, khoa đài đi 12 thừa tuyên để thẩm
tra việc hình ngục [48, tr.510].



Lê Thánh Tông cho lập các quan phụ trách việc giám sát, kết hợp giám
sát thường xuyên với kiểm tra đột xuất theo nguyên tắc lấy chất lượng công
việc để đánh giá năng lực quan lại, nếu công việc bê trễ, sai sót thì có thể bị
phạt. Vua quy định, các xứ có trộm cướp nhóm họp thì các quan phủ, châu,
huyện, các xã trưởng, thơn trưởng nơi đó phải trị tội theo pháp luật. Lê Thánh
Tông đã thay Lang trung, Ngoại lang (Hình bộ) là Phạm Nại, Đàm Văn
Thơng vì có nhiều vụ xử oan, thường có đơn kêu lên Triều đình. Chế độ quản
lý, giám sát chặt chẽ giúp cho Triều đình phát hiện sớm và chính xác các vụ
việc tiêu cực, đánh giá lại để kịp thời xử lý; đồng thời răn đe quan lại, để họ
biết sợ pháp luật, phấn đấu thành vị quan tài giỏi, đức hạnh.


<b>2.2.3. Đổi mới đội ngũ quan lại</b>


<i><b>2.2.3.1. Khảo khố để thăng, giáng quan lại</b></i>


Chế độ “khảo khóa” hay “khảo công” là việc đánh giá, xem xét hiệu
quả công việc của quan lại định kỳ theo khoá để làm cơ sở cho việc thực hiện
chế độ thăng, giáng, chuyển đổi cũng như thưởng, phạt hay biếm chức. Bình
luận về sự cần thiết của phép khảo khoá, Phan Huy Chú viết:


</div>
<span class='text_page_counter'>(68)</span><div class='page_container' data-page=68>

quan trường. Mà cách chấn chỉnh quan trường, tất phải khảo công, để
xét rõ người hơn người kém mà thăng giáng cho rõ ràng, thì liêm sỉ
riêng đường, chính hố đi khắp. Việc cốt yếu cho nước thịnh trị của
bậc đế vương, không vượt qua điều ấy được [3, tr.589].


Đối tượng thực hiện khảo khoá là đội ngũ quan lại các cấp, kể cả đối
với con cháu công thần, đã hạn chế được các nhược điểm không tránh khỏi
của cách thức tuyển dụng quan chức từ con đường nhiệm tử, đảm bảo cho đội
ngũ quan chức nhà nước luôn trong sạch, vững mạnh. Về kỳ hạn, năm 1488,
Lê Thánh Tơng chính thức quy định cứ “ba năm tiến hành một lần sơ khảo,


sáu năm thì tái khảo và chín năm thì thơng khảo mới thi hành thăng chức
người có cơng và truất chức kẻ có tội” [43, tr.109].


Nội dung khảo khoá là xét duyệt định kỳ những cơng trạng, thành tích
và tinh thần trách nhiệm của quan lại, phân loại chất lượng từng quan có
“xứng chức” hay khơng. Cụ thể, năm 1470, Lê Thánh Tơng đã u cầu trưởng
quan các nha mơn trong ngồi khi khảo khoá các quan viên trong phạm vi cai
quản thì phải “xét kỹ thành tích trong cơng việc mà viên đó đã làm” để làm
rõ: “Nếu quả có lòng chăm nom, yêu thương, được nhân dân yêu mến và
trong nơi cai quản ít kẻ trốn tránh thì mới xứng chức. Nếu vơ vét quấy nhiễu,
gây tệ riêng tư và trong nơi cai quản có nhiều người trốn tránh thì khơng xứng
chức” [48, tr.447]. Như vậy, cơng việc khảo khoá do các trưởng quan phụ
trách ty, viện thực hiện nhằm nhận xét, đánh giá với các quan lại dưới quyền


theo 3 nội dung: <i>một là,</i> có được nhân dân u mến hay khơng; hai là, có lịng
thương u nhân dân hay không; ba là, trong hạt, nhân dân có trốn đi nơi
khác khơng. Tiêu chuẩn đầu tiên để đánh giá quan lại là năng lực hoạt động
thực tiễn, là mức độ hồn thành và “thành tích trong công việc” được giao.
Hơn nữa, lấy thước đo hiệu quả quản lý bằng lòng dân, đây là nét tiến bộ lớn
của nền hành chính thời Hồng Đức.


</div>
<span class='text_page_counter'>(69)</span><div class='page_container' data-page=69>

Quan các nha môn tại chức đủ ba kỳ khảo khố phải khai
trình đầy đủ những việc đã làm trong nhiệm kỳ, có phạm lỗi gì hay
khơng. Trưởng quan phụ trách phải cơng bằng mà xét duyệt, tính
bắt đầu từ ngày được bổ nhiệm... Kê rõ từng hạng xứng chức, bình
thường, khơng xứng chức để định việc khảo khố.


</div>
<span class='text_page_counter'>(70)</span><div class='page_container' data-page=70>

lang còn Huyện thừa, Đồng tri châu, Tri hạ, Điển hạ, Tự ban được bổ các
chức Tư vụ, Chủ sự, Thôi quan, Đô quan và đến khi “đủ 6 lần khảo khố
khơng phạm lỗi” thì Ngoại lang, Đồng tri phủ mới được thăng làm Tri phủ


[48, tr.515]. Kết quả khảo khố cịn được sử dụng để quyết định đổi ngạch
như “chỉ huy các vệ ty túc trực làm việc đủ hạn 4 lần khảo khóa trở lên, có
người nào giữ cơng chăm việc, khơng tội lỗi, thì trưởng quan của vệ xét thực
làm tờ trình lên, Lại bộ theo chỗ khuyết mà đổi bổ sang văn chức” [3, tr.567].


Lệ khảo khóa chặt chẽ góp phần tạo nên đội ngũ quan lại mạnh có khả
năng đảm nhận chức vụ. Nguyễn Trực người đã qua khoa thi năm Đại Bảo
(1442) để vào hàng ngũ quan lại cấp cao cũng đánh giá việc khảo khoá khá kỹ
lưỡng như sau:


Nay các quan trong triều đình, kẻ sĩ chốn hoang dã, đã thực
có thể lựa chọn kỹ, sử dụng chuyên, tin cậy chắc. Lại ban phép
khảo xét công trạng, trải đủ kỳ khảo xét kỹ rồi mới quyết định thăng
hay giáng, khen hay chê. Người nào tốt kẻ nào xấu, người nào liêm
khiết, tài giỏi, siêng năng, mẫn cán, kẻ nào ngu dốt tham lam, lơ là,
lười biếng, giữ ghế ăn hại, không đức bất tài, gian ngoan chứa ác,
đều bộc lộ rõ ràng. Như vậy thì hàm quan đơng đảo đều giữ phong
cách người qn tử, có đáng lo gì bọn tiểu nhân! [23, tr.72].


<i><b>2.2.3.2. Chế độ luân chuyển quan lại (luân quan)</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(71)</span><div class='page_container' data-page=71>

việc luân chuyển quan lại diễn ra thường xuyên hơn, được thực hiện bằng các
quy định cụ thể của Nhà nước.


Dưới thời Lê Thái Tổ, do không được kế thừa trực tiếp tổ chức bộ máy
nhà nước của triều đại trước nên ngay sau khi giành được độc lập, công tác
xếp đặt quan lại được tiến hành khẩn trương. Đến thời Lê Thánh Tông, hoạt
động luân chuyển quan lại diễn ra dồn dập, có quy mô rõ rệt. Nhiều công thần
khai quốc vốn bị tước hết quyền lực ở các triều trước được bổ dụng trở lại.
Một số quan lại cao cấp ở Trung ương được điều động lên biên giới do có


những hoạt động lấn đất của nhà Minh. Những quan lại địa phương nếu trơng
coi chính sự tốt, có tài năng thì được điều động về Trung ương. Việc luân
chuyển quan lại không chỉ thể hiện rõ rệt trong việc điều động quan cai trị từ
Trung ương về địa phương, từ địa phương về Trung ương, mà cịn có sự điều
động giữa các địa phương với nhau, ở tất cả các vị trí, dù là quan to hay quan nhỏ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(72)</span><div class='page_container' data-page=72>

lần khảo khoá trở lên mà xứng đáng chức vụ, khơng có tội lỗi, thì Lại bộ xét
thực, rồi điều về chỗ đất lành” [48, tr.480].


Đối với những người khơng hồn thành nhiệm vụ, khơng đủ năng lực,
trình độ thì phải chuyển sang cơng việc khác như lệnh tuyển bổ quan viên các
ty ở Hình bộ năm 1478 nêu rõ “quan các ty, có người nào do chân lại viên
xuất thân, học thức nông cạn, tài năng thấp kém thì tâu lên rõ ràng, đưa sang
Lại bộ xét thực, đổi bổ làm việc khác” và đến năm 1480, lại có sắc chỉ "Quan
các ty ở Hình bộ, khơng kể là nho hay là lại, nếu tài năng kiến thức nơng cạn,
khơng am hiểu về hình danh, thì đường quan bộ ấy lựa thải ra, làm bản tâu
lên, giao cho Lại bộ đổi bổ chức khác” [48, tr.472, 481]. Trước tình trạng các
viên Huấn đạo, có khi nhiều người cùng khảo cứu một kinh mà bỏ các kinh
khác nên năm 1484, nhà Vua sai Bộ Lại điều tra để điều động thay đổi. Tuy
nhiên, có những vị trí với con người cụ thể, Lê Thánh Tông không cho thay
đổi như quan làm giáo dục đào tạo vì Vua cho rằng “giáo thụ phải giữ chức
lâu năm để đào tạo nhân tài cho có hiệu quả” [48, tr.434].


<i><b>2.2.3.3. Lệ giản thải </b></i>


Quan lại nếu không đáp ứng được nhu cầu của Nhà nước, hoặc bất tài
đều bị bãi. Lệ thải quan viên ban bố vào năm 1478 chỉ rõ, quan viên nếu “hèn
kém... khơng làm nổi việc” thì “đều bắt phải nghỉ việc” và chọn người “có tài
năng, kiến thức, quen thạo việc mà bổ vào thay”. Những quan xét người hay
dở mà sai sự thực thì “Ngự sử đài, Lục khoa, Hiến ty kiểm xét hặc tâu để trị


tội” [48, tr.472].


</div>
<span class='text_page_counter'>(73)</span><div class='page_container' data-page=73>

thực xét trình lên để làm tài liệu khảo khóa” [3, tr.499]. Đến chức xã trưởng
cũng có sự giám sát nghiêm minh: “Quan phủ huyện châu theo phép công mà
phúc khám, không câu nệ là xã chính, xã sử hay xã tư cứ người nào làm việc
cẩn thận chu đáo nên giữ lại, còn người nào gian tham bỉ ổi không biết chức
đều tinh giản cho về, các hạng già lão ốm đau đều hoàn làm dân” [44, tr.178].
Khi thấy bộ máy quan lại phình to, tốn kém, Lê Thánh Tơng chủ trương
“giảm bớt số quan châu, huyện thuộc hai phủ Bắc Bình, Thơng Hoá mỗi phủ,
châu, huyện một viên” (năm 1467) hoặc tiến hành rà soát đội ngũ quan lại để
chọn thải bớt quan viên và bổng lộc (năm 1481): “Quan viên quá nhiều, tiêu phí
lộc kho, Lục khoa phải tra xét từ năm Quang Thuận thứ 2 đến nay, quan viên
nào phạm các tội hối lộ, đã bị xử các tội biếm, giáng… mà người ấy hãy cịn tại
chức thì bắt phải thôi việc, để triệt những quan tham nhũng” [48, tr.419, 484].
Nhiều sắc chỉ đã thể hiện quan điểm dứt khoát của Lê Thánh Tông trong việc
sa thải những người không đủ tiêu chuẩn ra khỏi bộ máy nhà nước như: quan
viên “có tội, nếu đã già thì bắt về làm dân” (năm 1469) hoặc “lười biếng, bỉ
ổi, đê tiện, yếu hèn, nếu là con cháu cơng thần thì bãi chức về làm dân; nếu là
con cháu thường dân thì bãi chức sung quân” (năm 1479), lại viên các nha
môn “người nào già kém khơng siêng năng thì cho nghỉ việc về làm dân, chịu
sai dịch, thuế má” (năm 1488), văn nho chỉ huy ở các vệ ty “người nào chưa
đủ hạn khảo khố lại già kém, khơng làm nổi việc hộ vệ, thì lựa thải về” (năm
1490), tướng hiệu các nha mơn “kẻ nào tham ơ, hèn kém, khơng có cơng lao
gì, cũng những kẻ bợ đỡ được dung thân, cầu mong liêm sỉ thì tâu lên để truất
bỏ” (năm 1496) [48, tr.436, 473, 503, 507, 517].


</div>
<span class='text_page_counter'>(74)</span><div class='page_container' data-page=74>

<i>Tóm lại, dưới thời Lê Thánh Tơng chính sách đào tạo và sử dụng quan</i>
lại đã phát triển đến đỉnh cao bằng hệ thống luật pháp, được thực hiện thường
xuyên, nghiêm túc trong phạm vi tồn quốc. Tuy có quyền hành tối cao nhưng
vua khơng lạm quyền, áp đặt ý chí chủ quan trong xây dựng đội ngũ quan lại.


Việc phát hiện, đánh giá, đào tạo, tuyển chọn, bố trí, quản lý, kiểm tra, giám
sát quan lại được thực hiện một cách khách quan, minh bạch. Nhờ đó, Nhà
nước thời Lê Thánh Tông đã xây dựng được đội ngũ quan lại có phẩm chất và
năng lực, làm việc hiệu quả và tích cực ngăn ngừa nạn cát cứ, bè cánh địa
phương. Họ thực sự là những người tài giỏi, tận tâm giúp vua trụ vững ở ngôi
báu suốt 38 năm, góp phần quan trọng xây dựng đất nước Đại Việt cường
thịnh. Điều mà nhiều hồng đế trước đó và cả sau này không làm được.


</div>
<span class='text_page_counter'>(75)</span><div class='page_container' data-page=75></div>
<span class='text_page_counter'>(76)</span><div class='page_container' data-page=76>

<b>Chương 3</b>


<b>Ý NGHĨA CỦA CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO </b>
<b>VÀ SỬ DỤNG QUAN LẠI THỜI LÊ THÁNH TÔNG </b>


<b>ĐỐI VỚI CÔNG TÁC CÁN BỘ HIỆN NAY</b>


<b>3.1. Ý NGHĨA VỀ VAI TRÒ CỦA CÁN BỘ VÀ MỤC TIÊU XÂY DỰNG</b>
<b>ĐỘI NGŨ CÁN BỘ</b>


<b>3.1.1. Vai trị của cán bộ </b>


Chính sách đào tạo và sử dụng quan lại thời Lê Thánh Tông một mặt kế
thừa những nhân tố tích cực trong lịch sử, nhất là từ đầu thời Lê Sơ, mặt khác
có sự bổ sung, điều chỉnh và cải cách mạnh mẽ, đã tạo nên một hệ thống hoàn
chỉnh với những bước tiến bộ rất lớn, góp phần quan trọng vào những thành
tựu rực rỡ mà quốc gia Đại Việt đạt được trong nửa cuối thế kỷ XV. Thông
qua việc triển khai thực hiện và những kết quả đạt được, chúng ta thấy nhận
thức về vai trò của quan lại và mục tiêu xây dựng đội ngũ quan lại thời Lê
Thánh Tông là rất sâu sắc và mang tầm chiến lược.


</div>
<span class='text_page_counter'>(77)</span><div class='page_container' data-page=77>

những khủng hoảng kinh tế - xã hội và những biến cố chính trị, hướng tới


mục tiêu xây dựng một xã hội thái bình, “mọi người đều giàu đủ, yên vui để
tiến tới thịnh trị” [48, tr.412]. Thông qua đội ngũ quan lại, Lê Thánh Tông đã
thành công trong việc tập trung cao độ quyền lực vào tay nhà vua và triều
đình trung ương, hạn chế sự lộng quyền của triều thần và xu hướng cát cứ của
các địa phương nhằm bảo vệ quyền lợi của giai cấp phong kiến; tăng cường
hữu hiệu hoá quyền lực của bộ máy nhà nước, coi trọng sự phân chia và kiểm
soát lẫn nhau giữa hệ thống hành chính, quân sự, tư pháp và giám sát. Đội ngũ
quan lại được trí thức hoá cùng với những biện pháp xử lý quyết liệt đã từng
bước làm trong sạch bộ máy nhà nước, hạn chế các hiện tượng tiêu cực như
tham nhũng, hối lộ; góp phần thúc đẩy sự phát triển của văn hố chính trị Việt
Nam truyền thống cũng như tác động đến đời sống xã hội truyền thống hiếu
học và khoa bảng của dân tộc ta.


Quan lại được coi là cột xương sống của bộ máy chính quyền nhà nước
phong kiến nên triều đình thời Lê Thánh Tơng đã đặc biệt quan tâm ưu đãi đối
với các nho sĩ – quan lại, kể từ khi họ đỗ đạt trong các kỳ thi quốc gia tới khi họ
được tuyển dụng và bổ nhiệm giữ các vị trí khác nhau trong các cấp chính
quyền. Chiếu chỉ năm 1463 viết: “Ta lưu tâm việc trị nước, dốc ý việc cầu tài,
thường nghĩ những người tài làm được việc còn bị khuất ở hàng dưới, chìm lấp ở
thơn q, nên tìm hỏi người giỏi, mơ tưởng không quên” [3, tr.582]. Trong một
tấm bia đề tên tiến sĩ khác của khoa thi Quý Mùi năm Quang Thuận thứ 4
(1463) chép rằng: “Nhân tài là ngun khí của Nhà nước, khơng thể khơng
vun trồng cho rộng khắp, chế độ là phép lớn của Nhà nước không thể không
quy định cho rõ ràng đầy đủ” [33, tr.81]. Vấn đề đào tạo, sử dụng nhân tài
luôn luôn được quan tâm và coi trọng hàng đầu, thể hiện rõ nét trong tấm bia
đề tên tiến sĩ của khoa thi Nhâm Tuất năm Đại Bảo thứ 3 (1442):


</div>
<span class='text_page_counter'>(78)</span><div class='page_container' data-page=78>

chuộng kẻ sĩ không biết thế nào là cùng. Đã yêu mến cho khoa
danh, lại đề cao bằng tước trật. Ban ân rất lớn mà vẫn chưa cho là
đủ. Lại nêu tên ở Tháp Nhạn, ban danh hiệu Long Hổ, bầy tiệc văn


hỷ. Triều đình mừng được nhân tài, khơng có việc gì khơng làm đến
mức cao nhất [32, tr.81].


Nhà nước phong kiến thời Lê Thánh Tơng, xuất phát từ nhận thức vai
trị quan trọng quyết định sự thịnh suy của quốc gia là do đội ngũ quan lại tốt
hay kém, đã chăm lo công tác đào tạo và thu hút, lựa chọn những người tài
giỏi thông qua con đường khoa cử Nho học. Người làm quan phải có đức, tài
hơn mức bình thường; chức quan càng to thì mức độ hiền tài càng lớn.<i> Tuyển</i>
chọn quan lại được coi như là tuyển chọn nhân tài cho đất nước, là việc hệ
trọng của quốc gia đã trở thành phương châm hành động của nhà Vua và các
cơ quan làm công tác nhân sự của Nhà nước. Dựa trên nền hành chính phong
kiến đến đỉnh cao, tổ chức và hoạt động của đội ngũ quan lại từ Trung ương
đến địa phương đã được quy định cụ thể, chặt chẽ thông qua hệ thống các bộ
luật, các chiếu, chỉ, sắc dụ của nhà Vua, tạo thành cơ sở pháp lý để thực hiện
ổn định, nhất quán, lâu dài.


</div>
<span class='text_page_counter'>(79)</span><div class='page_container' data-page=79>

trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có được
triển khai trong thực tiễn hay không phụ thuộc phần lớn vào đội ngũ cán bộ.
Nếu khơng có cán bộ thì chủ trương, nghị quyết... chỉ nằm trên giấy, không
thể thâm nhập vào đông đảo quần chúng, không thể biến thành sức mạnh vật
chất (phong trào quần chúng rộng lớn), sự nghiệp cách mạng khơng thể thành
cơng. Thực tế cho thấy, sau khi có đường lối đúng đắn thì phẩm chất và năng
lực của cán bộ là vấn đề có ý nghĩa quyết định, không những quyết định việc
tổ chức thực hiện thành công mà cịn quyết định cả mối quan hệ gắn bó giữa
Đảng, Nhà nước với nhân dân.


Thấm nhuần tư tưởng của Người, các văn kiện của Đảng và Nhà nước
đã nêu rõ vị trí, vai trị của đội ngũ cán bộ, nhất là từ khi đổi mới đến nay,
những bức thiết của thực tiễn càng làm nổi bật tầm quan trọng của công tác
cán bộ. Tại Đại hội VI, Đảng ta xác định “đổi mới đội ngũ cán bộ” để có thể


“ngang tầm nhiệm vụ” của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới. Đến Đại
hội VII, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
<i>nghĩa xã hội, Đảng nhấn mạnh “chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ”, trong đó</i>
đặc biệt quan tâm “bồi dưỡng, đào tạo lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng
của Đảng và nhân dân” [8, tr.21]. Bước vào thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng ta khẳng định “cán bộ là nhân tố quyết định
sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và
chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng đảng” [9, tr.66]. Đó là nhận
thức chính trị hết sức sâu sắc, kết tinh được những giá trị truyền thống trong
lịch sử cũng như tổng kết, đúc rút ra từ những bài học kinh nghiệm qua các
thời kỳ cách mạng hào hùng của dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Qua
đó, càng nổi bật lên vai trò to lớn của nhân tố con người - con người chính
trị, trong đó, đội ngũ cán bộ đóng vai trị then chốt.


<b>3.1.2. Mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(80)</span><div class='page_container' data-page=80>

xây dựng, hoàn thiện cơ chế vận hành và cải cách nền hành chính đương thời.
Do đó, chính sách đào tạo và sử dụng quan lại phải hướng đến mục tiêu, yêu
cầu xây dựng đội ngũ quan lại phù hợp với nền chính trị mới. Đó là một đội
ngũ quan lại đủ về số lượng và có chất lượng ngày một nâng lên, cả về kiến
thức, năng lực và phẩm chất đạo đức để bố trí vào các vị trí khác nhau trong
các cơ quan hành chính nhằm đáp ứng yêu cầu hoạt động của bộ máy nhà
nước từ Trung ương đến cơ sở, phù hợp với sự phát triển của đất nước trong
giai đoạn này. Sau khi chấn chỉnh lại tổ chức bộ máy năm 1471, tổng số quan
lại thời Hồng Đức lên tới 5370 người, trong đó, quan lại trong triều chiếm
2575 người gồm 399 quan văn, 1910 quan võ, 446 tòng quan. Quan lại ở các
địa phương là 2615 người, trong đó có 926 quan văn, 857 quan võ, 41 tòng
quan và 791 tạp lưu (chưa kể số nhân viên phục dịch và ngạch xã quan ở thôn
xã) [28, tr.149]. Số quan lại này gồm những công thần tướng sĩ có cơng trong
cuộc khởi nghĩa Lam Sơn trước kia, những người trúng tuyển trong các kỳ thi


cùng con em tầng lớp quí tộc được tuyển chọn, trong đó số được đào tạo và
tuyển dụng từ thi cử chiếm tỷ lệ lớn nhất. Hầu hết các trọng trách của triều
đình do những người xuất thân từ khoa cử nắm giữ, họ đã có những đóng góp
rất lớn cho triều đình, cho đất nước trên những lĩnh vực chính trị, văn hoá,
ngoại giao, nhiều người đã trở thành nhà văn hố, nhà thơ, nhà sử học, nhà
chính trị… lỗi lạc của dân tộc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(81)</span><div class='page_container' data-page=81>

con người là rất lớn, cần được chăm lo xây dựng, nâng cao chất lượng. Trong
từng thời kỳ lịch sử, tuỳ theo yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn đất nước, gắn với
từng thể chế chính trị và mơ hình tổ chức bộ máy cụ thể mà xây dựng đội ngũ
cán bộ phù hợp. Từ khi ra đời đến nay, Đảng ta đã chăm lo đào tạo, huấn
luyện được những thế hệ cán bộ kế tiếp nhau, hoàn thành vẻ vang sứ mệnh
lịch sử trong các cuộc trường kỳ kháng chiến giải phóng dân tộc cũng như
trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.


</div>
<span class='text_page_counter'>(82)</span><div class='page_container' data-page=82>

cán bộ còn nhiều yếu kém, bất cập, chất lượng chưa cao, chưa đồng đều “cơ
cấu đội ngũ cán bộ vẫn mất cân đối, thiếu đồng bộ, chưa hợp lý; thiếu cán bộ
lãnh đạo, quản lý giỏi, cán bộ đầu ngành, cán bộ có trình độ cao, có khả năng
dự báo, xử lý tốt những vấn đề phức tạp nảy sinh”, hơn nữa trong thời gian
qua, “việc thực hiện Chiến lược cán bộ mới tập trung nhiều vào đối tượng cán
bộ lãnh đạo, quản lý, chưa chú ý đúng mức, toàn diện đến các đối tượng cán
bộ khác” [11, tr.270-271].


Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa X đã tiến hành
tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 03-NQ/TW, ngày 18/6/1997 của
Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh
cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước. Sau khi đánh giá tình hình, nhận định
về mặt mạnh, mặt yếu của đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ, phân tích
nguyên nhân, rút ra những bài học kinh nghiệm, Trung ương đã đề ra mục
tiêu cần đạt được là “xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững


vàng, phẩm chất và năng lực tốt, có cơ cấu phù hợp với chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục, vững
vàng giữa các thế hệ cán bộ, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới" [11,
tr.273]; trong đó “chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trên
các lĩnh vực, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp, nhất là
đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành, những tài
năng và chuyên gia giỏi trên các lĩnh vực” [11, tr.241].


</div>
<span class='text_page_counter'>(83)</span><div class='page_container' data-page=83>

<b>3.2. Ý NGHĨA VỀ ĐÀO TẠO CÁN BỘ</b>
<b>3.2.1. Đối tượng và nội dung đào tạo </b>
<i><b>3.2.1.1. Đối tượng đào tạo </b></i>


Thời Lê Thánh Tông, đối tượng đào tạo quan lại được mở rộng theo
hướng đa dạng hoá nhằm thu hút và chọn lọc được những người ưu tú nhất
trong xã hội có thể đảm đương được các chức vụ tương ứng, đáp ứng tham
vọng của triều đình trong việc xây dựng hệ thống quyền lực mạnh mẽ, có
năng lực và hoạt động hiệu quả. Việc cơng khai các quy định, thể lệ trong
việc tổ chức thi cử và tuyển bổ quan lại tạo điều kiện cho giới nho sĩ cả nước
không phân biệt giàu nghèo đều được quyền tham gia ứng thí. Người học ở
trường cơng hay trường tư, ở Trung ương hay địa phương đều bình đẳng, có
cơ hội đem hết tài trí của mình ra để thi thố. Về cơ bản, xét một cách tổng thể,
đã tạo ra môi trường công bằng, khách quan để mọi người phấn đấu. Con em
tầng lớp bình dân lương thiện nếu có chí, có tài đều có hy vọng lập được cơng
danh sự nghiệp mà trước đó chỉ có thể dành riêng cho tầng lớp q tộc mà
thơi. Đào tạo và sử dụng quan lại có mối quan hệ chặt chẽ khăng khít với
nhau trong một quy trình thống nhất. Do đó, đối với những người đã làm
quan, vẫn phải tự đào tạo để trau dồi kiến thức và có cơ hội tham gia các kỳ
thi để có thể được bổ nhiệm giữ chức vụ cao hơn. Điều này đã khuyến khích
đội ngũ quan lại khơng ngừng nâng cao trình độ của mình và thu hút được
nhiều nhân tài tham gia vào bộ máy nhà nước.



</div>
<span class='text_page_counter'>(84)</span><div class='page_container' data-page=84>

cơng tác đào tạo, bồi dưỡng góp phần quan trọng xây dựng đội ngũ cán bộ
phát triển cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu đội ngũ. Cán bộ lãnh đạo,
quản lý hệ thống chính trị từ Trung ương tới cơ sở hiện nay có độ tuổi trẻ và
có trình độ cao hơn các khóa trước. Trong cơ cấu Ban Chấp hành Trung ương
Đảng, số ủy viên Trung ương có trình độ được đào tạo tăng lên từng khóa: lý
luận chính trị cao cấp tăng từ 82,3% (khóa VIII), lên 97,2% (khóa X); trình độ
đại học trở lên tăng từ 88,8% (khóa VIII), lên 94,4% (khóa X). Trình độ của
các cấp ủy viên tỉnh, thành ủy nhiệm kỳ 2005-2010 đều tăng cao hơn các
khóa trước: lý luận chính trị tăng từ 60,1% (nhiệm kỳ 1986-1990), lên
98,41% (nhiệm kỳ 2005-2010); trình độ đại học trở lên tăng từ 46,6% (nhiệm
kỳ 1986 - 1990), lên 95,61% (nhiệm kỳ 2005-2010); quản lý nhà nước tăng từ
6,7% (nhiệm kỳ 1986-1990), lên 37,90% (2001-2005). Tính đến năm 2008,
cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt ở các bộ, ngành Trung ương có trình độ đại
học và trên đại học chiếm 96,3% (trong đó 43,3% là thạc sĩ, tiến sĩ); 93% có
trình độ lý luận chính trị cao cấp. Số bí thư, phó bí thư tỉnh, thành ủy có trình
độ đại học: 95%, gần 100% có trình độ lý luận chính trị cao cấp. Cán bộ cao
cấp diện Trung ương quản lý công tác trong lực lượng vũ trang có trình độ đại
học và trên đại học: 100% (trong đó 26,5% thạc sĩ, tiến sĩ); có trình độ lý luận
chính trị cao cấp: 97% [25, tr.15-16]. Đã đào tạo được một số lượng lớn cán
bộ các ngành, các cấp, trong đó có nhiều cán bộ trẻ, có tư duy đổi mới, năng
động, sáng tạo, có kiến thức khoa học, kinh tế, luật pháp; do đó, khi bước vào
thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, về cơ bản đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý đã thích ứng nhanh,
từng bước đáp ứng nhu cầu nhiệm vụ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(85)</span><div class='page_container' data-page=85>

định, trước hết là ủy viên ban chấp hành đảng bộ cấp trên cơ sở, đội ngũ cán
bộ lãnh đạo, quản lý đương chức và cán bộ quy hoạch lãnh đạo, quản lý từ
trưởng phòng cấp huyện và tương đương trở lên. Quan tâm đào tạo cán bộ trẻ,
cán bộ dân tộc thiểu số, cán bộ nữ, con em cơng nhân, nơng dân và gia đình


có công với cách mạng.


<i><b>3.2.1.2. Nội dung đào tạo </b></i>


Thông qua nội dung, chương trình học và thi tại các kỳ thi hương và thi
hội ở thời Lê Thánh Tông, chúng ta thấy rõ sự định hướng của Triều đình
trong việc đào tạo đội ngũ quan lại. Đó là những con người có năng lực và tri
thức, biết thừa hành ứng phó trong việc cai trị dân chúng và thực hiện các
nhiệm vụ được giao. Người đó phải thông thuộc tất cả những nguyên lý của
Nho giáo được đề ra trong các kinh sách làm định hướng chỉ đạo mọi cơng
việc của mình. Người đó phải có năng lực hiểu và tạo được các văn bản hành
chính thường dùng trong giới quan trường như chiếu (lời vua ban truyền), chế
(lời vua phong thưởng), biểu (lời bề tôi dâng lên vua). Thơ phú là bước đầu
thể hiện sự sáng tạo văn học của các Nho sinh. Còn văn sách là bài nghị luận
này tỏ ý kiến của riêng mình đối với các vấn đề thời sự, chính sách trị nước,
kinh bang tế thế. Trong các đề thi, mà thường thì nhà vua thân ra đề, ta thấy
tốt lên tinh thần này thông qua các chủ đề sau: “Đế vương trị thiên hạ” (các
kỳ thi năm 1466, 1472, 1478); “Đạo trị nước của các bậc đế vương” (năm
1463); “Đạo trị nước” (năm 1487, 1496); “Chỗ dị đồng của kinh sử, tài thao
lược của tướng soái” (năm 1475); “Triều Tống dùng nho sĩ” (năm 1484). Yêu
cầu của Nhà nước quân chủ Nho giáo đối với đội ngũ quan lại chính là vấn đề
“trị nước yên dân”. Người nho sinh giỏi sau này hứa hẹn trở thành những viên
quan cai trị giỏi thường có những vần điệu ý kiến độc đáo ở hai bài thơ phú
và văn sách này.


</div>
<span class='text_page_counter'>(86)</span><div class='page_container' data-page=86>

khoa học tự nhiên và thực nghiệm, nên hạn chế rất nhiều trong việc tổ chức
quản lý xã hội và phát triển đất nước. Đáng lẽ ra kiến thức đào tạo trong nhà
trường chỉ lấy làm nền tảng cơ bản, rồi từ đó sẽ rẽ qua nhiều ngả khác nhau
như chuyên môn theo ngành nghề, quản lý các cộng đồng tổ chức, làm chính
trị hoạch định chiến lược… thì chế độ đào tạo thời Lê Thánh Tông đã diễn ra


theo một đơn tuyến, gộp nhiều chức năng và nhân cách vào một con người.
Từ những mặt hạn chế đã nêu ở trên, chúng ta thấy rằng để nâng cao chất
lượng đào tạo, cần bổ sung thêm những kiến thức về khoa học tự nhiên và
thực nghiệm, bên cạnh việc trang bị những kiến thức cơ bản, cần thực hiện
việc đào tạo chuyên sâu theo từng nhóm đối tượng ở các vị trí khác nhau cho
phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của từng lĩnh vực cụ thể.


Trong giai đoạn hiện nay, đào tạo, bồi dưỡng là nhiệm vụ trọng yếu
trong công tác cán bộ, nhất là đào tạo về lý luận chính trị. Từ Đại hội IX của
Đảng (năm 2001) đến tháng 12/2007, hệ thống Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh đã mở 585 lớp lý luận chính trị cao cấp với tổng
số học viên là 50.074 người. Chất lượng công tác đào tạo, nhất là đối với các
lớp tại chức, được chú trọng hơn. Tỷ lệ các lớp lý luận chính trị cao cấp hệ tại
chức so với các lớp lý luận chính trị cao cấp hệ tập trung đã giảm từ 4/1 (năm
2002) xuống 1/1 (năm 2008). Cùng với đào tạo lý luận chính trị, việc đào tạo
chun mơn bậc sau đại học và bồi dưỡng nghiệp vụ, cập nhật kiến thức mới,
nghiên cứu, học tập ở nước ngoài cũng được coi trọng. Nhiều cán bộ lãnh đạo,
quản lý đã được cử đi học các lớp bồi dưỡng về kiến thức quốc phòng - an ninh,
các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ… Hằng năm, các cơ quan Trung ương và địa
phương đều tổ chức các đoàn cán bộ đi nghiên cứu, học tập ngắn hạn ở nước
ngồi trong đó có nhiều cán bộ diện Trung ương quản lý. Một số địa phương đã
chủ động xây dựng kế hoạch, cử cán bộ đi học thạc sĩ, tiến sĩ và các ngành nghề
chuyên môn ở nước ngoài, nhằm đáp ứng nhu cầu cán bộ tại địa phương.


</div>
<span class='text_page_counter'>(87)</span><div class='page_container' data-page=87>

với đối tượng và mục tiêu đào tạo, tránh dàn trải, ôm đồm, trùng lặp kiến thức
giữa các loại hình đào tạo, bồi dưỡng. Tiếp tục nghiên cứu đổi mới chương
trình, giáo trình các hệ đào tạo của hệ thống Học viện Chính trị - Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh và các trường chính trị theo hướng làm sáng rõ hơn
những vấn đề lý luận cơ bản về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm, đường lối đổi mới của Đảng và những vấn đề mới của thực


tiễn trong nước và quốc tế; bổ sung kiến thức thực tiễn, kỹ năng nghiệp vụ,
cập nhật những chủ trương, chính sách, quy định, hướng dẫn mới của Trung
ương, cập nhật những thông tin, kỹ năng và phương pháp xử lý tình huống.
Chương trình, nội dung đào tạo vừa phải bảo đảm tính khoa học, cơ bản và hệ
thống, vừa bảo đảm tính hiện đại, thực tiễn và chuyên môn nghiệp vụ, gắn lý
luận với thực tiễn, chú trọng nâng cao trình độ kiến thức, rèn luyện năng lực
tư duy khoa học. Tăng cường bồi dưỡng, cập nhật những kiến thức, những
thông tin mới về hành chính, tình hình kinh tế, chính trị, nghiệp vụ trong nước
và thế giới... Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, cần tăng cường đưa cán
bộ lãnh đạo, quản lý (cả cán bộ ở cấp chiến lược) đi nghiên cứu, học tập ở
nước ngoài theo Đề án 165 và các chương trình khác, nhằm góp phần cho cán
bộ mở rộng tầm nhìn, học tập những kinh nghiệm của các nước, trau dồi khả
năng ngoại ngữ, khắc phục những hạn chế mà việc đào tạo trong nước chưa
đáp ứng được. Những năm trước mắt, ưu tiên gửi cán bộ đến học tại các nước
có thế mạnh về các lĩnh vực mà chúng ta đang cần nhưng các cơ sở đào tạo
trong nước chưa đáp ứng được như: quản lý hành chính, quản lý kinh tế, quản
lý xã hội, cải cách hành chính, quản lý đơ thị, quản lý mơi trường, luật pháp
quốc tế, chính phủ điện tử, dịch vụ công, quản trị doanh nghiệp, ngoại ngữ...


<b>3.2.2. Một số biện pháp nâng cao chất lượng đào tạo</b>
<i><b>3.2.2.1. Chăm lo xây dựng đội ngũ giảng viên</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(88)</span><div class='page_container' data-page=88>

làm công tác nghiên cứu, giảng dạy trong các viện, trường học, quy định tiêu
chuẩn cụ thể và tổ chức thi để lựa chọn. Đối với những người đỗ khoa thi
Tiến sĩ nếu bố trí ở Hàn lâm viện sẽ được ưu ái gia thêm một cấp so với các vị
trí cơng tác ở địa phương. Do đó, để nâng cao chất lượng đào tạo, nhất là đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ các cấp, trong đó tập trung vào đối tượng cán bộ lãnh
đạo, quản lý và cán bộ dự nguồn thì trước hết cần nâng cao chất lượng đội
ngũ giáo viên, giảng viên trong các trường, học viện thuộc hệ thống đào tạo lý
luận chính trị - hành chính của Đảng, các đồn thể cũng như hệ thống giáo


dục đại học, đào tạo nghề và giáo dục phổ thông.


Bên cạnh những người “làm công tác giáo dục chuyên nghiệp, thường
xuyên”, trong các kỳ thi tuyển, Nhà nước đều lựa chọn các vị quan có chức vụ
từ thượng thư trở xuống ở các bộ, Hàn lâm viện, Ngự sử đài và các quan địa
phương tham gia làm đề điệu, giám thí, độc quyển và các cương vị khác như
đằng lục, đối độc,…. Một số quan còn được giao chức vụ kiêm nhiệm, tham
gia vào việc giảng dạy cho các hồng tử, con em tơn thất và tổ chức cả việc
“lên lớp” cho các quan. Ngày nay, chúng ta cần tăng cường cơ chế giảng viên
kiêm nhiệm, quy định rõ trách nhiệm các đồng chí làm cơng tác lãnh đạo,
quản lý cũng như nghiên cứu, tham mưu ở các cơ quan đảng, chính quyền các
cấp tham gia giảng dạy ở hệ thống Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh và các trường chính trị để có điều kiện cung cấp thêm kiến thức
thực tiễn cho học viên bên cạnh những kiến thức lý luận cơ bản.


<i><b>3.2.2.2. Tiếp tục đổi mới phương pháp đào tạo</b></i>


Thời Lê Thánh Tơng, ngồi việc đào tạo mang tính “học thuộc lịng”,
trong q trình học và thi cịn có hình thức bình văn, đối đáp rất sinh động,
linh hoạt nhằm kích thích sự hứng khởi, tính chủ động, sáng tạo của người
học. Hơn nữa có hình thức nho sinh vừa làm vừa học các kiến thức Nho học
và công việc hành chính để được bổ làm quan hoặc lại điển.


</div>
<span class='text_page_counter'>(89)</span><div class='page_container' data-page=89>

cứu ở nước ngoài, mời chuyên gia nước ngồi có kinh nghiệm sang Việt Nam
giới thiệu các chuyên đề mà ta đang cần. Tiếp tục đẩy mạnh đổi mới phương
pháp giảng dạy và học tập theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, khả
năng độc lập suy nghĩ, sáng tạo của người học, biến quá trình đào tạo thành quá
trình tự đào tạo, đào tạo lại và đào tạo suốt đời. Nghiên cứu rút ngắn thời gian và
thực hiện sự liên thông giữa các cấp độ trong đào tạo và bồi dưỡng cán bộ.



<i><b>3.2.2.3. Tăng cường kỷ luật kỷ cương trong công tác đào tạo </b></i>


Nâng cao chất lượng đội ngũ quan lại là mối quan tâm hàng đầu của Triều
đình do Lê Thánh Tơng đứng đầu trong việc thực thi chính sách đào tạo quan lại.
Việc tổ chức các kỳ thi để đánh giá kết quả đào tạo và làm cơ sở tuyển dụng
quan lại được tổ chức chặt chẽ, quy củ theo quy chế, thể lệ rõ ràng và rất nghiêm
minh, qua đó đã nâng cao chất lượng và hạn chế các hiện tượng tiêu cực.


Những năm qua, trong những nỗ lực nhằm đổi mới, nâng cao chất
lượng nền giáo dục nước nhà, trong đó có một phần quan trọng cơng tác đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý, chúng ta đã có nhiều biện pháp, quy
định chặt chẽ nhằm thiết lập trật tự, kỷ cương nhằm hạn chế và khắc phục
những biểu hiện tiêu cực trong giảng dạy, học tập và thi cử. Thời gian tới, cần
tiếp tục thực hiện nghiêm túc các quy chế, quy định đã ban hành để duy trì tính
nghiêm túc, cơng bằng, khách quan trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.


<i><b>3.2.2.4. Đãi ngộ thoả đáng với người đi học</b></i>


Thời Lê Thánh Tông, để khuyến khích tinh thần hiếu học, Nhà nước
quy định những người đi học ngồi việc khơng phải đi lính cịn được ưu ái
khơng phải nộp thuế; giám sinh Quốc Tử Giám ngồi việc được ban phát sách
cơng phục vụ việc học tập còn được chế độ học bổng theo ba hạng thượng xá
sinh, trung xá sinh và hạ xá sinh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(90)</span><div class='page_container' data-page=90>

các đề án đào tạo cán bộ trẻ ở nước ngoài từ nguồn ngân sách của địa phương.
Cán bộ đi học ở hệ thống các học viện, trường chính trị cũng được hưởng
nhiều chế độ đãi ngộ. Đấy là những biện pháp đã phát huy tác dụng tốt cần
được nhân rộng trong toàn quốc cũng như thực hiện đối với cán bộ, công
chức các cơ quan Trung ương.



<b>3.3. Ý NGHĨA VỀ SỬ DỤNG CÁN BỘ</b>


<b>3.3.1. Xây dựng tiêu chuẩn chức danh và làm tốt công tác đánh giá</b>
<b>cán bộ để làm cơ sở cho việc bố trí, sử dụng cán bộ </b>


<i><b>3.3.1.1. Xây dựng tiêu chuẩn chức danh</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(91)</span><div class='page_container' data-page=91>

ty lấy 3 viên ngoại (1468), “những điển lại nào thanh liêm, cần mẫn thì được
thăng bổ chức phó nhị” (1472), “có học thức, có uy tín, tài cán, liêm khiết,
siêng năng” (bảo tuyển quan Tổng binh năm 1487), “liêm khiết, từng trải, am
hiểu hình danh” (lệnh bảo cử ty quan của Hình bộ năm 1489), “có tài năng, tri
thức, liêm khiết, giỏi giang, siêng năng, mẫn cán mới cho tại chức” (sắc chỉ
về lựa chọn tướng hiệu các nha môn năm 1496)…


Vận dụng ý nghĩa này trong giai đoạn hiện nay, để nâng cao chất lượng
cơng tác cán bộ, trong đó có cơng tác đào tạo và sử dụng cán bộ đóng vai trị
quan trọng, cần tiếp tục cụ thể hóa để bổ sung về tiêu chuẩn chung và tiêu chuẩn
cụ thể đối với từng loại cán bộ trong thời kỳ mới của sự nghiệp cách mạng. Văn
kiện Đại hội X đã nêu rõ, tiêu chuẩn hàng đầu của cán bộ trong hệ thống chính
trị là “phẩm chất chính trị tốt, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, hết
lòng phấn đấu vì lợi ích của nhân dân, của dân tộc; có bản lĩnh chính trị vững
vàng, khơng dao động trước những khó khăn, thử thách” [10, tr.136]. Điều đó,
cũng có nghĩa cán bộ phải là người có tinh thần yêu nước sâu sắc, kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu thực hiện thắng lợi
đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Đồng thời, cán bộ
phải có tư cách đạo đức tốt, lối sống trong sáng, lành mạnh; cần kiệm, liêm
chính, chí cơng vơ tư; khơng tham nhũng và kiên quyết đấu tranh chống tham
nhũng. Có ý thức tổ chức kỷ luật và phong cách làm việc khoa học, trung
thực, không cơ hội, gắn bó mật thiết với nhân dân, dám nghĩ, dám làm, dám
chịu trách nhiệm, được nhân dân tín nhiệm. Có trình độ hiểu biết về lý luận


chính trị, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà
nước; có trình độ văn hóa, chun mơn, đủ năng lực và sức khỏe để làm việc
có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Các tiêu chuẩn có quan hệ
mật thiết với nhau, coi trọng cả đức và tài, đức là gốc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(92)</span><div class='page_container' data-page=92>

đối tượng cán bộ cán bộ”, nhất là “từng chức danh cán bộ trong từng loại hình
cơ quan, tổ chức, đơn vị” [11, tr.241]. Việc xây dựng tiêu chuẩn chức danh
cán bộ trong thời kỳ mới là rất quan trọng vì đó khơng chỉ là cơ sở để lựa
chọn, bố trí, sử dụng cán bộ cho phù hợp với năng lực, sở trường, sở đoản của
từng người mà còn là căn cứ để xây dựng nội dung, chương trình đào tạo cho
phù hợp với từng đối tượng, từng mục tiêu công tác cụ thể. Chẳng hạn tiêu chí
đối với lãnh đạo quản lý là yêu cầu cao về tầm nhìn xa trông rộng, tri thức
mới, khả năng tiếp cận và xử lý thông tin, tiếp cận khoa học công nghệ, am
hiểu kinh tế thị trường, kiến thức văn hóa các dân tộc trên thế giới, kỹ năng
làm việc với thiết bị hiện đại, phong cách làm việc khoa học, tác phong công
nghiệp. Cần chú ý hơn đến các tiêu chuẩn về trình độ ngoại ngữ, luật pháp, tin
học cũng như về tác phong dân chủ, sâu sát và tinh thần trách nhiệm, năng
động, dám nghĩ dám làm.


<i><b>3.3.1.2. Đổi mới công tác đánh giá cán bộ </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(93)</span><div class='page_container' data-page=93>

khen thưởng và kỷ luật đối với từng hạng quan chức: thăng chức, thưởng tiền,
giáng chức, thuyên chuyển, bắt về hưu, thải hồi.


Phương thức đánh giá quan lại của vương triều Lê Thánh Tơng được
thực hiện kết hợp chế độ khảo khóa định kỳ và kiểm tra, giám sát một cách
thường xuyên hoặc đột xuất khi có dấu hiệu vi phạm. Tiêu chuẩn, nội dung
đánh giá chủ yếu nhằm vào mức độ hồn thành cơng việc, song lại khơng bỏ
qua tư cách đạo đức. Nghĩa là, việc đánh giá quan lại mặc dù bằng hình thức
nào cũng khơng thể bỏ qua đức tài của họ đã thể hiện trong công việc, sinh


hoạt. Đây chính là một nguyên tắc, một bài học quý của dân tộc truyền lại cho
chúng ta ngày nay.


Trong công tác cán bộ hiện nay, đánh giá cán bộ là khâu trọng yếu vì
đấy là cơ sở quan trọng đầu tiên để bố trí, sử dụng, bồi dưỡng cán bộ. Do đó,
thời gian qua, cơng tác nhận xét, đánh giá cán bộ đã được tiến hành thường
xuyên theo định kỳ cuối năm, cuối nhiệm kỳ hoặc khi làm quy trình nhân sự.
Diện lấy thông tin về cán bộ được mở rộng hơn, một số nơi có cơ chế để nhân
dân tham gia nhận xét, đánh giá cán bộ; từng bước khắc phục tình trạng nể
nang, né tránh trong tự phê bình và phê bình. Tuy nhiên, đánh giá cán bộ vẫn
là “cịn hình thức, chưa phản ánh đúng thực chất cán bộ” [11, tr.213] vì đây
vẫn là khâu khó và yếu nhất – khó nhất là đánh giá cái “tâm”, cái “tầm” và
bản lĩnh chính trị của cán bộ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(94)</span><div class='page_container' data-page=94>

Do vậy, trong thời gian tới phải tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công
tác quản lý cán bộ nhằm hiểu rõ cán bộ; khẩn trương hoàn thiện, xây dựng các
cơ chế, các tiêu chí cụ thể làm cơ sở để đánh giá cán bộ, từ đó bố trí, đề bạt,
sử dụng cán bộ ngày càng đúng đắn hơn. Coi trọng và phát huy trách nhiệm
đánh giá của thủ trưởng, người đứng đầu, người trực tiếp quản lý, sử dụng cán
bộ. Do đó, cần nghiên cứu xây dựng, ban hành Quy chế đánh giá cán bộ (sửa
đổi, bổ sung) kèm theo tiêu chuẩn chức danh và chức trách để làm tiêu chí
đánh giá theo từng đối tượng cán bộ cụ thể.


<b>3.3.2. Bố trí, sử dụng hợp lý cán bộ căn cứ năng lực, trình độ của</b>
<b>từng người và yêu cầu nhiệm vụ được giao</b>


Cha ông ta đã thể hiện sự tài giỏi trong việc sử dụng con người chính
trị, nhờ đó mà mọi thử thách của lịch sử, các khúc quanh co đều xuất hiện
"hào kiệt" có khả năng giải quyết tốt vấn đề mà lịch sử đặt ra. Vua, với tư
cách là người lãnh đạo tối cao, đã thấm nhuần tinh thần dân tộc, chủ nghĩa


yêu nước, bảo đảm cho lợi ích giai cấp thống nhất với lợi ích của nhân dân và
dân tộc, nhờ đó mà hình thành nên những ê-kíp làm việc hiệu quả trên tiêu chí
dân tộc văn hiến. Đội ngũ quan lại do nhân dân sinh ra và nuôi dưỡng, họ đại
diện cho ý chí nguyện vọng của đa số tầng lớp nhân dân. Vai trò của Nhà
nước trong việc sử dụng con người chính trị là rất lớn đã để lại nhiều bài học
kinh nghiệm quý báu và cịn ý nghĩa đối với cơng cuộc đổi mới hiện nay.


</div>
<span class='text_page_counter'>(95)</span><div class='page_container' data-page=95>

đem ra ứng dụng mà không bị bỏ rơi”, nhờ đó mà “trong nước khơng để sót
nhân tài, triều đình khơng dùng nhầm người kém… chính trị ngày càng thịnh
hưng” [4, tr.160].


Việc bố trí, sử dụng quan lại thời Lê Thánh Tông, gồm cả việc bổ
nhiệm, thăng giáng đều chủ yếu dựa trên thi cử và khảo khố, tức là dựa trên
trình độ, tư cách đạo đức và kết quả hoạt động thực tiễn nhằm phát huy cao
nhất năng lực, sở trường của từng người, người nào khơng đáp ứng được u
cầu vị trí cơng tác sẽ được điều chuyển hoặc “giản thải”. Về vấn đề này, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng kinh nghiệm của cha ơng với hình ảnh so sánh
rất sinh động “Dùng người như dùng gỗ. Người thợ khéo thì thì gỗ to nhỏ,
thẳng, cong đều tùy chỗ mà dùng được” [29, tr.72]. Từ đó, Người rút ra kết
luận là “phải khéo dùng cán bộ” vì sử dụng cán bộ là nghệ thuật, cụ thể là
“tuỳ tài mà dùng người” theo từng việc cụ thể to, nhỏ khác nhau [29, tr.274]
để vừa đảm bảo đúng chuyên môn, vừa tạo điều kiện phát huy hết khả năng
của cán bộ.


Trong tất cả các khâu của công tác cán bộ, việc sử dụng cán bộ là khâu
có ý nghĩa quyết định vì sử dụng cán bộ đúng sẽ phát huy được tài năng, góp
phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ. Với lực lượng cán bộ hiện có, phải
khéo sắp xếp, sử dụng để phát huy tốt hơn nữa mọi khả năng của đội ngũ cán
bộ. Một số giải pháp để nâng cao chất lượng cơng tác bố trí, sử dụng cán bộ
trong giai đoạn hiện nay là:



- Vì việc mà tìm người chứ khơng vì người mà đặt việc. Phải căn cứ
vào nhiệm vụ chính trị mới lập tổ chức; có tổ chức mới bố trí cán bộ, khơng
vì cán bộ mà lập ra tổ chức. Mỗi cán bộ trong tổ chức phải có chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm rõ ràng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(96)</span><div class='page_container' data-page=96>

nhiệt tình, thái độ trách nhiệm với công việc sắp được giao. Đây cũng là một
kênh thông tin quan trọng để đánh giá thực chất năng lực của cán bộ. Tuy
nhiên, tùy từng lĩnh vực, chức danh cán bộ mà áp dụng phù hợp.


- Cải tiến quy trình lấy phiếu tín nhiệm, bổ nhiệm, bầu cử để chọn đúng
người, bố trí đúng việc. Mở rộng quyền đề cử, tự ứng cử và giới thiệu nhiều
phương án nhân sự để lựa chọn theo Quy chế bầu cử trong Đảng (được ban
hành theo Quyết định số 220-QĐ/TW, ngày 17/4/2009 của Bộ Chính trị khóa
X) và Quy chế bổ nhiệm cán bộ và giới thiệu cán bộ ứng cử (được ban hành
theo Quyết định số 68-QĐ/TW, ngày 4/7/2007 của Bộ Chính trị khố X).
Nghiên cứu, đổi mới quy trình, nội dung lấy phiếu giới thiệu và phiếu tín
nhiệm trong công tác cán bộ.


- Kịp thời cho thôi việc, thay thế cán bộ kém phẩm chất và năng lực,
khơng hồn thành nhiệm vụ được giao theo phương châm “có lên, có xuống,
có vào, có ra”, coi đây là việc bình thường trong bố trí, sử dụng cán bộ. Cụ
thể hố, triển khai thực hiện nghiêm túc Quy định của Bộ Chính trị về việc
<i>thơi giữ chức vụ, miễn nhiệm, từ chức của cán bộ (số 206-QĐ/TW, ban hành</i>
02/10/2009) và Nghị định của Chính phủ về chính sách tinh giản biên chế (số
132/2007/NĐ-CP ngày 8/8/2007).


- Nâng cao chất lượng quy hoạch cán bộ, bảo đảm sự chủ động, có tầm
nhìn xa, đáp ứng cả nhiệm vụ trước mắt và lâu dài; thực hiện việc xây dựng
quy hoạch đội ngũ cán bộ cấp chiến lược; kết hợp quy hoạch cán bộ lãnh đạo,


quản lý với quy hoạch cán bộ chuyên môn, cán bộ quản lý sản xuất, kinh
doanh, cán bộ lãnh đạo lực lượng vũ trang, cán bộ nghiên cứu khoa học,
chuyên gia đầu ngành. Nghiên cứu, đổi mới quy trình giới thiệu cán bộ trẻ,
cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số vào nguồn quy hoạch các chức danh
lãnh đạo, quản lý ở các cấp.


</div>
<span class='text_page_counter'>(97)</span><div class='page_container' data-page=97>

hệ thống; đồng thời kết hợp hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng của
nhân dân để giáo dục, rèn luyện, đào tạo, đánh giá, sàng lọc, tuyển chọn cán
bộ. Thông qua luân chuyển cán bộ để bố trí cán bộ lãnh đạo chủ chốt của các
tỉnh, các huyện không phải là người địa phương và không giữ chức vụ quá lâu
ở một địa phương, đơn vị cần được tiếp tục mở rộng. Thực hiện nghiêm túc
việc chuyển đổi vị trí công tác đối với cán bộ, công chức, viên chức theo theo
<i>Nghị định số 158/2007/NĐ-CP ngày 27/10/2007 của Chính phủ và tiếp tục cơ</i>
cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức.


- Để có đội ngũ cán bộ giỏi, n tâm làm việc, cịn cần có chính sách
hợp lý, trước hết là các chính sách về tiền lương, nhà ở đối với cán bộ công
chức. Thực hiện tiếp việc tiền tệ hóa tiền lương, coi chính sách tiền lương là
chính sách đầu tư cho con người, cho phát triển kinh tế - xã hội, điều chỉnh
tiền lương tương ứng với nhịp độ tăng thu nhập xã hội; sửa đổi những bất hợp
lý trong tương quan tiền lương và phụ cấp chức vụ lãnh đạo giữa các chức
danh cán bộ trong hệ thống chính trị.


- Kịp thời động viên tinh thần thông qua công tác thi đua, khen thưởng
để thúc đẩy phong trào thi đua yêu nước một cách thực chất, khắc phục “bệnh
thành tích”, hình thức, lãng phí; đồng thời tạo dựng phong trào thi đua xây
dựng môi trường làm việc tốt để phát huy tốt nhất khả năng cống hiến và phát
triển của cán bộ. Triển khai xây dựng, đổi mới chính sách, đề xuất các hình
thức thích hợp để tiếp tục tơn vinh những người có cơng với nước, những
người có tài, có đóng góp lớn cho sự nghiệp đổi mới trên mọi lĩnh vực. Đi đơi


với khuyến khích lợi ích vật chất, cần chú trọng giáo dục lý tưởng cách mạng
làm động lực thúc đẩy sự phấn đấu vươn lên của từng cán bộ.


<b>3.3.3. Tăng cường kiểm tra, giám sát và quản lý cán bộ </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(98)</span><div class='page_container' data-page=98>

cịn có hệ thống lục khoa với chức năng xét duyệt và đàn hặc những việc làm
của lục bộ. Công tác quản lý, thanh tra và giám sát quan lại được thực hiện ở
một số khâu chính là quản lý lý lịch, quản lý kỷ luật, quản lý thành tích cơng
tác và tinh thần trách nhiệm của quan lại cũng như thực hiện các hình thức
khen thưởng và kỷ luật đối với quan lại. Điều dễ thấy nhất là ở Bộ Lại đảm
trách việc tuyển bổ, thăng giáng và bãi miễn các chức quan từ tam phẩm trở
xuống nhưng khơng được tồn quyền như ở các triều đại trước mà phải có sự
phối hợp với các cơ quan ở Trung ương và địa phương cũng như chịu sự giám
sát, “bắt bẻ, tố giác” của Lại Khoa.


Nhà nước thi hành chính sách ưu đãi đối với những người làm quan,
bảo vệ uy tín của họ đối với dân chúng, chính là nhằm củng cố một lực lượng
phục vụ đắc lực nhằm mục đích duy trì hiệu lực của bộ máy nhà nước. Đồng
thời, Triều đình rất chú ý đến việc quản lý, giám sát quan lại, ban hành những
chế độ, quy định tỉ mỉ đến công tác tổ chức, nhân sự của tầng lớp này. Trong
quan hệ đối với dân chúng, quan lại là người đại diện của Triều đình, tập trung
trong tay mình những quyền lực rất lớn cả về lập pháp, hành pháp lẫn tư pháp, từ
đó có nguy cơ dẫn đến tệ lạm quyền. Nhưng trong quan hệ đối với bộ máy nhà
nước và các đồng nghiệp của họ, trái lại, họ đã bị ràng buộc, kiểm sốt một cách
rất chặt chẽ. Do đó, công việc và hành vi của quan lại trong bộ máy nhà nước
quân chủ trên thực tế luôn luôn bị giám sát bởi các cơ quan chuyên trách, bởi
cấp trên và các đồng sự. Sự ràng buộc lẫn nhau đó đã phần nào có tác dụng hạn
chế tình trạng lạm quyền, vi phạm pháp luật trong đội ngũ quan lại.


</div>
<span class='text_page_counter'>(99)</span><div class='page_container' data-page=99>

đến nay. Tuy nhiên, “việc phân cấp quản lý cán bộ vẫn còn chồng chéo, nhất


là đối với các chức danh cán bộ quản lý theo ngành dọc của các bộ, ngành”
nên “quản lý cán bộ chưa chắc, chưa sâu”; hơn nữa, “việc kiểm tra, xác minh
các thông tin liên quan đến cán bộ còn bị xem nhẹ nên có những trường hợp bổ
nhiệm cán bộ chưa trúng, chưa lựa chọn được cán bộ giỏi” [11, tr.225-226]. Bên
cạnh đó, việc quản lý, giáo dục, rèn luyện cán bộ về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống, thực hành dân chủ và chế độ trách nhiệm trong công tác cũng còn
nhiều hạn chế.


</div>
<span class='text_page_counter'>(100)</span><div class='page_container' data-page=100>

<b>3.3.4. Chăm lo xây dựng cơ quan và đội ngũ cán bộ làm công tác tổ</b>
<b>chức cán bộ </b>


Ở thời Lê Thánh Tông, cơ quan chủ chốt phụ trách công tác nhân sự
của triều đình là Bộ Lại, ngồi ra các bộ, các cơ quan ở Trung ương cũng như
các ty, các phủ ở địa phương cũng có trách nhiệm tham gia vào cơng tác này.
Hơn nữa lại có cơ chế “Bộ Lại thăng bổ khơng xứng tài thì khoa Lại có quyền
bác bỏ” [43, tr.13] nên đã đòi hỏi những người trực tiếp làm nhiệm vụ liên
quan đến công tác tuyển dụng, thun bổ quan lại ln phải có tinh thần trách
nhiệm rất cao. Trong các chiếu chỉ, sắc dụ của nhà Vua cũng đòi hỏi khi tiến
hành tiến cử, bảo cử, khảo khố, thăng giáng quan lại ln phải nêu cao tính
cơng tâm, khách quan, lựa chọn người đủ tiêu chuẩn, điều kiện, nếu vi phạm
đều bị xử phạt nghiêm khắc, “kẻ nào theo tình riêng mà dung túng đều phải trị
tội cả”. Lê Thánh Tông đã từng ra lệnh giam Lương Như Hộc vào ngục vì
viên quan này tiến cử Trần Quý Huyên không phải là người giỏi và mắng
Thượng thư bộ Lại Nguyễn Như Đổ về chuyện tiến cử người không đúng:
“Ngươi nhiều lần xin bảo lãnh cho Lê Bốc làm Tổng tri, nhưng Bốc lại có
bệnh trúng phong, chậm chạp, yếu đuối, không kham nổi việc, ngươi thực là
tên gian lại” [48, tr.433, 438].


</div>
<span class='text_page_counter'>(101)</span><div class='page_container' data-page=101>

Trong thời gian tới, cần chăm lo củng cố, xây dựng bộ máy làm công
tác tổ chức cán bộ và nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ trong cơ quan


này cho ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ mới. Ngoài việc phải tiếp tục đổi
mới tư duy, nâng cao nhận thức về cơng tác cán bộ trong tình hình mới, cần
đề cao trách nhiệm và phẩm chất đạo đức, năng lực, trình độ của cán bộ tổ
chức để thực hiện tốt chức năng là cơ quan tham mưu, nghiên cứu tổng kết,
hướng dẫn nghiệp vụ và kiểm tra, giám sát, thẩm định có hiệu quả về cơng tác
tổ chức, cán bộ của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể ở các cấp. Rà sốt, bổ
sung, hồn thiện và kiểm tra thực hiện tốt các quy chế về tổ chức và hoạt
động của cơ quan tổ chức cán bộ các cấp theo hướng tăng cường phân cấp,
làm rõ trách nhiệm của tập thể và cá nhân theo từng chức danh cán bộ, công
chức. Cải tiến phong cách chỉ đạo, điều hành và lề lối làm việc, phương pháp
công tác của cơ quan tổ chức cán bộ các cấp theo hướng duy trì, cải tiến và
thực hiện có nền nếp quy chế làm việc, chương trình, kế hoạch cơng tác.


</div>
<span class='text_page_counter'>(102)</span><div class='page_container' data-page=102>

<b>KẾT LUẬN</b>


Thế kỷ XV là thế kỷ hình thành, xây dựng và phát triển của Nhà nước
Lê Sơ, được xem là đỉnh cao sự phát triển của chế độ phong kiến Việt Nam.
Đại Việt nửa cuối thế kỷ XV giành được nhiều thành tựu to lớn, từ việc giữ
vững nền độc lập, tự chủ và mở rộng bờ cõi đến việc xây dựng, phát triển đất
nước mạnh mẽ, tồn diện trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội.
Có được những kết quả đó, một phần quan trọng là nhờ đóng góp của đội ngũ
quan lại đương thời, như là kết quả tất yếu từ chính sách đào tạo và sử dụng
quan lại dưới thời Lê Thánh Tơng (1460-1497).


Thể chế chính trị thời kỳ này được xác lập với sự thống trị tuyệt đối của
hệ tư tưởng Nho giáo trong đời sống xã hội, thực hiện việc chuyển giao quyền
lực từ quý tộc sang quan lại nho sĩ và tăng cường hữu hiệu hố quyền lực của
bộ máy nhà nước. Triều đình do Lê Thánh Tơng đứng đầu, một mặt kiên trì
kế thừa đường lối độc lập dân tộc của các bậc tiền bối, một mặt phát triển
mạnh mẽ mục tiêu xây dựng Nhà nước phong kiến Trung ương tập quyền


vững mạnh thông qua việc tiến hành sắp xếp lại tổ chức bộ máy từ Trung
ương đến cơ sở, từng bước cải cách, hồn chỉnh nền hành chính, đi đơi với việc
thực hiện chính sách đào tạo và sử dụng quan lại nhằm xây dựng đội ngũ quan
lại các cấp có chất lượng ngày một nâng cao, đáp ứng yêu cầu vận hành của
nền chính trị cũng như địi hỏi của thực tiễn phát triển đất nước thời bấy giờ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(103)</span><div class='page_container' data-page=103>

học, được chọn lọc kỹ càng làm chỗ dựa vững chắc để duy trì quyền lực chính
trị của giai cấp cầm quyền, đảm bảo cho sự phát triển của đất nước và phục
hưng dân tộc vào thế kỷ XV. Vì thế, chính sách đào tạo và sử dụng quan lại
thời Lê Thánh Tơng có ý nghĩa sâu sắc khơng chỉ đối với thực tiễn lịch sử
Việt Nam đương thời mà cịn có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp đổi mới,
xây dựng đất nước ngày nay của nhân dân ta.


Từ khi ra đời đến nay, Đảng ta luôn chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ,
và chính họ đã góp phần làm cho sự nghiệp cách mạng do Đảng ta khởi
xướng và lãnh đạo đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong cơng cuộc
đổi mới tồn diện đất nước, nhất là thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá hiện nay, việc xây dựng đội ngũ cán bộ càng có ý nghĩa, vai trị to lớn
và cấp thiết. Điều này thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa truyền thống và
hiện đại trong tư duy chính trị Việt Nam cũng như tính phổ biến và khách
quan của việc xây dựng con người chính trị trong hoạt động chính trị nói
chung của mọi nền chính trị trên thế giới cả trong lịch sử và đời sống chính trị
hiện đại. Nếu cách đây trên năm thế kỷ, Lê Thánh Tông đã đặt vấn đề phải
đổi mới và nâng cao năng lực, phẩm chất của đội ngũ quan lại để phát triển
đất nước Đại Việt đạt trình độ ngang bằng với các nước tiên tiến trong khu
vực và trên thế giới đương thời, đủ sức “đối trọng” với nhà Minh của Trung
Quốc (đế chế mạnh nhất Châu Á hồi thế kỷ XV) thì ngày nay trong thời đại
mới, Đảng ta luôn luôn xem “cán bộ là nhân tố quyết định thành bại của cách
mạng Việt Nam”.



</div>
<span class='text_page_counter'>(104)</span><div class='page_container' data-page=104>

- Kiên trì quan điểm “cán bộ là nhân tố quyết định thành bại của cách
mạng Việt Nam” và nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và
quản lý đội ngũ cán bộ.


- Tiếp tục thể chế hoá, cụ thể hoá đường lối, chủ trương của Đảng về
công tác cán bộ thành các văn bản pháp luật, các quy định, quy chế, hướng
dẫn để công tác cán bộ được thực hiện theo quy trình hợp lý, đồng bộ, thống
nhất, bảo đảm dân chủ, công bằng, công khai.


- Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo cán bộ với vai trò là
khâu then chốt quyết định chất lượng đội ngũ cán bộ.


- Vận dụng linh hoạt các hình thức tiến cử, tự tiến cử và thi tuyển một
số chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý. Tiến hành chế độ thực tập lãnh đạo để
tạo điều kiện cho cán bộ trẻ có cơ hội, điều kiện rèn luyện, phấn đấu. Làm tốt
công tác quy hoạch và luân chuyển cán bộ.


- Thực hiện phân cấp và nâng cao vai trò của người đứng đầu cơ quan,
tổ chức trong thực hiện công tác cán bộ; tăng cường trách nhiệm của cơ quan,
đơn vị làm công tác tổ chức cán bộ.


- Xây dựng và thực hiện Chiến lược quốc gia về phát hiện, đào tạo, bồi
dưỡng và bố trí, sử dụng nhân tài.


- Có chính sách đãi ngộ thoả đáng đối với đội ngũ cán bộ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(105)</span><div class='page_container' data-page=105>

<b>DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO</b>


1. Ban Hán Nôm (1978), Tuyển tập văn bia Hà Nội, tập 1, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.



2. <i>Các nhà khoa bảng Việt Nam (1993), Nxb Văn học, Hà Nội.</i>


3. Phan Huy Chú (1992), Lịch triều hiến chương loại chí, tập 1, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.


4. Phan Huy Chú (1992), Lịch triều hiến chương loại chí, tập 2, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.


5. Phan Huy Chú (1961), Lịch triều hiến chương loại chí, tập 3, Nxb Sử học,
Hà Nội.


6. Đỗ Minh Cương (2006), “Tuyển chọn và sử dụng quan lại ở nước ta thời
kỳ trung đại”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (9).


7. Phan Hữu Dật (chủ biên) (1994), Phương sách dùng người của ông cha ta
<i>trong lịch sử, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.</i>


8. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
<i>thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội.</i>


9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp
<i>hành Trung ương khố VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.</i>


10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc
<i>lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.</i>


11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2009), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban
<i>Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.</i>
12. Bùi Xuân Đính (2009), “Tuyển chọn và sử dụng quan chức: Cách làm của



ông cha ta”, Báo Tiền phong, (40).


13. Lê Q Đơn (1977), Tồn tập, tập 2, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
14. Lê Quý Đôn (1978), Toàn tập, tập 3, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.


</div>
<span class='text_page_counter'>(106)</span><div class='page_container' data-page=106>

16. Mai Xuân Hải (1992), "Bài văn khun chăm học của Lê Thánh Tơng",
<i>Tạp chí Hán Nơm, (2).</i>


17. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Lịch sử Đảng (2001),
<i>Giáo trình lịch sử Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.</i>


18. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Chính trị học (2006),
<i>Tập bài giảng Chính trị học, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.</i>


19. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Chính trị học (2005), <i>Đề</i>
<i>cương bài giảng Chính trị học (hệ cao học chuyên chính trị học),</i>
Hà Nội.


20. Lê Văn Hn (2008), “Ơng cha ta sử dụng hiền tài”, Tạp chí Xây dựng
<i>Đảng, (2+3).</i>


21. Nguyễn Văn Huyên (chủ biên) (2009), Con người chính trị Việt Nam
<i>-Truyền thống và hiện đại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. </i>


22. Nguyễn Văn Huyên - Nguyễn Hoài Văn - Nguyễn Văn Vĩnh (2009),
<i>Bước đầu tìm hiểu những giá trị của văn hố chính trị truyền thống</i>
<i>Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.</i>


23. Hồng Hưng (1989), “Bối Khê trạng ngun đình đối văn sách”, Tạp chí


<i>Hán Nơm, (1).</i>


24. Kiều Thu Hương (2006), Tư tưởng coi trọng pháp luật trong trị nước của
<i>Lê Thánh Tơng, Luận văn Thạc sĩ Khoa học Chính trị, Học viện</i>
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.


25. Nguyễn Tuấn Khanh (2008), “Đổi mới đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh
đạo, quản lý trong giai đoạn phát triển mới của đất nước”, Tạp chí
<i>Cộng sản, (791).</i>


26. Bùi Huy Khiên (2008), “Tuyển chọn quan lại dưới triều vua Lê Thánh
Tông và vua Minh Mệnh: Di sản kế thừa và tham khảo”, Tạp chí
<i>Quản lý nhà nước, (144).</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(107)</span><div class='page_container' data-page=107>

28. Phan Huy Lê (1962), Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, tập 2, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.


29. Hồ Chí Minh (2002), Tồn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Hồ Chí Minh (2002), Tồn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Đặng Kim Ngọc (1997), Chế độ đào tạo và tuyển dụng quan chức thời Lê


<i>Sơ (1428-1527), Luận án Phó Tiến sĩ Khoa học Lịch sử, Viện Sử</i>
học - Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Hà Nội.
32. Đỗ Văn Ninh (1987), “Bia nghè trường Giám”, Tạp chí Nghiên cứu lịch


<i>sử, (3).</i>


33. Đỗ Văn Ninh (1987), “Bia nghè trường Giám”, Tạp chí Nghiên cứu lịch
<i>sử, (4).</i>



34. Lương Ninh (chủ biên) (2005), Lịch sử Việt Nam giản yếu, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.


35. Trương Hữu Quýnh (1992), “Công cuộc cải tổ và xây dựng nhà nước
pháp quyền thời Lê Thánh Tơng”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, (6).
36. Trương Hữu Quýnh (1995), “Chế độ đào tạo và tuyển chọn quan chức ở


nước ta”, Tạp chí Tổ chức Nhà nước, (1).


37. Đặng Duy Thìn (2002), Tư tưởng chính trị độc lập dân tộc và chủ quyền
<i>quốc gia ở Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XV, Luận văn Cử nhân</i>
chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.


38. Nguyễn Văn Thịnh (1996), Bước đầu tìm hiểu văn chương khoa cử thời
<i>Lê Sơ (Phần phụ lục - PL3), Luận án Phó Tiến sĩ Khoa học Ngữ</i>
văn, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc
gia Hà Nội.


39. Nguyễn Văn Thịnh (1996), Bước đầu tìm hiểu văn chương khoa cử thời
<i>Lê Sơ (Phần phụ lục – PL4), Luận án Phó Tiến sĩ Khoa học Ngữ</i>
văn, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc
gia Hà Nội.


</div>
<span class='text_page_counter'>(108)</span><div class='page_container' data-page=108>

văn, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc
gia Hà Nội.


41. Nguyễn Tài Thư (1993), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 1, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.


42. Nguyễn Đăng Tiến (chủ biên) (1996), Lịch sử giáo dục Việt Nam trước


<i>Cách mạng Tháng 8-1945, Nxb Giáo dục, Hà Nội.</i>


43. Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia - Viện Sử học (1997),
<i>Lê triều quan chế, Nxb Văn hố – Thơng tin, Hà Nội.</i>


44. Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội
(1997) Lê Thánh Tông (1442-1497) – con người và sự nghiệp, Nxb
Đại học quốc gia, Hà Nội.


45. Phạm Hồng Tung (2008), Lược khảo về kinh nghiệm phát hiện, đào tạo
<i>và sử dụng nhân tài trong lịch sử Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia,</i>
Hà Nội.


46. Nguyễn Hồi Văn (2002), Tìm hiểu tư tưởng chính trị Nho giáo Việt Nam
<i>từ Lê Thánh Tông đến Minh Mệnh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.</i>
47. Nguyễn Hồi Văn (chủ biên) (2008), Sự phát triển của tư tưởng chính trị


<i>Việt Nam thế kỷ X-XV, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.</i>


48. Viện Khoa học xã hội Việt Nam (1998), Đại Việt sử ký toàn thư, tập 2,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.


49. Viện Sử học Việt Nam (1991), Quốc triều hình luật, Nxb Pháp lý, Hà Nội.
50. Hồ Đức Việt (2008), “Một số nhiệm vụ trước mắt của cơng tác cán bộ”,


<i>Tạp chí Xây dựng Đảng, (10). </i>


51. Nguyễn Văn Vĩnh (2000), “Tổng quan về lịch sử tư tưởng chính trị”, Tạp
<i>chí Thơng tin Chính trị học, (4).</i>



52. Nguyễn Văn Vĩnh (chủ biên) (2007), Aristotle và Hàn Phi Tử - Con người
<i>chính trị và thể chế chính trị, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.</i>


</div>

<!--links-->

×