Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Tiểu luận Lý luận chủ nghĩa MacLenin về Chủ Nghĩa Xã Hội .Liện hệ thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.39 KB, 30 trang )

LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁCLÊNIN VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI.
LIÊN HỆ THỰC TIỄN

MỤC LỤC
PHẦN 1: MỞ ĐẦU

4

1. Lý do chọn đề tài.

4

2. Mục tiêu nghiên cứu.

5

3. Phương pháp thực hiện.

5

PHẦN 2: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LÝ LUẨN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI

6

1. HÌNH THÁI KINH TẾ-XÃ HỘI CỘNG SẢN CHỦ NGHĨA

6

1.1 Xu thế tất yếu của sự ra đời hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa


1.2 Các giai đoạn phát triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa
1.3 Giai đoạn cao trào của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa

6
7
8

2. ĐIỀU KIỆN RA ĐỜI CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
2.1 Phân tích những điều kiện và tiền đề ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học.

10

2.2 Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.

15

1


3. ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

17

Những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa – Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa
học

16

CHƯƠNG 2: LIÊN HỆ QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI


17

1. Động lực của Cách mạng xã hội chủ nghĩa.

17

2. Đặc trưng CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng

18

PHẦN 3: KẾT LUẬN

29

Tài liệu tham khảo

31

PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Vấn đề con người luôn là chủ đề trung tâm của lịch sử triết học từ cổ đại đến hiện
đại. Từ khi Triết học Mác-Lênin ra đời đã giải quyết những nội dung liên quan đến con
người. Khẳng định con người có vị trí và vai trị rất quan trọng đối với thế giới, và trong
thực tế hiện nay thì con người là một lực lượng chủ đạo trong nền sản xuất xã hội. Trong
công cuộc đổi mới xã hội chỉ có con người - yếu tố quan trọng nhất trong lực lượng sản
xuất của xã hội, là nhân tố chính, là nguồn lực mang tính quyết định sự thành công hay
thất bại.
Đảng ta đã khẳng định, tư tưởng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cùng với Chủ
nghĩa Mác-Lê nin mãi mãi là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nan cho hành động của Đảng. Vì
vậy, thấm nhuần tư tưởng chủ nghĩa Mác-Lê nin về con người, trong Cương lĩnh xây

dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã khẳng định: “Con
người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và
bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước
và quyền làm chủ của nhân dân. Kết hợp và phát huy đầy đủ vai trị của xã hội, gia đình,
2


nhà trường, từng tập thể lao động, các đoàn thể và cộng đồng dân cư trong việc chăm lo
xây dựng con người Việt Nam giàu lịng u nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm cơng
dân; có tri thức, sức khoẻ, lao động giỏi; sống có văn hố, nghĩa tình; có tinh thần quốc tế
chân chính”
Các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng được nêu trong Dự thảo Cương
lĩnh (bổ sung, phát triển) là thành quả của công cuộc đổi mới, trước hết là thành quả của đổi
mới nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Marx-Lenin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong điều kiện hiện nay. Đó là thành
quả của sự kết hợp hài hòa giữa “cái phổ biến” và “cái đặc thù,” cái chung và cái riêng để tạo
nên một mơ hình: chủ nghĩa xã hội Việt Nam .
Công cuộc đổi mới đất nước đã và đang thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng đã thể hiện tính ưu việt
của chủ nghĩa xã hội Việt Nam.

2. Mục tiêu nghiên cứu.
- Nắm được tính tât yếu khách quan và nội dung sứ mệnh của giai cáp cộng nhân, vai trị
sứ mệnh của ĐCS trong q trình thực hiện sứ mệnh lịch sử và xu hướng tất yếu của sự
ra đời hình thái kinh tế - xã hội CSCN cùng với các giai đoạn phát triển của hình thái
KT-XH đó
- Hiểu và nhận thức được vai trị sứ mệnh của giai cấp công nhân và xu hướng phát triển
kinh tế - xã hội của Việt Nam
3. Phương pháp thực hiện:
Bài tiểu luận được thực hiện dựa trên phương pháp:

Nghiên cứu
Phân tích
So sánh
Chứng minh
Tổng hợp tài liệu
3


4


PHẦN 2: NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: LÝ LUẨN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI
1. HÌNH THÁI KINH TẾ-XÃ HỘI CỘNG SẢN CHỦ NGHĨA.
1.1 Xu thế tất yếu của sự ra đời hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa
+Sự phát triển của xã hội lồi người là một q trình lịch sử tự nhiên của sự thay thế các hình
thái kinh tế xã hội từ thấp đến cao. Lịch sử xã hội loài người trải qua các hình thái kinh tế xã
hội: cộng xã nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và tiến tới là cộng sản
chủ nghĩa.
+Lực lượng sản xuất của chủ nghĩa tư bản phát triển đến trình độ xã hội hóa càng cao thì càng
làm mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất với sự kìm hãm của quan hệ sản
xuất mang tính tính tư bản chủ nghĩa càng thêm sâu sắc.
+Tính mâu thuẫn gay gắt trong lĩnh vực kinh tế của chủ nghĩa tư bản biểu hiện trên lĩnh vực
chính trị- xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân , nhân dân lao động với giai cấp tư sản
ngày càng trở lên quyết liệt.Cuộc đấu tranh giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản xuất hiện
ngay từ khi chủ nghĩa tư bản hình thành.
+Mâu thuẫn đó chỉ có thể giải quyết bằng một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, thiết lập hình
thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa với quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa nhằm mở đường

cho lực lượng sản xuất phát triển.
+Sự phát triển của CNTB đã tạo ra những tiền đề vật chất: nền đại công nghiệp, giai cấp công
nhân hiện đại, sự phát triển các mâu thuẫn trong lòng xã hội tư bản: mâu thuẫn giữa giai cấp
công nhân và giai cấp tư sản; mâu thuẫn giữa LLSX xã hội hoá ngày càng cao với chế độ
chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về TLSX. Nhu cầu tất yếu của sự thay thế hình thái KTXH
TBCN bằng hình thái KTXH- cộng sản chủ nghĩa
+Về chính trị CNTB khủng hoảng trầm trọng, do phong trào đấu tranh của công nhân phát triển
mạnh, mâu thuẫn giai cấp. Về kinh tế : do cuộc khủng hoảng kinh tế làm cho các nhà tu bản bị
5


suy yếu. Mặc dù CNTB thực hiện nhiều biện pháp thích nghi nhưng mâu thuẫn cơ bản của nó
mâu thuẫn giữa tính chất tư nhân và tính chất xã hội của sản xuất vẫn chưa được giải quyết, mà
còn gay gắt thêm. Các tiền đề vật chất kinh tế chín mùi cho sự thay thế CNTB bằng xã hội
CSCN

1.2 Các giai đoạn phát triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa
-Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen. Hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa ra đời sau
thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa, trải qua hai giai đoạn cơ bản phát triển từ thấp đến
cao
+Giai đoạn thấp của xã hội cộng sản là giai đoạn mới được “thốt thai”, “lọt lịng” từ chủ nghĩa
tư bản, còn mang “dấu vết” của xã hội tư bản. Đây là thời kỳ quá độ về chính trị, là thời kỳ cải
biến cách mạng toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong giai đoạn này, chế
độ kinh tế và sự phát triển văn hóa mới đạt tới giới hạn đảm bảo cho xã hội thực hiện nguyên
tắc phân phối làm theo năng lực, hưởng theo lao động.
+Giai đoạn cao của xã hội cộng sản là giai đoạn chủ nghĩa cộng sản đã được xây dựng hoàn
toàn. Ở giai đoạn này con người khơng cịn lệ thuộc phiến diện và cứng nhắc vào phân công lao
động xã hội; lao động trong giai đoạn này không chỉ là phương tiện kiếm sống mà nó trở thành
nhu cầu của con người. Trình độ phát triển của xã hội cho phép thực hiện nguyên tắc phân phối
theo nhu cầu.

-Quan điểm của V.I.Lênin. V.I.Lênin đã phát triển và cụ thể hố quan điểm phân kỳ hình thái
kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa của C.Mác và Ph.Ăngghen. Ông gọi giai đoạn thấp là xã hội
xã hội chủ nghĩa (hay chủ nghĩa xã hội), giai đoạn cao là xã hội cộng sản chủ nghĩa (hay chủ
nghĩa cộng sản). Đặc biệt, ông phát triển lý luận về thời kỳ quá độ lâu dài từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội. Theo đó, hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chia làm ba giai đoạn cơ bản
+Những cơn đau đẻ kéo dài (thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội). V.I.Lênin một mặt thừa nhận
quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về thời kỳ quá độ theo nghĩa rộng- từ xã hội tư bản chủ
nghĩa lên xã hội cộng sản- quá độ trực tiếp từ những nước tư bản chủ nghĩa phát triển cao lên
xã hội cộng sản. Mặt khác từ thực tiễn lịch sử, V.I.Lênin còn nói đến hình thức q độ đặc biệt,
6


gián tiếp của các nước tư bản phát triển ở mức trung bình và quá độ bỏ qua giai đoạn phát triển
tư bản chủ nghĩa của nhiều nước vốn là nước nông nghiệp lạc hậu, các nước tiền tư bản lên chủ
nghĩa xã hội (quá độ đặc biệt của đặc biệt)
+Xã hội xã hội chủ nghĩa- giai đoạn đầu của hình thái kinh tế-xã hội cộng sản;
+Xã hội cộng sản chủ nghĩa- giai đoạn cao của hình thái kinh tế-xã hơi cộng sản.

1.3 Giai đoạn cao trào của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa
Trên cơ sở nghiên cứu quá trình phát triển lực lượng sản xuất của xã hội lồi người, C.Mác đã
có những dự báo về sự xuất hiện giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa
(giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản).
Về mặt kinh tế: Lực lượng sản xuất phát triển vô cùng mạnh mẽ của cải xã hội đã trở nên dồi
dào, ý thức con người được nâng lên, khoa học phát triển, lao động của con người được giảm
nhẹ, lúc đó nhân loại mới có thể thực hiện được nguyên tắc "làm theo năng lực, hưởng theo nhu
cầu".
Trong tác phẩm Phê phán cương lĩnh Gôta, C.Mác đã dự báo: "Khi mà lao động trở thành
không những là một phương tiện để sinh sống mà bản thân nó cịn là một nhu cầu bậc nhất của
đời sống; khi mà cùng với sự phát triển toàn diện của các cá nhân, sức sản xuất của họ cũng
ngày càng tăng lên và tất cả các nguồn của cải xã hội đều tuôn ra dồi dào – chỉ khi đó người ta

mới có thể vượt hẳn ra khỏi giới hạn chật hẹp của pháp quyền tư sản và xã hội mới có thể ghi
trên lá cờ của mình: làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu".
Về mặt xã hội: Trình độ xã hội ngày càng phát triển, con người có điều kiện phát triển năng lực
của mình, tri thức con người được nâng cao, khơng cịn có sự khác biệt giữa thành thị và nông
thôn. Theo V.I.Lênin. "khi bọn tư bản đã tiêu tan đi rồi và khơng cịn có giai cấp nữa (nghĩa là
giữa các thanh viên trong xã hội khơng cịn có sự phân biệt nào nữa về những quan hệ của họ
đối với những tư liệu sản xuất xã hội), chỉ lúc đó "nhà nước mới khơng cịn nữa và mới có thế
nói đến tự do". Chỉ lúc đó, một nền dân chủ thực sự hồn bị, thực sự khơng hạn chế, mới có thể
7


có được và được thực hiện. Chỉ lúc đó, chế độ dân chủ mới bắt đầu tiêu vong vì lý do đơn giản
là một khi thốt khỏi chế độ nơ lệ tư bản chủ nghĩa, thoát khỏi những sự khủng khiếp, những sự
dã man... thì người ta sẽ dần dần quen với việc tôn trọng các quy tắc sơ thiểu của đời sống
chung trong xã hội".
Đến giai đoạn cao của xã hội cộng sản chủ nghĩa, nhà nước trở thành khơng cần thiết, nó tự
tiêu vong. Sự tiêu vong của nhà nước là một quá trình. Theo V.I.Lênin: "Chúng ta chỉ có quyền
nói rằng nhà nước tất nhiên sẽ tiêu vong, đồng thời nhấn mạnh vào tính chất lâu dài của quá
trình ấy, sự phụ thuộc của quá trình ấy vào tốc độ phát triển của giai đoạn cao của chủ nghĩa
cộng sản": rằng "không một người xã hội chủ nghĩa nào lại đi "hứa" rằng giai đoạn cao của chủ
nghĩa cộng sản sẽ đến"' mà chỉ "dự kiến giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản sẽ đến, thì việc
đó giá định rằng năng suất lao động lúc đó sẽ khác năng suất lao động ngày nay và sẽ khơng
cịn con người tầm thường ngày nay nữa". Tới khi đó khơng cịn tình trạng con người suy bì
"khéo khơng lại làm nhiều hơn anh bạn bên cạnh ta nửa giờ, khéo khơng lại lĩnh lương ít hơn
anh ta".
Như vậy, tới giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, con người sẽ được
giải phóng hồn tồn và được phát triển một cách thực sự tồn diện. Khi đó, nhân loại có thể
chuyển từ "vương quốc của tất yếu sang vương quốc của tự do", có điều kiện phát triển tồn
diện năng lực, mang hết tài năng và trí tuệ cống hiến cho xã hội.
Để có giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản, địi hỏi giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động

phải nỗ lực phấn đâu, phải không ngừng nâng cao năng suật lao động, phát triển lực lượng sản
xuất, cải tạo quan hệ sản xuất lao động, phát triển xã hội, không ngừng nâng cao ý thức của con
người, phải kiểm soát nghiêm ngặt mức độ lao động và tiêu dùng. Có thực hiện như vậy mới
từng bước xây dựng được kỷ luật tự giác trong xã hội, từng bước xây dựng đuợc thói quen tự
nguyện tuân thủ những quy định trong dân cư.
Qua phân tích của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã
hội cộng sản chủ nghĩa đã cho thấy:

8


Một là, chỉ có thể đạt tới giai đoạn cao của xã hội cộng sản chủ nghĩa khi trong thực tế khách
quan của sự phát triển xã hội đã có được những điều kiện, tiền đề phù hợp. Mọi ý muôn chủ
quan muốn thực hiện ngay những nguyên tắc của giai đoạn cao trong sự phát triển của hình thái
kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa khi chưa có những điều kiện phát triển kinh tế - xã hội
tương ứng thì nhất định sẽ mắc phải sai lầm chủ quan duy ý chí và nhất định sẽ thất bại.
Hai là, sự xuất hiện giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa là một q
trình lâu dài, bằng việc khơng ngừng phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, tổ chức xã hội về
mọi mặt, giáo dục nâng cao tinh thần tự giác của con người. Nếu khơng có q trình này cũng
khơng thể xuất hiện được giai đoạn đó.
Ba là, q trình xuất hiện giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa ở các
nước khác nhau diễn ra với những quá trình khác nhau, tùy thuộc vào sự nỗ lực phấn đấu về
mọi phương diện. Khi chưa xuất hiện giai đoạn cao thì "trong một thời gian nhất định, dưới chế
độ cộng sản, không những vẫn còn pháp quyền tư sản, mà vẫn còn cả nhà nước kiểu tư sản
nhưng khơng có giai cấp tư sản!". Khi chưa đạt đến giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội
cộng sản chủ nghĩa, trong điều kiện vẫn còn chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc trên thế giới
thì những vấn đề lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước, về dân chủ vẫn cịn ngun
giá trị. Tính chất giai cấp của nhà nước, của dân chủ vẫn tồn tại.

2. Điều kiện ra đời của chủ nghĩa xã hội

2.1 Phân tích những điều kiện và tiên đề của chủ nghĩa xã hội khoa học
*Điều kiên kinh tế xã hội:
Vào những năm 40 thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản ở châu Âu đã đạt được những bước phát triển
rất quan trọng trong kinh tế. Cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật lần thứ nhất đã thúc đẩy
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ. Chính sự phát triển đó làm cho
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa bộc lộ mâu thuẫn giữa sự phát triển của lực lượng sản
xuất có tính chất xã hội hóa ngày càng cao với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư
9


nhân tư bản chủ nghĩa. Chính vì vậy mà chủ nghĩa tư bản tạo ra những khả năng hiện thực cho
những nhà dân chủ cách mạng tiến bộ nhận thức đúng đắn bản chất của chủ nghĩa tư bản, để đề
ra lý luận khoa học và cách mạng.
Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân hiện đại trưởng thành bước lên
vũ đài đấu tranh chống giai cấp tư sản với tư cách là một lực lượng xã hội độc lập. Giai cấp
công nhân là lực lượng xã hội có khả năng giải quyết những mâu thuẫn mà chủ nghĩa tư bản đã
tạo ra.
Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển mạnh mẽ, đã bắt đầu có tổ chức và trên
quy mơ rộng khắp. Nó địi hỏi có một lý luận khoa học hướng dẫn. Tiêu biểu cho các phong
trào công nhân lúc đó là: cuộc khởi nghĩa cơng nhân thành phố Liông (Pháp) 1831 – 1834;
cuộc khởi nghĩa công nhân dệt Xêlidi (Đức) 1844; phong trào Hiến chương (Anh) 1838 – 1848.
Những phong trào đó có tính quần chúng và mang hình thức chính trị. Sự lớn mạnh của phong
trào cơng nhân đặt ra yêu cầu bức thiết phải xây dựng một hệ thống lý luận khoa học và cách
mạng.
Đó là những điều kiện kinh tế - xã hội khách quan cho chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời để thay
thế các trào lưu xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa đã tỏ ra lỗi thời, khơng cịn có khả
năng đáp ứng phong trào cơng nhân trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản, đồng thời chủ
nghĩa xã hội khoa học ra đời phản ánh bằng lý luận phong trào cơng nhân.
- Những tiền đề văn hóa – tư tưởng (tiền đề lý luận)
Đến đầu thế kỷ XIX, nhân loại đã đạt nhiều thành tựu to lớn trong lĩnh vực khoa học, văn hóa

và tư tưởng. Về khoa học tự nhiên có: thuyết tế bào của M. Sơlayđen và T. Savanxơ (Đức);
thuyết tiến hóa của Đ. Đácuyn (Anh); thuyết bảo tồn và chuyển hóa năng lượng của M.
Lơmơnơxốp (Nga). Về khoa học xã hội có: triết học cổ điển Đức (Ph. Hêghen, L. Phơbách,…),
kinh tế chính trị học Anh (Ađam Smít, Đ. Ricácđơ,…), chủ nghĩa xã hội khơng tưởng – phê
phán (H. Xanhximơng, S. Phuriê, R.Ơoen,…). Những thành tựu của khoa học, văn hóa, tư
tưởng đã tạo ra những tiền đề tư tưởng – văn hóa cho sự ra đời chủ nghĩa Mác nói chung và chủ
nghĩa xã hội khoa học nói riêng.
10


*Ý nghĩa phương pháp luận
Trong nghiên cứu khoa học, phương pháp luận là một phần vô cùng quan trọng. Bởi bản chất
của nghiên cứu khoa học là việc luôn sáng tạo và khơng có giới hạn trong sự phát triển. Việc
hoàn thiện phương pháp luận nghiên cứu khoa học sẽ là cơ sở, tiền đề giúp nhà khoa học, nhà
chuyên mơn trong các lĩnh vực tìm ra cách tiếp cận mới, tìm ra các phương pháp nghiên cứu
mới từ đó xác định hướng đi trong tiến trình nghiên cứu một cơng trình, một đề tài nghiên cứu
khoa học. Mang đến những tri thức có giá trị đối với lý luận và thực tiễn giúp nâng cao nhận
thức thế giới và cải tạo thế giới.
Phương pháp luận nghiên cứu khoa học là công cụ giúp nhà khoa học, nhà quản lý và thực
hành sáng tạo khoa học làm sáng tỏ bản chất và hoạt động nghiên cứu khoa học bởi nó chính là
là kết quả của q trình khái qt lý thuyết và thực tiễn nghiên cứu khoa học. Không những
thế, phương pháp luận cịn có nghĩa đối với các nhà nghiên cứu bởi nó thể hiện cơ chế tư duy
sáng tạo trong nhận thức cũng như các kỹ năng thực hành sáng tạo của họ
2) Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, lực lượng sản xuất là yếu tố động nhất, luôn luôn
vận động và phát triển. Trong lực lượng sản xuất ở bất kỳ xã hội nào, người lao động cũng là
yếu tố quan trọng nhất.
a) Địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân trong xã hội tư bản chủ nghĩa
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, lực lượng sản xuất là yếu tố động nhất, luôn luôn
vận động và phát triển. Trong lực lượng sản xuất ở bất kỳ xã hội nào, người lao động cũng là

yếu tố quan trọng nhất. Trong chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, với nền sản xuất đại cơng
nghiệp ngày càng phát triển, thì "Lực lượng sản xuất hàng đầu của tồn nhân loại là cơng nhân,
là người lao động".
Trong nền sản xuất đại công nghiệp, giai cấp công nhân vừa là chủ thể trực tiếp nhất, vừa là sản
phẩm căn bản nhất của nền sản xuất đó. Khi sản xuất đại công nghiệp ngày càng mở rộng, ngày
càng phát triển thì "Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của
11


đại cơng nghiệp, cịn giai cấp vơ sản lại là sản phẩm của bản thân nên đại công nghiệp", giai
cấp vô sản "được tuyển mộ trong tất cả các giai cấp của dân cư".
Với nền sản xuất tư bản chủ nghĩa "... giai cấp cơng nhân hiện đại... chỉ có thể sống với điều
kiện là kiếm được việc làm, và chỉ kiếm được việc làm, nếu lao động của họ làm tăng thêm tư
bản". Từ điều kiện làm việc như vậy đã buộc giai cấp công nhân phải không ngừng học tập
vươn lên sao cho đáp ứng được yêu cầu của nền sản xuất ngày càng hiện đại. Ngày nay, trong
các nuớc tư bản phát triển, tỷ lệ sản xuất tự động hóa ngày càng gia tăng với "văn minh tin
học", "kinh tế tri thức", do vậy đội ngũ công nhân được "tri thức hóa" cũng ngày càng gia tăng.
Trong chế độ tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân hồn lồn khơng có hoặc có rất ít tư liệu sản
xuất, là người lao động làm thuê, "vì thế họ phải chịu hết sự may rủi của cạnh mình, mọi sự lên
xuống của thị trường với mức độ khác nhau". Như vậy, trong chế độ tư bản chủ nghĩa, giai cấp
cơng nhân có lợi ích cơ bản đối lập trực tiếp với lợi ích của giai cấp tư sản. Giai cấp tư sản
muốn duy trì chế độ tư hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, duy trì chế độ áp bức
bóc lột đối với giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động. Ngược lại, lợi ích cơ bản
của giai cấp cơng nhân là xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, giành lấy
chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động, dùng chính quyền đó để tổ chức
xây dựng xã hội mới, tiến tới một xã hội khơng cịn tình trạng áp bức bóc lột.
Giai cấp cơng nhân lao động trong nền sản xuất đại cơng nghiệp, có quy mơ sản xuất ngày càng
lớn, sự phụ thuộc lẫn nhau trong quá trình sản xuất ngày càng nhiều, họ lại thường sống ở
những thành phố lớn, những khu công nghiệp tập trung. Điều kiện làm việc, điều kiện sống của
giai cấp công nhân đã tạo điều kiện cho họ có thể đồn kết chặt chẽ với nhau trong cuộc đấu

tranh chống chủ nghĩa tư bản. Khả năng này giai cấp nông dân, thợ thủ cơng khơng thể có
được.
Giai cấp cơng nhân có những lợi ích cơ bản thống nhất với lợi ích của đại đa số quần chúng
nhân dân lao động, do vậy tạo ra khả năng cho giai cấp này có thể đoàn kết với các giai cấp,
tầng lớp lao động khác trong cuộc đấu tranh chống lại giai câp tư sản để giải phóng mình và
giải phóng tồn xã hội.

12


b) Những đặc điểm chính trị - xã hội của giai cấp công nhân
Địa vị kinh tế - xã hội đã tạo cho giai cấp cơng nhân có những đặc điểm chính trị - xã hội mà
những giai cấp khác khơng thể có được, đó là những đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, giai cấp công nhân là giai cấp tiên phong cách mạng.
Giai cấp công nhân là giai cấp tiên phong cách mạng vì họ đại biểu cho phương thức sản xuất
tiên tiến, gắn liền với những thành tựu khoa học và cơng nghệ hiện đại. Đó là giai cấp đuợc
trang bị bởi một lý luận khoa học , cách mạng và luôn luôn đi đầu trong mọi phong trào cách
mạng theo mục tiêu xóa bỏ xã hội cũ lạc hậu, xây dựng xã hội mới tiến bộ, nhờ đó có thể tập
hợp được đơng đảo các giai cấp, tầng lớp khác vào phong trào cách mạng.
Thứ hai, giai cấp cơng nhân là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để nhất thời đại ngày nay.
Trong cuộc cách mạng tư sản, giai cấp tư sản chỉ có tinh thần cách mạng trong thời kỳ đấu
tranh chống chế độ phong kiến, còn khi giai cấp này đã giành được chính quyền thì họ quay trở
lại bóc lột giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, những giai cấp đã từng kề vai sát cánh với
giai cấp này trong cuộc cách mạng dân chủ tư sản. Khác với giai cấp tư sản, giai cấp công nhân
bị giai cấp tư sản bóc lột, có lợi ích cơ bản đối lập trực tiếp với lợi ích của giai cấp tư sản. Điều
kiện sống, điều kiện lao động trong chế độ tư bản chủ nghĩa đã chỉ cho họ thấy: họ chỉ có thể
được giải phóng bằng giải phóng tồn xã hội khỏi chế độ tư bản chủ nghĩa.
Trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: "Trong tất cả các giai
cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vơ sản là giai cấp thật sự cách
mạng...

Các tầng lớp trung đẳng là những tiểu công nghiệp, tiểu thương, thợ thủ công và nông dân, tất
cả đều đấu tranh chống giai cấp tư sản để cứu lấy sự sống còn của họ với tính cách là những
tầng lớp trung đẳng. Cho nên họ không cách mạng mà bảo thủ".
Thứ ba, giai cấp cơng nhân là giai cấp có ý thức tổ chức kỷ luật cao.

13


Giai cấp công nhân lao động trong nền sản xuất đại cơng nghiệp với hệ thống sản xuất mang
tính chất dây chuyền và nhịp độ làm việc khẩn trương buộc giai cấp này phải tuân thủ nghiêm
ngặt kỷ luật lao động; cùng với cuộc sống đô thị tập trung đã tạo nên tính tổ chức, kỷ luật chặt
chẽ cho giai cấp cơng nhân.
Tính tổ chức và kỷ luật cao của giai cấp này được tăng cường khi nó phát triển thành một lực
lượng chính trị lớn mạnh, có tổ chức: được sự giác ngộ bởi một lý luận khoa học, cách mạng và
tổ chức ra được chính đảng có nó - đảng cộng sản. Giai cấp cơng nhân khơng có ý thức tổ chức
kỷ luật cao thì khơng thể giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản và
xây dựng chế độ xã hội mới.
Thứ tư, giai cấp cơng nhân có bản chất quốc tế.
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, giai cấp tư sản là một lực lượng quốc tế. Giai cấp tư sản
không chỉ bóc lột giai cấp cơng nhân ở chính nước họ mà cịn bóc lột giai cấp cơng nhân ở các
nước thuộc địa. Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽcủa lực lượng sản xuất, sản xuất mang
tính tồn cầu hóa. Tư bản của nước này có thể đầu tư sang nước khác là một xu hướng khách
quan. Nhiều sản phẩm không phải do một nước sản xuất ra mà là kết quả lao động của nhiều
quốc gia. Vì thế, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân không chỉ diễn ra đơn lẻ ở từng
doanh nghiệp, ở mỗi quốc gia mà ngày càng phải có sự gắn bó giữa phong trào cơng nhân các
nước, có như vậy, phong trào cơng nhân mới có thể giành được thắng lợi. V.I.Lẽnin chỉ rõ: "...
khơng có sự ủng hộ của cách mạng quốc tế của thế giới thì thắng lợi của cách mạng vơ sản là
khơng thể có được", "Tư bản là một lực lượng quốc tế. Muốn thắng nó, cần phải có sự liên
minh quốc tế".


2.2 Phân tích những điều kiện giai cấp cơng nhân Việt Nam làm trịn sứ mệnh lịch
sử của mình đối với cách mạng Việt Nam
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam với chính sách khai thác thuộc địa của chủ
nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam, giai cấp công nhân Việt Nam đã ra đời từ đầu thế kỷ này,
trước cả sự ra đời của giai cấp tư sản Việt Nam và là giai cấp trực tiếp đối kháng với tư bản
14


thực dân Pháp. Sinh ra và lớn lên ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, dưới sự thống trị của
đế quốc Pháp, một thứ chủ nghĩa tư bản thực lợi không quan tâm máy đến phát triển công
nghiệp ở nước thuộc địa, nên giai cấp công nhân Việt Nam phát triển chậm. Mặc dù số lượng ít,
trình độ nghề nghiệp thấp, còn mang nhiều tàn dư của tâm lý và tập quán nông dân, song giai
cấp công nhân Việt Nam đã nhanh chóng vươn lên đảm đương vai trị lãnh đạo cách mạng ở
nước ta do những điều kiện sau đây:
- Giai cấp công nhân Việt Nam sinh ra trong lịng một dân tộc có truyền thống đấu tranh bất
khuất chống ngoại xâm. ở giai cấp công nhân, nỗi nhục mất nước cọng với nỗi khổ vì ách áp
bức bóc lột của giai cấp tư sản đế quốc làm cho lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc kết hợp làm
một, khiến động cơ cách mạng, nghị lực cách mạng và tính triệt để cách mạng của giai cấp
công nhân được nhân lên gấp bội.
- Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời và từng bước trưởng thành trong khơng khí sơi nổi của
một loạt phong trào u nước và các cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp liên tục nổ ra từ khi
chủ nghĩa đế quốc Pháp đặt chân lên đất nước ta: phong trào Cần Vương và cuộc khởi nghĩa
của Phan Đình Phùng, của Hồng Hoa Thám, các cuộc vận động yêu nước của Phan Bội Châu,
Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học, v.v đã có tác dụng to lớn đối với việc cổ vũ tinh thần yêu
nước, ý chí bất khuất và quyết tâm đập tan xiềng xích nơ lệ của tồn thể nhân dân ta. Nhưng tất
cả các phong trào ấy đều thất bại và sự nghiệp giải phóng dân tộc đều lâm vào tình trạng bế tắc
về đường lối.
- Vào lúc đó, phong trào cộng sản và công nhân thế giới phát triển, cuộc cách mạng Tháng
Mười Nga bùng nổ thắng lợi và ảnh hưởng đến phong trào dân tộc dân chủ ở nước khác, nhất là
ở Trung Quốc, trong đó có phong trào cách mạng ở nước ta. Chính vào lúc đó, nhà yêu nước

Nguyễn ái Quốc trên hành trình tìm đường cứu nước đã đến với chủ nghĩa Mác-Lênin và tìm
thấy ở chủ nghĩa Mác-Lênin bí quyết thần kỳ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc ta. Từ đó,
Người đã đề ra con đường duy nhất đúng đắn cho cách mạng Việt Nam - con đường cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân và chuyển cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân lên cách mạng xã hội
chủ nghĩa.

15


Tấm gương cách mạng Nga và phong trào cách mạng ở nhiều nước khác đã cổ vũ giai cấp công
nhân non trẻ Việt Nam đứng lên nhận lấy sứ mệnh lãnh đạo cách mạng nước ta và đồng thời
cũng là chất xúc tác khích lệ nhân dân ta lựa chọn, tiếp nhận con đường cách mạng của chủ
nghĩa Mác-Lênin và đi theo con đường cách mạng của giai cấp công nhân. Từ đó giai cấp cơng
nhân Việt Nam là giai cấp duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
- Giai cấp công nhân Việt Nam, mà tuyệt đại bộ phận là xuất thân từ nông dân lao động và
những tầng lớp lao động khác, nên có mối liên hệ tự nhiên với đông đảo nhân dân lao động.

3. ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa – Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa
học
Xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội có những đặc trưng cơ bản sau đây:
- Thứ nhất, về cơ sở vật chất, kỹ thuật của xã hội.
Cơ sở vật chất của xã hội xã hội chủ nghĩa là nền đại công nghiệp có trình độ phát triển cao;
được xây dựng trên cơ sở kế thừa và phát triển cơ sở vật chất do sự phát triển của chủ nghĩa tư
bản đã tạo ra.
- Thứ hai, về chế độ kinh tế của xã hội.
Chế độ kinh tế của xã hội xã hội chủ nghĩa là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất đã chiếm địa
vị thông trị vững chắc trong nền kinh tế quốc dân. Đồng thời, cũng đã tạo ra được phương thức
tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới theo tinh thần xã hội chủ nghĩa với một chế độ phân
phối theo lao động.

- Thứ ba, về chế độ dân chủ của xã hội.
Xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội có nền dân chủ thực sự, dân chủ "gấp triệu lần dân chủ tư
sản"; nền dân chủ đó mang bản chất của giai cấp cơng nhân và có tính chất nhân dân rộng rãi
nhất, có tính dân tộc sâu sắc nhất chưa từng có trong lịch sử.
- Thứ tư, về đời sống văn hoá, xã hội của dân cư.
16


Xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội đã thực hiện được sự giải phóng con người khỏi ách nơ
dịch, bị áp bức, bị bóc lột; tạo ra được những điều kiện về mọi mặt để mọi người đều có cơ hội
phát triển bình đẳng.

CHƯƠNG 2: LIÊN HỆ QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1 Động lực của Cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Động lực chủ yếu của cách mạng XHCN là các giai cấp và tầng lớp mà lợi ích của họ gắn bó
với cách mạng XHCN. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C. Mác và Ph. Ăng ghen chỉ rõ:
“Tất cả những phong trào lịch sử, từ trước đến nay, đều là do thiểu số thực hiện, hoặc là mưu
lợi ích cho thiểu số. Phong trào vô sản là phong trào độc lập của khối đại đa số, mưu lợi ích cho
khối đại đa số”(2). Cách mạng XHCN với mục đích giải phóng giai cấp cơng nhân và nhân dân
lao động khỏi tình trạng áp bức bóc lột, thu hút được sự tham gia của giai cấp công nhân và các
tầng lớp nhân dân lao động khác dưới sự lãnh đạo của giai cấp cơng nhân thơng qua Đảng
Cộng sản. Vì vậy, động lực của cách mạng XHCN là tổng hợp sức mạnh của các giai cấp, các
tầng lớp, các lực lượng xã hội, trong đó động lực chủ yếu là khối liên minh giữa giai cấp công
nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tuy nhiên, vai trò của
mỗi giai cấp và tầng lớp trong cách mạng XHCN có sự khác nhau.
-Về giai cấp cơng nhân:
Công nhân vừa là giai cấp lãnh đạo, vừa là động lực chủ yếu trong cách mạng XHCN. Công
nhân là sản phẩm của nền sản xuất đại công nghiệp đã phát triển cả về lượng và chất, là lực
lượng lao động chủ yếu tạo nên sự giàu có trong xã hội hiện đại, là lực lượng xã hội đi đầu
trong cuộc đấu tranh xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa và cải tạo, xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Song, C. Mác chỉ ra rằng: Cách mạng vô sản phải là một bài đồng ca của hai giai cấp công
nhân và nơng dân, mà nếu khơng có được bài đồng ca này thì trong tất cả các quốc gia nơng
dân, bài đơn ca của giai cấp công nhân sẽ trở thành một bài ai điếu.
-Về giai cấp nông dân:
Nông dân là lực lượng đông đảo, giai cấp công nhân chỉ có thể giành được chính quyền và
hồn thành sứ mệnh lịch sử của mình khi lơi kéo được giai cấp nơng dân theo mình. Xét về
kinh tế, nơng dân là lực lượng quan trọng trong xã hội. Xét về chính trị - xã hội, nông dân là
lực lượng cơ bản tham gia bảo vệ chính quyền, nhà nước XHCN. Giai cấp nơng dân có nhiều
lợi ích cơ bản thống nhất với lợi ích của giai cấp cơng nhân, là một động lực to lớn trong cách
mạng XHCN, nhưng không thể là lực lượng lãnh đạo cách mạng XHCN.
-Về tầng lớp tri thức:
Trí thức là những người có vị trí rất quan trọng trong cách mạng XHCN. V.I. Lênin đã khẳng
định, khơng có tri thức khơng thể có chủ nghĩa xã hội. Trí thức là những người có đóng góp to
lớn trong chăm sóc sức khoẻ nhân dân, phát triển dân trí, đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước,
tham gia xây dựng đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và tổ chức nhân
17


dân thực hiện đường lối, chính sách đó. Trong thời đại khoa học công nghệ, giá trị lao động
chất xám ngày càng cao, thì vai trị động lực phát triển xã hội của trí thức lại càng to lớn hơn.

2. Đặc trưng CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng
Chủ nghĩa xã hội (CNXH) theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin là giai đoạn đầu của hình
thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. CNXH tiến bộ, ưu việt hơn tất cả các xã hội trước đó
về các đặc trưng chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội nhằm giải phóng con người khỏi mọi tình
trạng áp bức, bóc lột, bất cơng. Để xây dựng CNXH, những người cộng sản phải hình dung,
phác thảo ra được những đường nét cơ bản nhất của mơ hình CNXH (mà chúng ta gọi đó là
những “đặc trưng”). Nếu khơng phác thảo được mơ hình, những đường nét cơ bản thì rất khó
định hướng để xây dựng CNXH và biến nó trở thành hiện thực. Hơn nữa, những đặc trưng thể
hiện mơ hình đó phải phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử xã hội loài người, phản ánh

được nét đặc sắc của truyền thống dân tộc và xu thế phát triển của thời đại. Đây là đòi hỏi tất
yếu nhưng rất khó khăn đối với các Đảng Cộng sản trong quá trình lãnh đạo xây dựng CNXH.
Mặc dù khi dự báo về những đặc trưng của xã hội XHCN, những nhà sáng lập chủ nghĩa Mác Lênin khơng coi đó là mơ hình bất biến, song, các ông đã hình dung và phác thảo về CNXH một chế độ xã hội ưu việt và tiến bộ hơn với các chế độ xã hội trước đó thể hiện trên một số nét
cơ bản như sau:
(1) Mục tiêu cao nhất của CNXH là giải phóng con người khỏi mọi ách bóc lột về kinh tế và nơ
dịch về tinh thần, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện;
(2) Cơ sở vật chất của CNXH được tạo ra bởi một lực lượng sản suất tiên tiến, hiện đại;
(3) CNXH là từng bước xoá bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất;
(4) CNXH tạo ra cách tổ chức lao động và kỷ luật lao dộng mới với năng suất cao;
(5) CNXH thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động;
(6) Nhà nước trong CNXH là nhà nước dân chủ kiểu mới, thể hiện bản chất giai cấp công nhân,
đại biểu cho lợi ích, quyền lực và ý chí của nhân dân lao động;
(7) Trong xã hội xã hội chủ nghĩa (XHCN), các quan hệ giai cấp - dân tộc - quốc tế được giải
quyết phù hợp, kết hợp lợi ích giai cấp - dân tộc với chủ nghĩa quốc tế trong sáng;
18


Ở nước ta, từ năm 1930 đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, độc lập dân
tộc luôn gắn liền với CNXH. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện CNXH và
CNXH là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc.
Trên cơ sở nhận thức về thời đại, nhận thức về dân tộc và sức mạnh dân tộc, từ thực tiễn của
công cuộc đổi mới đất nước dựa trên nền tảng của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam của Đảng ta ngày càng rõ
hơn. Trong quá trình đổi mới nhận thức về CNXH và xây dựng CNXH, Đảng ta đã nhận thấy
việc xác định đúng mơ hình CNXH là yếu tố có ý nghĩa quyết định đến sự thành công của công
cuộc xây dựng CNXH ở nước ta. Bởi đó là cơ sở, là định hướng để Đảng và Nhà nước hoạch
định đường lối, chủ trương, chính sách và pháp luật nhằm hiện thực hóa mục tiêu CNXH ở
nước ta.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) của

Đảng, mơ hình CNXH mà nhân dân ta xây dựng đã được phác họa với sáu đặc trưng. Đại hội
lần thứ X (2006) của Đảng đã bổ sung, phát triển, làm cho mơ hình CNXH Việt Nam toàn diện
hơn, gồm tám đặc trưng. Trong Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển 2011) Đảng ta tiếp
tục xác định tám đặc trưng trên cơ sở kết hợp, bổ sung, phát triển những đặc trưng của CNXH
trong hai Văn kiện nêu trên.
Các đặc trưng của CNXH mà nhân dân ta xây dựng được nêu trong Dự thảo Cương lĩnh (bổ
sung, phát triển) là thành quả của công cuộc đổi mới, trước hết là thành quả của đổi mới nhận
thức lý luận về CNXH, trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong điều kiện hiện nay. Đó cũng là thành quả của sự
kết hợp hài hòa giữa “cái phổ biến” và “cái đặc thù”, cái chung và cái riêng để tạo nên một mơ
hình: CNXH Việt Nam.
Công cuộc đổi mới đất nước đã và đang thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Những đặc trưng của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng đã thể thể hiện tính ưu việt của
CNXH Việt Nam.
- Đặc trưng thứ nhất: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
Đây là đặc trưng tổng quát nhất chi phối các đặc trưng khác, bởi nó thể hiện mục tiêu của
CNXH ở Việt Nam. Ở nước ta, tính ưu việt của CNXH phải được biểu hiện cụ thể thiết thực,
trên cơ sở kế thừa quan điểm Mác - Lênin về mục tiêu của CNXH, đồng thời vận dụng sáng tạo
19


quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu, nước mạnh...,
là công bằng, hợp lý, mọi người đều được hưởng quyền tự do, dân chủ được sống cuộc đời
hạnh phúc...
Tính ưu việt của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng phải hướng tới việc hiện thực hóa đầy
đủ, đồng bộ hệ mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Tư tưởng xuyên
suốt của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Đối với dân tộc Việt
Nam, chỉ có CNXH mới bảo đảm cho dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh thật
sự. Đây là khát vọng tha thiết của toàn thể nhân dân Việt Nam sau khi đất nước giành được độc
lập và thống nhất Tổ quốc.

Nói đến tính ưu việt của đặc trưng này, không thể không so sánh về mặt bản chất của xã hội
XHCN mà nhân dân ta đang xây dựng với các xã hội đã từng tồn tại trước đây ở Việt Nam nói
riêng và với chủ nghĩa tư bản nói chung. Trước năm 1945, ở Việt Nam chưa hề có và chưa thể
có các giá trị dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đó là một thực tế hiển
nhiên mà mỗi người đều nhận biết. Trong Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển), Đảng ta
đã có đánh giá đúng đắn, khách quan về CNTB: “Hiện tại, chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng
phát triển, nhưng về bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công”.
Nhân dân ta đã từng chứng kiến bản chất áp bức, bóc lột, bất cơng, tàn bạo của chủ nghĩa tư
bản trong thời gian dài bị chủ nghĩa thực dân, đế quốc xâm lăng, đơ hộ. CNXH phải xóa bỏ
nghèo nàn, lạc hậu, khuyến khích mọi người dân làm giàu chính đáng để tất cả cùng giàu có.
Đó cũng là tiền đề để đất nước giàu mạnh thật sự trên các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội và an ninh, quốc phòng. CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng là q trình dân chủ hóa,
phát huy mọi quyền dân chủ của nhân dân, đồng thời hướng tới những giá trị công bằng cho
mọi tầng lớp, mọi người dân, xây dựng xã hội Việt Nam thành một xã hội văn minh, hiện đại.
Tính ưu việt của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện ở bản chất ưu việt của các giá
trị, thể hiện trong mục tiêu cần đạt tới là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn
minh thật sự.
Chúng ta đang xây dựng CNXH là đang từng bước hiện thực hoá tính ưu việt của đặc trưng thứ
20


nhất vừa nêu.
- Đặc trưng thứ hai: do nhân dân làm chủ
Tính ưu việt của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện ở bản chất ưu việt về chính trị
của chế độ dân chủ XHCN trên cơ sở kế thừa giá trị quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin: sự
nghiệp cách mạng là của quần chúng; kế thừa những giá trị trong tư tưởng truyền thống của
dân tộc Việt Nam, tư tưởng dân là gốc. Đặc biệt, đã thể hiện quan điểm về dân chủ của Chủ
tịch Hồ Chí Minh: dân chủ tức dân là chủ, dân làm chủ.
Tính ưu việt của CNXH trong đặc trưng vừa nêu còn được thể hiện trong nhận thức của Đảng
ta về việc từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN gắn liền với việc bảo đảm tất cả quyền lực

Nhà nước thuộc về nhân dân (nhân dân là chủ thể của mọi quyền lực).
Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung vả phát triển) đã tiếp tục khẳng định: “Dân chủ XHCN là bản
chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và
từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân
dân. Dân chủ phải được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mọi cấp, trên tất cả các lĩnh vực
thông qua hoạt động của Nhà nước do nhân dân bầu ra và các hình thức dân chủ trực tiếp...”.
Nhân dân (bao gồm đông đảo các giai cấp, tầng lớp dân cư, các dân tộc, tôn giáo...) làm chủ
thông qua các hình thức dân chủ gián tiếp và dân chủ trực tiếp, thông qua việc thực hiện
các Quy chế dân chủ và Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở... cũng đã thể hiện tính ưu việt về chế độ
chính trị của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng.
Tính ưu việt của CNXH tự bản thân nó đã địi hỏi phải phát huy dân chủ cao độ, gắn với tính
tích cực, chủ động, sáng tạo của nhân dân trong tham gia xây dựng, quản lý các lĩnh vực của
đời sống xã hội. V.I.Lênin từng nêu quan niệm: CNXH không phải là sản phẩm được tạo ra từ
những sắc lệnh từ trên ban xuống. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: Nước ta là nước
dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền lợi đều của dân...
Tính ưu việt của chế độ dân chủ XHCN thể hiện cụ thể, thiết thực ở Việt Nam hiện nay là một
chế độ xã hội do nhân dân làm chủ. Tính ưu việt này đã, đang, sẽ biểu hiện thơng qua q trình
21


đổi mới và dân chủ hóa ở Việt Nam.
- Đặc trưng thứ ba: có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại là
chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu
Đây là đặc trưng thể hiện tính ưu việt trên lĩnh vực kinh tế của CNXH mà nhân dân ta đang xây
dựng so với các chế độ xã hội khác.
Về lực lượng sản xuất của xã hội XHCN mà nhân dân ta đang xây dựng khơng thể là cái gì
khác ngồi lực lượng sản xuất hiện đại với khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, gắn với
phát triển kinh tế tri thức. Về quan hệ sản xuất không thể khơng tính đến yếu tố quan trọng
hàng đầu là chế độ sở hữu. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH việc xác định chế độ công hữu về
các tư liệu sản xuất chủ yếu thể hiện tính ưu việt của CNXH mà chúng ta đang xây dựng (đã

khắc phục được tư duy cũ, giáo điều về CNXH ở Việt Nam đồng nghĩa với chế độ công hữu là
duy nhất ngay trong thời kỳ quá độ).
Một luận điểm phản ánh thành quả của đổi mới nhận thức lý luận về sự phát triển quá độ lên
CNXH mà Đảng ta đã xác định từ Đại hội IX được tuyệt đại đa số nhân dân đồng tình: “ Con
đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng
tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới
chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản
xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại” 1.
Trong xã hội tư bản, chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN giữ vai trò thống trị của quan hệ sản
xuất; là cơ sở nảy sinh những bất bình đẳng về kinh tế và áp bức về xã hội. Bỏ qua việc xác lập
vị trí thống trị của quan hệ sản xuất TBCN, từng bước xây dựng mối quan hệ sản xuất mới dựa
trên cơ sở của chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu thể hiện rõ tính ưu việt của
CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng so với chế độ TBCN.
Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển) tiếp tục khẳng định: Những mâu thuẫn vốn có của
chủ nghĩa tư bản, nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng
sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa chẳng những không giải quyết được
22


mà ngày càng trở nên sâu sắc. Khi bàn về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
với nhiều hình thức sở hữu nhiều thành phần kinh tế, Đảng ta tiếp tục khẳng định quan
điểm: Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát
triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của
nền kinh tế quốc dân.
Quan điểm này hoàn toàn nhất quán với đặc trưng trong quan hệ sản xuất của CNXH mà chúng
ta đang xây dựng là xác lập dần từng bước chế độ công hữu.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội phải dựa trên chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất
chủ yếu là một trong những yếu tố đảm bảo định hướng XHCN trong phát triển nền kinh tế thị
trường với nhiều thành phần kinh tế.

- Đặc trưng thứ tư: có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Tính ưu việt về văn hóa của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện khái qt ở tính
chất tiên tiến của nền văn hóa (bao hàm những giá trị mới, tiến bộ, hiện đại, nhân văn của văn
hóa nhân loại); ở việc giữ gìn bản sắc dân tộc (những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc
Việt Nam: chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, truyền thống đoàn kết và nhân ái, ý thức về độc lập,
tự do, tự cường dân tộc...).
Hội nhập quốc tế đang là một xu thế lớn khách quan lôi cuốn nhiều quốc gia, khu vực tham gia.
Xu thế này, một mặt tạo cơ hội để mở rộng giao lưu, tiếp biến văn hóa giữa các dân tộc, quốc
gia; mặt khác làm nảy sinh nguy cơ mai một các giá trị văn hóa truyền thống của từng dân tộc.
Trong bối cảnh quốc tế mà các chế độ chính trị - xã hội khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa
đấu tranh; trong giao lưu, hợp tác và phát triển văn hóa, tính ưu việt của CNXH mà chúng ta
đang xây dựng phải được thể hiện không chỉ bằng việc xác định tính ưu việt của đặc trưng về
văn hóa vừa nêu, mà cịn phải hiện thực hóa đặc trưng đó trên thực tế.
Xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, mang đậm bản sắc dân tộc đòi hỏi vừa phải tiếp thu những
giá trị của tinh hoa văn hóa nhân loại, vừa phải kế thừa, phát triển bản sắc văn hóa của các tộc
người Việt Nam, xây dựng một nền văn hóa Việt Nam thống nhất trong đa dạng. Sự kết hợp hài
hòa những giá trị tiên tiến với những giá trị mang đậm bản sắc dân tộc thể hiện tính ưu việt của
23


CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng trên lĩnh vực văn hóa, làm cho văn hóa trở thành sức
mạnh nội sinh quan trọng của phát triển.
- Đặc trưng thứ năm: con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát
triển tồn diện
Tính ưu việt của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng không chỉ được thể hiện trong đặc
trưng tổng quátdân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh, mà cịn được thể hiện qua
đặc trưng về con người trong xã hội XHCN. Về phương diện con người, CNXH đồng nghĩa với
chủ nghĩa nhân văn, nhân đạo: tất cả vì con người, cho con người và phát triển con người toàn
diện. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Muốn xây dựng CNXH thì phải có con người XHCN. Để
có con người XHCN phải xác định và hiện thực hóa hệ giá trị phản ánh nhu cầu chính đáng của

con người trong xã hội XHCN mà nhân dân ta đang xây dựng.
Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về con người
trong xã hội XHCN, Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển) đã xác định hệ giá trị phản ánh
nhu cầu, nguyện vọng thiết thực của con người Việt Nam hiện nay là: có cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển tồn diện cá nhân. Tính ưu việt của CNXH thể hiện
trong đặc trưng này là quan điểm nhân văn, vì con người, chăm lo xây dựng con người, phát
triển tồn diện con người (đức, trí thể, mỹ) của Đảng và Nhà nước ta.
Trong những động lực để xây dựng thành công CNXH trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta xác định
một động lực rất quan trọng là giải quyết hài hịa các lợi ích cá nhân, tập thể và tồn xã
hội. Lợi ích thiết thân mà mỗi con người Việt Nam hiện nay mong đợi phản ảnh nhu cầu về đời
sống vật chất, đời sống tinh thần và nhu cầu phát triển con người toàn diện. Giải quyết hài hịa
các lợi ích, bảo đảm nhu cầu, lợi ích chính đáng của mỗi con người, tơn trọng và bảo vệ quyền
con người là thể hiện tính ưu việt của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng.
- Đặc trưng thứ sáu: các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tơn trọng
và giúp nhau cùng phát triển
Đặc trưng này thể hiện tính ưu việt trong chính sách dân tộc, giải quyết đúng các quan hệ dân
tộc (theo nghĩa hẹp là quan hệ giữa các tộc người trong quốc gia ta dân tộc Việt Nam).
24


CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng nhất thiết phải bảo đảm quyền bình đẳng giữa các dân
tộc trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, khơng phân biệt dân tộc đa số
hay thiểu số, về lịch sử ra đời sớm hay muộn, trình độ phát triển cao hay thấp giữa các dân tộc.
Đối lập với các chế độ áp bức bóc lột người thường phân biệt, kỳ thị và chia rẽ các dân tộc,
CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng gắn liền với việc xây dựng tình đồn kết các dân tộc, tôn
trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển, từng bước rút ngắn khoảng cách chênh lệch về trình độ
phát triển giữa các dân tộc hiện nay.
Thực tiễn 25 năm đổi mới đất nước đã và đang chứng minh tính ưu việt trong chính sách dân
tộc của Đảng và Nhà nước ta, chứng minh tính ưu việt của CNXH trong giải quyết các quan hệ
dân tộc ở Việt Nam. Nhờ đó đã và đang phát huy truyền thống đại đồn kết tồn dân tộc, tính

đồng thuận trong cộng đồng 54 dân tộc anh em, chống lại âm mưu chia rẽ dân tộc của các thế
lực thù địch.
- Đặc trưng thứ bảy: có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân do Đảng cộng sản lãnh đạo
CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện trong tính ưu việt của Nhà nước pháp quyền
XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Tính ưu việt của một xã hội do nhân dân làm chủ gắn bó mật thiết với tính ưu việt của Nhà
nước pháp quyền XHCN.
Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển) đã chỉ rõ tính ưu việt của Nhà nước pháp quyền
XHCN mà nhân dân ta đang hướng tới xây dựng. Đó là: Nhà nước gắn bó chặt chẽ với nhân
dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và
chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ
quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vơ trách nhiệm, lộng quyền, xâm phạm quyền dân chủ của
công dân.
Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là biểu hiện cụ thể tính
ưu việt của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng. Nhà nước ấy phải kế thừa những giá trị
25


×