MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ
KHỦNG BỐ VÀ HỢP TÁC QUỐC TẾ VỀ CHỐNG
KHỦNG BỐ
5
1.1 Những vấn đề lý luận cơ bản về khủng bố 5
1.1.1. Khái niệm khủng bố 5
1.1.1.1. Quan điểm về khủng bố dưới góc độ khoa học pháp lý 6
1.1.1.2. Định nghĩa khủng bố theo pháp luật quốc gia và các điều ước
quốc tế
11
1.1.1.3. Một số đặc trưng của tội phạm khủng bố 18
1.1.2. Lịch sử phát triển của khủng bố 25
1.2. Hợp tác quốc tế về chống khủng bố 27
1.2.1 Khái niệm hợp tác quốc tế về chống khủng bố 27
1.2.2. Lịch sử hình thành, phát triển của hợp tác quốc tế về chống khủng
bố và pháp luật quốc tế về hợp tác chống khủng bố
29
1.2.3. Các hình thức hợp tác quốc tế về chống khủng bố 34
1.2.4. Các nguyên tắc hợp tác quốc tế về chống khủng bố 37
1.2.4.1. Hợp tác chống khủng bố và các quyền cơ bản của con người 38
1.2.4.2. Hợp tác chống khủng bố và vấn đề lợi ích quốc gia 42
1.2.4.3. Hợp tác chống khủng bố và vấn đề quyền tài phán quốc gia 44
1.2.4.4. Hợp tác chống khủng bố và lợi ích của bên thứ ba 45
Chương 2: CƠ SỞ PHÁP LÝ HỢP TÁC QUỐC TẾ VỀ
CHỐNG KHỦNG BỐ
47
2.1. Cơ sở pháp lý toàn cầu về hợp tác chống khủng bố 47
2.1.1. Hợp tác quốc tế về chống khủng bố trong các điều ước quốc tế
phổ cập
47
2.1.1.1. Các quy định về hợp tác ngăn ngừa khủng bố 50
2.1.1.2. Các quy định về hợp tác trừng trị khủng bố 54
2.1.2. Hợp tác quốc tế về chống khủng bố trong các nghị quyết của các 60
cơ quan Liên hợp quốc
2.2. Cơ sở pháp lý liên khu vực về hợp tác chống khủng bố 65
2.2.1. Hợp tác chống khủng bố giữa ASEAN và EU 65
2.2.2. Hợp tác chống khủng bố giữa một số khu vực khác trên thế giới 70
2.3. Cơ sở pháp lý khu vực về hợp tác chống khủng bố 72
2.3.1. Các điều ước khu vực Đông Nam Á về hợp tác chống khủng bố 72
2.3.2. Các điều ước khu vực Nam Á về hợp tác chống khủng bố 80
2.3.3. Các điều ước của Liên minh châu Âu về hợp tác chống khủng bố 87
2.4. Hợp tác chống khủng bố trên cơ sở các điều ước song phương 94
Chương 3: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẤU TRANH
CHỐNG KHỦNG BỐ Ở VIỆT NAM
100
3.1. Pháp luật Việt Nam về chống khủng bố và hợp tác chống khủng bố 100
3.1.1. Khái quát hệ thống các văn pháp luật của Việt Nam về chống
khủng bố
100
3.1.2. Cơ sở pháp lý hợp tác chống khủng bố theo quy định của pháp
luật Việt Nam
102
3.2. Hợp tác khu vực và quốc tế về chống khủng bố 112
3.2.1 Hợp tác song phương về chống khủng bố 112
3.2.1.1 Hợp tác song phương về tương trợ tư pháp và dẫn độ 113
3.2.1.2 Hợp tác song phương về phòng chống tội phạm 116
3.2.2 Hợp tác khu vực về chống khủng bố 118
3.2.3 Hợp tác đa phương và toàn cầu về chống khủng bố 120
3.3 Một số giải pháp đẩy mạnh đấu tranh chống khủng bố ở Việt Nam 122
KẾT LUẬN 126
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 128
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tội phạm khủng bố đang ngày càng lan rộng và không có giới hạn quốc gia
là một trong những mối đe doạ nghiêm trọng nhất đối với hoà bình và an ninh quốc
tế. Có thể nói chưa bao giờ các quốc gia, cộng đồng quốc tế lại quan tâm và lên án
mạnh mẽ tội phạm khủng bố như hiện nay. Yêu cầu chống khủng bố làm cho nhiều
nước trước đây vốn có những bất đồng trong việc giải quyết xung đột nội bộ nay có
thể hợp tác với nhau trong cuộc đấu tranh chống khủng bố. Trước sự phát triển của
khủng bố và những hậu quả nặng nề do khủng bố gây ra, cộng đồng quốc tế đã có
nhiều nỗ lực nhằm ngăn chặn loại tội phạm nguy hiểm này. Hiện nay, pháp luật
quốc tế về chống khủng bố đã có 14 điều ước đa phương thuộc khuôn khổ Liên hợp
quốc, 9 điều ước khu vực và rất nhiều điều ước quốc tế song phương… Tuy nhiên,
khái niệm khủng bố, hợp tác chống khủng bố; phạm vi hợp tác chống khủng bố; các
nguyên tắc hợp tác chống khủng bố, nghĩa vụ của các chủ thể luật quốc tế trong hợp
tác chống khủng bố… hiện nay chưa được quy định đầy đủ trong luật quốc tế. Đề
tài luận văn được thực hiện nhằm đưa ra khái niệm cơ bản nhất về khủng bố, hợp
tác quốc tế về chống khủng bố; các nguyên tắc cơ bản của hợp tác quốc tế về chống
khủng bố; tập hợp và hệ thống cơ sở pháp lý quốc tế, khu vực và song phương về
hợp tác chống khủng bố. Đây là những vấn đề có tính cấp thiết nhằm nâng cao hiệu
quả đấu tranh chống khủng bố quốc tế, đồng thời hạn chế cách hành xử tuỳ tiện của
các quốc gia trong cuộc chiến chống khủng bố. Việc làm rõ các khía cạnh pháp lý
về hợp tác chống khủng bố sẽ góp phần nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật quốc
tế về chống khủng bố, đưa pháp luật về chống khủng bố vào đời sống pháp lý quốc
tế, hạn chế và góp phần triệt tiêu tội phạm khủng bố.
Hiện nay, Việt Nam đã là thành viên của 8 điều ước quốc tế và khoảng 20
hiệp định song phương có liên quan đến chống khủng bố. Tuy nhiên, pháp luật về
chống khủng bố ở Việt Nam hiện nay còn một số điểm chưa tương thích với pháp
luật quốc tế. Việt Nam chưa có một đạo luật chuyên biệt điều chỉnh vấn đề chống
1
khủng bố. Vì vậy, việc nghiên cứu thực trạng cơ sở pháp lý về hợp tác chống khủng
bố và đề ra một số giải pháp đẩy mạnh hợp tác chống khủng bố là việc làm cần thiết
hiện nay để nâng cao hiệu quả hợp tác đấu tranh chống loại tội phạm nguy hiểm
này. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài: “Hợp tác quốc tế về
chống khủng bố và liên hệ thực tiễn Việt Nam” làm đề tài luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay ở Việt Nam, các nghiên cứu về chống khủng bố không nhiều và chưa
bài bản. Ở cấp độ luận văn có đề tài của các tác giả: Nguyễn Long: “Pháp luật quốc
tế về chống khủng bố - một số vấn đề lý luận và thực tiễn”; Vũ Ngọc Dương: “Pháp
luật Quốc tế về chống khủng bố và việc hoàn thiện Bộ luật Hình sự Việt Nam.” Ở cấp
độ đề tài nghiên cứu khoa học, có đề tài cấp Đại học Quốc gia do tác giả Lê Văn Bính
làm chủ nhiệm đề tài: “Khủng bố và vai trò của luật quốc tế hiện đại trong đấu tranh
chống khủng bố”. Ngoài ra, còn một số sách tham khảo, chuyên khảo giới thiệu các
công ước quốc tế về chống khủng bố hoặc đề cập đến tội phạm khủng bố; một số bài
viết tại các hội thảo, tạp chí về vấn đề này như: “Khủng bố và chống khủng bố với
vấn đề an ninh quốc tế” do tác giả Nguyễn Văn Dân chủ biên; “Chủ nghĩa khủng bố
toàn cầu - Vấn đề và cách tiếp cận” của tác giả Lại Văn Toàn; “Hoàn thiện pháp
luật về đấu tranh chống khủng bố ở Việt Nam” của tác giả Hoàng Văn Hiệu…
Trên thế giới cũng đã có khá nhiều công trình nghiên cứu của các học giả về
khủng bố như Boaz Ganor, Alan Smith, Bruce Hoffman… tuy nhiên các nghiên
cứu chỉ tập trung phân tích nguyên nhân làm phát sinh khủng bố, các mặt chính trị
- xã hội xung quanh nó và một số khía cạnh pháp lý của tội phạm khủng bố.
Những nghiên cứu chuyên sâu và có hệ thống về hợp tác quốc tế chống khủng bố
hầu như không có.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Đề tài đề cập vấn đề khá thời sự, thu hút sự quan tâm rộng rãi của các quốc
gia và cộng đồng quốc tế là hợp tác quốc tế về chống khủng bố nhằm trả lời các câu
hỏi: Thế nào là khủng bố, hợp tác quốc tế về chống khủng bố? Nội dung và các nguyên
tắc hợp tác quốc tế về chống khủng bố? Cơ sở pháp lý quốc tế, khu vực và song
2
phương về hợp tác quốc tế chống khủng bố? Đề tài đi sâu vào kiến giải những vấn đề
trên, qua đó góp phần trong việc hình thành chính sách và thái độ tích cực, trách
nhiệm, khách quan, khoa học trong lĩnh vực hợp tác quốc tế về chống khủng bố.
Bên cạnh đó, đề tài có nhiệm vụ nghiên cứu thực trạng hợp tác quốc tế về
chống khủng bố ở Việt Nam và kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện pháp luật
Việt Nam về vấn đề này qua đó góp phần nâng cao hiệu quả hợp tác đấu tranh
chống khủng bố giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới.
4. Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu của đề tài
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài: Đề tài tập trung nghiên cứu các
khía cạnh pháp lý xung quanh vấn đề hợp tác quốc tế về chống khủng bố với nguồn
chủ yếu là các điều ước quốc tế về chống khủng bố và các quy định của pháp luật
Việt Nam về vấn đề này.
Đề tài nghiên cứu về hợp tác quốc tế chống khủng bố trong phạm vi các quy
định của pháp luật quốc tế về chống khủng bố. Các vấn đề như: hợp tác chống
khủng bố giữa các cơ quan trong một quốc gia; thực tiễn hợp tác thực thi các quy
định của pháp luật quốc tế về chống khủng bố không được đi sâu nghiên cứu. Bên
cạnh đó, trong việc nghiên cứu cơ sở pháp lý song phương và khu vực về hợp tác
chống khủng bố, đề tài chỉ nghiên cứu ở những khu vực và những quan hệ hợp tác
song mang tính điển hình.
Phương pháp nghiên cứu của đề tài: Đề tài chủ yếu sử dụng phương pháp
phân tích, so sánh, liệt kê, tổng hợp dựa trên nền tảng là phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật lịch sử và phép biện chứng duy vật để làm rõ đối tượng nghiên
cứu đã đặt ra.
5. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của đề tài
Chủ nghĩa khủng bố đã xuất hiện từ lâu nhưng đến nay chưa có nhiều công
trình nghiên cứu đầy đủ và toàn diện về vấn đề này đặc biệt là các nghiên cứu về
hợp tác chống khủng bố. Việc thực hiện đề tài này vì vậy sẽ mở ra những nghiên
cứu tiếp theo sâu sắc hơn, mở ra một cách tiếp cận mới trong việc nghiên cứu về
khủng bố và chống khủng bố. Bên cạnh đó, những nghiên cứu của đề tài sẽ trả lời
3
các câu hỏi: Khái niệm khủng bố? Khái niệm hợp tác chống khủng bố? Những nội
dung nào được xem là hợp tác chống khủng bố? Hợp tác chống khủng bố được
thực hiện dưới hình thức nào? Các nguyên tắc hợp tác chống khủng bố? Cơ sở
pháp lý quốc tế cho hợp tác chống khủng bố? Tuy nhiên, đây mới chỉ là nghiên
cứu bước đầu với kết quả còn khiêm tốn. Qua việc thực hiện đề tài này tác giả hy
vọng luận văn sẽ là tài liệu tham khảo cho các nghiên cứu tiếp theo, sâu hơn, rộng
hơn, toàn diện hơn về vấn đề còn ít được quan tâm nhưng có vai trò quan trọng
cuộc chiến chống khủng bố.
Luận văn cũng phân tích và nêu ra thực trạng và các giải pháp hoàn thiện
pháp luật Việt Nam, góp phần nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế của Việt Nam
trong đấu tranh chống khủng bố.
6. Kết cấu của luận văn
Luận văn ngoài phần mở đầu và kết luận gồm 3 chương:
Chương 1: Trình bày những vấn đề cơ bản nhất về khủng bố và hợp tác
quốc tế về chống khủng bố, trong đó có nêu ra định nghĩa khủng bố, hợp tác
chống khủng bố; đặc trưng của khủng bố; các nguyên tắc cơ bản của hợp tác quốc
tế về chống khủng bố.
Chương 2: Trình bày cơ sở pháp lý song phương, khu vực, liên khu vực và
toàn cầu về hợp tác chống khủng bố.
Chương 3: Trình bày thực trạng pháp luật Việt Nam về hợp tác chống khủng
bố và kiến nghị một số giải pháp đẩy mạnh hợp tác chống khủng bố.
4
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KHỦNG BỐ
VÀ HỢP TÁC QUỐC TẾ VỀ CHỐNG KHỦNG BỐ
1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về khủng bố
1.1.1. Khái niệm khủng bố
Khủng bố là loại tội phạm không mới, trái lại nó đã tồn tại rất lâu trong lịch
sử loài người. Ngay từ khi xuất hiện chữ viết để lưu giữ thông tin người ta đã thấy
có những ghi chép về khủng bố. Cùng với sự phát triển của nhân loại khủng bố đã
có sự phát triển mạnh mẽ, từ chỗ chỉ đe doạ an ninh của một quốc gia, khủng bố đã
trở thành vấn đề quốc tế từ những năm 60 của thế kỷ XX. Cuộc tấn công vào Trung
tâm thương mại thế giới và Lầu năm góc (Mỹ) ngày 11 tháng 9 năm 2001 đã cho cả
thế giới thấy quy mô, tính chất xuyên quốc gia của khủng bố. Ngày nay các cuộc
tấn công khủng bố có thể thực hiện bất cứ lúc nào, bất kỳ nơi nào và bất cứ ai trong
chúng ta cũng đều có thể trở thành nạn nhân của khủng bố. Thuật ngữ khủng bố đã
trở thành một trong những thuật ngữ thịnh hành nhất trên báo chí và dư luận quốc
tế. Sau ngày 11 tháng 9 năm 2001, “hầu hết các hội nghị quốc tế kể cả hội nghị về
kinh tế và thương mại đều có đề mục bàn về chủ nghĩa khủng bố trong chương trình
nghị sự…” [12, 19]. Có thể nói khủng bố là một trong những mối đe doạ nghiêm
trọng nhất đối với hoà bình và an ninh quốc tế. Việc sau sự kiện ngày 11 tháng 9 có
rất nhiều hội nghị quốc tế được tổ chức, trong đó chống khủng bố là một trong
những vấn đề được đưa lên bàn nghị sự đã thể hiện sự quan tâm và lo ngại sâu sắc
của cộng đồng quốc tế trước nạn khủng bố. Điều này đã phần nào thể thiện thái độ
và mong muốn hợp tác giữa các quốc gia trong việc loại trừ loại tội phạm nguy
hiểm này ra khỏi đời sống quốc tế.
Ở cấp độ hợp tác toàn cầu “năm 1972 vấn đề chống khủng lần đầu tiên đã
được đưa vào chương trình nghị sự của Đại hội đồng khoá 27 của Liên hợp quốc…
kể từ đó hầu như hàng năm, đề mục chống khủng bố quốc tế luôn được Đại hội
5
đồng xem xét, thảo luận” [28, 10]. “Nhưng để chống khủng bố có hiệu quả trước
hết cần xác định như thế nào là khủng bố” [12, 19]. Mặc dù đã có rất nhiều hội nghị
quốc tế, các diễn đàn song phương và đa phương được tổ chức từ khi khủng bố xuất
hiện nhưng cho đến nay cộng đồng quốc tế vẫn chưa xây dựng được định nghĩa
thống nhất về khủng bố.
Hiện nay, hợp tác giữa các quốc gia trong khuôn khổ các thiết chế khu vực và
toàn cầu về chống khủng bố gặp không ít khó khăn mà trở ngại lớn nhất với cộng
đồng quốc tế trong cuộc chiến chống khủng bố là quá trình hợp tác giữa các quốc
gia trong việc xây dựng định nghĩa khủng bố nhằm tạo cơ sở pháp lý vững chắc, rõ
ràng cho cuộc chiến chống khủng bố. Định nghĩa về khủng bố là chìa khoá quyết
định thành công của hợp tác quốc tế chống khủng bố. Thiếu định nghĩa thống nhất
về khủng bố, hợp tác quốc tế giữa các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế
sẽ không thể đem lại hiệu quả mong muốn.
Vậy khủng bố là gì mà cộng đồng quốc tế và các quốc gia mặc dù đã có
nhiều nỗ lực nhưng chưa đưa ra được một định nghĩa đủ sức thuyết phục? “Hoa Kỳ
đã từng gọi Bin Laden là trùm khủng bố số một quốc tế, Bin Laden và Taliban lại
lên án Hoa Kỳ là trùm khủng bố thế giới, là kẻ diệt chủng; Israel tố cáo chính
quyền Palestin là nuôi dưỡng các phần tử khủng bố, nhưng Palestin lại lên án nhà
nước Israel là nhà nước khủng bố… Có thể nói theo nhiều người: Tôi không thể
định nghĩa được khủng bố, nhưng tôi biết khi gặp nó” [12, 20]. Trước những khó
khăn trong việc xây dựng định nghĩa được cộng đồng quốc tế chấp nhận, một số
người cho rằng không thể đạt được định nghĩa chung về tội phạm khủng bố. Vậy
đâu là những khác biệt trong cách hiểu và diễn giải về khủng bố? Nguyên nhân nào
dẫn đến cách hiểu và diễn giải khác nhau như vậy? Nguyên nhân nào cản trở tiến
trình hợp tác giữa các quốc gia trong việc xây dựng định nghĩa pháp lý thống nhất
trên quy mô khu vực và toàn cầu về khủng bố?
1.1.1.1. Quan điểm về khủng bố dưới góc độ khoa học pháp lý
Từ khi tội phạm khủng bố xuất hiện trên thế giới đến nay đã có nhiều nghiên
cứu về vấn đề này. Hiện nay, trên thế giới có hơn 100 định nghĩa về khủng bố và có
6
ít nhất 60 định nghĩa mâu thuẫn nhau. Tuy còn có những cách hiểu và giải thích
khác nhau trong giới nghiên cứu nhưng các nghiên cứu về khủng bố đều có điểm
chung nhất là coi khủng bố là hiện tượng nguy hiểm cho đời sống xã hội và cần
phải loại trừ, như Fidel Castro đã từng nói: “Dù nguồn gốc sâu xa của chủ nghĩa
khủng bố như thế nào, dù các yếu tố kinh tế và chính trị có ảnh hưởng đến nó như
thế nào và dù ai có phải chịu trách nhiệm đã mang nó đến với thế giới này, thì cũng
không một ai có thể phủ nhận rằng chủ nghĩa khủng bố ngày nay là một hiện tượng
nguy hiểm không thể bào chữa được về mặt đạo lý và phải bị loại trừ” [31, 5]. Theo
nghĩa thông dụng, khủng bố được định nghĩa là “tập hợp các hành vi bạo lực, mưu
sát, bắt cóc con tin… do một tổ chức thực hiện để tạo ra một không khí mất an
ninh, nhằm gây sức ép đối với chính phủ để thoả mãn sự căm ghét đối với cộng
đồng, một đất nước, một hệ thống” [12, 20]. Định nghĩa trên đưa ra các yếu tố đặc
trưng của khủng bố: Chủ thể là các tổ chức; hành vi: sử dụng bạo lực; mục đích:
gây sức ép với chính phủ. Đây là định nghĩa chưa đầy đủ bởi ngày nay bên cạnh
những hành vi bạo lực, khủng bố còn sử dụng những hành vi phi bạo lực như:
khủng bố thông tin, khủng bố trên mạng… Michael Radu, trong cuốn Terrorism
after the Cold war: Trens and Challenges thì định nghĩa khủng bố một cách đơn
giản là: “những vụ tấn công nhằm mục tiêu chủ yếu hoặc hoàn toàn mang tính chất
dân sự để gây hoảng sợ” [51, 276]. Có thể thấy rằng định nghĩa của Michael Radu
có tính khách quan không mang màu sắc chính trị nhưng chưa làm rõ được các yếu
tố cấu thành khủng bố như: chủ thể, mục đích cuối cùng mà khủng bố nhắm tới…
Từ điển Webster’s Collegiate Dictionary giải thích khủng bố là: “việc sử
dụng các biện pháp gây khiếp đảm để cai trị hoặc chống lại sự cai trị”. Định nghĩa
này đơn giản, khách quan nhưng nội hàm rất rộng bao gồm tất cả các hành vi bạo
lực nhằm mục đích gây khiếp đảm trong khi đó nhiều hành vi bạo lực như tội phạm
chiến tranh, tội diệt chủng… đã cấu thành các tội phạm khác mà tính chất và mức
độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi còn cao hơn tội khủng bố. Cách định nghĩa
như trên mặc nhiên thừa nhận chủ thể của tội khủng bố bên cạnh các tổ chức còn
bao hàm cả các quốc gia. Điều này không phù hợp với các văn bản hình sự quốc tế
7
hiện hành, theo đó chưa có quy định quốc gia là chủ thể của tội phạm khủng bố
quốc tế. Bên cạnh đó việc sử dụng bạo lực để chống lại sự cai trị của các dân tộc
đang đấu tranh giành quyền dân tộc tự quyết, chiến tranh du kích không thể đồng
nghĩa với khủng bố.
Bruce Hoffman, từ Đại học Columbia trong tác phẩm Inside terrorism, sau
khi đi sâu phân tích sự phát triển của khủng bố trong các điều kiện lịch sử xã hội
khác nhau, định nghĩa về khủng bố từ các học giả và các cơ quan quản lý… đã đưa
ra các tiêu chí phân biệt tội phạm khủng bố với các loại tội phạm khác. Theo Bruce
Hoffman có thể nhận biết khủng bố qua các tiêu chí sau:
- Mục tiêu và động cơ chính trị;
- Bạo lực hoặc đe doạ sử dụng bạo lực;
- Được tổ chức để có thể gây tác động sâu rộng không chỉ đối với các nạn
nhân hoặc mục tiêu trực tiếp của cuộc tấn công;
- Tiến hành bởi một tổ chức với mạng lưới thống nhất điều khiển; Do một
nhóm phi quốc gia hoặc thực thể phi quốc gia tiến hành [48, 19].
Bruce Hoffman giải thích thêm rằng: Có thể cố gắng xác định khủng bố là
việc cố ý tạo ra hoặc khai thác nỗi sợ hãi bằng bạo lực hoặc đe doạ bạo lực nhằm
đạt được thay đổi chính trị. Khủng bố được thiết kế để có tác động sâu rộng vượt ra
ngoài tâm lý nạn nhân trực tiếp hoặc đối tượng của cuộc tấn công khủng bố. Nó có
nghĩa là truyền dẫn sự sợ hãi bên trong và do đó đe doạ mục tiêu rộng lớn hơn mà
có thể bao gồm một nhóm sắc tộc hay tôn giáo đối địch, một quốc gia, một chính
phủ hay đảng phái chính trị. Thông qua việc thực hiện bạo lực công khai những kẻ
khủng bố tìm kiếm những đòn bẩy, ảnh hưởng và quyền lực nhằm thay đổi chính trị
ở một địa phương hoặc quy mô quốc tế.
Bên cạnh những điểm tích cực, trong định nghĩa của Bruce Hoffman còn có
những điểm hạn chế như chưa bao quát được các hình thức khủng bố, bởi theo quan
điểm của ông khủng bố chỉ là các hành vi bạo lực, trong khi đó trong thế giới hiện
đại có nhiều loại hình khủng bố phi bạo lực nhưng mức độ nguy hiểm rất cao. Đặc
8
biệt sau vụ hàng loạt các thông tin tình báo ngoại giao nhạy cảm của Hoa Kỳ bị
tung lên mạng internet, thế giới đang nói đến một loại hình khủng bố mới: khủng bố
thông tin. Bên cạnh đó, định nghĩa của Bruce Hoffman không giới hạn nạn nhân của
khủng bố, tức là nạn nhân có thể bao gồm cả mục tiêu dân sự và mục tiêu quân sự,
điều này mâu thuẫn với quan điểm của Michael Radu như đã dẫn ở trên.
Trái ngược với các quan điểm trên, Jean Marc Sorel, giáo sư luật quốc tế Đại
học Paris 1 trong tác phẩm Một số câu hỏi về định nghĩa khủng bố và chống tài trợ
khủng bố, đưa ra định nghĩa rất rộng trong đó chủ thể và mục đích không phải là
yếu tố bắt buộc. Tác giả cho rằng: “Chủ nghĩa khủng bố quốc tế là một hành động
bất hợp pháp (không phân biệt thủ phạm hoặc mục đích của nó) tạo ra sự xáo trộn
trong trật tự công cộng (được xác định bởi cộng đồng quốc tế) bằng cách sử dụng
bạo lực nghiêm trọng và bừa bãi (dưới bất kỳ hình thức nào, đối với người, tài sản
công cộng hay tư nhân) để tạo ra bầu không khí khủng bố với mục đích tác động
đến hành động chính trị” [56, 365].
Vậy khủng bố là gì mà các nhà nghiên cứu lại khó khăn trong việc đưa ra
định nghĩa thống nhất như vậy? Bruce Hoffman cho rằng: “Do ý nghĩa và cách sử
dụng thuật ngữ này đã thay đổi theo thời gian để thích ứng với ngôn ngữ địa
phương và tình hình chính trị của mỗi thời đại kế tiếp, khủng bố đã chứng tỏ ngày
càng khó nắm bắt, đối với những nỗ lực xây dựng định nghĩa nhất quán” [48, 10].
Cùng chung khuynh hướng đồng tình có thể định nghĩa được khủng bố, ở
Việt Nam đã có một số nghiên cứu đưa ra định nghĩa khủng bố. Trong cuốn Khủng
bố và chống khủng bố với vấn đề an ninh quốc tế, tác giả định nghĩa khủng bố là:
“những hành vi bạo lực không tuyên bố nhằm vào các mục tiêu không được trang
bị các phương tiện quân sự hoặc không được báo trước để tự bảo vệ mình nhằm
mục đích gây sức ép đối với nhà cầm quyền về mặt chính trị” [12, 24]. Định nghĩa
trên có nhiều điểm tương đồng với quan điểm của một số học giả trên thế giới ở chỗ
coi mục tiêu của khủng bố có thể bao hàm cả mục tiêu quân sự và mục tiêu dân sự.
Tuy nhiên định nghĩa chưa làm rõ được chủ thể của khủng bố là tổ chức, cá nhân
hay thậm chí là nhà nước như quan điểm của một số nhà nghiên cứu. Trong cuốn
9
Khủng bố và chống khủng bố qua lăng kính báo chí, tác giả định nghĩa: “Chủ nghĩa
khủng bố là hành vi của cá nhân hay tập thể, sử dụng các thủ đoạn bạo lực hay phi
bạo lực tấn công và đe doạ cá nhân, tập thể, cơ quan, giết hại bừa bãi cả dân
thường vô tội để đạt được mục đích chính trị, kinh tế hay xã hội nào đó” [27, 18].
Chúng tôi cho rằng định nghĩa khủng bố như trên là chưa rõ ràng, dễ gây nhầm lẫn.
Ví dụ như trường hợp cá nhân hay tập thể sử dụng hành vi phi bạo lực đe doạ cá
nhân, cơ quan tập thể nhằm đạt được mục đích kinh tế xã hội cũng bị xem là khủng
bố. Các cụm từ như “giết hại bừa bãi”, “để đạt được mục đích chính trị, kinh tế hay
xã hội nào đó” còn quá chung chung không mang tính học thuật. Dưới góc độ pháp
lý hình sự tiến sĩ Trần Quang Tiệp đưa ra định nghĩa: “Khủng bố là hành vi có sử
dụng hoặc đe doạ sử dụng bạo lực, gây thiệt hại nghiêm trọng đến tính mạng, sức
khoẻ, tài sản của người dân nhằm mục đích gây hoảng loạn cho cộng đồng dân cư,
do các cá nhân hoặc tổ chức thực hiện trái với pháp luật quốc tế và pháp luật hình
sự của các nước trên thế giới” [34, 2]. Chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả
đưa ra trong định nghĩa trên, để xem xét một hành vi nguy hiểm cho xã hội có phải
là tội phạm khủng bố hay không trước hết phải xem xét tính “trái với pháp luật quốc
tế và pháp luật hình sự các nước trên thế giới”. Tuy nhiên cũng như một số định
nghĩa khác đã phân tích ở trên, hành vi khủng bố theo quan điểm của tác giả tương
đối hẹp chỉ bao gồm “sử dụng hoặc đe doạ sử dụng bạo lực” do đó định nghĩa chưa
bao quát hết các hành vi khủng bố. Bên cạnh đó, định nghĩa chưa đưa ra được mục
đích cuối cùng của khủng bố; việc gây hoảng loạn cho cộng đồng dân cư chỉ là mục
đích trực tiếp không phải là mục đích cuối cùng mà tội phạm khủng bố nhắm tới -
hành vi của các cơ quan nhà nước (gây sức ép để các cơ quan này thực hiện hoặc
không thực hiện một hành động nào đó).
Như vậy, từ khi khủng bố xuất hiện và trở thành một trong những nguy cơ đe
doạ hoà bình và an ninh quốc tế, cho đến nay đã có nhiều nhà nghiên cứu đưa ra
khái niệm về khủng bố nhưng chưa có khái niệm nào được cộng đồng quốc tế chấp
nhận rộng rãi. Tuy nhiên để chống khủng bố có hiệu quả không thể không định
nghĩa khủng bố. Nói như Jean Marc Sorel, giáo sư Luật quốc tế Đại học Paris 1:
10
“Chúng tôi cần biết nó (khủng bố) là gì mà chúng ta đang chiến đấu chống lại và
nó là gì mà pháp luật quốc tế cần phải bao gồm” [56, 1].
1.1.1.2. Định nghĩa khủng bố theo pháp luật quốc gia và các điều ước quốc tế
Cuộc chiến chống khủng bố trên quy mô toàn cầu được Hoa Kỳ phát động
năm 2001 nhưng cho đến nay vẫn chưa thu được kết quả như mong đợi. Từ sau vụ
khủng bố ngày 11/9 các quốc gia trên thế giới đã phải chi những khoản tiền lớn cho
cuộc chiến chống khủng bố nhưng những vụ khủng bố gây hậu quả nặng nề vẫn xảy
ra. Ngày 02 tháng 5 năm 2011, Tổng thống Hoa Kỳ Barak Obama thông báo đã tiêu
diệt được trùm khủng bố số một của Al Qaeda là Osama Bin Laden đánh dấu bước
ngoặt trong cuộc chiến chống khủng bố nhưng đây chỉ là thành công bước đầu. Cuộc
chiến chống khủng bố vẫn còn tiếp diễn. Để nâng cao hiệu quả hợp tác chống khủng
bố vấn đề tiên quyết là cần xác định khủng bố là gì? Đây là vấn đề khó khăn và là lý
do chủ yếu cản trở các quốc gia và cộng đồng quốc tế hợp tác sâu rộng chống khủng
bố do quan điểm về khủng bố giữa các quốc gia hiện tồn tại quá nhiều khác biệt thậm
chí mâu thuẫn nhau. Ngay trong một quốc gia, giữa các cơ quan khác nhau trong
những thời điểm khác nhau cũng có những quan điểm khác nhau về khủng bố. Ví dụ:
“Trước đây Hoa Kỳ lên án nước Nga trong vấn đề Cheshnia thì nay, sau vụ khủng
bố 11/9 lại ủng hộ Nga trong việc coi các phần tử ly khai Cheshnia là khủng bố” [12,
20]. Chủ nghĩa khủng bố là hiện tượng toàn cầu, do đó, để chống khủng bố cần có sự
hợp tác đấu tranh toàn cầu. Cuộc đấu tranh chống khủng bố đòi hỏi sự phối hợp công
khai, không toan tính giữa các quốc gia. Tìm hiểu những điểm tương đồng và khác
biệt trong quan điểm khủng bố giữa các quốc gia và trong các điều nước quốc tế,
khu vực có ý nghĩa to lớn trong việc tìm ra nguyên nhân thu hẹp khác biệt tiến tới
sự đồng thuận trên quy mô toàn cầu trong một công ước chung nhằm nâng cao hiệu
quả hợp tác đấu tranh chống khủng bố. Hợp tác quốc tế về chống khủng bố giữa các
quốc gia bắt đầu từ việc xây dựng định nghĩa chung. Định nghĩa khách quan về chủ
nghĩa khủng bố không phải chỉ để có, mà nó không thể thiếu cho bất kỳ nỗ lực
chống khủng bố nghiêm túc nào. Thiếu định nghĩa khủng bố, rất khó có thể thực sự
nhận được sự phối hợp chiến đấu chống khủng bố quốc tế ở bất cứ nơi nào.
11
Quan điểm về khủng bố giữa các quốc gia có nhiều điểm khác biệt. Ngay cả
trong Chính phủ Hoa Kỳ, các cơ quan chịu trách nhiệm cho các chức năng khác
nhau trong cuộc chiến chống khủng bố cũng liên tục sử dụng những định nghĩa
khác nhau. Bộ Ngoại giao Mỹ định nghĩa khủng bố: “là hành vi bạo lực có chủ ý và
mục đích chính trị nhằm vào các mục tiêu không tham chiến, tiểu quốc gia hoặc tổ
chức bí mật tiến hành thường dùng để gây ảnh hưởng đến công chúng.” Cục điều
tra liên bang Mỹ (FBI) định nghĩa: “khủng bố là việc sử dụng vũ lực hoặc bạo lực
bất hợp pháp đối với người hay tài sản để đe doạ hay ép buộc một chính phủ, một
cộng đồng dân cư nhằm thực hiện các mục tiêu chính trị hoặc xã hội”. Trong khi
đó, Bộ Quốc phòng Mỹ định nghĩa khủng bố là: “việc sử dụng hoặc đe doạ sử dụng
bạo lực bất hợp pháp nhằm khắc sâu sự sợ hãi, có ý định cưỡng chế hoặc để đe
dọa chính phủ hoặc xã hội trong việc theo đuổi các mục tiêu mà nói chung là
chính trị, tư tưởng hay tôn giáo” [54, 33]. Qua các định nghĩa trên cho thấy Bộ
ngoại giao Mỹ chấp nhận định nghĩa, theo đó coi các cuộc tấn công vào các mục
tiêu không tham chiến (noncombatant) là khủng bố. Điều này có nghĩa là các hành
động tấn công vào các lực lượng quân sự kể cả trong thời gian không trực tiếp
phục vụ quân đội là khủng bố. Trong khi đó, định nghĩa của FBI coi các cuộc tấn
công nhằm vào người hoặc tài sản có thể là khủng bố. Cuối cùng định nghĩa
khủng bố của Bộ quốc phòng Mỹ là định nghĩa rộng nhất bao trùm các định nghĩa
trên, chủ thể của khủng bố rất rộng không phân biệt nhà nước hoặc các tổ chức
dân sự, các mục tiêu của khủng bố có thể là mục tiêu dân sự, quân sự hoặc mục tiêu
quân sự trong trạng thái không tham chiến. Có thể nói rằng, sự khác biệt trong định
nghĩa về khủng bố giữa các cơ quan khác nhau trong chính phủ Hoa Kỳ không xuất
phát từ cách hiểu khác nhau của họ về khủng bố mà là từ sự khác biệt từ trách
nhiệm của các cơ quan này trong cuộc chiến chống khủng bố.
Ngoài Hoa Kỳ, nhiều quốc gia khác trên thế giới cũng đã có những quy
định trong pháp luật của nước mình về khủng bố trong đó có định nghĩa về khủng
bố, một số nước có đạo luật chống khủng bố riêng như Mỹ, Anh, Úc, Nga. Bên
cạnh định nghĩa về khủng bố một số nước còn đưa ra danh sách các tổ chức bị coi
12
là khủng bố. Tuy nhiên định nghĩa về khủng bố của các quốc gia thường phản ánh
lợi ích kinh tế chính trị của quốc gia trong cuộc chiến chống khủng bố. Luật chống
khủng bố của Anh năm 2000 định nghĩa khủng bố là việc: Sử dụng hay đe dọa sử
dụng bạo lực nhằm vào con người hay gây thiệt hại nghiêm trọng đối với tài sản
hay tính mạng hoặc gây nguy hại tới sức khỏe, an toàn của công chúng nhằm mục
đích thúc đẩy mục tiêu tư tưởng, tôn giáo hoặc chính trị. Thuật ngữ tư tưởng, tôn
giáo hay chính trị được hiểu và giải thích không hoàn toàn giống nhau giữa các
quốc gia dẫn đến tiến trình xây dựng một định nghĩa chung về khủng bố vẫn chưa
đạt kết quả mong đợi.
Như vậy, hiện nay quy định pháp luật và quan điểm của nhiều quốc gia trên
thế giới còn có nhiều điểm khác biệt. Rõ ràng, để đạt được sự đồng thuận trong định
nghĩa cũng như ký kết công ước toàn diện về chống khủng bố là việc khó khăn và
việc huy động đầy đủ các nguồn lực cho cuộc chiến chống khủng bố sẽ là một trở
ngại cho Liên hợp quốc và các tổ chức đa phương khác trong bối cảnh quan điểm về
khủng bố giữa các quốc gia còn có nhiều khác biệt. Đây cũng là lý do giải thích tại
sao cộng đồng quốc tế mặc dù đã hợp tác xây dựng được hệ thống các điều ước
quốc tế tương đối lớn về chống khủng bố (bao gồm 14 điều ước đa phương, 9 điều
ước khu vực và rất nhiều các điều ước song phương cùng các nghị quyết của Hội
đồng bảo an) nhưng cho đến nay chưa có văn bản pháp lý quốc tế nào đưa ra được
định nghĩa về khủng bố được cộng đồng quốc tế chấp thuận.
Văn kiện pháp lý đầu tiên ở cấp độ toàn cầu đề cập đến vấn đề chống khủng
bố là Công ước về ngăn ngừa và trừng trị tội khủng bố được 25 quốc gia ký kết
ngày 16 tháng 11 năm 1937 tại Giơnevơ (Thuỵ Sĩ). Theo Công ước Giơnevơ các
hành động khủng bố được xác định chung là: Những việc làm phạm tội ác nhằm
chống lại một nhà nước mà mục đích hoặc bản chất là gây ra sự khủng khiếp đối
với các nhóm người hay đối với dân chúng. Tuy nhiên Công ước Giơnevơ đã không
phát sinh hiệu lực do không đáp ứng đủ số thư phê chuẩn. Từ những năm 1960 của
thế kỷ XX, khủng bố có bước phát triển mạnh mẽ và có sự liên kết với nhau trở
thành khủng bố quốc tế. Các vụ khủng bố đặc biệt nghiêm trọng gây thiệt hại lớn về
13
người và tài sản đã xảy ra trong lĩnh vực hàng không dân dụng. Trước sự phát triển
mạnh mẽ của khủng bố quốc tế và những hậu quả to lớn mà chúng gây ra, cộng
đồng quốc tế đã thông qua những công ước đa phương đầu tiên về chống khủng bố
quốc tế: Công ước về các tội phạm và các hành vi khác thực hiện trên tàu bay năm
1963; Công ước về trừng trị việc chiếm giữ tàu bay bất hợp pháp năm 1970; Công
ước về trừng trị những hành vi bất hợp pháp chống lại an toàn hàng không dân dụng
năm 1971. Năm 1972, tiến trình hợp tác toàn cầu về chống khủng bố bước sang giai
đoạn phát triển mới khi lần đầu tiên các quốc gia đã đưa vấn đề chống khủng bố
quốc tế vào chương trình nghị sự của Đại hội đồng Liên hợp quốc khoá 27. Kể từ
đó đến nay nhờ những nỗ lực của cộng đồng quốc tế đã có nhiều điều ước quốc tế
đa phương về chống khủng bố được ký kết: Công ước về ngăn ngừa và trừng trị các
tội phạm chống lại những người được hưởng bảo hộ quốc tế, bao gồm viên chức
ngoại giao năm 1973; Công ước quốc tế về chống bắt cóc con tin năm 1979; Công
ước về bảo vệ an toàn vật liệu hạt nhân năm 1979; Công ước về trừng trị các hành
vi bất hợp pháp chống lại an toàn hành trình hàng hải năm 1988… và gần đây nhất
là Công ước quốc tế về ngăn chặn các hành vi khủng bố hạt nhân năm 2005. Bên
cạnh các công ước về chống khủng bố, Hội đồng bảo an cũng đã thông qua nhiều
nghị quyết liên quan đến vấn đề chống khủng bố mà quan trọng nhất là Nghị quyết
số 1373 (được thông qua ngày 28/9/2001) trong đó có nội dung kêu gọi các quốc
gia tăng cường hợp tác nhằm ngăn ngừa và trừng trị khủng bố. Đây thực sự là minh
chứng sinh động, là thành quả của quá trình hợp tác quốc tế về chống khủng bố, tạo
cơ sở pháp lý quan trọng cho cuộc chiến chống khủng bố.
Tuy nhiên qua nghiên cứu nội dung các công ước quốc tế đa phương về chống
khủng bố quốc tế được thông qua trong khuôn khổ Liên hợp quốc và các tổ chức
chuyên môn của Liên hợp quốc như: Tổ chức hàng không dân dụng quốc tế (ICAO),
Tổ chức hàng hải quốc tế (IMO), Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA)
chúng tôi thấy rằng có rất ít công ước đề cập trực tiếp đến vấn đề khủng bố và khái
niệm khủng bố. Các hành vi được thực hiện hội đủ các yếu tố cấu thành được quy
định trong các công ước trên được xem như tội phạm khủng bố. Ví dụ hành vi
14
khủng bố bằng bom (Quy định tại Điều 2, Công ước quốc tế về trừng trị khủng bố
bằng bom) được hiểu là “một tội phạm nếu người đó ném, đặt, làm nổ hoặc kích nổ
một cách bất hợp pháp và cố ý một thiết bị gây nổ hoặc gây chết người khác tại,
vào hoặc chống lại một địa điểm công cộng, một trang thiết bị của nhà nước hoặc
chính phủ, một hệ thống giao thông công cộng hoặc một cơ sở hạ tầng:
a) Với ý định giết người hoặc gây thương tích nghiêm trọng đối với thân thể;
hoặc
b) Với ý định phá hoại địa điểm, trang thiết bị hoặc hệ thống đó trên quy mô
lớn; dẫn đến hoặc có thể dẫn đến những tổn thất lớn về kinh tế”.
Một hành vi được xem là khủng bố bằng bắt cóc con tin khi: “bất kỳ người
nào bắt giữ hoặc giam giữ và đe doạ giết chết, sẽ làm bị thương hoặc tiếp tục giam
giữ người khác (sau đây gọi là con tin) nhằm mục đích cưỡng ép bên thứ ba, cụ thể
là một quốc gia, một tổ chức quốc tế liên chính phủ, một pháp nhân hoặc thể nhân,
một nhóm người, phải thực hiện hay không được thực hiện bất kỳ hành vi nào như
một điều kiện rõ ràng hoặc điều kiện ngầm cho việc phóng thích con tin”(Điều 1
Công ước quốc tế về chống bắt cóc con tin).
Như vậy, có thể thấy rằng hầu hết các công ước đa phương về chống khủng
bố quốc tế được thông qua trong khuôn khổ Liên hợp quốc thường không đưa ra
định nghĩa trực tiếp về khủng bố, nội dung công ước thường không trực tiếp sử
dụng thuật ngữ khủng bố. Hành vi khủng bố tương đối hẹp liên quan đến từng lĩnh
vực do mỗi công ước điều chỉnh. Bên cạnh đó, đối với mỗi hành vi khủng bố trong
từng lĩnh vực cụ thể, các quy định về khái niệm hành vi thường ở dạng liệt kê
không mang tính khái quát. Trong số 14 công ước của Liên hợp quốc chỉ có 3
công ước trực tiếp sử dụng thuật ngữ khủng bố và một trong số đó có định nghĩa
về khủng bố một cách tương đối đầy đủ. Theo đó, khủng bố được định nghĩa là:
“bất kỳ hành vi nào khác với ý định giết hại hoặc làm bị thương nghiêm trọng đến
thân thể thường dân, hoặc bất kỳ người nào khác không tham gia vào chiến sự
trong bối cảnh xung đột vũ trang, nếu mục đích của hành vi này về bản chất hoặc
bối cảnh xảy ra là nhằm hăm doạ dân chúng hay ép buộc một chính phủ hoặc một
15
tổ chức quốc tế phải thực hiện hoặc không thực hiện bất kỳ hành vi nào” (Điều 2
Công ước quốc tế về trừng trị tài trợ cho khủng bố). Tuy nhiên trong bối cảnh hiện
nay cách thức thực hiện hành vi khủng bố theo chúng tôi đã được mở rộng rất
nhiều. Bên cạnh đó, đây chỉ là quy định gián tiếp về khái niệm khủng bố nên
không thể bao quát được các hình thức khủng bố ngày nay. Chiến lược toàn cầu
chống khủng bố được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua năm 2006 cũng
không đưa ra khái niệm khủng bố mà đưa ra một số hình thức và biểu hiện của
hành vi khủng bố: “tái khẳng định rằng hành vi, phương pháp và thực tiễn của
chủ nghĩa khủng bố dưới mọi hình thức và biểu hiện là các hoạt động nhằm phá
hoại các quyền con người, quyền tự do cơ bản và nền dân chủ, đe doạ toàn vẹn
lãnh thổ, an ninh của các nước và gây mất ổn định cho chính phủ thành lập hợp
pháp” (Phần mở đầu, Chiến lược chống khủng bố toàn cầu). Ngoài các công ước
đa phương về ngăn ngừa và trừng trị khủng bố, ở cấp độ toàn cầu Hội đồng bảo an
cũng đã thông qua một số nghị quyết về chống khủng bố như: Nghị quyết số 1267
năm 1999, Nghị quyết số 1373 năm 2001, Nghị quyết số 1390 năm 2002, Nghị quyết
số 1455 năm 2003… Các nghị quyết trên thiên về việc đề ra các giải pháp cụ thể
nhằm ngăn ngừa và trừng trị các hành vi khủng bố.
Ở cấp độ khu vực hiện đã có 9 điều ước khu vực về chống khủng bố quốc tế
nhưng hầu hết không đưa ra định nghĩa đầy đủ về khủng bố. Điều 1 Công ước Liên
minh châu Âu năm 1977; Điều 2 Công ước ASEAN về chống khủng bố đều có quy
định mang tính liệt kê các hành vi thực hiện tội phạm trong các công ước của Liên
hợp quốc là tội phạm khủng bố. Công ước chống khủng bố của Tổ chức hợp tác
Thượng Hải năm 2009 là công ước khu vực về chống khủng bố có đưa ra định
nghĩa về khủng bố rõ ràng nhất. Điều 2, Công ước Thượng Hải định nghĩa khủng bố
là: “Một hệ tư tưởng bạo lực và thực hiện nhằm gây ảnh hưởng đến việc ra quyết
định của chính phủ hoặc các tổ chức quốc tế bằng cách đe doạ hoặc có hành vi bạo
lực và (hoặc) các hành vi tội ác liên quan tới việc đe doạ người dân và nhằm gây
thiệt hại cho các cá nhân, xã hội hoặc nhà nước”.
Định nghĩa trên đã đưa ra một số dấu hiệu của tội phạm khủng bố như:
16
Mục đích: gây ảnh hưởng đến việc ra quyết định của chính phủ hoặc các tổ chức
quốc tế (mục đích chính trị); hành vi: đe doạ hoặc có hành vi bạo lực, các hành vi
tội ác… Tuy nhiên, định nghĩa này chưa làm rõ những vấn đề đang gây tranh cãi
trong khoa học luật quốc tế và luật quốc tế là chủ thể của hành vi khủng bố (là cá
nhân, tổ chức, hay bao gồm cả nhà nước); mục tiêu của khủng bố (dân sự, quân
sự, hay mục tiêu hỗn hợp)…
Như vậy, kể từ khi khủng bố xuất hiện và trở thành mối đe doạ với hoà
bình và an ninh quốc tế, các nhà nghiên cứu, các quốc gia và cộng đồng quốc tế
đã có nhiều nỗ lực xây dựng một cách hiểu chung nhất về khủng bố (định nghĩa
khủng bố) nhưng đến nay vẫn chưa có định nghĩa nào về khủng bố được cộng
đồng quốc tế chấp nhận rộng rãi. Trước những khó khăn trong việc định nghĩa
khủng bố, một số nhà nghiên cứu có xu hướng tin rằng một định nghĩa khách
quan và được cộng đồng quốc tế chấp thuận về khủng bố không bao giờ có thể
thoả thuận được. Một số nhà nghiên cứu khác cho rằng: Nếu không có định
nghĩa duy nhất về khủng bố được mô tả chính xác rõ ràng chúng ta có thể tiếp
cận câu hỏi về khủng bố bằng cách loại bỏ các hoạt động tương tự mà không
phải là khủng bố nhưng có vẻ như gây nhầm lẫn.
Chúng tôi cho rằng, một định nghĩa chính xác, khách quan về khủng bố có ý
nghĩa quan trọng trong chính sách chống khủng bố vì nó liên quan mật thiết tới việc
xác định và xử phạt các hành vi khủng bố. Một định nghĩa khách quan về khủng bố
là tiền đề và là chìa khoá quan trọng trong cuộc chiến chống khủng bố. Chỉ khi các
quốc gia, các tổ chức và các chủ thể khác của pháp luật quốc tế có sự đồng thuận về
khái niệm khủng bố, mới có cơ sở cho hợp tác quốc tế về chống khủng bố. Bên
cạnh đó, để xây dựng một định nghĩa chung về khủng bố các quốc gia cũng cần hợp
tác chặt chẽ với nhau, đảm bảo hài hoà giữa lợi ích quốc gia và lợi ích của toàn
nhân loại. Nguyên nhân sâu xa của việc định nghĩa chung về khủng bố trên quy mô
toàn cầu chưa đạt được sự đồng thuận không xuất phát từ cách hiểu khác nhau giữa
các quốc gia về khủng bố mà từ sự khác biệt về mặt lợi ích chính trị, lợi ích kinh
tế… Do đó để xây dựng định nghĩa chung các quốc gia cần đặt lợi ích, hoà bình ổn
17
định và sự phát triển thịnh vượng của nhân loại lên hàng đầu.
1.1.1.3. Một số đặc trưng của tội phạm khủng bố
Từ những phân tích ở trên và thực tiễn tội phạm khủng bố diễn ra trong thời
gian qua, chúng tôi cho rằng tội phạm khủng bố hiện nay có một số đặc trưng cơ
bản sau đây:
Chủ thể thực hiện hành vi khủng bố: Chủ thể thực hiện hành vi khủng bố là
vấn đề phức tạp cả trong khoa học pháp lý hình sự cũng như trong thực tiễn xây
dựng và thực thi luật quốc tế. Đây là vấn đề gây tranh luận gay gắt giữa các quốc gia.
Có ý kiến cho rằng “các thuật ngữ trong định nghĩa của Bộ quốc phòng Mỹ là rộng
hơn và hoàn toàn có thể cho phép bao gồm các chính phủ là thủ phạm” [54, 34].
Trương Húc, học giả Trung Quốc trong tác phẩm Những vấn đề cơ bản của Luật hình
sự quốc tế cũng cho rằng: “quốc gia có thể trở thành chủ thể của tội phạm quốc tế
(bao gồm tội phạm khủng bố quốc tế), chỉ có điều là phương thức mà quốc gia gánh
vác trách nhiệm khác với các cá nhân gánh vác trách nhiệm hình sự mà thôi” [11,
12]. Chúng tôi cho rằng quốc gia không thể trở thành chủ thể của tội phạm khủng bố
bởi trong luật quốc tế hiện đại không có quy định nào coi quốc gia là chủ thể của
loại tội phạm này. Mặc dù quốc gia có thể có các hành động hỗ trợ khủng bố như
cung cấp nơi ẩn náu, các phương tiện quân sự, chính trị, kinh tế và các hỗ trợ khác
nhưng không thể vì thế mà coi quốc gia là chủ thể của tội khủng bố, bởi những lý
do sau:
Thuật ngữ khủng bố là không cần thiết khi mô tả những hành động của quốc
gia có chủ quyền, không phải bởi các quốc gia đang ở trên một mức độ đạo đức cao
hơn mà bởi theo các công ước quốc tế bất kỳ cuộc tấn công nào nhằm vào thường
dân trong thời chiến của các lực lượng quân sự thường xuyên (dưới sự chỉ đạo của
quốc gia) được xác định là tội phạm chiến tranh; nếu một cuộc tấn công được thực
hiện trong thời bình được xem là tội ác chống nhân loại. Bên cạnh đó, về mặt lý
luận trách nhiệm hình sự là trách nhiệm cá nhân. Nếu xem quốc gia là chủ thể của
tội phạm khủng bố sẽ không có chế tài hình sự nào khả thi có thể áp dụng đối với
quốc gia. Thực tiễn đấu tranh chống khủng bố trong những năm qua cho thấy, việc
18
không xem quốc gia là chủ thể của tội khủng bố là đúng đắn. Hoa Kỳ - cường quốc
kinh tế, quân sự số một thế giới và cũng là nạn nhân chịu hậu quả nặng nề của
khủng bố khi tấn công tiêu diệt Taliban ở Afganistan cũng chỉ với lý do tiêu diệt
nhà nước hỗ trợ khủng bố. Tương tự, các nhà nước dùng các biện pháp hà khắc để
duy trì sự thống trị của mình và các dân tộc đấu tranh chống lại sự hà khắc đó là
những vấn đề nội bộ. Trong cuộc đấu tranh giành quyền dân tộc tự quyết, các dân
tộc nhỏ bé buộc phải sử dụng mọi biện pháp có thể để giành quyền độc lập tự quyết
cho dân tộc mình. Có thể nói rằng: “tính phi nhà nước là một yếu tố trọng tâm
trong định nghĩa khủng bố” [45, 4]. Như vậy chủ thể của tội phạm khủng bố theo
quan điểm phổ biến hiện nay là các tổ chức hoặc cá nhân.
Mục đích của tội phạm khủng bố: Hầu hết các nghiên cứu đều chỉ ra dấu hiệu
mục đích chính trị của tội phạm khủng bố. Mục đích chính trị trong dấu hiệu cấu
thành tội khủng bố phải được hiểu theo nghĩa rộng bao hàm cả tư tưởng, tôn giáo, sắc
tộc… Tuy nhiên mục đích cuối cùng của tội phạm khủng bố là gây sức ép để buộc nhà
cầm quyền phải thực hiện hoặc không thực hiện một việc gì đó. Có ý kiến cho rằng:
“Vì khủng bố là một tội phạm có tính quốc tế nên định nghĩa phải bắt đầu từ hành vi,
lấy hành vi làm trung tâm”… bên cạnh hành vi mới “xem xét các dấu hiệu khác của
tội phạm như chủ thể, khách thể, động cơ, mục đích” [13, 27]. Chúng tôi cho rằng dấu
hiệu hành vi không phải là dấu hiệu đặc trưng của tội phạm khủng bố, bởi tất cả các tội
phạm đều phải thể hiện qua dấu hiệu này và pháp luật chỉ điều chỉnh hành vi (hành
động hoặc không hành động), không thể điều chỉnh được những gì còn chưa biểu hiện
ra bên ngoài bằng hành vi cụ thể. Để phân biệt tội phạm khủng bố với các tội phạm
khác như giết người, bắt cóc con tin và các tội phạm có tính chất bạo lực khác, nhất
thiết phải xác định mục đích chính trị. Mục đích chính trị là dấu hiệu cơ bản và quan
trọng nhất của tội phạm khủng bố. Một số công ước quốc tế hiện hành gián tiếp đưa
ra khái niệm khủng bố trong đó đều có dấu hiệu mục đích chính trị. Ví dụ: Điều 2,
Công ước quốc tế về trừng trị tài trợ cho khủng bố quy định: “Mục đích của hành vi
này về bản chất hoặc bối cảnh xảy ra là nhằm hăm doạ dân chúng hay ép buộc một
chính phủ hoặc một tổ chức quốc tế phải thực hiện hoặc không thực hiện bất kỳ hành
19
vi nào”; Điều 2, Công ước Thượng Hải năm 2009 định nghĩa khủng bố là: “Một hệ
tư tưởng bạo lực và thực hiện nhằm gây ảnh hưởng đến việc ra quyết định của chính
phủ hoặc các tổ chức quốc tế…”. Có thể nói mục đích chính trị trong dấu hiệu của tội
phạm khủng bố là dấu hiệu cơ bản được sự đồng thuận của các quốc gia, các nhà nghiên
cứu. Tuy nhiên việc xác định một vụ khủng bố xảy ra có mục đích chính trị hay không
không phải lúc nào cũng dễ dàng và ranh giới đôi khi rất mong manh. Bên cạnh đó
quan điểm về “chính trị” thường mang tính chất chủ quan của quốc gia. Ngoài ra, một
số vụ khủng bố không rõ thủ phạm (không có ai đứng ra nhận trách nhiệm) nên việc
xác định vụ việc có dấu hiệu của khủng bố có nhằm mục đích chính trị hay không là
vấn đề phức tạp. Có nhà nghiên cứu cho rằng: “người ta còn nói đến một loại khủng
bố không nhằm mục đích gì - tức là khủng bố chỉ để khủng bố” [12, 24]. Tác giả đưa ra
ví dụ vụ tấn công bằng hơi độc trong hệ thống tầu điện ngầm ở Tokyo năm 1995 do
giáo phái Aum Shinri Kyo thực hiện. Chúng tôi đồng tình với quan điểm của tác giả là
“loại khủng bố này rất hiếm… các loại khủng bố đều nhằm gây sức ép về mặt chính
trị”.
Mục tiêu của tội phạm khủng bố: Mục tiêu của khủng bố là vấn đề gây nhiều
tranh cãi giữa các quốc gia trong định nghĩa khủng bố. Như đã trình bày ở trên, nhà
nước Mỹ cho rằng hành vi tấn công nhằm vào các mục tiêu dân sự và các mục tiêu
không tham chiến là hành động khủng bố. Điều này có nghĩa là nước Mỹ coi các
cuộc tấn công nhằm vào dân thường và quân nhân đang thi hành công vụ không có
vũ trang hoặc tắt vũ trang vào lúc hành vi phạm tội được thực hiện bị coi là khủng
bố. Với quan điểm trên nước Mỹ coi các vụ tấn công như vụ tấn công vào tàu USS
Cole ở cảng Aden (Yêmen) làm 17 thuỷ thủ Mỹ thiệt mạng là hành vi khủng bố.
Điều này thể hiện xu hướng tự nhiên của các quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề của
hành vi khủng bố thường xây dựng và áp dụng định nghĩa khủng bố rộng nhất có
thể vượt ra ngoài khuôn khổ những dấu hiệu chung của khủng bố. Trong ví dụ trên,
tàu USS Cole của Mỹ được trang bị vũ khí hiện đại và thuỷ thủ đoàn đang làm
nhiệm vụ lúc đó nên chúng tôi cho rằng, không thể coi hành vi tấn công vào tàu này
là hành động khủng bố. Các điều ước quốc tế hiện hành như Công ước Tokyo năm
20
1963, Công ước Lahay năm 1970 đều không coi các cuộc tấn công vào các lực
lượng vũ trang quốc gia là hành vi khủng bố. Tuy nhiên thực tiễn thực thi luật pháp
quốc tế trong những năm qua cho thấy việc phân biệt giữa các mục tiêu quân sự và
mục tiêu dân sự rất phức tạp và không có ranh giới rõ ràng. Ví dụ: Các cuộc tấn
công quân sự của các nhóm vũ trang Palestine nhằm vào các khu định cư của người
Israel bị các nước phương Tây và Israel coi là khủng bố. Nhưng thực tế nhiều người
định cư của Israel được trang bị vũ trang (với vũ khí được cung cấp bởi quân đội).
Chúng tôi cho rằng dù trong các khu định cư của người Israel có thường dân sinh
sống nhưng do được trang bị vũ khí nên có thể coi đây là các mục tiêu quân sự bởi
vì nó được dùng để củng cố sự chiếm đóng quân sự, do vậy không thể xem các cuộc
tấn công của người Palestin là hành vi khủng bố. Có ý kiến cho rằng: “Việc coi các
cuộc tấn công vào các mục tiêu hỗn hợp gây thương vong do dân thường là khủng
bố sẽ buộc bên tấn công phải lựa chọn hình thức tấn công phù hợp và quan tâm đến
những sinh linh vô tội” [24, 27]. Quan điểm như trên là phiến diện, không đặt mục
tiêu của tội phạm khủng bố trong mối quan hệ với các yếu tố khác của tội phạm này,
đặc biệt là hành vi khủng bố và mục đích của khủng bố. Một đặc điểm quan trọng của
khủng bố là mục tiêu phải mang tính ngẫu nhiên, những kẻ khủng bố thực hiện như
vậy nhằm mục đích làm cho tất cả mọi người lo sợ họ có thể là mục tiêu tiếp theo. Do
vậy việc lựa chọn phương pháp để tránh thương vong cho dân thường không những
không đặt ra với những kẻ khủng bố mà thực tế hoàn toàn ngược lại. Nếu như các
nhóm du kích sử dụng bạo lực có chọn lọc là các mục tiêu quân sự thì mục tiêu chủ
yếu của chủ nghĩa khủng bố là dân thường. Những kẻ khủng bố khi thực hiện hành vi
của mình bao giờ cũng mong muốn tối đa hoá thiệt hại để thu hút sự chú ý và gây
hoang mang cho công chúng nhằm gây sức ép với nhà cầm quyền nhằm đạt được
mục đích chính trị, tư tưởng, tôn giáo. Nạn nhân của hành vi khủng bố không chỉ
dừng lại ở những nạn nhân trực tiếp. Mục tiêu thực sự mà khủng bố nhắm tới là
công chúng. Trong thực tế “tiếng Latinh “terrere” là gốc của từ “chủ nghĩa khủng
bố” có nghĩa là “sợ hãi” [49, 4]. Một trong những “đặc điểm chính để phân biệt
khủng bố với các hành vi bạo lực khác là hiệu ứng tâm lý mà nó mang lại” [54, 33].
21
Bin Laden, trùm khủng bố số một thế giới trong một đoạn video được thực hiện
ngay sau ngày 11/9/2001 đã xác định mục tiêu của cuộc tấn công khủng bố ở Mỹ là:
“thông qua những hành động tại New York và tại Washington người Mỹ đã nghe
thấy những bài diễn văn có khả năng lấn át mọi bài diễn văn được phát biểu ở bất
cứ nơi nào trên thế giới” [12, 24]. Bên cạnh đó những kẻ khủng bố không thể dự
kiến được sẽ chỉ tấn công nhân viên quân sự, những người có vũ trang bởi nếu được
tổ chức như vậy khủng bố sẽ mất đi yếu tố bất ngờ và sẽ nhanh chóng bị đánh bại.
Hành vi khủng bố: khủng bố thường thể hiện qua các hành vi bạo lực như:
đánh bom, ám sát, bắt cóc con tin, phá huỷ các công trình mang tính biểu tượng của
quốc gia. Hoàn thành bạo lực không phải là điều kiện cần thiết nhưng khả năng và
sự sẵn sàng thực hiện hành động bạo lực là dấu hiệu quan trọng để đánh giá một
hành vi có phải là khủng bố hay không. Dấu hiệu bạo lực của tội khủng bố không
nhất thiết phải là có hành vi gây chết người, thương tích cho nạn nhân… các hành
vi có thể gây ra sự gián đoạn cho cuộc sống của con người cũng có thể xem là
khủng bố. Bên cạnh đó, bước sang thế kỷ XXI, nhân loại lại phải đối phó với các
hình thức khủng bố mang tính phi bạo lực như: làm ô nhiễm nguồn nước sinh hoạt
của người dân, tin tặc, phát tán mầm bệnh nguy hiểm như vi khuẩn bệnh than… kết
hợp với các yếu tố khác cũng có thể xem là hành vi khủng bố.
Hành vi khủng bố trong trường hợp được thực hiện bằng bạo lực rất dễ gây
nhầm lẫn với các hành vi khác như: chiến tranh du kích, nổi dậy và các hành vi
phạm tội thông thường như: giết người, bắt cóc con tin Quân du kích thường sử
dụng các chiến thuật tương tự như tội phạm khủng bố sử dụng như: bắt cóc, đánh
bom các địa điểm công cộng, ám sát… với các mục đích tương tự nhau. Tuy nhiên
có sự khác biệt lớn giữa quân nổi dậy, chiến tranh du kích và khủng bố. Một cuộc
nổi dậy là một phong trào, một nỗ lực chính trị với mục đích cụ thể. Điều này đặt nó
ngoài chiến tranh du kích và khủng bố, vì nổi dậy sử dụng cả hai phương pháp
(chiến tranh du kích và khủng bố) để thực hiện mục tiêu chính trị. Mục tiêu cuối
cùng của quân nổi dậy là thách thức chính quyền hiện tại tiến tới lật đổ chính quyền
để kiểm soát một phần lãnh thổ của mình hoặc đạt được những nhượng bộ chính trị
22
trong việc chia sẻ quyền lực. Quân nổi dậy có sự hỗ trợ tích cực hoặc trợ giúp
không công khai của một bộ phận dân cư, một số quốc gia hoặc các thực thể chính
trị bên ngoài. Trong khi đó, một nhóm khủng bố không đòi hỏi và ít khi có sự hỗ trợ
tích cực, ngay cả sự cảm thông của phần lớn dân cư. Bên cạnh đó, quân nổi dậy
công khai thừa nhận danh tính của mình là những kẻ nổi loạn thì các tổ chức khủng
bố thường không tự xem mình là khủng bố mà xem mình là “máy bay chiến đấu tự
do”. Khủng bố dựa trên các tác động công cộng và do đó các tổ chức khủng bố ý
thức được lợi thế của việc tránh ý nghĩa tiêu cực trong việc xác định bản thân
(không tự thừa nhận là khủng bố). Bên cạnh đó, hành vi khủng bố thường mang tính
lén lút, tránh đối đầu trực tiếp với các lực lượng của chính phủ. Một nhóm du kích
có thể thông qua đối đầu với lực lượng chính phủ để đạt được mục tiêu của họ.
Trong khi đó, khủng bố không đạt được mục đích gì từ một cuộc đối đầu như vậy.
Các tổ chức khủng bố hiếm khi thực hiện kiểm soát lãnh thổ vì điều này làm giảm
đi tính cơ động và sự an toàn của những kẻ khủng bố. Và cuối cùng một phong trào
nổi dậy hoặc lực lượng du kích có thể tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế liên quan đến
pháp luật về chiến tranh trong việc đạt được các mục tiêu của họ. Tội phạm khủng
bố không chịu sự chi phối của bất kỳ luật lệ nào để đạt được mục tiêu của chúng.
Hành vi khủng bố cũng có một số biểu hiện giống tội phạm thông thường
như giết người, bắt cóc con tin… Giống như những kẻ khủng bố, tội phạm thông
thường sử dụng bạo lực để đạt được mục đích cụ thể. Tuy nhiên mục đích của hành
vi phạm tội thông thường và khủng bố hoàn toàn khác nhau. Mặc dù tội phạm hình
sự thông thường sử dụng bạo lực như là phương tiện để xâm phạm tính mạng, sức
khoẻ, tự do thân thể của nạn nhân nhưng xuất phát từ động cơ và mục đích cá nhân.
Bên cạnh đó, không giống như khủng bố, hành vi bạo lực của tội phạm thông
thường được thực hiện hoặc dự định gây ra hậu quả tác động tâm lý cho chính nạn
nhân của nó. Ngược lại mục đích của khủng bố không nhằm vào nạn nhân trực tiếp
của nó mà nhằm mục tiêu gây ra những tác động rộng lớn. Khủng bố không thực
hiện bạo lực vì động cơ lợi ích cá nhân mà chúng tin rằng chúng đang chiến đấu vì
tự do, chiến đấu vì một mục tiêu lớn hơn.
23