Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm: Sử dụng kĩ thuật dạy học giúp học sinh học tốt môn tập đọc lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (579.62 KB, 17 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN .......

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
“Sử dụng một số kĩ thuật dạy học tích cực
giúp học sinh học tốt môn tập đọc lớp 3”

Lĩnh vực/ Môn: Tiếng Việt
Cấp học: Tiểu học

Tác giả: …….
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học …..
NĂM HỌC 2020 - 2021

1


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU

Trang

1. Lý do chọn đề tài

1

2. Mục đích nghiên cứu

1

3. Dối tượng nghiên cứu



2

4 . Nhiệm vụ nghiên cứu

2

5. Phương pháp nghiên cứu

2

6. Đối tượng , phạm vi nghiên cứu.

3

NỘI DUNG

3

1. Cơ sở lý luận

3

1.1.Một số vấn đề về kĩ thuật dạy học

3

1.2Một số nguyên tắc khi sử dụng các kĩ thuật dạy học tích cực

4


1.3.Năng lực và phát triển năng lực cho học sinh

5

1.4.Phân môn Tập đọc ở Trường Tiểu học

6

1.5 Nội dung, chương trình phân môn Tập đọc lớp 3

6

2. Thực trạng

6

3 . Các biện pháp thực hiện

7

Biện pháp 1. Sử dụng kĩ thuật “ khăn trải bàn”:

7

Biện pháp 2. Sử dụng các phương tiện dạy học hiện đại trong dạy phân
môn Tập đọc:
Biện pháp 3. Bổ sung các câu hỏi mức độ 3 và 4 khi soạn giảng các bài
tập đọc
4 Kết quả

KẾT LUẬN

10
12
12
14

1. Kết luận chung

14

2. Bài học kinh nghiệm

14

3. Đề xuất kiến nghị

15

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHẦN MỞ ĐẦU
2

16


1. Lý do chọn đề tài
Công cuộc đổi mới đồng bộ và tồn diện giáo dục nói chung và ở bậc
Tiểu học nói riêng, để đáp ứng nhu cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụ cơng

nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước, tiếp cận trình độ giáo dục của các nước phát
triển trong khu vực và trên thế giới, vấn đề đặt ra là từng bước đổi mới phương
pháp dạy và học sao cho hiệu quả cao.Nhiệm vụ của môn Tiếng Việt ở nhà
trường Tiểu học là trang bị cho học sinh những kỹ năng sử dụng Tiếng Việt
trong quá trình giao tiếp và tư duy, bao gồm các kỹ năng cơ bản: nghe, nói, đọc,
viết. Phân mơn Tập đọc với vị trí quan trọng hàng đầu trong chương trình Tiếng
Việt ở tiểu học cũng nhằm đáp ứng những kỹ năng đó. Nhiệm vụ của phân mơn
Tập đọc là hình thành năng lực cho học sinh, giáo dục lịng ham đọc sách, hình
thành phương pháp và thói quen làm việc với văn bản. Phân môn Tập đọc mang
lại cho trẻ kiến thức về ngôn ngữ, đời sống, kiến thức văn học giúp các em phát
triển ngôn ngữ và tư duy, qua đó giáo dục tư tưởng, đạo đức, tình cảm, thị hiếu
thẩm mỹ cho học sinh. Đây chính là những lí do khiến tơi chọn đề tài: “Sử
dụng một số kĩ thuật dạy học tích cực giúp học sinh học tốt môn tập đọc lớp
3” Với mong muốn nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học phân môn Tập đọc
ở Tiểu học nói chung, ở lớp 3 nói riêng.
2. Mục đích nghiên cứu
Tơi nghiên cứu đề tài này nhằm nâng cao chất lượng dạy và học Tập đọc,
giúp các em học sinh có khả năng đọc, hiểu và cảm thụ tác phẩm tốt hơn, qua đó
HS sẽ được hình thành và phát triển các năng lực cần thiết.
Đề tài cịn giúp giáo viên đứng lớp có cái nhìn sâu hơn về cách truyền tải
các kiến thức sao cho học sinh có khả năng vận dụng kiến thức, kỹ năng đã học
vào thực tiễn cuộc sống.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu phương pháp sử dụng kĩ thuật dạy học phân môn Tập
đọc lớp 3 ở trường tiểu học. Tên đề tài:“ “Sử dụng một số kĩ thuật dạy học
tích cực trong phân mơn Tập đọc lớp 3.”
4.Nhiệm vụ nghiên cứu:
1. Nghiên cứu lí luận
2. Nghiên cứu thực trạng
3. Đề xuất biện pháp

4. Tổ chức thử nghiệm hoặc khảo nghiệm
5. Phương pháp nghiên cứu.
* Nghiên cứu lý thuyết: đọc, thu thập xử lý tài liệu, thống kê và phân loại
bài Tập đọc sách Tiếng Việt lớp 3.

3


* Nghiên cứu thực tế dạy học:

Vấn đáp.

Quan sát.

Thực nghiệm dạy học tiết Tập đọc ở lớp 3.
6. Phạm vi., đối tượng nghiên cứu:
Vấn đề được nghiên cứu và vận dụng trong năm học 2020- 2021

NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận và thực tiễn:
1.1 Một số vấn đề về kĩ thuật dạy học:
1.1.1. Khái niệm kĩ thuật dạy học:
Theo TS Hồng Hịa Bình: “Kĩ thuật dạy học là những biện pháp, cách
thức hành động của giáo viên và học sinh trong các tình huống hành động nhỏ
nhằm thực hiện và điều khiển quá trình dạy học”.
Như vậy, các kĩ thuật dạy học chưa phải là các phương pháp dạy học
độc lập mà là những thành phần của phương pháp dạy học như: kĩ thuật chia
nhóm, kĩ thuật khăn trải bàn, kĩ thuật sơ đồ tư duy, kĩ thuật mảnh ghép,…
1.2.Một số đặc điểm của kĩ thuật dạy học:
1.2.1.Kĩ thuật dạy học phụ thuộc vào nội dung dạy học:

Trong nhà trường tiểu học, học sinh được lĩnh hội hệ thống tri thức, kĩ
năng, kĩ xảo (nội dung dạy học) thông qua các mơn học. Do đó cần phải sử dụng
nhiều kĩ thuật dạy học khác nhau để phù hợp với từng mơn học. Hay nói cách
khác nội dung dạy học mang tính tồn diện thì kĩ thuật dạy học tiểu học cũng
mang tính tồn diện. Chương trình tiểu học hiện nay được soạn thảo có tính chất
phân hóa học sinh, nghĩa là bên cạnh việc trình bày những nội dung cơ bản dành
cho tất cả học sinh cịn có nội dung nâng cao dành cho học sinh khá giỏi.
1.2.2.Kĩ thuật dạy học phụ thuộc vào đặc điểm tâm sinh lý của người học:
Học sinh là đối tượng của giáo viên, là thực thể có ý thức, là một nhân
cách. Do đó KTDH của giáo viên hiệu quả ở mức độ nào cịn phụ thuộc vào đặc
điểm tâm lí của học sinh. Độ tuổi của học sinh tiểu học còn thấp (từ 6 đến 11
tuổi), năng lực chú ý và trí nhớ kém bền vững, do đó khơng nên kéo dài nội
dung bài học từ giờ này sang giờ khác. Làm như vậy học sinh sẽ dễ mệt mỏi,
không lĩnh hội được đầy đủ và chính xác nội dung bài học. Trong một khoảng
thời gian ngắn (từ 30 đến 35 phút) với dung lượng kiến thức vừa phải, học sinh
lĩnh hội nội dung tài liệu học tập ngay trong tiết học. Như vậy, không nên sử
dụng một kĩ thuật dạy học duy nhất trong giờ lên lớp, mà phải kết hợp đan xen
các kĩ thuật dạy học khác nhau, nhằm giúp học sinh tập trung chú ý cao, hứng
thú học tập. Học sinh tiểu học ln hiếu động, ham chơi, thích cái mới lạ nhưng

4


chóng chán. Vì vậy trong mỗi tiết học, ngồi việc sử dụng linh hoạt các phương
pháp dạy học thì việc sử dụng hợp lí các kĩ thuật dạy học sẽ tạo điều kiện cho
học sinh tham gia tích cực vào q trình học tập, qua đó hình thành kĩ năng cho
học sinh.
1.2.3.Kĩ thuật dạy học phụ thuộc vào vai trò và vị trí của giáo viên
Thầy cơ giáo có vị trí rất quan trọng, đối với học sinh tiểu học, thầy cơ
giáo ln là người mẫu lí tưởng. Do vậy, một giờ học thành công hay không phụ

thuộc phần lớn vào khả năng sư phạm của người giáo viên. Với người giáo viên
tiểu học ngồi năng lực chun mơn nghiệp vụ, rất cần có ngoại hình dễ ưa,
khn mặt, nụ cười đơn hậu, giọng nói và một chút năng khiếu nghệ thuật (múa
hát, vẽ…). Những điều kiện này giúp ích nhiều cho giáo viên trong quá trình dạy
học tiểu học.
1.2.4.Kĩ thuật dạy học phụ thuộc vào các yếu tố khác
Các phương pháp dạy học có ảnh hưởng khơng nhỏ đến hiệu quả sử dụng
các KTDH tiểu học. Phụ thuộc nhiều vào cơ sở vật chất và các đồ dùng dạy học
ở mỗi nhà trường. Giáo viên cần chú ý sử dụng tối đa các phương tiện, đồ dùng
dạy học gắn liền với các kĩ thuật dạy học để giờ học đạt kết quả cao về chất
lượng.
Ngoài ra, khi thay đổi hình thức tổ chức dạy học (hoạt động nội khóa và
hoạt động ngoại khóa) thì phải thay đổi các phương pháp dạy học tiểu học và
kéo theo sự thay đổi các kĩ thuật dạy học tiểu học.
1.3.Phân loại kĩ thuật dạy học
Dựa vào nội dung và cách thức sử dụng các kĩ thuật dạy học tích cực
trong dạy học có thể chia các kĩ thuật dạy học tích cực thành 2 nhóm sau:
1.3.1.Kĩ thuật tổ chức hoạt động nhóm
1.3.2. Kĩ thuật tổ chức hoạt động cá nhân
2. Một số nguyên tắc khi sử dụng các kĩ thuật dạy học tích cực:
Việc vận dụng các kĩ thuật dạy học tích cực trong dạy học nói chung và
trong dạy học phân mơn Tập đọc lớp 3 nói riêng, theo tơi phải đảm bảo một số
nguyên tắc sau:
2.1.Nguyên tắc đảm bảo mục tiêu bài học
Để đảm bảo mục tiêu bài học có nghĩa là khi sử dụng các kĩ thuật dạy
học
trong quá trình dạy học phải phù hợp với mục tiêu bài học. Sử dụng các kĩ
thuật dạy học một cách thường xuyên, phổ biến nhưng khơng có nghĩa là sử
dụng vào mọi bài học. Vì vậy lựa chọn các kĩ thuật dạy học phải bám sát mục
tiêu, nội dung bài học để xây dựng kế hoạch dạy học nhằm tạo điều kiện cho HS


5


phát triển tư duy.
2.2Nguyên tắc đảm bảo tính vừa sức:
Đảm bảo tính vừa sức trong dạy học là đảm bảo trong dạy học những tri
thức
khoa học mà học sinh cần nắm vững, phải phù hợp với trình độ, khả
năng, năng lực của học sinh, tức là phải được học sinh nắm vững trên cơ sở học
sinh đã phát huy hết khả năng năng lực của mình. Trong dạy học phân môn Tập
đọc lớp 5, lúc này các em đã ở giai đoạn cuối Tiểu học khả năng tập trung chú ý
cao, tuy nhiên khi tổ chức các hoạt động dạy học có sử dụng các kĩ thuật dạy học
tích cực không nên đưa ra những vấn đề quá phức tạp, quá khó, vượt khỏi khả
năng tưởng tượng của học sinh, giáo viên phải chú ý đến trình độ nhận thức, đặc
điểm tâm sinh lí và năng lực của học sinh, đảm bảo mỗi học sinh đều có thể phát
triển tối đa so với khả năng của mình.
Nếu thực hiện tốt nguyên tắc này sẽ thúc đẩy mạnh mẽ về mặt trí tuệ
cũng như tồn bộ nhân cách của học sinh nói chung. Ngược lại nếu khơng tn
thủ ngun tắc này sẽ khơng phát huy được tính tự giác, tích cực làm việc, kìm
hãm sự phát triển trí tuệ và nhân cách của học sinh.
2.3Nguyên tắc đảm bảo phát huy tính tích cực của học sinh:
Nguyên tắc đảm bảo phát huy tính tích cực của học sinh địi hỏi khi sử
dụng các kĩ thuật dạy học phải phát huy được tính tích cực, tự giác, độc lập nhận
thức của HS. Trong dạy học, khi sử dụng các kĩ thuật dạy học tích cực để phát
huy tính tích cực của HS, giáo viên phải cho học sinh trực tiếp tham gia vào các
hoạt động đó.
3. Năng lực và phát triển năng lực cho học sinh:
Năng lực là những phẩm chất cá nhân được hình thành dựa trên nền tảng
kiến thức, kĩ năng và thái độ mà học sinh có được trong quá trình học tập và rèn

luyện, những kinh nghiệm rút ra được từ việc học tập cũng như từ cuộc sống
hàng ngày kết hợp với những năng khiếu vốn cóđể từ đó học sinh có thể thực
hiện được các nhiệm vụ đặt ra đối với họ trong học tập cũng như trong cuộc
sống.
Mọi người sinh ra đều có những điểm riêng của mình(về thể lực, đặcđiểm
các hệ thần kinh, tuần hồn, hô hấp,....và sự phát triển của các giác quan,....)
không giống với người khác. Theo quan niệm về năng lực vừa nêu thì rõ ràng
một số yếu tố bẩm sinh của mỗi người sẽ có những ảnh hưởng tới năng lực của
họ. Tuy nhiên, bản thân năng lực lại không bẩm sinh mà nó được hình thành
trong q trình phát triển, trải nghiệm của con người trong xã hội. Do phụ thuộc
vào cả các yếu tố bẩm sinh và xã hội, đặc biệt là các chương trình, phương pháp,

6


hình thức giáo dục...nên năng lực của mỗi người lại có những sự khác biệt nhất
định. Có người rất giỏi trong hồn thành việc nào đó, ví dụ như tính tốn bằng
các con số nhưng rất khó khăn và vất vả khi học thuộc một bài hát mà mình
thích và ngược lại một người khác cùng độ tuổi, học cùng với người này từ nhỏ
lại dễ dàng hát được những bài hát mới nghe một hai lần đúng nhạc và hay
nhưng lại rất khó khăn trong việc tính tốn, kể cả đo diện tích căn phịng riêng
của mình.
Xác định năng lực của một HS không phải điều đơn giản. Nhiều khi việc
xác định năng lực học sinh thường hay được hiểu đồng nghĩa với những kiến
thức mà HS đó có được trong học tập, đặc biệt là học tập trên lớp. Ví dụ, một
HS thường được cơ giáo khen về mơn Tốn trên lớp học sẽ được cho là có năng
lực về Toán, hoặc một HS được điểm tốt khi mơ tả lại làm thế nào để có bức
tranh đẹp sẽ được cho là có năng lực tốt về Mĩ thuật. Cách xác định này chưa thể
hiện được hoàn toàn khái niệm năng lực là phải giải quyết một việc trong đời
sống thực tiễn hàng ngày. Khi tổ chức các hoạt động giáo dục và dạy học cần

giúp cho HS phát triển được các năng lực của cá nhân. Có nghĩa là HS phải biết
vận dụng những kiến thức, kinh nghiệm đã được học của HS vào trong cuộc
sống chứ không đơn thuần là những kiến thức hàn lâm sáo rỗng hoặc kĩ năng ghi
chép.
4. Phân môn Tập đọc ở Trường Tiểu học.
Phân môn Tập đọc trong Tiếng Việt là một trong những phân môn quan
trọng của Tiếng Việt, bởi có đọc tốt thì mới học tốt Tiếng Việt. Chức năng của
phân môn Tập đọc là luyện đọc: rèn cho học sinh đọc đúng, đọc trôi chảy, tiến
tới đọc hay (đọc diễn cảm). Thông qua đọc đúng, đọc hay học sinh cảm thụ
được cái hay cái đẹp của bài văn, bài thơ…Từ đó các em biết áp dụng những
điều đã học vào thực tiễn cuộc sống. Bởi vậy ngoài việc đọc đúng, đọc diễn cảm
thì việc nâng cao năng lực đọc cho học sinh nhất là là hết sức cần thiết đối với
giáo viên ở bậc Tiểu học.
5. Nội dung chương trình phân mơn Tập đọc lớp 3:
Phân mơn Tập đọc gồm 93 bài tập đọc, trong đó có 30 bài thơ, 63 bài văn
xuôi (truyện văn miêu tả, văn bản khoa học, nghị luận và văn bản thông thường),
18 bài là tác phẩm văn học nước ngồi hoặc có nội dung về nước ngoài và người
nước ngoài.
Nội dung các bài tập đọc phản ánh nhiều lĩnh vực khác nhau, từ gia đình,
nhà
trường, quê hương, các vùng miền và các dân tộc anh em trên đất nước ta
đến

7


các hoạt động văn hoá, khoa học, thể thao và các vấn đề lớn của xã hội
như bảo vệ hoà bình, phát triển tình hữu nghị, sự hợp tác giữa các dân tộc, bảo
vệ môi trường sống, chinh phục vũ trụ,...
II. Thực trạng

1. Thuận lợi :
Trường tôi đang công tác có cơ sở vật chất tương đối tốt. Tập thể Cán bộ
quản lý - Giáo viên - Công nhân viên nhiệt tình an tâm cơng tác, khắc phục mọi
khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ; xây dựng được khối đoàn kết nhất trí trong
nhà trường, tạo điều kiện thuận lợi cho trường thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị
của ngành. Đội ngũ giáo viên có tay nghề vững vàng, trình độ khá đồng đều; hầu
hết giáo viên đã có nhận thức đúng đắn, sự cần thiết phải đổi mới phương pháp
dạy học, hình thức tổ chức dạy học, kết hợp việc sử dụng các kĩ thuật dạy học
trong từng tiết dạy sao cho phù hợp với nội dung dạy học.
Năm học 2021- 2021 tôi được phân công chủ nhiệm lớp 3A. Học
sinh lớp tôi chủ yếu đều ở cùng một khu vực gần trường. Nhìn chung các con có
lực học tương đối đồng đều, thích tham gia các hoạt động học tập trong giờ học.
Giáo viên và phụ huynh học sinh ln có sự phối kết hợp chặt chẽ trong các hoạt
động dạy – học các mơn học nói chung(phân mơn Tập đọc nói riêng).
2. Khó khăn và hạn chế :
Các kĩ thuật dạy học hiện đại đã được giáo viên thường xuyên sử dụng,
tuy nhiên một số giáo viên còn chưa nắm được cách thức sử dụng để vận dụng
cho tốt trong dạy học tập đọc. Một số giáo viên còn quan niệm dạy tập đọc chỉ
cần dạy cho các con đọc tốt, trả lời được các câu hỏi trong bài tập đọc mà quên
đi việc dạy các con biết vận dụng những kiến thức đã học trong bài vào thực tiễn
cuộc sống.
Về phía học sinh, các con chưa có thói quen tự đọc, tự tìm hiểu khám phá
nội dung bài học. Năng lực đọc hiểu, kĩ năng sống như: giao tiếp, kĩ năng hợp
tác nhóm……. của các con chưa tốt. Bên cạnh đó cịn có một số học sinh đọc
cịn chậm, chưa lưu lốt.
Tơi tiến hành làm một đợt khảo sát chất lượng đọc của lớp ngay từ
đầu năm học. Kết quả như sau:
Đọc đúng, Đọc to, rõ, Đọc nhỏ, ấp Hiểu ND bài
Số
Lớp

đọc hay
lưu loát
úng
HS
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
3A1 34
4
11.8 18
52.9 9
26.5 19
55.9
Về phát triển năng lực, kết quả như sau:
- Tự giác hoàn thành nhiệm vụ học tập: 19/ 34 học sinh.

8


- Tự tin, mạnh dạn trong giao tiếp: 6/34 học sinh.
- Biết phối hợp với bạn khi làm việc nhóm: 21/34 học sinh.
Trước những thuận lợi, khó khăn trên, là một giáo viên chủ nhiệm
lớp, tôi thấy rõ tầm quan trọng của việc sử dụng các kĩ thuật dạy học tích cực
vào trong giảng dạy, và đã có một định hướng đúng đắn, một kế hoạch khả thi
để hướng dẫn cho học sinh học tốt môn học theo hướng phát triển năng lực.

3. CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN:
Biện pháp 1. Sử dụng kĩ thuật “ khăn trải bàn”:
Kĩ thuật “Khăn trải bàn” là một kĩ thuật dạy học thể hiện quan điểm học
hợp tác, trong đó có kết hợp giữa hoạt động cá nhân và hoạt động nhóm.
* Cách thực hiện:
HS được chia thành các nhóm nhỏ. Mỗi nhóm sẽ có một tờ giấy A0 đặt trên
bàn, như là một chiếc khăn trải bàn.
Chia giấy A0 thành phần chính giữa và phần xung quanh, tiếp tục chia phần
xung quanh thành các phần tương ứng với số thành viên của nhóm (Ví dụ: chia
phần xung quanh thành 4 phần nếu nhóm có 4 thành viên, như trong hình vẽ).

Mỗi thành viên sẽ suy nghĩ và viết các ý tưởng của mình (về một vấn đề
nào đó mà GV yêu cầu) vào phần cạnh "khăn trải bàn" trước mặt mình
Thảo luận nhóm, tìm ra những ý tưởng chung và viết vào chính giữa “ khăn
trải bàn”.
Khi trình bày trước lớp, đại diện các nhóm sẽ trình bày những kết luận/ý
kiến chung của nhóm đã được viết ở phần chính giữa của khăn trải bàn.
*Lưu ý:
+ Câu hỏi thảo luận nên là câu hỏi mở.

9


+ Nếu số HS trong 1 nhóm q đơng chiếm quá nhiều chỗ so với chu vi
khăn trải bàn , có thể phát cho HS những mảnh giấy nhỏ để các em ghi lại ý kiến
cá nhân. Sau đó dính những ý kiến vào phần xung quanh khăn trải bàn
+ Trong q trình thảo luận thống nhất ý kiến, có thể đính những ý kiến
thống nhất vào giữa khăn. Những ý kiến trùng nhau có thể đính chồng lên nhau.
+ Những ý kiến không thống nhất không để ở giữa khăn. Cá nhân có quyền
bảo lưu và được giữ lại ở phần xung quanh khăn trải bàn.

Một vài ý kiến cá nhân của tôi với kĩ thuật “Khăn trải bàn”:Kĩ thuật này
giúp cho hoạt động nhóm có hiệu quả hơn, mỗi học sinh đều phải đưa ra ý kiến
của mình về chủ đề đang thảo luận, không ỷ lại vào các bạn khá, giỏi.Kĩ thuật này
áp dụng cho hoạt động nhóm với một chủ đề nhỏ trong tiết học, tồn thể học sinh
cùng nghiên cứu một chủ đề.Sau khi các nhóm hồn tất cơng việc giáo viên có thể
gắn các mẫu giấy “Khăn trải bàn” lên bảng để cả lớp cùng nhận xét. Có thể dùng
giấy nhỏ hơn, dùng máy chiếu phóng lớn.Có thể thay số bằng tên của học sinh để
sau đó giáo viên có thể đánh giá được khả năng nhận thức của từng học sinh về
chủ đề được nêu.
- Ví dụ: Khi dạy bài: Chiếc áo len( sách Tiếng Việt 3 tập 1 trang 20)
Hoạt động 2: Tìm hiểu bài:
1. Chia nhóm:
- GV chia lớp thành 8 nhóm, mỗi nhóm 8 học sinh.
- Giao việc cho HS, mỗi bạn 1 vấn đề (gồm 8 vấn đề)
- Nêu vấn đề:
HS 1:Trả lời câu hỏi 1: Chiếc áo len của bạn Hịa có đặc điểm như thế nào?
HS 2: Trả lời câu hỏi 2: Vì sao Lan dỗi mẹ ?
HS 3: Trả lời câu hỏi 3: Anh Tuấn nói với mẹ những gì ?
HS 4: Trả lời câu hỏi 4: Anh Tuấn là một người như thế nào?
HS5 : Trả lời câu hỏi 5: Vì sao Lan ân hận ?
HS 6: Trả lời câu hỏi 6: Có khi nào trong cuộc sống con đòi hỏi giống bạn
Lan chưa? Con có nhận ra là mình đã sai khơng?Hãy chia sẻ cho cả lớp cùng
biết?
HS 7: Trả lời câu hỏi 7: Có khi nào trong cuộc sống con xử sự giống anh
Tuấn chưa? Hãy chia sẻ cho cả lớp cùng biết?
HS 8: Trả lời câu hỏi 8: Qua câu chuyện con rút ra bài học gì?
Sau khi các nhóm di chuyển về đúng vị trí của nhóm, tơi phát cho mỗi
nhóm 1
tờ giấy A0 trên đó đã mặc định sẵn số thứ tự của từng thành viên và chia các
khoảng sẵn (phương pháp khăn trải bàn), cho học sinh viết đầy đủ thông tin của


10


mình trên giấy (chiếu slide chia giấy lên bảng để các con dễ hiểu)
2. Kể lại câu chuyện cho cả lớp nghe.
3. Chiếu side yêu cầu các nhóm trả lời các câu hỏi (Để các con nhớ được
nội dung bài tập đọc, trả lời đúng được các câu hỏi, tôi cho HS mở sách giáo
khoa đọc thầm bài )
Thời gian cho hoạt động 2 là 35 phút, trong đó 15 phút làm việc cá nhân
(tức là các con tự ghi chép ý kiến cá nhân ) và 20 phút làm việc nhóm ( các con
bàn bạc, thảo luận để trình bày ra giấy Ao viết to bằng bút dạ.)
Yêu cầu các nhóm treo sản phẩm của mình lên bảng, gọi ngẫu nhiên đại
diện các nhóm lên trình bày sản phẩm của nhóm mình, mỗi nhóm trình bày ngắn
gọn khơng q 5 phút
GV chốt lại kiến thức và công bố đội có ý kiến hay nhất, đồng thời khen,
khuyến khích các đội còn lại
Kiến thức chốt lại là:
- Lan dỗi mẹ vì mẹ nói rằng khơng thể mua chiếc áo đắt tiền như vậy.
- Anh Tuấn nói với mẹ là: “ Mẹ dành hết tiền mua áo cho em Lan đi. Con
không cần thêm áo đâu……Con sẽ mặc thêm áo cũ ở bên trong.
- Anh Tuấn là một người rất thương em, biết nhường nhịn, quan tâm đến
em.
- Lan ân hận vì thấy mình ích kỉ, chỉ nghĩ đến bản thân mà không biết nghĩ
đến anh.
- Qua câu chuyện, con rút ra bài học: Anh em trong một nhà phải biết quan
tâm, nhường nhịn nhau.
Kết quả: Trước đây, khi tổ chức hoạt động nhóm theo hình thức cũ, các
con tham gia một cách hời hợt. Có bạn khơng tham gia ý kiến nào cả, có bạn thiếu
tự tin, khơng dám trình bày quan điểm của mình trước lớp. Khi báo cáo nhóm, chỉ

một em ưu tú nêu. Tuy nhiên khi sử dụng kĩ thuật: : Khăn trải bàn” tôi thấy các
con mạnh dạn, tự tin hơn, dám nói quan điểm của mình. Đặc biệt các ý kiến mà
các con đưa ra đều được tơn trọng
Tóm lại, Kĩ thuật “Khăn trải bàn” có thể sử dụng trong các bài học, chủ đề,
mơn học và ở các cấp học, với các mức độ và nội dung khác nhau. Sử dụng kĩ
thuật này sẽ giúp học sinh phát huy tinh thần trách nhiệm, không ỷ lại, tăng cường
khả năng tư duy độc lập, phát triển mơ hình tương tác giữa học sinh với học sinh.
Thơng qua tấm khăn trải bàn, học sinh có thể tiếp thu bài học dễ dàng hơn, nhanh
hơn, ghi nhớ được lâu hơn, như vậy kết quả học tập được nâng cao.
Đồng thời qua đó giáo viên cũng có thể tự đánh giá được kết quả giờ dạy
của mình để điều chỉnh cách dạy.

11


Biện pháp 2. Sử dụng các phương tiện dạy học hiện đại trong dạy
phân môn Tập đọc: Đổi mới phương pháp dạy học để nâng cao hơn nữa chất
lượng dạy học phải tiến hành đồng bộ với việc tìm kiếm những phương thức mới
để truyền thụ kiến thức, kích thích hoạt động học nhằm giúp học sinh tự khám phá
ra các kiến thức. Một trong những phương thức mới đó là sử dụng các phương
tiện dạy học hiện đại trong q trình dạy học.
Tác dụng của các phương tiện đó là:
- Cung cấp những phương tiện để học sinh có điều kiện tự khám phá ra
kiến thức mới.
- Cung cấp cho học sinh những thơng tin đầy đủ và chính xác về sự vật,
hiện tượng, sự kiện trong xã hội.
- Nâng cao hiệu quả giờ học vì các phương tiện dạy học hiện đại gây hứng
thú học tập cho học sinh, làm cho bài học trở nên dễ tiếp thu hơn, đẩy nhanh tốc
độ ghi nhớ lâu bền.
- Nhờ các phương tiện này việc học được gắn với thực tế và bước đầu tạo

ra nhu cầu sáng tạo, năng lực sáng tạo cho học sinh.
- Góp phần nâng cao năng lực tự đánh giá của học sinh.
Do có nhiều tác dụng nên phương tiện dạy học hiện đại đang là công cụ
lao động thiết yếu của giáo viên và học sinh, góp phần nhân cao hiệu quả giờ
dạy.
Ngồi ra, trong mỗi bài tập đọc, tôi thường sử dụng máy chiếu để trình
chiếu phần luyện đọc câu dài, chỗ gạch chéo ngắt nghỉ hơi ở những câu dài, khó
đọc, những từ ngữ cần nhấn giọng trên slide.
VD về ngắt câu trong bài Cuộc chạy đua trong rừng:
Con trai à, con phải đến bác thợ rèn để xem lại bộ móng. Nó cần thiết
cho cuộc đua hơn là bộ đồ đẹp.
Bài Hội vật:
Lúc lâu,/ ơng mới thị tay xuống/ nắm lấy khố Quắm Đen,/ nhấc bổng
anh ta lên,/ coi nhẹ nhàng như giơ con ếch có buộc sợi rơm ngang bụng vậy.//
Việc sử dụng công nghệ thông tin vào giải nghĩa các từ khó cũng được tơi
áp dụng nhiều trong các tiết dạy để học sinh phần nào nắm rõ nghĩa các từ khó
đó.
Ví dụ giải nghĩa từ “cái khố” trong bài Hội vật.

12


Qua tích lũy tài ngun, tơi đã xây dựng được một kho tư liệu trên
Drive. Mỗi lần giảng dạy tôi lại đưa ra một cách nhanh chóng, khơng mất nhiều
thời gian.
Tơi cịn hướng dẫn học sinh tự tìm tư liệu trên mạng liên quan đến bài
học để tìm hiểu thêm.
Kết quả: Khi sử dụng đồ dùng dạy học hiện đại trong phân mơn Tập đọc,
tơi thấy học sinh tích cực học tập, hiểu bài nhanh hơn.
Tóm lại, việc sử dụng hiệu quả đồ dùng dạy học hiện đại là cực kì quan

trọng với tất cả các mơn học. Đồ dùng trực quan góp phần quyết định sự thành
cơng của tiết học. Vì vậy trước mỗi tiết học người giáo viên cần chuẩn bị đồ
dùng cho tiết học chu đáo, sử dụng đồ dùng dạy học như nguồn cung cấp kiến
thức chứ không phải để minh họa cho bài học, làm đẹp cho giờ học. Ngày này,
việc đưa công nghệ thông tin vào giảng dạy là một thuận lợi lớn đối với mỗi tiết
dạy. Tuy nhiên để làm được một giáo án điện tử thành cơng địi hỏi sự hỗ trợ của
ban giám hiệu nhà trường, sự tìm tịi, sáng tạo, sưu tầm tranh ảnh trong thực tế
để đưa vào bài giảng những hình ảnh đẹp, giá trị.
Biện pháp 3. Bổ sung các câu hỏi mức độ 3 và 4 khi soạn giảng các bài
tập đọc:
Bài tập đọc trong sách Tiếng Việt lớp 3 đã đưa ra nhiều câu hỏi - bài tập
có sự đa dạng, phong phú về thể loại và nội dung hỏi, dễ dàng dẫn dắt học sinh
tiếp cận tác phẩm, gây được hứng thú tìm hiểu bài cho các em. Tuy nhiên, có
một số bài, phần tìm hiểu bài chưa có các câu hỏi mức độ 3 và 4 , các bài tập đó
cũng chưa thể đảm bảo đã phù hợp, đã đủ với các đối tượng HS khác nhau ở
những vùng khác nhau, tôi mạnh dạn đưa ra thêm một số câu hỏi với mong
muốn đóng góp tiếng nói chung nhằm hồn thiện và nâng cao chất lượng dạy
học tập đọc theo định hướng phát triển năng lực... Cụ thể tôi thêm một số câu
hỏi - bài tập tìm hiểu bài trong các bài Tập đọc sau.
* Bài “Cuộc chạy đua trong rừng” - trang 81, tập 2.
Bài tập đọc – kể chuyện giáo dục học sinh làm việc gì cũng phải cẩn thận
chu đáo. Nếu chủ quan, coi thường những thứ tưởng chừng như rất nhỏ thì sẽ
thất bại.
Sách giáo khoa đã đưa ra bốn câu hỏi cho học sinh. Tuy nhiên những câu
hỏi này mới chỉ dừng lại ở câu hỏi, học sinh chỉ cần đọc trong văn bản có thể trả
lời được một cách dễ dàng: Ngựa Con rút ra bài học gì? mà chưa có câu hỏi trực
tiếp liên hệ đến bản thân các em ở trong lớp. Trên cơ sở đó, tôi thêm vào hệ
thống câu hỏi - bài tập của bài đọc này câu 3 và câu 6 như sau:
1. Ngựa Con chuẩn bị tham dự hội thi như thế nào?
2. Ngựa Cha khuyên nhủ con điều gì?


13


3. Nghe cha nói, Ngựa Con phản ứng như thế nào?
4. Vì sao Ngựa Con khơng đạt kết quả trong hội thi?
5. Ngựa con rút ra bài học gì?
6. Từ câu chuyện của Ngựa Con, em rút ra được bài học gì cho
bản thân.
4. Kết quả
Qua quá trình giảng dạy, nhờ đã kiên trì bên bỉ áp dụng những kĩ thuật
dạy học như đã nêu trên. Tôi đã tiến hành khảo sát vào giữa kì 2. Kết quả như
sau:
Đọc
Đọc
Hiểu ND
S
Đọc
đúng, đọc to, rõ, lưu
bài
Lố
nhỏ, ấp úng
hay
loát
ớp
H
S
S
S
S

%
%
%
%
S
L
L
L
L
3
3
1
5
2
7
1
3
8
4
A1
4
9
5.9
4
0.6
1.8
0/34
8.2
Về phát triển năng lực, kết quả như sau:
Tự giác hoàn thành nhiệm vụ học tập: 30/34 học sinh.

Tự tin, mạnh dạn trong giao tiếp: 27/34 học sinh.
Biết phối hợp với bạn khi làm việc nhóm: 34/34 học sinh
Qua kết quả khảo sát và số liệu ghi chép tôi rất phấn khởi thấy trong các
giờ Tập đọc học sinh say mê học và lớp học sôi nổi, kỹ năng đọc diễn cảm được
nâng cao rõ rệt. Có nhiều em đầu năm học đọc nhỏ lí nhí, chưa trơi chảy, đến
cuối năm các em đã đọc to, rõ ràng, lưu loát hơn. Những em học trung bình, khá
trở lên đã đọc diễn cảm bài văn theo đúng yêu cầu đề ra. Đặc biệt, sau khi áp
dụng một số biện pháp trên vào dạy một số bài tơi thấy kĩ năng giao tiếp, kĩ
năng hoạt động nhóm, biết vận dụng những điều đã học vào thực tiễn…. của học
sinh đã được nâng lên rất nhiều, các con tự tin khi trình bày trước tập thể lớp.
Điều đó chứng tỏ rằng với các biện pháp như đã trình bày ở trên đã mang
lại hiệu quả thiết thực cho học sinh. Mặc dù kết quả còn khiêm tốn, chưa đạt
được như mong muốn, nhưng tôi hi vọng rằng với phương pháp như đã trình
bày, tơi sẽ đạt được kết quả khả quan vào cuối năm học.

14


KẾT LUẬN
I. Kết luận:
Với mong muốn học sinh có thể áp dụng được những kiến thức đã học
vào thực tế cuộc sống, có khả năng ứng phó với cuộc sống xung quanh, ngồi đề
tài tơi đã nêu ở trên, tơi còn muốn nghiên cứu thêm một số biện pháp như tổ
chức Trò chơi: Tập làm MC, Tập làm phát thanh viên, …, thi vẽ tranh về quê
hương… cho đề tài tiếp theo của mình.
II. Bài học kinh nghiệm
Trong thực tế giảng dạy và trong quá trình nghiên cứu làm chuyên đề tơi
rút ra bài học kinh nghiệm, đó là:
1. Đối với giáo viên:
Để vận dụng có hiệu quả các kĩ thuật dạy học tích cực này tơi thấy người

giáo viên trong quá trình giảng dạy cần lưu ý một số vấn đề sau:
- Nắm vững đặc điểm tâm lí học sinh tiểu học từ đó lựa chọn đồ dùng,
phương tiện dạy học cho phù hợp.
- Nắm vững mục tiêu, yêu cầu của bài để xây dựng các hoạt động cho phù
hợp.
- Nghiên cứu yêu cầu giáo dục kĩ năng sống, lồng ghép giáo dục kĩ năng
sống trong các hoạt động dạy học để đảm bảo việc ứng dụng kiến thức vào trong
cuộc sống mang lại lợi ích cho học sinh và toàn xã hội.
- Nghiên cứu kĩ các phương pháp dạy học, kĩ thuật dạy học tích cực, lựa
chọn phương pháp, kĩ thuật dạy học cho phù hợp.
- Tổ chức hoạt động dạy học sao mọi học sinh đều được hoạt động một
cách chủ động, tích cực.
- Khơng ngừng học tập, nghiên cứu để nâng cao trình độ chun mơn
nghiệp vụ của mình áp dụng vào giảng dạy.
2. Đối với học sinh:
- Cần đọc trước bài, suy nghĩ về nội dung bài học, tự mình có thể nêu ra
những câu hỏi để tự kiểm tra kiến thức, có cách đọc đúng, hay.
- Trong quá trình học tập cần thể hiện vai trị chủ thể tích cực trong các
hoạt động để có được kĩ năng cần thiết, đó là kĩ năng nghe, nói, đọc, viết tốt.
- Cần phát huy tính chủ động, năng động sáng tạo trong hoạt động học, tự
do phát biểu ý kiến để rèn luyện cho mình phương pháp học tập tích cực và bản
lĩnh tự tin, biết ứng xử thông minh, đúng đắn với môi trường xung quanh.
III – Dề xuất, kiến nghị

15


Trong công cuộc đổi mới hiện nay, vấn đề “đổi mới phương pháp dạy
học” là vấn đề được đặt ra có tính cấp bách. Để phát triển năng lực cho học sinh
lớp 3 tôi xin đề xuất một số vấn đề sau:

1. Với các cấp quản lý:
- Bồi dưỡng năng lực chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm và lý luận về đổi
mới phương pháp dạy học cho giáo viên Tiểu học. Tạo điều kiện cho giáo viên
học tập và thực hiện đổi mới phương pháp dạy học có hiệu quả.
- Cần đầu tư cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động dạy - học.
- Hàng năm tổ chức phong trào thi kể chuyện, ngâm thơ, đọc diễn cảm
cho giáo viên, cho học sinh trong khối, trong trường .
- Các nhà quản lý giáo dục và những giáo viên trực tiếp giảng dạy cần
mạnh dạn hơn trong việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng
cao hiệu quả giảng dạy.
2. Đối với giáo viên:
- Giáo viên không ngừng học hỏi để nâng cao trình độ học vấn. Cần luyện
đọc thường xuyên để có giọng đọc thật chuẩn có sức thuyết phục.
- Cần sớm tiếp thu kết quả nghiên cứu của các nhà Giáo dục về đổi mới
phương pháp dạy học ở Tiểu học.
- Giảng dạy nhiệt tình, tạo lên khơng khí học tập sơi nổi để giúp mọi đối
tượng học sinh nắm bắt được kiến thức, rèn luyện kĩ năng. Đặc biệt chú trọng
việc rèn thói quen có nề nếp học tập tốt cho học sinh. Hướng dẫn các em biết
phương pháp tự học ở nhà để đến lớp các em dễ hiểu bài hơn.
- Ngay từ đầu năm học cần phân loại học sinh để có hướng bồi dưỡng học
sinh giỏi, kèm cặp học sinh yếu kém, tích cực kiểm tra, theo dõi thường xuyên
kết quả, sự tiến bộ về việc đọc của học sinh.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của tôi trong việc sử dụng một số kĩ
thuật dạy học tích cực trong phân môn Tập đọc lớp 3 nhằm phát triển năng lực
cho học sinh. Có lẽ đề tài của tơi cịn khơng tránh khỏi thiếu sót và hạn chế, tơi
mong được các cấp trên cùng các bạn đồng nghiệp góp ý kiến bổ sung để kinh
nghiệm dạy học của tôi thêm phong phú, hồn thiện góp phần nhỏ bé của mình
đưa sự nghiệp giáo dục phát triển.
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, khơng
sao chép nội dung của người khác.

Tôi xin trân trọng cảm ơn!

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách Tiếng Việt lớp 3 – Nhà xuất bản Giáo dục
2. Tiếng Việt 3 sách giáo viên – Nhà xuất bản Giáo dục
3. Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức – kĩ năng các môn học ở Tiểu học. – Nhà
xuất bản giáo dục.
4. Một số tạp chí Thế giới trong ta.
5. Tài liệu học tập về phương pháp dạy học theo hướng tích hợp – Tác giả GS:
Nguyễn Văn Tuấn.
6. Giáo dục kĩ năng sống trong các môn học ở Tiểu học lớp 3 – Bộ GD và ĐT
7. Phương pháp dạy học Tiếng Việt – nhìn từ tiểu học, NXB GDVN.
8. Dạy và học mơn Tiếng Việt ở Tiểu học theo chương trình mới, NXB
GDVN.



×