Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

Tài liệu Lý thuyết kinh tế đoạt giải Nobel năm 2005 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.09 KB, 4 trang )

Lý thuyết kinh tế đoạt giải Nobel năm 2005
Ngày 10 tháng 10, hai học giả Mỹ, Robert Aumann và Thomas Schelling, đã đoạt giải
Nobel kinh tế 2005. Nghiên cứu của các ông tập trung vào lý giải sự hình thành các thể
chế kinh tế và xã hội nhằm phối hợp hành vi của các bên trong những tương tác có tính
chiến lược. Tức là những tình huống mà mỗi bên đều tìm cách "gây ảnh hưởng, dự
đoán và thích ứng với những chiến lược hay cách thức ứng xử mà các đối tác khác đã
làm, hoặc dự định làm".
Robert Aumamn (trái) và Thomas Schelling.
Một tương tác tiêu biểu là đàm phán về giá cả giữa người mua và người bán. Mỗi bên
đều tìm cách đoán xem bên kia sẽ chấp nhận đề đạt gì từ phía mình. Khi những dự
đoán của họ trùng hợp nhau thì thỏa thuận được thực hiện. Theo thuật ngữ của lý
thuyết trò chơi, họ đạt được đến trạng thái cân bằng - mỗi bên đã hành động phù hợp
nhất với dự đoán của mình về điều mà bên kia mong đợi và những dự đoán đó là đúng.
Chiến lược đàm phán để cân bằng lợi ích
Vấn đề đặt ra là điều gì đặt ra khiến cho dự đoán của các bên về hành vi của bên kia
trùng hợp nhau. Nói khác đi, trong rất nhiều khả năng có thể xảy ra, tại sao một kết cục
cụ thể lại được lại được cả hai bên đàm phán cùng thực hiện. Thomas Schelling làm
cho câu hỏi đó trở nên nổi tiếng trong cuốn sách Strategy of Conflict (tạm dịch: Chiến
lược Đối đầu).
Để hiểu lý thuyết của ông, chúng ta bắt đầu bằng những lý thuyết đơn giản. Chẳng hạn,
bạn nên đi trên lề đường nào? Câu trả lời xem ra có vẻ dễ dàng. Vì mọi người đều đi
bên phải, nên tôi cũng sẽ làm như vậy. Cũng hệt như thế, đi bên lề đường bên trái là
đúng, nếu như bạn đang ở Anh, Australia, hoặc Nhật Bản. Như vậy, cuộc chơi có hai
trạng thái cân bằng. Và chẳng ai nói cho chúng ta biết tại sao việc đi lề bên phải lại
được chọn so với trái hoặc ngược lại.
Khi mà cuộc chơi có nhiều trạng thái cân bằng như vậy, những người tham gia cuộc
chơi phải có cùng chung một cách hiểu là cân bằng nào sẽ được lựa chọn. Trong ví dụ
vừa nêu, luật đi đường tại mỗi quốc gia hướng đích cho chúng ta.Nhưng khi một đám
bạn rủ nhau đi uống cà phê, chưa ai kịp nói cho ai sẽ dừng lại ở quán nào. Một trong số
họ bị kẹt xe ở dọc đường và bị bỏ lại phía sau. Mobile phone thì vừa bị hết pin. Nơi nào
anh ta nên đến để gặp lại bạn bè? Dĩ nhiên là chả có câu trả lời nào đúng hơn ngoài


việc chọn cái địa điểm cả nhóm hay giao lưu nhất. Ở đây, thông lệ của nhóm giúp anh
ta lời giải đáp.
Chủ đề chung ở đây là thể chế, luật lệ nhà nước hoặc thông lệ xã hội, đóng vai trò cơ
bản trong việc phối hợp kỳ vọng và định hướng hành vi của các tác nhân trong một
nhóm, một tổ chức, hay một quốc gia. Bây giờ hãy xem thử thể chế, pháp định hoặc
thông lệ, tác động thế nào đến đàm phán giá giữa hai bên mua và bán.
Ai cũng biết rằng, bên nào có quyền lực đàm phán lớn hơn, thì có thể đòi hỏi lợi ích cao
hơn từ thương mại. Ví dụ, nhiều cơ quan ham chuộng dịch vụ bảo hành máy tính của
Oracle thì công ty có thể đòi giá cao hơn đối thủ cạnh tranh mà không sợ mất tất cả các
khách hàng tiềm tàng. Dẫu sao đi nữa, trong các cuộc đàm phán như vậy, thường có vô
số những thỏa thuận giá mà nó có thể đem lại lợi ích cho cả hai bên mua và bán. Như
đã nêu, thỏa thuận đạt được, khi kỳ vọng của các bên về điều mà bên kia chấp thuận là
trùng hợp nhau.
Dĩ nhiên, chẳng có ai có thể nói trước được kết cục nào sẽ lựa chọn. Tuy nhiên, bối
cảnh của cuộc đàm phán đôi khi lại cho phép làm sáng rõ một kết cục cụ thể, nhờ đó, kỳ
vọng của các bên được trùng hợp nhau. Thomas Schelling gọi đó là điểm tụ (focal
point). Nó được soi sáng bởi tiền lệ "chúng tôi làm như vậy vì nó thường xuyên được
làm theo cách đấy" hoặc bởi vì sự công bằng hay tính đối xứng (chia lợi ích thương mại
theo tỉ lệ 50:50) hoặc thông qua người mua bán sốt sắng.
Một cách khác mà qua đó, kỳ vọng của các bên đàm phán được hình thành là một bên
tìm ảnh hưởng gây lên kỳ vọng của bên kia. Giả sử bên bán đưa ra yêu cầu trước và
tuyên bố rằng sẽ không đàm phán thêm nữa nếu bên mua từ chối. Hơn nữa, bên mua
thực sự tin rằng bên bán sẽ thực hiện cam kết của mình. Khi đó, bên bán sẽ đòi cho
mình hầu hết ích lợi tiềm tàng từ trao đổi và chỉ để lại cho bên mua một phần nhỏ, đủ để
không bỏ đi vì tức giận. Chiến lược đàm phán tốt nhất, do vậy, là từ chối đàm phán.
Theo lời của Thomas Schelling, "nghịch lý là khả năng khống chế đối phương lệ thuộc
vào khả năng tự khống chế mình". Dĩ nhiên là chẳng có nghịch lý gì cả một khi đã hiểu
được sức mạnh của cam kết. Bài học là, nên mềm mỏng trước khi vào đàm phán,
nhưng phải cứng rắn trong khi đàm phán.
Cam kết chỉ có hiệu lực, một khi nó làm cho tin cậy. Một trong cách đạt đến khả năng

giữ cam kết là việc đặt cược vào uy tín. Việc nuốt lời ngày hôm nay đồng nghĩa với việc
mất khả năng cam kết trong tương lai. Chính vì vậy mà tiền lệ có ý nghĩa đối với các
bên đàm phán. Chấp nhận một sự nhượng bộ hiện tại sẽ khiến cho lời hứa trong tương
lai của bạn về việc trung thành với đòi hỏi của mình không còn đáng tin cậy nữa. Một
cách đạt cam kết ấn tượng hơn là đốt cháy cầu: tức là dàn xếp sự việc theo cách nếu
bạn muốn nuốt lời, bạn sẽ bị thiệt hại nặng nhất. Chiến lược này đã được biết đến từ
lâu rất lâu trong quân sự, ít ra vào năm 1066, khi đội quân viễn chinh của William đốt
cháy những chiếc tầu của mình. Họ đã làm một cam kết không điều kiện là đánh đến
cùng vì không còn đường rút lui. Một trong các cách "đốt cháy cầu" là viết hợp đồng,
theo đó, sự bội ước sẽ bị trừng phạt nghiêm ngặt bởi pháp luật hay công luận. Tuy
nhiên hợp đồng tự nó không phải bao giờ cũng đủ để làm cho sự hứa hẹn trở nên đáng
tin cậy.
Thomas Schelling đưa ra một ví dụ tiêu biểu về vấn đề này. Ở Denver, một trung tâm
phục hồi nhân cách chữa trị những người nghiện ma túy giầu có bằng cách yêu cầu họ
viết một lá thư tự buộc tội mình mà nó sẽ được đưa ra công luận, nếu họ không vượt
qua được phép thử nước tiểu ngẫu nhiên. Việc tự nguyện viết một lá thư như vậy. Cũng
giống như việc tự triệt bỏ đường trở lại cocain. Nhưng hợp đồng đó có một khiếm
khuyết cơ bản. Nó không có cơ chế ngăn ngừa việc đàm phán lại. Sau khi tự đặt mình
vào vị trí như vậy, rất nhiều bệnh nhân tìm cách biếu quà cho nhân viên bệnh viện để rũ
bỏ trách nhiệm hợp đồng. Tuy nhiên, nhân viên giám sát sẽ bị mất việc làm nếu cho
phép thỏa thuận bị thay đổi; trung tâm sẽ bị mất uy tín nếu để sự việc như vậy xảy ra.
Bài học ở đây là, để cam kết hợp đồng có hiệu lực, người giám sát phải có ích lợi độc
lập trong việc cưỡng chế cam kết.

Hiểu cơ chế lan truyền để kiểm soát hành vi
Như đã nêu, tiền lệ thường làm nổi bật lên điểm tụ, mà nhờ đó, kỳ vọng của các bên
trùng hợp nhau. Tiền lệ hướng đích kỳ vọng; đến lượt nó, kỳ vọng định hướng hành
động, để rồi lại trở thành tiền lệ, và cứ tiếp tục.
Thomas Schelling gọi đó là quá trình lập nên những hình mẫu hay tập tục (pattern).
Động thái xã hội khiến cho quan hệ xã hội thường bị dao động (tipping) giữa các mẫu

hình khác nhau, trước khi một thông tục nổi lên như một thể chế phối hợp kỳ vọng và
cưỡng chế hành vi. Trong bài báo “Dynamic Models of Segration”, Thomas Schelling đã
mô tả quá trình như vậy trong việc tạo nên những khu dân cư ở Mỹ và sự thành công
của chính quyền địa phương trong việc tao ra khu phố đa chủng tộc sống ở Oak Park,
ngoại vi của Chicago. Ở đây, ta sẽ xét một ví dụ khác, có tính khái quát hơn, để minh
hoạ xem quá trình như vậy hoạt động như thế nào.
Hãy xem trường hợp khi từng cặp cá nhân gặp và làm việc với nhau để sản xuất ra sản
phẩm hay dịch vụ. Họ có thể chăm chỉ hoặc lười biếng. Lợi ích sẽ lớn nhất nếu cả hai
cùng chăm chỉ. Vì vậy, nếu mỗi bên nghĩ rằng đối tác của mình sẽ làm việc chăm chỉ thì
họ cũng sẽ chăm chỉ. Dĩ nhiên, nếu rất nhiều người xung quanh họ làm việc cật lực, thì
kỳ vọng của bên kia sẽ tăng lên. Khi có hơn 70% các trường hợp quan sát được là
chăm chỉ, thì từng cá nhân thấy tự mình phải tuân theo chuẩn mực đó. Do đó, chuẩn
mực làm việc chung cho tất cả là chăm. Ngược lại, nếu từng người thấy hơn 30%
trường hợp người mình gặp là lười biếng, thì họ cũng sẽ chẳng bỏ công để làm cho
người khác hưởng làm gì. Xã hội thu nhỏ của họ, do vậy, có xu hướng bị đẩy dần
(tipping) sang trạng thái ai cũng lười. Trong động thái ấy, nếu ai cũng được để tự do a
dua theo người xung quanh, thì xã hội có xu hướng sẽ chấp nhận lười biếng như một
thông lệ chung.
Vấn đề là cho dù xuất phát điểm tất cả đều rất chăm chỉ. Nhưng sẽ luôn có một số
người do bệnh tật, mệt mỏi, trở nên chểnh mảng. Nếu ai đó ngẫu nhiên tiếp xúc với họ
quá nhiều, anh ta có thể tin là đa số mọi người đều lười. Do vậy anh ta cũng lười.
Nhưng hành vi của anh ta bị người khác lưu tâm, làm thúc đẩy hơn nữa cái ý tưởng là
ai cũng lười. Lười biếng lan rộng như một thứ dịch. Dĩ nhiên là xã hội thu nhỏ đó cũng
có thể chuyển dịch theo hướng ngược lại. Tuy nhiên, điều đó là khó hơn nhiều, vì phải
có đến 70% trường hợp chăm để “huých” (tipping) xã hội của họ từ thông lệ lười sang
chăm. Trong khi đó, chỉ cần có 30% người lười để đẩy xã hội rơi trở lại hệ thống lười.
Trong các tổ chức và doanh nghiệp, rất nhiều chính sách đưa ra để ngăn chặn sự a
dua, lây lan của tính lười biếng. Ở Nhật Bản, việc nhóm lao đổng kiểm tra lẫn nhau
(peer monitoring), cho phép cô lập và trừng phạt những kẻ cố tình lười nhác. Tiền lương
ở hầu hết các quốc gia phát triển dự trên tính hiệu quả (efficiency wage). Tiền lương

được trả cao cho những nỗ lực đem lại thành quả cao; và rủi ro không gia hạn hợp đồng
lao động được dùng như một thứ răn đe chống lại sự lười biếng, vô trách nhiệm. Các
chính sách phúc lợi như phụ nữ nghỉ để vẫn được hưởng lương; thể thao giải trí cho tập
thể người làm sau những ngày làm việc căng thẳng v.v…, giúp làm giảm rủi ro sức khoẻ
gây nên chểnh mảng. Như đã thấy, xã hội có vô vàn những phương thức để tránh cho
nó bị đẩy vào trạng thái lãn công. Cũng như vậy, xã hội có thể kiểm soát được các vấn
đề khác như quan liêu, tham nhũng, nếu như tìm cách hiểu rõ cơ chế lan truyền
(tipping) của chúng. Việc hiểu động thái lây lan của các vấn đề xã hội là chìa khoá duy
nhất để ngăn chặn và kiềm chế những tệ nạn đó.
Theo TBKTVN

×