Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

suc khoe

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (68.84 KB, 8 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Hội chứng ruột kích thích</b>



<b>Đại cơng </b>


Hi chứng ruột kích thích ( HCRKT ) là một rối loạn có đặc điểm thay đổi
thói quen đi cầu, kèm theo đau bụng mà khơng có bệnh lý thực thể. Vì khơng
có các dấu ấn chẩn đốn cho nên việc chẩn đoán HCRKT dựa trên bệnh cảnh
lâm sàng. Hiện nay, tiêu chuẩn chẩn đoán HCRKT bao gồm:


1. Cảm giác khó chịu vùng bụng liên tục hoặc tái đi tái lại nhiều lần ít
nhất trong 3 tháng, giảm hơi sau khi đi cầu và / hoặc có liên quan đến thay đổi
số lần đi cầu hoặc độ đặc của phân.


2. Có 2 hay nhiều hơn những dấu hiệu sau đây chiếm ít nhất 25% thời
gian :


Thay i số lần đi cầu


Thay đổi hình dạng khối phân
Thay i khi tng phõn


Phân có chất nhầy nhớt
Căng chớng bụng


Nhng thay i v rut bao gm táo bón, đi cầu ra phân cứng kèm theo cảm
giác căng tức và cảm giác đi tiêu không hết. ở những bệnh nhân có HCRKT với
tiêu chảy chiếm u thế, đi cầu ra phân mềm với thể tích phân hàng ngày bình
th-ờng. Trong HCRKT, triệu chứng đau bụng có vị trí và cờng độ thay đổi, thờng
gặp là cảm giác đau hoặc vọp bẻ, mặc dù cảm giác đau nhói, đau mơ hồ hoặc
đau nh chớng hơi có thể xảy ra. Triệu chứng đau trong HCRKT có thể tăng lên
sau khi ăn hay giảm bớt sau khi đi cầu.



ở các nớc phơng tây, HCRKT là một bệnh lý tiêu hóa thờng gặp nhất đến
khám các BS chuyên khoa tiêu hóa , chiếm từ 30 – 50% số bệnh nhân đợc
chuyển đến. 2/3 các bệnh nhân có triệu chứng là phái nữ và tất cả mọi sắc dân
đều bị mặc dù bệnh nhân Châu á có triệu chứng đau bụng phù hợp với chẩn
đốn HCRKT ít gặp hơn.


Sau khi loại trừ bệnh lý thực thể , việc điều trị đợc dựa trên độ nặng nhẹ và
tính chất của triệu chứng, mức độ những rối loạn cơ năng và những yếu tố tâm
lý quyết định về thái độ đối với bệnh tật của bệnh nhân. Từ những yếu tố này,
bệnh nhân HCRKT đợc phân biệt thành ba loại : nhẹ, trung bình, nặng và cho
phép tiếp cận trị liệu tùy theo cấp độ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

khoa hoặc trở thành những ngời cần chăm sóc sức khỏe lâu dài. Trong q trình
này có sự tự chọn lọc để cho phần lớn bệnh nhân đến khám với các BS chuyên
khoa là những ngời có những rối loạn tâm lý có thể nhận ra đợc, những ngời có
bệnh mạn tính hoặc bệnh kháng trị và những ngời có nhân cách bệnh tật rõ
ràng.


<b>Sinh lý bÖnh</b>


Sinh lý bệnh của HCRKT cha đợc hiểu rõ. Mặc dù vậy, ngời ta giả định có
vai trị của chuyển động ruột bất thờng, chức năng hệ thần kinh tổng quát, cảm
giác nội tạng và yếu tố tâm lý. Cho dù có nhiều nghiên cứu chun sâu, vẫn
khơng có một bất thờng nào giúp phân chia một cách rõ ràng HCRKT với bệnh
lý tiêu hóa thực thể hoặc ngay cả với ngời khỏe mạnh.


Những bất thờng vận động lúc nhịn đói và sau khi ăn của ruột non và đại
tràng đợc mô tả tỉ mỉ ở HCRKT. Những kiểu vận động ruột non chuyên biệt nh
co thắt từng cụm riêng rẽ và co thắt sóng di chuyển lớn



( giant migrating contractions ) đợc ghi nhận là thờng gặp hơn ở bệnh nhân
HCRKT, tuy vậy những phức hợp vận động này cũng có thể gặp ở ngời tình
nguyện khỏe mạnh. Những bệnh nhân bị HCRKT sẽ tăng vận động đại tràng
sau khi ăn, sau kích thích cholecystokinin hoặc cholinergie.


Những căng thẳng tinh thần có những tác động sâu xa trên vận động đờng
tiêu hóa, làm gia tăng pha co thắt đại tràng và làm giảm co thắt lúc đói của ruột
non. Mặc dù ngời ta đã đa ra những bằng chứng cho thấy có sự khác biệt tinh tế
giữa HCRKT và ngời bình thờng, nhng những kiểu vận động này lại ít có tơng
quan với các triệu chứng. Điều này đã chứng tỏ rằng chúng có một vai trị
khơng quan trọng trong cơ chế bệnh sinh của bệnh.


Những nghiên cứu gần đây đã đa ra những bất thờng lan tỏa về chức năng
của hệ thần kinh tự động. So sánh với nhóm chứng, bệnh nhân HCRKT có tiêu
chảy bị gia tăng quá mức hoạt động của hệ thần kinh giao cảm trong khi đó
những bệnh nhân táo bón lại cho thấy bất thờngđối giao cảm cholinergic. tầm
quan trọng của những phát hiện này cần đợc làm sáng tỏ nhng có lẽ chúng
khơng phải là yếu tố gây bệnh bởi vì những tác nhân làm thay đổi chức năng
thần kinh tự động tơng đối ít có ảnh hởng trên triệu chứng của HCRKT.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

ở bệnh nhân HCRKT. ở bệnh nhân HCRKT nhất là những bệnh nhân có tiêu
chảy và triệu chứng mắc đi tiêu gấp cảm nhận đợc sự bơm căng của bong bóng
đặt trong trực tràng ở một thể tích thấp hơn nhiều so với ngời tình nguyện khỏe
mạnh, mà trực tràng không thay đổi độ co giãn, đã cho thấy có sự tăng cảm của
nội tạng. Thêm vào đó, bệnh nhân HCRKT có sự thay đổi về phân bố cơ thể học
của thụ cảm đau. bệnh nhân bị đau bụng lan tỏa khi bơm căng bong bóng ở ruột
non, ngợc lại những ngời khỏe mạnh chỉ cảm thấy cảm giác khó chịu khu trú ở
1/4 bụng.



Đến 80% bệnh nhân HCRKT có triệu chứng tâm lý bất thờng, chứng tỏ
rằng bệnh lý tâm thần kinh có thể có vai trị trong quyết định đi khám của bệnh
nhân. Tỷ lệ toàn bộ của trầm cảm nặng, rối loạn thực thể gây ra do những rối
loạn tâm lý, lo lắng, hoảng hốt, và sợ hãi xảy ra suốt cuộc đời ở bệnh nhân
HCRKT cao hơn ngời khỏe mạnh trong nhóm chứng.


Phần lớn các nghiên cứu về bệnh sinh của HCRKT đã không để ý tới tới
khái niệm là rất có thể HCRKT khơng phải là một bệnh lý thuần nhất. Trong
phạm vi một nhóm bệnh nhân đợc xếp vào HCRKT có thể có sự tham gia của
nhiều cơ chế bệnh sinh.


Khoảng 2 thập kỷ trớc đây, việc ăn không đủ chất xơ đã là một giả thuyết
phổ biến, dựa trên những khảo sát dịch tễ học. Tuy vậy những dữ liệu sẵn có
hiện nay cho thấy rằng mặc dù chế độ ăn nhiều chất xơ có thể có lợi đối với một
số bệnh nhân HCRKT, nhng chế độ ăn ít chất xơ không thể bị qui là nguyên
nhân của HCRKT. Một số nghiên cứu về vấn đề không dung nạp những thức ăn
riêng biệt hoặc quá cảm với thức ăn đã đợc công bố. Tuy vậy vẫn thiếu những
bằng chứng là cơ chế này đóng một vai trị quan trọng trong cơ chế bệnh sinh.


Mặc dù bất thờng về tâm lý thờng xảy ra ở bệnh nhân HCRKT nhng dờng
nh đó khơng phải là yếu tố bệnh sinh, vì bệnh nhân HCRKT khơng khác biệt gì
với những bệnh nhân bị các bệnh tiêu hóa mạn tính khác. Hơn nữa, những ngời
có triệu chứng HCRKT mà khơng đến khám BS ( có HCRKT nhng khơng phải
bệnh nhân ) thì khơng có khác biệt về tâm lý với những ngời chứng khỏe mạnh.
Một vài nghiên cứu đã chứng minh rằng vận động của đờng tiêu hóa bị tăng quá
mức đối với stress ở bệnh nhân HCRKT. Thái độ học thức đối với bệnh tật
cũng đã đợc đa ra nh một nhân tố sinh bệnh. Điều này dựa trên các khảo sát là
bệnh nhân HCRKT có khuynh hớng kể lại những bệnh nhẹ nh cảm cúm dễ
dàng hơn những ngời chứng khỏe mạnh. Sau cùng, mới đây một giả thuyết đề
nghị rằng HCRKT có thể là một bệnh lý viêm nhiễm. Giả thuyết này dờng nh


đ-ợc nâng đỡ dựa trên những quan sát rằng ở một số bệnh nhân, khởi phát của
HCRKT là một bệnh viêm dạ dày ruột nhiễm trùng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<b>TriÖu chøng häc</b>


Chẩn đoán HCRKT nên đợc cân nhắc kỹ lỡng, nếu bệnh nhân có những
triệu chứng sau đây liên tục hoặc tái phát nhiều lần trong thời gian ít nhất 3
tháng :


1. Cảm giác đau hoặc khó chịu ở bụng
1.1. Giảm sau khi đi cầu


1.2. V / hoc i kèm với sự thay đổi số lần đi cầu ( > 3 /ngày hoặc < 3 /
ngày )


1.3. Và / hoặc đi kèm với sự thay đổi độ đặc của phân


2.Có 2 hay nhiều hơn những dấu hiệu sau đây, chiếm ít nhất 1/4 thời gian
2.1. Thay đổi số lần đi cầu


2.2. Thay đổi hình dạng khối phân ( đóng cục / cứng hoặc mềm /nhiều nớc )
2.3. Thay đổi tống phân ( đau do căng giãn trực tràng, mắc đi tiêu gấp, cảm
giác đi tiêu không ht )


2.4. Phân có nhầy nhớt
2.5. Căng chớng bụng


Những triệu chứng ngồi ruột có thể đi kèm với HCRKT : mệt mỏi, trầm
cảm, lo âu, nhức đầu, đau lng, tiểu khó, giao hợp đau hoặc bất lực, phì đại tiền
liệt tuyến, ợ nóng, rối loạn tiêu hóa, chỏn n hoc nhng triu chng khỏc.



Để loại trừ những chẩn đoán khác có thể bổ xung các xét nghiệm sau đây:
- Huyết học


- Sinh hóa :
* TSH


* XN phân tìm vi trùng, KST và máu ẩn trong phân
* Thử nghiệm dung nạp đờng lactose


- Chụp XQ khung đại tràng có cản quang
- Nội soi đại tràng và sigma


- Nội soi dạ dày tá tràng và sinh thiết
- Chụp XQ dạ dày tá tràng có cản quang
- Tỉng ph©n tÝch ph©n 72 giê


- Những xét nghiệm khác nếu cần thiết


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Một khi đã xác định chẩn đoán HCRKT cần phải nhớ những nguyên tắc
điều trị sau đây :


1. Không thể điều trị khỏi bệnh trong hầu hết các trêng hỵp


2. Khơng một loại thuốc duy nhất nào đem lại lợi ích nổi bật cho HCRKT :
một vài thử nghiệm có nhóm chứng hậu phân tích đã chứng tỏ rằng khơng có
một dạng điều trị cụ thể nào là có hiệu quả cho tất cả bệnh nhân HCRKT.


3. Đã khơng có một thuốc điều trị nào đợc nhất trí chấp thuận cho nên việc
điều trị theo triệu chứng đặc trng là hợp lý và có lợi. Những điều trị nh vậy dựa


trên phán đoán thực tế và theo kinh nghim.


<b>Điều trị</b>


Cú nhiu thuc c s dng trong iu trị HCRKT nhng nói chung khơng
có một thuốc nào đem lại hiệu quả điều trị có sức thuyết phục cho bệnh nhân
HCRKT. Việc này là do có những khó khăn trong đánh giá hiệu quả của thuốc
và do bệnh đáp ứng cao với giả dợc.


Nguyên tắc điều trị bệnh nhân có triệu chứng táo bón chiếm u thế làm gia
tăng lợng nớc trong phân và làm giảm việc gắng sức khi đi cầu bằng cách sử
dụng những chất làm tăng khối lợng phân : cám ( bran ), má đề bọ chét
(psyllium ), những sản phẩm có chứa chất xơ khác và thuốc xổ rhẩm thấu.


Nên tránh sử dụng thuốc xổ gây kích thích do thuốc có khả năng gây h hại
lâu dài chức năng vận động đại tràng.


Điều trị tác động trên vận động của ruột cho những bệnh nhân có triệu
chứng tiêu chảy chiếm u thế nhằm vào việc làm giảm số lần đi cầu, giảm cảm
giác mắc đi cầu gấp và nhằm vào việc cải thiện độ đặc của phân bằng các thuốc
chông tiêu chảy nha phiến và các thuốc chống co thắt.


Để giúp chọn lựa biện pháp điều trị cụ thể, bệnh nhân nên ghi nhật ký ít
nhất là 1 tuần về thời gian và mức độ nặng nhẹ của triệu chứng, hoạt động của
ruột và những yếu tố đi kèm. Phơng pháp này có thể giúp nhận ra những yếu tố
làm bệnh nặng hơn nh một vài loại thức ăn, sự không dung nạp lactose, những
yếu tố gây Stress khác cha đợc lu ý đến trớc đây và giúp xác định những triệu
chứng u thế ( đau, tiêu chảy, táo bón ) để điều trị thuốc.


<b>1. §au :</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Meheverine, chất dẫn xuất từ papaverine là loại thuốc đợc sử dụng phổ biến
nhất trên thế giới trong điều trị HCRKT. Một vài thử nghiệm đã cho thấy thuốc
có tác dụng u việt hơn giả dợc. Một thuốc thay thế khác là panaverium bromide.
Mebeverine có tính an toàn tuyệt hảo. Các thuốc kháng cholinergic đợc a
chuộng ở vùng Bắc Mỹ ; thuốc tác động thông qua việc giảm co thắt cơ trơn.
Tác dụng phụ của những thuốc này có liên quan đến liều lợng, cho nên thuốc
phải đợc cho bắt đầu từ liều thấp. Mối quan tâm đến thuốc kháng cholinergic
hiện đang giảm đi nhanh chóng vì các tác dụng phụ của thuốc này.


Thuốc chống trầm cảm và thuốc chống lo âu có thể giúp ích nhng thuốc chủ
yếu đợc dành cho bệnh nhân bị bệnh nặng hoặc bệnh kháng trị. Những kết quả
sơ bộ của các nghiên cứu thử nghiệm với các thuốc ức chế kênh dẫn truyền
calcium tỏ ra khơng khích lệ.


Đau bụng thờng là triệu chứng khó kiểm sốt nhất trong HCRKT. Một số
bệnh nhân đáp ứng với thuốc chống co thắt hoặc với các thuốc chống trầm cảm
loại 3 vòng và phong bế sự tái thu hồi chất serotonin, octreotide, chất tơng tự
somatostatin làm giảm sự cảm nhận việc bơm căng bong bóng ở trực tràng ở
ngời tình nguyện khỏe mạnh và ở bệnh nhân HCRKT bị tiêu chảy, có triệu
chứng mắc đi cầu gấp chứng tỏ rằng thuốc có thể tác động nh một thuốc chống
đau nội tạng. Thuốc kháng thụ thể 5 – HT3 serotonin granisetron và alosetron
có những hiệu quả tơng t.


<b>2. Tiêu chảy</b>


Nếu tiêu chảy là triệu chứng u thế, những thuốc điều trị sẵn có là : thuốc
chống tiêu chảy ( loperamide, diphenoxilate, codein và các thuốc khác
disodium cromoglycate, cholestyramine ).



Loperamid là chất nha phiến, không qua đợc hàng rào máu não. Thuốc làm
giảm chuyển động ruột, làm tăng hấp thu ion và nớc ở ruột, tăng cờng trơng lực
thu hồi của cơ vịng. Chromoglycate có lẽ có vai trị trong HCRKT loại tiêu
chảy và phụ thuộc thức ăn với triệu chứng dị ứng thức ăn. Alosetron ( thuốc
kháng thụ thể 5 HT3 mđi ) gần đây đã cho thấy có hiệu quả trong HCRKT có
tiêu chảy chiếm u thế ở phái nữ.


<b>3. T¸o bãn </b>


Cuối cùng nếu triệu chứng u thế là táo bón, những thuốc cần có là : chất xơ,
thuốc xổ, và thuốc tác động trên vận động ruột.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

mới ) gần đây đã chứng tỏ có hiệu quả trong HCRKT với triệu chứng táo bón
chiếm u thế.


<b>4. KÕt luËn </b>


Việc điều trị bằng thuốc là là một thách thức vì HCRKT là một bệnh lý mạn
tính có triệu chứng rất đa dạng và thờng có những rối loạn tâm lý ®i kÌm.


Mục tiêu điều trị là làm giảm cờng độ của các triệu chứng chính. để đạt đợc
mục tiêu này, phơng thức tiếp cận điều trị phải tùy tng bnh nhõn.


Việc đo lờng toàn bộ sự thành công trong điều trị là bệnh nhân cảm thấy
thoải mái dễ chịu. Tiếp tục theo dõi bệnh nhân sẽ giúp tăng cờng mối quan hệ
bệnh nhân thày thuốc và giúp loại trừ những bệnh nặng gian phát.


- Thit lp chẩn đoán xác định dựa trên triệu chứng bặng cách nhóm
hợp các triệu chứng lâm sàng thờng gặp và xác định tính đặc hiệu và tính
chuyên biệt tơng đối của chẩn đốn.



- Phát triển một phơng thức tiếp ít tốn kém về thời gian và cách thức
loại trừ những bệnh lý tiêu hóa khác gây nguy hiểm đáng kể nhng có bệnh cảnh
giống với HCRKT.


- Nghiên cứu những thủ thuật cận lâm sàng có thể sử dụng để xác
minh chẩn đoán HCRKT một cách khách quan.


- Quyết định thời gian nào là thích hợp và an tồn sau lần khám
bệnh nhân đầu tiên để thử điều trị theo kinh nghiệm và loại thuốc nào đợc sử
dụng cho mục đích này.


Trªn lý thut, HCRKT lµ mét bƯnh lý néi khoa phï hợp một cách lý tởng
cho việc điều trị thuốc. Chỉ cần làm giảm bớt các triệu chứng là bệnh nhân cảm
thấy dễ chịu, bệnh không có những di chứng hoặc biến chứng lâu dài. Thực tế,
có 2 hạn chế lớn :


+ Trong các thuốc sẵn có trên thị trờng, khơng một thuốc nào có khả
năng điều chỉnh cả 2 triệu chứng chính là đau và thay đổi thói quen của ruột.
Chất xơ, thuốc chống tiêu chảy, thuốc chống co thắt … chỉ có thể làm giảm một
số triệu chứng của hội chứng này, và đôi khi thuốc lại kèm theo những tác dụng
phụ gây khó chịu cho bệnh nhân.


+ Yếu tố về nhân cách và tâm lý hoặc có tác động về mặt cơ chế sinh
bệnh, hoặc là tác nhân làm thay dổi thái độ bệnh nhân, có lẽ quan trọng với
nhiều bệnh nhân. Những yếu tố tâm lý này cũng có thể ảnh hởng đến thái độ đi
khám bệnh và những khía cạnh phức tạp khác về trị liệu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8></div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×