Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

CHUYÊN ĐỀ: RÈN LUYỆN PHONG CÁCH TƯ DUY HỒ CHÍ MINH CHO HỌC VIÊN ĐÀO TẠO CAO HỌC CÁC CHUYÊN NGÀNH KHOA HỌC XÃ HỘI NHÂN VĂN TẠI HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (296.01 KB, 60 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của chuyên đề
Phong cách và phong cách tư duy Hồ Chí Minh là một bộ phận quan
trọng trong tồn bộ di sản vơ giá mà Người đó để lại cho dân tộc ta và tồn thể
nhân loại. Phong cách của Người, trong đó có phong cách tư duy đó làm nên nét
đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Vì vậy, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh
khơng thể khơng nghiên cứu phong cách của Người, trong đó có phong cách tư
duy. Đại hội VII của Đảng ta đó khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của mình. Do
đó, nghiên cứu học tập và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh là yêu cầu cấp thiết đối với tất cả cán bộ, đảng viên đặc biệt là học
viên đào tạo cao học các chuyên ngành xã hội nhân văn ở Học viện chính trị
hiện nay. Học tập chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ là học tập những nguyên lý
lý luận mà quan trọng hơn là học tập phương pháp tư duy biện chứng, phương
pháp luận của Mác - Ăng ghen - Lê nin; học tập tư tưởng Hồ Chí Minh khơng
chỉ là học tập những tư tưởng lý luận của Người mà cũn phải học cả phong cách
của Người đặc biệt là phong cách tư duy.
Đối với sự nghiệp “trồng người” - đào tạo học viên cao học khoa học xã
hội nhân văn tại Học viện chính trị thì nghiên cứu, học tập, rèn luyện phong
cách tư duy Hồ Chí Minh cho học viên đào tạo cao học là việc làm rất thiết thực,
bổ ích, là cơ sở quan trọng để nâng cao trình độ tư duy khoa học, bản lĩnh chính
trị, trau dồi phẩm chất đạo đức cách mạng, lối sống xã hội chủ nghĩa. Nhờ đó,
góp phần đổi mới nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo học viên cao
học các chuyên ngành cao học khoa học xã hội nhân văn quân sự ở Học viện
chính trị; thực hiện tốt mục tiêu, mơ hình và phương châm giáo dục, đào tạo
nghiên cứu của Học viện.
Nghiên cứu, học tập, rèn luyện phong cách tư duy Hồ Chí Minh đang trở
thành nhu cầu cấp bách, là điều kiện cần thiết để học viên đào tạo học viên cao
học các chuyên ngành khoa học xã hội nhân văn quân sự tại Học viện chính trị




2

phát triển tư duy biện chứng duy vật, khắc phục phương pháp tư duy siêu hình
và các biểu hiện của nó như áp đặt ý muốn chủ quan, duy ý chí; máy móc, giáo
điều, kinh nghiệm, lối làm việc chưa khoa học: tuỳ tiện, giản đơn; “coi nhẹ” giáo
dục tư tưởng, đạo đức, lối sống, rèn luyện kỷ luật, điều lệnh Quân đội, pháp luật
Nhà nước; “coi nặng”, thậm chí tuyệt đối hố “tay nghề” chun mơn, nghiệp vụ
sư phạm. Điều đó là có hại, sẽ làm chậm q trình phát triển và hoàn thiện nhân
cách người học viên đào tạo cao học các chuyên ngành khoa học xã hội nhân
văn tại Học viện chính trị; đồng thời, làm giảm sút chất lượng đào tạo, xây dựng
Học viện. Để người học viên tiến bộ, trưởng thành, xứng đáng là người học viên
cao học các chuyên ngành khoa học xã hội nhân văn, luôn đứng vững trên mặt
trận tư tưởng, lý luận của Đảng. Một trong những giải pháp tốt nhất để người
học viện đào tạo học viên các chuyên ngành khoa học xã hội nhân văn tại Học
viện chính trị hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao là rèn luyện phong cách
tư duy khoa học Hồ Chí Minh. Vì lẽ đó, chúng tơi chọn đề tài: “Rèn luyện phong
cách tư duy Hồ Chí Minh cho học viện đào tạo cao học các chuyên ngành khoa
học xã hội nhân văn tại Học viện chính trị” làm chuyên đề nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến chun đề
Sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa do Đảng ta
khởi xướng và lãnh đạo đã và đang thu được những thành tựu to lớn trên nhiều
lĩnh vực. Cùng với sự phát triển ấy, nhận thức và tư duy lý luận của đội ngũ cán
bộ quân đội có bước phát triển mới. Việc Đảng ta khẳng định: nền tảng tư tưởng,
kim chỉ nam cho hành động cách mạng của Đảng và của nhân ta là chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, trở thành định hướng chính trị quan trọng,
cuốn hút nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước nghiên cứu làm rõ nhận định
ấy.
Phong cách tư duy Hồ Chí Minh là một bộ phận quan trọng trong di sản

tư tưởng của Người, nhưng còn ít được nghiên cứu. Tuy nhiên, đến nay đã có
một số nghiên cứu, bước đầu về vấn đề này ở những góc độ khác nhau.


3

Mở đầu tác giả Cao Thái có bài “Những nét đặc sắc trong phong cách tư
duy Hồ Chí Minh”, Tạp chí Triết học số 2 - 19207, bước đầu phác thảo những
nét lớn trong phong cách tư duy Hồ Chí Minh. Đó là tư duy vượt lên mọi thành
kiến tư tưởng; có sự thống nhất giữa tình cảm cách mạng và lý trí khoa học, gắn
lý luận với thực tiễn; tổng kết kinh nghiệm để làm giàu tri thức; mọi suy nghĩ
đều hướng tới hành động cải tạo và xây dựng xã hội; luôn luôn coi trọng điều
kiện khách quan, phát huy tối đa nỗ lực chủ quan và tính tự giác cách mạng. Tác
giả kết luận: đứng trước những nhiệm vụ cách mạng mới mẻ, chúng ta khơng có
con đường nào khác ngoài con đường nâng cao phương pháp tư duy lý luận - mà
phương pháp tư duy Hồ Chí Minh là một mẫu mực.
Tiếp đó trong sách “Hồ Chí Minh - một con người, một dân tộc, một thời
đại”, Nxb Sự Thật, Hà Nội 1990, Cố vấn Phạm Văn Đồng đã đề cập phong cách
tư duy Hồ Chí Minh ở một số nét tiêu biểu như: gắn lý luận cách mạng với thực
tiễn cách mạng, tính hệ thống, diễn đạt giản đơn, dễ hiểu, dễ nhớ, có sức thuyết
phục mạnh mẽ.
Tác phẩm “Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh” của nhiều nhà
khoa học, do Đặng Xuân Kỳ chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1997, đã
nhận định rằng: nét đặc trưng của phong cách tư duy Hồ Chí Minh là độc lập, tự
chủ, sáng tạo. Đặc trưng này đã có trong phong cách tư duy của Người từ rất
sớm, lúc còn thiếu thời và bước vào tuổi thanh niên. Tính độc lập, tự chủ của tư
duy đã sớm giúp Người đi đến những nhận định mới mẻ, không thụ động trong
suy nghĩ và trong hành động. Nhưng độc lập, tự chủ của tư duy Hồ Chí Minh
thực sự có bước phát triển nhảy vọt khi Người bắt gặp chủ nghĩa Mác Lênin và
làm cho tính độc lập, tự chủ có nét sáng tạo. Các tác giả còn nhận định rằng, chủ

nghĩa Mác Lênin đã đưa tư duy của Hồ Chí Minh đến độ chín để đối chiếu, so
sánh, lựa chọn, chắt lọc và tổng hợp những cứ liệu mà thực tiễn Việt Nam và thế
giới cung cấp, những kinh nghiệm mà cuộc sống mang lại, những tư tưởng của
người đi trước được gợi mở, để từ đó đi đến những kết luận mới, tư duy mới. Lý
giải vì sao phong cách tư duy Hồ Chí Minh lại có nét đặc trưng đó, các tác giả


4

cho rằng: mọi suy nghĩ của Người luôn luôn xuất phát từ thực tiễn Việt Nam;
Người thực hiện rộng mở tư duy, nghiên cứu mọi tư tưởng, học thuyết đã có và
hướng tầm nhìn ra thế giới; đồng thời khơng ngừng học tập nâng cao trình độ
văn hóa, làm giàu trí tuệ của mình.
Tác phẩm “Học tập phong cách tư duy Hồ Chí Minh” của nhiều nhà khoa
học, do Trần Văn Phịng chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001, cũng
bàn về nét đặc trưng phong cách tư duy Hồ Chí Minh và cho đó là phong cách tư
duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, thiết thực, gắn với thực tiễn đất nước và thời đại.
Nét đặc trưng đó khơng chỉ trong tư duy mà cả trong hành động cách mạng,
trong kháng chiến cũng như trong xây dựng đất nước, là nét đặc trưng rất Hồ
Chí Minh. Bàn về cơ sở hình thành phong cách tư duy của Người, các tác giả
cho rằng: đó chính là phong cách tư duy phương Đông; là chủ nghĩa Mác Lênin
mà đặc biệt là phương pháp biện chứng duy vật; là bản sắc cá nhân của chính tư
duy Hồ Chí Minh. Tác phẩm còn giành một phần bàn đến việc xây dựng phong
cách tư duy cho cán bộ lãnh đạo, quản lý theo phong cách tư duy Hồ Chí Minh.
Ngồi ra, trên các báo và tạp chí đã có nhiều bài viết và tiểu luận được
đăng tải. Các cơng trình này đã góp phần chỉ ra ý nghĩa, giá trị và đề xuất nhiều
nội dung quan trọng làm sáng tỏ nhiều vấn đề về tư tưởng, đạo đức, tác phong,
phong cách Hồ Chí Minh. Chúng ta có thể kế thừa, nghiên cứu, học tập và thu
nhận được nhiều điều bổ ích về tư tưởng, đạo đức, lối sống cao đẹp của Hồ Chí
Minh để phát triển, hồn thiện nhân cách người cách mạng. Tuy nhiên, việc

nghiên cứu về phong cách tư duy và học tập, rèn luyện phong cách tư duy Hồ
Chí Minh cho học viện đào tạo giảng viên khoa học xã hội nhân văn tại Học
viện chính trị thì chưa có cơng trình khoa học nào đề cập, nghiên cứu.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của chuyên đề
Mục tiêu:
Bước đầu làm sáng tỏ những đặc điểm cơ bản, bản chất, đặc trưng, vai trò
phong cách tư duy Hồ Chí Minh và rèn luyện phong cách tư duy Hồ Chí Minh
của học viện đào tạo giảng viên khoa học xã hội nhân văn quân sự tại Học viện


5

chính trị. Trên cơ sở đó đánh giá thực trạng rèn luyện phong cách tư duy Hồ Chí
Minh của học viện đào tạo giảng viên khoa học xã hội nhân văn quân sự tại Học
viện chính trị, chỉ ra tính tất yếu và đề xuất một số giải pháp rèn luyện phong
cách tư duy Hồ Chí Minh cho học viện đào tạo cao học các chuyên ngành khoa
học xã hội nhân văn quân sự tại Học viện chính trị.
Nhiệm vụ:
Làm rõ khái niệm, bản chất, đặc trưng và vai trò rèn luyện phong cách tư
duy Hồ Chí Minh.
Làm rõ thực trạng rèn luyện phong cách tư duy Hồ Chí Minh của học viện
đào tạo cao học các chuyên ngành khoa học xã hội nhân văn quân sự tại Học
viện chính trị hiện nay.
Nêu lên một số yêu cầu và giải pháp chủ yếu về rèn luyện phong cách tư
duy Hồ Chí Minh cho học viện đào tạo cao học các chuyên ngành khoa học xã
hội nhân văn quân sự tại Học viện chính trị hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của chuyên đề
Đối tượng nghiên cứu của chuyên đề: Chuyên đề tập trung nghiên cứu
về phong cách tư duy Hồ Chí Minh của học viện đào cao học các chuyên
ngành viên khoa học xã hội nhân văn quân sự ở Hệ sư phạm - Học viện chính

trị hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu của chuyên đề: Hoạt động tư duy của học viên đào
tạo cao học các chuyên ngành học xã hội nhân văn quân sự hiện nay. Điều tra,
khảo sát chủ yếu ở các khóa, lớp đào tạo cao học các chuyên ngành khoa học xã
hội nhân văn quân sự cấp ở Hệ đào tao sau đại học; các đồng chí từng là cán bộ
lãnh đạo, Chỉ huy Hệ, Chủ nhiệm các khóa đào tạo cao học các chuyên ngành
khoa học xã hội nhân văn quân sự cấp và các đồng chí học viên đào tạo cao học
các chuyên ngành khoa học xã hội nhân văn, số liệu điều tra khảo sát chủ yếu
lấy từ năm 2016 đến 2019.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Chuyên đề được xây dựng trên cơ sở lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác
- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng và chỉ thị, nghị


6

quyết của Đảng uỷ quân sự Trung ương, chỉ thị của Bộ trưởng Bộ quốc phịng,
Tổng cục chính trị và các tác phẩm, bài viết, bài nói chuyện của các nhà lãnh
đạo Đảng, Nhà nước và Quân đội ta. Đồng thời, nghiên cứu, tham khảo kết quả
của các cơng trình khoa học có liên quan.
* Cơ sở thực tiễn
Đề tài dựa trên những số liệu điều tra, khảo sát và thống kê thực tế của tác
giả về thực trạng rèn luyện phong cách tư duy của học viện đào tạo cao học các
chuyên ngành khoa học xã hội nhân văn tại Học viện chính trị hiện nay để đề
xuất giải pháp phù hợp
* Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận mácxít: chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Sử dụng đồng thời một số phương
pháp như phân tích và tổng hợp, phương pháp lôgic và lịch sử, phương pháp

trừu tượng hoá và khái quát hoá, phương pháp điều tra xã hội học và phương
pháp chuyên gia...
6. Ý nghĩa của chuyên đề
Làm rõ khái niệm phong cách tư duy Hồ Chí Minh. Rèn luyện phong
cách tư duy học viên đào cao học các chuyên ngành viên khoa học xã hội
nhân văn quân sự ở Hệ sau đại học - Học viện chính trị theo phong cách tư
duy Hồ Chí Minh.
Đề xuất một số yêu cầu, giải pháp xây dựng, rèn luyện phong cách tư duy
cho học viên đào tạo cao học các chuyên ngành khoa học xã hội nhân văn quân
sự theo phong cách tư duy Hồ Chí Minh.
7. Kết cấu của chuyên đề:
Mở đầu, 02 chương (04 tiết), kết luận, kiến nghị, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục.


7

Chương 1
PHONG CÁCH TƯ DUY HỒ CHÍ MINH VÀ THỰC CHẤT, VAI
TRÒ RÈN LUYỆN PHONG CÁCH TƯ DUY CHO HỌC VIÊN ĐÀO
TẠO CAO HỌC CÁC CHUYÊN NGÀNH KHOA HỌC XÃ HỘI NHÂN
VĂN QUÂN SỰ Ở SAU ĐẠI HỌC - HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ HIỆN NAY
THEO PHONG CÁCH TƯ DUY HỒ CHÍ MINH
1. 1 Phong cách tư duy Hồ Chí Minh và việc rèn luyện theo phong
cách tư duy Hồ Chí Minh
1.1.1 Phong cách tư duy Hồ Chí Minh
Để hiểu rõ bản chất và đặc trưng phong cách tư duy Hồ Chí Minh cần
phải làm rõ một số khái niệm như: phong cách; phong cách tư duy; phong cách
tư duy Hồ Chí Minh và rèn luyện phong cách tư duy Hồ Chí Minh. Trên cơ sở
ấy để phân tích, làm rõ thực chất vấn đề rèn luyện phong cách tư duy Hồ Chí

Minh của học viên đào tạo cao học các chuyên ngành khoa học xã hội nhân văn
quân sự tại Học viện Chính trị.
Về phong cách, khái niệm này đã có nhiều cách tiếp cận khác nhau.
Theo quan điểm của các học giả phương Tây, khái niệm phong cách được
hiểu như là một hiện tượng độc đáo, cá biệt trong văn học, nghệ thuật.
Là tổng thể những dấu hiệu đặc trưng nghệ thuật của một thời đại, một xu
hướng hoặc một bút pháp cá nhân của người nghệ sĩ, hoặc tổng thể những dấu
hiệu đặc trưng của riêng cá nhân nào đó khác với người khác.
Là tổng thể các phương pháp sử dụng công cụ ngôn ngữ đặc trưng của
một nhà văn, một tác phẩm nào đó.
Thể hiện nét đặc sắc có tính chức năng của ngơn ngữ nghệ thuật.
Là cách thức thực hiện những biện pháp của riêng mình.
Là cách thể hiện mình như cách giao tiếp, ứng xử, ăn mặc.
Trong Đại từ Tiếng Việt, tác giả Nguyễn Như Ý (chủ biên), Nhà xuất bản
Văn hố thơng tin ấn hành năm 1999: “phong cách” được hiểu theo 4 nghĩa sau:


8

Là vẻ riêng trong lối sống, làm việc của một người hay một hạng người
nào đó.
Là phiên dạng của ngơn ngữ có những đặc điểm trong lựa chọn kết hợp và
tổ chức các phương pháp ngôn ngữ liên quan tới giao tiếp.
Là toàn bộ những thủ pháp sử dụng phương tiện ngôn ngữ đặc trưng cho
từng nhà văn, tác phẩm thể loại.
Là việc lựa chọn các phương tiện ngôn ngữ theo nguyên tắc tu từ.
Theo Giáo sư Đặng Xuân Kỳ, phong cách không chỉ được hiểu theo
nghĩa hẹp, giới hạn trong văn học, nghệ thuật mà còn được hiểu theo nghĩa rộng,
tức là lề lối, phong cách, cách thức, phong thái, phong độ và phẩm cách, đã trở
thành nề nếp ổn định của một người hay một lớp người, được thể hiện trong tất

cả các mặt hoạt động như lao động, học tập, sinh hoạt, ứng xử, diễn đạt (bao
gồm cả nói và viết)… tạo nên những giá trị, những nét riêng biệt của chủ thể đó.
Cho dù hiểu theo nghĩa hẹp hay nghĩa rộng thì phong cách bao giờ cũng là
cái riêng, độc đáo có tính hệ thống, ổn định và đặc trưng của chủ thể đó. Phong
cách khơng phải là cái bẩm sinh, có sẵn mà được hình thành do sự phấn đấu, rèn
luyện, trau dồi không ngừng của chủ thể. Phong cách của mỗi người bao giờ
cũng là sản phẩm tổng hoà của những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử nhất định;
được tạo nên bởi các nhân tố như truyền thống văn hố, lối sống, thói quen,
điều kiện sống, sự trải nghiệm thực tiễn, dấu ấn cá nhân… ln mang tính ổn
định và được thể hiện trong tất cả mọi lĩnh vực hoạt động của chủ thể.
Như vậy, xung quanh khái niệm “phong cách” có nhiều cách hiểu khác
nhau: nếu hiểu theo nghĩa hẹp thì nó chỉ được giới hạn trong lĩnh vực văn học,
nghệ thuật, còn theo nghĩa rộng thì nó được thể hiện trong tất cả các mặt hoạt
động của con người. Trong đó, tác phong làm việc, tác phong công tác, tác
phong sinh hoạt chỉ là những bộ phận của phong cách con người nói chung. Bởi
lẽ, tác phong ln ln được hiểu là lối làm việc, sinh hoạt, cách sống riêng của
mỗi người hay sinh hoạt của một số nghề nghiệp, tổ chức. Như vậy, nói đến tác
phong chủ yếu là nói đến cách sống, đặc trưng sinh hoạt, lối làm việc. Còn


9

phong cách là nét riêng được thể hiện trong tất cả các mặt hoạt động của mỗi
con người. Do vậy, phong cách của của học viên đào tạo cao học các chuyên
ngành khoa học xã hội nhân văn quân sự tại Học viện Chính trị sẽ bao hàm rất
nhiều nội dung khác nhau chứ không chỉ giới hạn ở phong cách làm việc, phong
cách công tác, sinh hoạt.
Phong cách tư duy là những đặc điểm riêng có tính hệ thống, ổn định trên
cơ sở thực hiện phương pháp tư duy của một chủ thể nhất định là nét độc đáo,
nét cá nhân, nét riêng tư của một người nào đó. Chính vì vậy, phong cách tư duy

bao giờ cũng được thể hiện ra thành những đặc trưng cụ thể. Phong cách tư duy
có quan hệ mật thiết với phương pháp tư duy, nhưng khơng đồng nhất với nó.
Phương pháp tư duy khác phong cách tư duy ở chỗ, nó là một hệ thống các
nguyên tắc, xuất phát từ các quy luật tồn tại, vận động của bản thân sự vật, hiện
tượng, được con người nhận thức, vận dụng để định hướng, điều chỉnh hoạt
động nhận thức cũng như hoạt động nhận thức của mình, nhằm biến đổi sự vật,
hiện tượng theo mục đích đã định. Rõ ràng, phương pháp biện chứng duy vật là
phương pháp tư duy phổ biến nhất, khoa học nhất, từ trước đến nay chưa có một
phương pháp tư duy nào vượt qua được phương pháp này. Bởi lẽ, phương pháp
biện chứng duy vật là phương pháp tư duy khoa học, giúp con người hoạt động
nhận thức và hoạt động thực tiễn có hiệu quả, là cơ sở để tạo nên phong cách tư
duy khoa học. Do vậy, có nhiều phong cách tư duy khác nhau ở những người
khác nhau, mặc dù ở họ có chung một phương pháp tư duy. Chính vì vậy, phong
cách tư duy là nét độc đáo, nét cá nhân, nét riêng tư của một người nào đó.
Các tác giả trong “Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh” đều thống
nhất cho rằng, nghiên cứu phong cách Hồ Chí Minh là nghiên cứu theo nghĩa
rộng: tổng hợp của phong cách tư duy, phong cách làm việc, phong cách diễn
đạt, phong cách ứng xử, phong cách sinh hoạt của Người. Với đối tượng,
phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi chỉ đi sâu tìm hiểu về phong cách tư
duy của Người.


10

Về phong cách tư duy Hồ Chí Minh, khi bàn về phong cách tư duy Hồ
Chí Minh, có nhiều quan điểm đề cập từ các góc độ khác nhau. Cố Thủ tướng
Phạm Văn Đồng đã khái quát phong cách tư duy Hồ Chí Minh trên những nét
sau: “Ln gắn lý luận cách mạng với thực tiễn cách mạng; tính hệ thống; diễn
đạt giản đơn, sáng tỏ, dễ hiểu, dễ nhớ, có sự thuyết phục mạnh mẽ” [4,tr.97]. Tác
giả Cao Đức Thái đã phác thảo những nét đặc sắc trong phong cách tư duy Hồ

Chí Minh như sau: “Ln độc lập suy nghĩ vượt lên trên mọi thành kiến tư
tưởng, gắn liền tình cảm với lý trí; bao giờ cũng hướng mọi suy nghĩ tới hành
động, nắm vững điều kiện khách quan, phát huy nỗ lực chủ quan và luôn luôn
dựa trên tổng kết kinh nghiệm để tiến lên nắm lấy những tri thức mới” [34,tr.38].
Giáo sư Đặng Xuân Kỳ viết: “nét đặc sắc nhất của phong cách tư duy Hồ Chí
Minh là tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo” [6,tr.3].
Qua nghiên cứu, chúng tôi thấy rằng, phong cách tư duy Hồ Chí Minh là
một bộ phận quan trọng tạo nên phong cách của Người, đó là phong cách tư duy
độc lập, tự chủ, sáng tạo, thiết thực gắn với thực tiễn đất nước và thời đại. Chính
nét đặc sắc này đã làm cho phong cách tư duy của người vừa mang tính thời đại,
vừa có tính dân tộc, vừa có giá trị phổ biến bền vững, vừa có tính độc đáo với
sắc thái rất riêng Hồ Chí Minh.
Trong phong cách tư duy của phong cách tư duy Hồ Chí Minh độc lập, tự
chủ, sáng tạo là nét đặc sắc nhất. Đối với Người, độc lập là không lệ thuộc,
không bắt chước, không theo đuôi. Tự chủ là tự mình làm chủ mọi suy nghĩ và
hành động của mình, làm chủ bản thân và cơng việc của mình, tự bản thân mình
phải thấy trách nhiệm lớn lao trước đất nước và dân tộc. Còn sáng tạo là dám
nghĩ, dám làm, sẵn sàng từ bỏ những cái cũ đã được thực tiễn kiểm nghiệm là
khơng đúng, những cái gì đã lạc hậu, lỗi thời khơng cịn phù hợp; tìm tịi, nghiên
cứu, đề xuất những cái mới có thể trả lời được những câu hỏi mà thực tiễn cuộc
sống đang đặt ra. Tuy nhiên, cái mới thường bao hàm những giá trị của cái cũ,
nhưng lại vươn lên trên cái cũ, bổ sung thêm những giá trị mới. ở đây, cái mới
sáng tạo trong phong cách tư duy Hồ Chí Minh là cái mới phù hợp với quy luật


11

khách quan, phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam, cũng như phù hợp với
quy luật phát triển chung của tiến trình lịch sử xã hội lồi người.
Tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo đã hình thành từ rất sớm trong phong

cách tư duy Hồ Chí Minh, ngay từ lúc Người còn ở tuổi thiếu niên và mới bước
vào tuổi thanh niên. Khi tìm đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, tinh thần độc lập, tự
chủ, sáng tạo ở Hồ Chí Minh được củng cố, phát triển và thơng qua quá trình rèn
luyện, trau dồi, qua thực tiễn đấu tranh cách mạng đã trở thành đặc điểm bản
chất, thành thuộc tính bền vững của phong cách tư duy Hồ Chí Minh.
Phải có tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, Hồ Chí Minh mới chấp nhận và
vượt lên mọi hồn cảnh cuộc sống cực nhọc của thân phận một người vơ sản làm
th để có điều kiện đi nhiều nơi, quan sát và tìm hiểu nhiều cuộc cách mạng,
nhiều tư tưởng, học thuyết và đã trở thành một người hiểu biết nhiều nhất tình
hình các dân tộc thuộc địa ở những thập kỷ đầu của thế kỷ XX.
Tinh thần độc lập trong tư duy đã giúp Hồ Chí Minh đi tới những nhận
định độc lập. Khi mới đến nước Pháp, Người đã phát hiện thấy hai nước Pháp một nước Pháp của những kẻ giàu có, của bọn tư bản, đế quốc, thực dân và một
nước Pháp của những người vô sản, những người lao động nghèo khổ. Khi đến
nước Mỹ, Người không giống như những người khác chỉ thấy ánh sáng trên đầu
thần tự do toả sáng. Vượt lên trên họ, Người cịn nhìn thấy số phận của những
người nô lệ da đen, những phụ nữ đang bị dẫm đạp dưới chân vị thần ấy.
Tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo trong tư duy Hồ Chí Minh đã thực sự
có bước phát triển nhảy vọt khi Người bắt gặp chủ nghĩa Mác-Lênin. Kể từ đây,
độc lập, tự chủ mới thực sự đi đến sáng tạo, trình độ tư duy của Người đã đạt
đến độ chín muồi để đối chiếu, so sánh, lựa chọn, chắt lọc và tổng hợp cứ liệu
mà thực tiễn Việt Nam và thế giới đã cung cấp, để từ đó hình thành tư tưởng mới
với những kết luận mới.
Đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã tìm thấy ánh sáng soi
đường cách mạng, trước hết, cho hoạt động tư duy của mình. Học thuyết cách
mạng và khoa học đã mở ra chân trời mới và rộng lớn cho sự sáng tạo và Người


12

nhận thấy, tiếp nhận nó phải rất sáng tạo. Tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo của

Hồ Chí Minh đã nhanh chóng hồ nhập với chủ nghĩa Mác-Lênin, tiếp biến lý
luận và phương pháp luận của một học thuyết “chân chính nhất, chắc chắn nhất,
cách mệnh nhất”, từ đó, từng bước lập thành một hệ thống tư tưởng, luận điểm
sáng tạo, hiếm thấy ở những nhà cách mạng đương thời.
Tính thiết thực trong tư duy Hồ Chí Minh được thể hiện ở chỗ, sau cách
mạng tháng Tám năm 1945, Người đã tìm mọi cách để ngăn chặn một cuộc
chiến tranh có thể xảy ra. Người “đã sử dụng đến mức tối đa sự mềm dẻo xung
quanh tấm thảm xanh để thăm dò những khả năng cho một giải pháp hồ bình có
thể thực hiện được bằng thoả hiệp” [31,tr.94]. Người đã sẵn sàng đi tới một giải
pháp không bạo lực, đến một nền hồ bình thương lượng. Nhưng khi thực dân
Pháp gây hấn ở Hải Phòng, lập tức Người tỏ thái độ kiên quyết: “Chúng ta muốn
hồ bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực
dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết cướp nước ta một lần nữa. Không! Chúng
ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu
làm nô lệ” [11,tr.480].
Phong cách tư duy thiết thực gắn với thực tiễn đất nước đã giúp Hồ Chí
Minh sáng tạo trong vận dụng và phát triển những nguyên lý của chủ nghĩa
Mác-Lênin. Mọi suy nghĩ của Người ln xuất phát từ những điều kiện, hồn
cảnh cụ thể. Tất cả mọi tư tưởng, lý luận đều được khái quát từ thực tiễn, đặc
biệt là thực tiễn cách mạng. Khi đề cập đến việc phát triển phong trào cách mạng
ở phương Đông, Người luôn lưu ý Ban Phương Đông của Quốc tế cộng sản
rằng: “Nói chung thì các dân tộc phương Đơng đều giàu tình cảm, và đối với họ
một tấm gương sống cịn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”
[10,tr.263].
Như vậy, những thuộc tính độc lập, tự chủ, sáng tạo, thiết thực gắn với
thực tiễn đất nước và thời đại đã hoà quện vào nhau, bổ sung, hỗ trợ, thúc đẩy
cho nhau để cùng tạo nên nét độc đáo riêng trong phong cách tư duy Hồ Chí
Minh. Thực tế lịch sử đã chứng minh, có những nhà hoạt động cách mạng quốc



13

tế cũng có lối tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo nhưng không thiết thực và không
gắn với thực tiễn đất nước họ cũng như thời đại. Do đó, cuối cùng họ lại rơi vào
ảo tưởng, chủ quan, nóng vội. Ngược lại, những người có tư duy thiết thực, gắn
với thực tiễn đất nước nhưng lại không độc lập, tự chủ, sáng tạo nên cuối cùng
họ rơi vào hoặc là chủ nghĩa xét lại, hoặc là chủ nghĩa thực dụng, thiển cận.
Ở Hồ Chí Minh, nhờ có tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo mà Người đã
không xa rời phương pháp biện chứng duy vật, không xa dời chủ nghĩa MácLênin. Do có tư duy lý luận gắn với thực tiễn đất nước và thời đại nên Người
không rơi vào xét lại, không rơi vào chủ nghĩa dân tộc, không sa vào chủ nghĩa
thực dụng. Phong cách tư duy Hồ Chí Minh ln thấm đượm phong cách tư duy
Việt Nam, tư duy phương Đông và cũng rất hiện đại. Nó vừa có giá trị dân tộc
độc đáo nhưng lại vừa có giá trị bền vững và phổ biến.
Có thể nói, phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, thiết thực, gắn
với thực tiễn đất nước và thời đại của Hồ Chí Minh chính là phong cách tư duy
Việt Nam nói riêng, phong cách tư duy phương Đơng nói chung; là chủ nghĩa
Mác-Lênin mà đặc biệt là phương pháp biện chứng duy vật; là bản sắc cá nhân
của chính tư duy Hồ Chí Minh .
Thật vậy, một trong những đặc điểm nổi bật của tư duy Việt Nam và
phương Đông là thiên về suy nghĩ và diễn đạt bằng hình ảnh hơn là bằng khái
niệm. Thực tế, trước cách mạng tháng Tám năm 1945, đại đa số quần chúng
nhân dân lao động Việt Nam mù chữ, thất học. Nếu diễn đạt bằng những lý luận
cao siêu thì họ sẽ khơng hiểu được; Hồ Chí Minh đã căn cứ vào trình độ dân trí,
vào tình hình thực tiễn đất nước cũng như ưu thế của lối tư duy bằng hình ảnh để
diễn đạt lý luận cách mạng. Chẳng hạn, khi nói đến bản chất ăn bám, bóc lột của
chủ nghĩa thực dân, đế quốc đối với người lao động ở cả chính quốc và thuộc
địa, Hồ Chí Minh đã dùng hình ảnh con đỉa hai vịi: “Chủ nghĩa tư bản là một
con đỉa có một cái vịi bám vào giai cấp vơ sản ở chính quốc và một cái vịi khác
bám vào giai cấp vơ sản ở các thuộc địa. Nếu người ta muốn giết con vật ấy,
người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi” [9,tr.298]. Bằng cách so sánh giản đơn,



14

điển hình này, Hồ Chí Minh đã diễn đạt một cách dễ hiểu mối quan hệ giữa cách
mạng ở chính quốc với cách mạng thuộc địa. Với hình ảnh con đỉa hút máu thì
bất cứ người Việt nam bình thường nào cũng có thẻ hiểu và cảm nhận được bản
chất bóc lột, ăn bám của chủ nghĩa thực dân, đế quốc.
Hồ Chí Minh khơng chỉ kế thừa phong cách tư duy Việt Nam, tư duy
phương Đơng mà cịn kế thừa tồn bộ những tinh hoa trí tuệ của tư duy phương
Tây, đặc biệt là phương pháp tư duy biện chứng duy vật của chủ nghĩa MácLênin. Chính Người đã từng nói rằng, chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương
pháp tư duy biện chứng. Do đó, Người ln căn dặn cán bộ, đảng viên “...Phải
nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩa Mác-Lênin… mà tổng kết những kinh
nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta”
[26,Tr.292]. Đối với Người, học tập chủ nghĩa Mác-Lênin là phải học “cái tinh
thần sử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình” [26,tr.292].
Để kế thừa và phát huy được những giá trị của tư duy dân tộc, tư duy
phương Đông và tư duy biện chứng duy vật đòi hỏi chủ thể phải có trí thơng
minh, sự nhạy bén với cái mới, thiết thực, cụ thể và sáng tạo. Hồ Chí Minh là
người có kiến thức sâu rộng, được tiếp xúc với nhiều nền văn hoá khác nhau, am
hiểu và sử dụng được nhiều ngoại ngữ, những phẩm chất đó đã tạo nên bản sắc
riêng trong tư tưởng và phong cách tư duy của Người.
Đối với cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã có những luận điểm rất
sáng tạo về con đường đưa một nước nông nghiệp lạc hậu vốn là thuộc địa nửa
phong kiến đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Có nhiều
vấn đề Người không đủ thời gian và điều kiện để giải quyết, nhưng tư tưởng của
Người là những tiền đề lý luận và phương pháp luận hết sức quan trọng để định
hướng cho sự phát triển hợp quy luật của đất nước. Vấn đề có ý nghĩa quyết
định là phong cách duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, thiết thực, gắn với thực tiễn đất
nước và thời đại của Người đã trở thành cơ sở cho việc hoạch định đường lối

cách mạng đúng đắn, xây dựng những nhân tố bảo đảm thắng lợi của cách mạng
Việt Nam, giúp Đảng cộng sản và nhân dân Việt Nam “dĩ bất biến, ứng vạn


15

biến”, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, vững bước đi theo con đường mà
Người đã dày công lựa chọn- Con đường độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa
xã hội.
Tại sao Hồ Chí Minh lại có phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo,
thiết thực gắn với thực tiễn đất nước và thời đại? Đây không phải hồn tồn chỉ
là vấn đề thiên tài đầy bí hiểm không thể lý giải được, mặc dầu chúng ta không
hề phủ nhận những điều ấy ở các vĩ nhân. Từ đặc điểm bản chất và những thuộc
tính bền vững của phong cách tư duy Hồ Chí Minh cũng như tồn bộ q trình
hoạt động thực tiễn của Người, chúng ta có thể tìm thấy những lời giải đáp cho
câu hỏi vừa đặt ra như sau:
Thứ nhất, mọi suy nghĩ của Hồ Chí Minh dù trực tiếp hay gián tiếp đều
gắn với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Mục tiêu xuyên suốt qua trình tư duy
của Người là tìm cho được con đường cứu dân, cứu nước, con đường xây
dựng một nước Việt Nam giàu mạnh- văn minh, có thể “theo kịp các nước
khác trên toàn cầu” và “sánh vai các cường quốc năm châu”. Đó cũng là “ham
muốn tột bậc” mà Người hằng khao khát, ôm ấp, theo đuổi và quyết tâm thực
hiện bằng được.
Hồ Chí Minh khơng chỉ tìm thấy con đường cứu nước, mà ln suy nghĩ
tìm mọi cách thực hiện thắng lợi con đường đã lựa chọn. Chính những điều ấy
đã làm cho tư duy Hồ Chí Minh vượt hẳn lên so với tư duy của các nhà yêu
nước thuộc các thế hệ trước cũng như đương thời.
Thứ hai, phong cách tư duy Hồ Chí Minh thấm đượm sâu sắc, nông nàn
chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam trong thời đại mới. Chủ nghĩa yêu
nước là một trong những di sản vô cùng quý giá đã được xây dựng và bồi đắp

trong chiều dài lịch sử Việt Nam, qua mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước, trở
thành tinh hoa, niềm tự hào sâu sắc và cốt lõi của nền văn hoá, truyền thống Việt
Nam. Nhờ có chủ nghĩa yêu nước mà các thế hệ người Việt đã vượt lên mọi gian
khổ, hy sinh, tập hợp mọi lực lượng của dân tộc, làm nên những kỳ tích vĩ đại,
những biểu tượng oai hùng, vinh quang trở thành động lực thúc đẩy các thế hệ
tương lai phấn đấu đưa dân tộc vươn lên những tầm cao mới.


16

Hồ Chí Minh với tinh thần yêu nước nồng nàn, ý chí kiên cường, tư duy
chính trị sắc bén, nhạy cảm, phương pháp tư duy khoa học và cách mạng, đã
khắc phục được những hạn chế của chủ nghĩa yêu nước truyền thống và đưa chủ
nghĩa yêu nước Việt Nam lên một tầm cao mới, tầm cao của thời đại mới.
Thứ ba, Hồ Chí Minh mở rộng, tìm hiểu, nghiên cứu gạn lọc, kế thừa mặt
tiến bộ của các học thuyết đã có. Trước khi đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ
Chí Minh đã từng theo học Nho giáo, tiếp cận Phật Giáo, Lão giáo, Thiên Chúa
giáo, làm quen với tư tưởng của các nhà Khai sáng và cách mạng tư sản Tây Âu.
Sau khi đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, Người cịn tìm hiểu thực chất tư tưởng
dân tộc, dân quyền, dân sinh trong chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn,
thuyết bất hợp tác, bất bạo động của Găngđi - hai nhà tư tưởng lớn của hai quốc
gia lớn nhất châu á.
Quá trình tư duy của Người là quá trình suy ngẫm, so sánh, lọc bỏ, lựa
chọn, phân biệt đúng sai, hay dở, tiến bộ hay lạc hậu, phù hợp hay không phù
hợp với cách mạng Việt Nam. Khi đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, Người đã
nhanh chóng nắm bắt được linh hồn của chủ nghĩa Mác- Lê nin là phép biện
chứng duy vật, tiếp nhận lập trường, quan điểm, phương pháp cách mạng và
khoa học của học thuyết ấy. Từ ấy, phong cách tư duy của Người vừa quán triệt
tinh thần cách mạng triệt để, vừa có cơ sở khoa học chắc chắn. Người thấy rất rõ
triết lý sống động của Đức Phật, của đức chúa Giêsu hay học thuyết của Khổng

Tử, dù đó khơng phải là những học thuyết khoa học, cách mạng. Người chỉ ra
rằng, những học thuyết ấy rất giàu tình thương yêu con người, nhưng chỉ khuyên
răn con người cam chịu hoặc chỉ muốn khôi phục lại trật tự, ổn định trong xã hội
đương thời (nô lệ, phong kiến), có khi cịn “phát ngơn bênh vực những kẻ bóc
lột, chống lại những người bị áp bức”. Tuy nhiên, Người vẫn đánh giá cao lòng
từ bi của Đức Phật, lòng bác ái của Đức chúa Giêsu, đạo đức, học vấn và kiến
thức uyên bác của Khổng Tử, mà Người coi đó là “những vị chí tơn” rất đáng
kính phục.


17

Thật khó tìm thấy một nhà mác-xít nào khác đã tìm thấy cái tinh tuý, phát
biểu và đánh giá cao các học thuyết của Khổng Tử, Phật Thích ca Mâu ni,
Giêsu như Hồ Chí Minh. Người nói:
Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá
nhân. Tơn giáo Giêsu có ưu điểm của nó là lịng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác
có ưu điểm của nó là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tơn Dật
Tiên có ưu điểm của nó là chính sách của nó thích hợp với điều kiện nước ta.
Khổng Tử, Giêsu, Mác, Tơn Dật Tiên chẳng có những điểm chung đó sao? Họ
đều muốn mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu phúc lợi cho xã hội. Nếu
hơm nay họ cịn sống trên đời này, nếu họ hợp lại một chỗ, tôi tin rằng, họ nhất
định chung sống với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết. Tơi cố
gắng làm người học trị nhỏ của các vị ấy.
Phải có tư duy rộng mở, khơng định kiến, khơng thành kiến mới có thể đi
đến những nhận định độc đáo như vậy. Tư duy như vậy chỉ có ở Hồ Chí Minh.
Thứ tư, hướng tầm nhìn ra thế giới, không ngừng nâng cao kiến thức trên
nhiều lĩnh vực. Hồ Chí Minh đã làm giàu trí tuệ của mình trên một cơ sở nền
văn hố phong phú của nhân loại. Đây chính là điều kiện khơng thể thiếu để có
một phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, thiết thực, gắn với thực tiễn đất

nước và thời đại.
Hồ Chí Minh lấy tự học làm phương thức chủ yếu để nâng cao trình độ
kiến thức văn hố của mình. Điều quan trọng hơn cả là Người vừa hoạt động
thực tiễn, vừa tự học, vừa tổng kết kinh nghiệm cuộc sống để từng bước đi tới
đỉnh cao của trí tuệ, từ một người đi “tìm đường” trở thành một lãnh tụ dẫn
đường cho cả một dân tộc; từ một người yêu nước, một người cộng sản trở thành
một nhà văn hóa kiệt xuất của nhân loại.
Những nội dung trong phong cách tư duy Hồ Chí Minh khơng tách rời
nhau, mà kết hợp với nhau, đan xen vào nhau trong quá trình tư duy để hình
thành những tư tưởng mới đầy tính sáng tạo và thiết thực. Chính vì vậy, tư duy
của Người hoàn toàn xa lạ với những gì sơ cứng, giáo điều. Người đặt vấn đề


18

học tập chủ nghĩa Mác-Lênin rất rõ ràng: đó là học tập tinh thần cách mạng và
khoa học, là nắm vững lập trường, quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin “để xử
trí mọi việc” trong cách mạng Việt Nam. Người khơng tự trói mình, cũng khơng
trói buộc người khác hoặc để người khác trói buộc mình vào những câu chữ,
những ngun tắc cứng nhắc.
Như vậy, phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, thiết thực, gắn với
thực tiễn đất nước và thời đại của Hồ Chí Minh đã thực sự đóng góp to lớn vào
việc phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin và đã nâng chủ nghĩa yêu nước Việt Nam
lên một tầm cao mới, đưa trí tuệ Việt Nam lên ngang tầm trí tuệ tiên phong của
thời đại. Vì vậy, phong cách tư duy của Người không chỉ đưa đến những tư
tưởng phản ánh đúng đắn quy luật vận động và phát triển của cuộc sống mà còn
soi sáng con đường cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi vinh quang. Hơn nữa,
tư tưởng của Người còn là những dự báo khoa học về sự phát triển tương lai của
dân tộc, đã và đang thực tiễn cách mạng Việt Nam khẳng định tính đúng đắn:
khoa học và cách mạng.

Từ sự phân tích trên, có thể khái qt bước đầu đặc trưng cơ bản của
phong cách tư duy Hồ Chí Minh là: Luôn độc lập, tự chủ, sáng tạo trong suy
nghĩ, định hướng nhận thức và hành động đúng đắn; luôn có sự thống nhất chặt
chẽ giữa tình cảm cách mạng và tri thức khoa học; mọi suy nghĩ đều hướng tới
hành động cải tạo và xây dựng xã hội mới khơng có áp bức, bóc lột, bất cơng;
tơn trọng điều kiện khách quan, phát huy tối đa nỗ lực chủ quan; thường xuyên
tổng kết kinh nghiệm khái quát lý luận khoa học, gắn lời nói với việc làm, lý
luận với thực tiễn, lấy thực tiễn làm gốc.
Đặc trưng thứ nhất, phong cách tư duy Hồ Chí Minh ln độc lập, tự chủ,
sáng tạo trong suy nghĩ, định hướng nhận thức và hành động đúng đắn. Sau thất
bại của các vua Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân, Hoàng Hoa Thám, Trịnh Văn
Cấn, Nguyễn Aí Quốc đã rất thận trọng, độc lập suy nghĩ, quyết định khước từ
đề nghị của các vị tiền bối, không đi theo con đường Đông Du, Người tự chọn
đường đi cho riêng mình: sang châu Âu, tới đất nước của kẻ thù đang xâm lược
Tổ quốc mình để tìm hiểu thực chất đằng sau những mỹ từ “tự do”, bình đẳng”,
“bác ái” là gì?


19

Thời điểm giác ngộ chân lý đó là giờ phút hạnh phúc nhất, không bao giờ
phai mờ trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Sau này, Hồ Chí Minh
kể lại rằng: Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ,
tin tương biết bao! Tơi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng
mà tơi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo:
Hỡi đồng bào bị đọa đầy đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây
là con đường giải phóng chúng ta.
Đặc trưng thứ hai, phong cách tư duy Hồ Chí Minh ln có sự thống nhất
chặt chẽ giữa tình cảm cách mạng và tri thức khoa học.
Thật vậy, nếu khơng có tình cảm cách mạng trong sáng thì khơng thể tiếp

thu, kế thừa và tích luỹ được những tri thức có giá trị từ thực tiễn, và như thế
cũng khơng thể có sáng kiến cách mạng. Khi tình cảm đã giá lạnh thì trí tuệ
cũng sẽ khơ cằn; hoặc tình cảm sai lạc thì lý trí sẽ mất phương hướng.
Với tình cảm mãnh liệt, trong sáng đối với con người, với nhân dân và
dân tộc, Hồ Chí Minh đã quan sát kỹ và suy ngẫm đúng đắn trên con đường
tìm đến chủ nghĩa Mác-Lênin; lịng yêu thương bao la đối với đồng bào và Tổ
quốc mình đã từng bước nâng lên và trở thành lịng yêu thương đối với tất cả
những người đau khổ trên thế giới. Những tri thức khoa học, tình cảm cách
mạng đã giúp Người nhanh chóng tiếp thu một cách sáng tạo lý luận của chủ
nghĩa Mác-Lênin.
Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác-Lênin và chính lý luận khoa học,
cách mạng ấy đã bồi đắp thêm những tình cảm vốn có của Người, giúp Người
tăng thêm nghị lực để vượt qua khó khăn, thử thách, lạc quan, tin tưởng vào
thắng lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Hồ Chí Minh có một cách hiểu độc đáo về chủ nghĩa Mác-Lênin. Với
Người, lý luận Mác-Lênin không chỉ bao gồm các nguyên lý, quy luật, phạm trù,
khái niệm trừu tượng và chỉ thuộc về nhận thức lý trí mà cịn bao hàm cả tình
nghĩa. Người nói: “Hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin là phải sống với nhau có tình có
nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà vẫn sống khơng có tình có nghĩa thì sao gọi
là hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin” [28,tr554].


20

Đặc trưng thứ ba, mỗi suy nghĩ đều hướng đến hành động cải tạo và xây
dựng xã hội mới. Là một trong những lãnh tụ chính trị đi rất nhiều nước trên thế
giới, am hiểu sâu sắc lịch sử tư tưởng và thể chế chính trị của nhiều nước, nhiều
dân tộc, nghiên cứu và tiếp thu nhiều tư tưởng, học thuyết khác nhau từ cổ đến
kim, từ Đông sang Tây. Nên mỗi suy nghĩ của Hồ Chí minh bao giờ cũng vậy,
luôn hướng đến hành động cải tạo và xây dựng xã hội mới.

Tìm thấy ở chủ nghĩa Mác-Lênin lời giải đáp và con đường thực hiện mục
tiêu, lý tưởng cao cả, Hồ Chí Minh khẳng định: chủ nghĩa Mác-Lênin là “học
thuyết đúng đắn nhất, cách mạng nhất”, “đó là cái cần thiết cho chúng ta, là con
đường giải phóng chúng ta”. Với lý luận cách mạng và khoa học soi đường,
Người về nước thực hiện cuộc vận động cách mạng trong quần chúng nhân dân
lao động. Đồng thời, trực tiếp tổ chức, xây dựng những lực lượng cách mạng để
tiến hành đấu tranh giành độc lập, tự do, hạnh phúc.
Người đã đúc kết, khái quát nên chân lý: “Không có gì q hơn độc lập tự
do”; “Con đường cứu nước duy nhất đúng đắn là con đường cách mạng vô sản”;
“Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân phải tiến lên cách mạng xã hội chủ
nghĩa”. Theo Hồ Chí Minh, độc lập phải gắn liền với sự nghiệp giải phóng giai
cấp cơng nhân lao động và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Đặc biệt,
Người đã phát hiện khả năng to lớn của các dân tộc thuộc địa và đã nêu lên tính
chủ động của cách mạng thuộc địa, về khả năng cách mạng thuộc địa có thể
giành thắng lợi trước cách mạng ở chính quốc. Điều ấy cho thấy, phong cách tư
duy Hồ Chí Minh không chỉ dừng lại ở việc tiếp thu những nội dung cơ bản của
học thuyết cách mạng Mác-Lênin một cách thụ động, mà còn thể hiện rõ một
phong cách tư duy sáng tạo khi vận dụng học thuyết vào tình hình cách mạng cụ
thể, để rút ra những kết luận mới phù hợp với quá trình cách mạng và chỉ đạo
cách mạng Việt Nam tiến tới thành cơng. Hồ Chí Minh thật xứng đáng với sự
thừa nhận và tôn vinh của thế giới là “Người khởi xướng cho phong trào giải
phóng dân tộc ở thế kỷ XX”, và người đầu tiên được UNESCO suy tơn là “Anh
hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới”.
Về chủ nghĩa xã hội, người nêu hết sức ngắn gọn, dễ hiểu, nhằm làm nhân
dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có cơng ăn việc làm, được


21

ấm no và sống cuộc đời hạnh phúc; nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hóa

của nhân dân, do nhân dân tự xây dựng lấy; nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng
sung sướng, ai nấy đều được học hành, ốm đau có thuốc chữa trị, người già, hết
tuổi lao động được nghỉ ngơi, những phong tục tập qn khơng tốt lạc hậu dần
dần được xố bỏ.
Như vậy, nội dung chủ nghĩa xã hội mà Hồ Chí Minh nêu ra để động viên,
hướng dẫn cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân tổ chức xây dựng một xã hội
mới ở nước ta thật ngắn gọn, dễ hiểu nhưng đó là những nội dung rất cơ bản, là
vấn đề cốt lõi đòi hỏi cách mạng xã hội chủ nghĩa phải thực hiện.
Đặc trưng thứ tư, lý luận luôn đi đơi với thực tiễn, gắn liền với thực tiễn;
lời nói đi đôi với việc làm. Luận giải về nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn, về tầm quan trọng của việc quán triệt nguyên tắc này, Hồ Chí Minh đã
dùng hình ảnh so sánh như: lý luận cũng như cái tên (hoặc viên đạn). Thực hành
cũng như cái đích để bắn. Có tên mà khơng bắn, hoặc bắn lung tung, cũng như
khơng có tên, lý luận cốt để áp dụng vào công việc thực tế, lý luận mà không áp
dụng vào công việc thực tế là lý luận suông. Dù xem được hàng ngàn hàng vạn
quyển lý luận nếu khơng biết đem ra thực hành, thì khác nào một cái hòm đựng
sách, lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong
cơng việc thực tế. Khơng có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi.
Hồ Chí Minh thường chứng minh lý luận bằng thực tiễn, bằng hành động;
lời nói đi đơi với việc làm cụ thể, thiết thực, nói ít làm nhiều, thấy đúng là làm,
làm tốt, tự khắc mọi người noi theo, làm theo. Chẳng hạn, trong khoảng mười
năm (từ 1955 đến 1965) Người đã thực hiện hơn bảy trăm lượt đi thăm, tiếp xúc
với cơ sở địa phương, công trường, hợp tác xã, đơn vị bộ đội... mỗi năm có hơn
bảy mươi lần xuống cơ sở. Qn bình mỗi tháng có tới sáu lần tiếp xúc, gặp gỡ
quần chúng. Việc làm đó đã khẳng định, Người ln quan tâm, sâu sát thực tiễn,
lấy thực tiễn làm mục đích, động lực cho mọi hoạt động cách mạng của mình.
Đặc trưng thứ năm, luôn coi trọng điều kiện khách quan, phát huy tối đa
nỗ lực chủ quan và tính tự giác cách mạng. Nghiên cứu, nắm vững điều kiện



22

khách quan, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa quy luật khách quan và hoạt
động có ý thức của con người, là một nội dung đặc biệt quan trọng trong phương
pháp luận mácxít. V.I. Lênin chỉ ra rằng, tư duy lý luận khơng chỉ thừa nhận tính
quy luật chung của sự phát triển lịch sử mà còn phải biết phát huy tính tích cực,
năng động, sáng tạo. Hồ Chí Minh bao giờ cũng vậy, giải quyết mọi việc đều
xuất phát từ những điều kiện khách quan, tôn trọng khách quan, nắm chắc diễn
biến những điều kiện khách quan của cách mạng. Trên cơ sở đó, phát huy tính
tích cực của nhân tố chủ quan để đề ra cương lĩnh, chiến lược, sách lược cho phù
hợp với tình hình cách mạng.
Xuất phát từ thực tiễn khách quan, tôn trọng điều kiện khách quan, đồng
thời, Người luôn luôn coi trọng nhân tố chủ quan, phát huy tối đa tính tích cực
tự giác, bao gồm sự hiểu biết lý luận, rèn luyện và tu dưỡng đạo đức cách mạng.
Người cho rằng, thắng lợi của chủ nghĩa xã hội tất yếu phải dựa trên thắng lợi
của cuộc đấu tranh trừ diệt “chủ nghĩa cá nhân”, dựa trên một đảng lấy lợi ích
của giai cấp và của dân tộc làm mục tiêu duy nhất, một đảng tiêu biểu về “trí
tuệ”, “đạo đức”, “văn minh” và “lương tâm” của dân tộc.
Hiện nay, trong giáo dục, đào tạo cũng như xây dựng Nhà trường vững
mạnh toàn diện cán bộ, học viên đào tạo cao học các chuyên ngành xã hội nhân
văn chỉ có thể giải quyết tốt những vẫn đề chính trị nhạy cảm và những vấn đề
sinh động của cuộc sống đặt ra, khi họ tích cực học tập, rèn luyện, tu dưỡng,
khơng ngừng nâng cao phẩm chất và năng lực chuyên môn, rèn luyện phong
cách tư duy Hồ Chí Minh.
1.1.2 Rèn luyện phong cách tư duy cho học viên đào tạo cao học các
chuyên ngành khoa học xã hội nhân văn tại Học viện chính trị hiện nay theo
phong cách tư duy Hồ Chí Minh
Rèn luyện là một khái niệm có nhiều cách hiểu khác nhau. Theo từ
điển Tiếng Việt, rèn luyện là sự luyện tập nhiều trong thực tế để đạt tới những
phẩm chất hay trình độ vững vàng, thơng thạo, hoặc được rèn luyện trong

thực tế đấu tranh.


23

Rèn luyện phong cách tư duy, là thông qua hoạt động thực tiễn để luyện
tập, hình thành nên những đặc điểm riêng về phẩm chất và trình độ tư duy mang
tính hệ thống, ổn định của một người nào đó.
Rèn luyện phong cách tư duy cho học viên đào tạo cao học các chuyên
ngành khoa học xã hội nhân văn tại Học viện chính trị hiện nay theo phong
cách tư duy Hồ Chí Minh là rèn luyện phong cách tư duy độc lập, tự chủ,
sáng tạo, thiết thực của Người, trên cơ sở nắm vững phương pháp tư duy biện
chứng duy vật để vận dụng vào giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra trong
quá trình giáo dục, đào tạo, qua đó xây dựng phong cách tư duy khoa học
cho học viên đào tạo giảng viên khoa học xã hội nhân văn quân sự, đáp ứng
mục tiêu, yêu cầu đào tạo.
Trước hết, rèn luyện phong cách tư duy cho học viên đào tạo cao học các
chuyên ngành khoa học xã hội nhân văn tại Học viện Chính trị hiện nay là rèn
luyện phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, thiết thực của Người, trên cơ
sở nắm vững phương pháp tư duy biện chứng duy vật. Rèn luyện tinh thần độc
lập theo phong cách tư duy Hồ Chí Minh là rèn luyện cách tư duy, cách suy nghĩ
độc lập, không lệ thuộc, không bắt chước, không theo đi, khơng dập khn,
máy móc, đi theo lối mịn, theo tư duy, suy nghĩ của người khác. Rèn luyện tinh
thần tự chủ theo phong cách tư duy Hồ Chí Mính là học tập cách làm chủ mọi
suy nghĩ và hành động của mình, làm chủ trong việc phân tích, so sánh, đối
chiếu, xử lý thông tin... để rút ra những kết luận trung thực, đúng đắn. Rèn luyện
tinh thần sáng tạo trong phong cách tư duy Hồ Chí Minh là rèn luyện tinh thần
mạnh dạn, dám từ bỏ cái cũ khơng cịn phù hợp với thực tiễn hoặc những cái cũ
đã bị thực tiễn vượt qua; tiếp thu, chọn lọc những giá trị của cái cũ còn phù hợp
với sự phát triển mới; nghiên cứu, vận dụng và đề xuất cách trả lời và giải quyết

những vấn đề mới đang đặt ra, biết phát hiện những nhân tố mới, kiên quyết
ủng hộ và tạo điều kiện cho những nhân tố ấy phát triển.
Tóm lại, muốn rèn luyện tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, thiết thực
theo phong cách tư duy Hồ Chí Minh mỗi học viên đào tạo cao học các chuyên
ngành khoa học xã hội nhân văn quân sự tại Học viên Chính trị phải dựa trên cơ
sở nắm vững, trung thành và vận dụng linh hoạt những nguyên lý của chủ nghĩa


24

Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất là phương pháp tư duy biện chứng duy
vật mácxít, gắn với thực tiễn yêu cầu nhiệm vụ học tập và rèn luyện của học
viên tại học viện.
Thứ hai, rèn luyện phong cách tư duy Hồ Chí Minh cho học viên đào tạo
cao học các chuyên ngành khoa học xã hội nhân văn quân sự tại Học viện Chính
trị hiện nay là tích cực tổng kết thực tiễn, khái quát lý luận, rút ra bài học kinh
nghiệm từ thực tiễncông tác giáo dục, đào tạo của Học viện. Một trong những
yêu cầu hết sức quan trọng trong q trình đào tạo là phải tích cực tổng kết thực
tiễn, khái quát, đúc rút kinh nghiệm, phát huy mặt tốt, khắc phục mặt hạn chế.
Qua đó, điều chỉnh nội dung, chương trình đào tạo cho phù hợp, từng bước đổi
mới phương pháp dạy- học. Thực hiện tốt được điều đó mới có thể nâng cao
chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo. Như vậy, từ yêu cầu của thực tiễn giáo
dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học, đòi hỏi học viên viên phải suy nghĩ, nghiên
cứu, tìm tịi biện pháp mới, cải tiến phương pháp học tập cho phù hợp. Q trình
đó đặt ra u cầu ngày càng cao, đòi hỏi mỗi học viên phải thường xuyên kiểm
nghiệm lại vốn sống, hiểu biết, kinh nghiệm của mình; kịp thời bổ sung phần
thiếu hụt tri thức, cập nhật thông tin, khắc phục sự tụt hậu, biết tổ chức thực hiện
nhiệm vụ có hiệu quả hơn, đó là hình thức học tập, rèn luyện phong cách tư duy
khoa học tốt nhất.
Học tập, rèn luyện phong cách tư duy khoa học mang tính sáng tạo, thiết

thực, gắn với thực tiễn nhiệm vụ giáo dục, đào tạo của Học viện ln địi hỏi
mỗi học viên phải thường xun khái qt, tổng kết rút kinh nghiệm thực tiễn
công tác giáo dục, đào tạo; củng cố, bổ sung, đổi mới phương pháp, tác phong
trong học tập, rèn luyện cho phù hợp, mang lại những hiệu quả thiết thực.
Thứ ba, rèn luyện phong cách tư duy Hồ Chí Minh cho học viên đào tạo
cao học các chuyên ngành khoa học xã hội nhân văn quân sự tại Học viện Chính
trị hiện nay là học tập cách thức vận dụng phương pháp tư duy biện chứng duy
vật của Người vào thực tiễn học tập, nghiên cứu khoa học nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục, đào tạo giảng viên tại Học viện. Vận dụng phương pháp tư duy


25

biện chứng duy vật của Hồ Chí Minh là vận dụng cách thức diễn đạt, suy nghĩ
tinh tế, sắc sảo để biểu đạt những nguyên lý lý luận một cách giản dị, trong sáng,
gần gũi, có lý và có tình, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ vận dụng, chú ý sử dụng những
khái niệm, phạm trù mà quảng đại quần chúng nhân dân đã quen dùng trên cơ sở
bồi đắp cho những khái niệm, phạm trù ấy những nội dung mới mẻ, phong phú,
sinh động.
1.2 Thực chất, vai trò rèn luyện phong cách tư duy cho học viên đào
tạo cao học các chuyên ngành khoa học xã hội nhân văn quân sự tại Học
viện chính trị theo phong cách tư duy Hồ Chí Minh
1.2.1 Giá trị, ý nghĩa việc rèn luyện phong cách tư duy Hồ Chí Minh cho
học viên đào tạo cao học các chuyên ngành Khoa học xã hội nhân văn quân
sự tại Học viện chính trị hiện nay.
Nghiên cứu học tập chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh nói
chung, rèn luyện phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, thiết thực, gắn bó
với thực tiễn đất nước và thời đại của Hồ Chí Minh nói riêng là việc làm có vai
trị và ý nghĩa quan trọng đối với đội ngũ học viên đào tạo giảng viên khoa học
xã hội nhân văn quân sự hiện nay.

Để thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục, đào tạo đội ngũ học viên đào tạo cao
học các chuyên ngành khoa học xã hội nhân văn quân sự phải tích cực nghiên
cứu, học tập, tu dưỡng, rèn luyện phong cách tư duy Hồ Chí Minh. Việc làm này
sẽ góp phần nâng cao trình độ tư duy lý luận khoa học, nâng cao bản lĩnh chính
trị, trau dồi phẩm chất đạo đức cách mạng, phong cách và lối sống xã hội chủ
nghĩa nhờ đó góp phần đổi mới nội dung và phương pháp trong tổ chức lãnh
đạo, quản lý, chỉ huy và giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng đào tạo cao học
các chuyên ngành khoa học xã hội nhân văn quân sự đáp ứng mục tiêu, yêu cầu
đào tạo của Học viện.
Thực tế cho thấy, năng lực tư duy trí tuệ của con người phải được rèn
luyện, bồi dưỡng, vun đắp thường xuyên, liên tục và lâu dài, trải qua nhiều hình
thức và bước đi và những biện pháp khác nhau. Yếu tố quan trọng nhất đế rèn


×