Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

Giáo dục tư tưởng hồ chí minh cho học sinh trung học phổ thông trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (394.28 KB, 92 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
---------------------------------------

NGUYỄN VĂN LỤC

LUẬN VĂN THẠC SỸ GIÁO DỤC HỌC
ngµnh : LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY CHÍNH TRỊ

GIÁO DỤC TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH CHO HỌC
SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TRONG THỜI KÌ
ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA

Vinh - năm 2008
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài


2
Học sinh Trung học phổ thông là lứa tuổi mới lớn, có hoài bão, có khát
vọng vươn tới, tương lai của họ là lực lượng chủ chốt trên mọi lĩnh vực công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vì mới lớn, nên chưa có kinh nghiệm
sống, do đó cần phải đặc biệt chăm lo, giáo dục họ về mọi mặt, trong đó giáo
dục tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, định hướng con đường học tập, rèn
luyện phải luôn luôn là nhiệm vụ hàng đầu. Hơn 20 năm đổi mới, nhất là
trước tác động mạnh mẽ của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, thanh niên học sinh có những chuyển biến
mạnh mẽ, trong đó đan xen cả những yếu tố tích cực và tiêu cực. Những biểu
hiện tiêu cực, chưa tốt, đáng lo ngại về tư tưởng, đạo đức, lối sống, về tinh


thần và thái độ học tập của các em đặt ra yêu cầu phải tiếp tục đẩy mạnh hơn
nữa công tác giáo dục công dân, cải tiến nội dung và phương pháp giáo dục
để góp phần giúp cho các em có được định hướng đúng đắn, vững vàng trong
sự lựa chọn con đường phát triển, tiếp tục học lên, học nghề hay đi vào cuộc
sống lao động. Đây là nhiệm vụ trực tiếp của giáo viên giáo dục công dân.
Giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh "là một nhiệm vụ mấu chốt của công tác
tư tưởng của Đảng", đưa nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh vào nội dung dạy
học đã được xác định trong Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương
Đảng lần thứ 2 khóa VIII (năm 1996).
Giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh ở cấp Trung học phổ thông (THPT) đã
được thực hiện trong nhiều năm kể từ những năm đầu của nền giáo dục cách
mạng, nhưng trước yêu cầu của tình hình mới, công tác giáo dục đó còn nhiều
hạn chế, "Chưa có chương trình thích hợp trong các bậc phổ thông" [15]. Do
đó, nghiên cứu giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh cho học sinh THPT hiện nay
là một trong những nhiệm vụ cấp thiết để góp phần tích cực thực hiện cuộc
vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, thực hiện
nhiệm vụ giáo dục tư tưởng, chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống trong nhà
trường THPT, tạo cơ sở và tình cảm ban đầu để học sinh học tốt hơn bộ môn


3
tư tưởng Hồ Chí Minh ở bậc đại học. Với lý do đó, tôi chọn đề tài: “Giáo dục
tư tưởng Hồ Chí Minh cho học sinh Trung học phổ trong thời kì đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá”.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay đã có nhiều
công trình nghiên cứu. Trong đó, các văn kiện của Đảng: Nghị quyết Hội nghị
lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoáVII) về công tác thanh niên
trong tình hình mới, Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khoá VIII) về định hướng chiến lược phát triển sự nghiệp giáo

dục - đào tạo trong thời kì công nghiệp hóa và nhiệm vụ đến năm 2000, Văn
kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII), Văn
kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) về nhiệm vụ chủ yếu của công
tác tư tưởng, lí luận trong tình hình mới, Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX), Chỉ thị số 23-CT/TW của Ban Bí thư
về đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong
giai đoạn mới, Chỉ thị số 40 - CT/TW, về việc xây dựng, nâng cao chất lượng
đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ X, Chỉ thị số 06-CT/TW của Bộ Chính trị về tổ chức cuộc vận
động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, Thông báo số
134-TB/TW của Ban Bí thư sơ kết thực hiện chỉ thị 23-CT/TW..., là những
văn kiện của Đảng đề cập đến vị trí, vai trò, nội dung, phương pháp tuyên
truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong đó, Đảng ta đã nêu lên nhiệm
vụ "Đưa việc giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh vào nhà trường phù hợp với
lứa tuổi và với từng bậc học"[11] và "Chỉ thị về việc đẩy mạnh nghiên cứu,
tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới"[15], Chỉ
thị số 11-HD/TTVH, ngày 06 tháng 12 năm 2006 của Ban Tư tưởng và Văn
hóa Trung ương về hướng dẫn thực hiện chỉ thị số 06 của Bộ Chính trị, Chỉ


4
thị số 2516/CT-BGD&ĐT ngày 18 tháng 5 năm 2007 của Bộ Giáo dục và
Đào tạo về việc thực hiện cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh". Đây là những tài liệu định hướng mục tiêu, nội dung,
phương pháp giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh.
Một số công trình nghiên cứu chuyên sâu về giáo dục tư tưởng Hồ Chí
Minh cho thanh niên, học sinh, sinh viên gần đây như: “Giáo dục đạo đức cho
thanh niên theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở nước ta hiện nay”, Luận án tiến sĩ
Triết học của Trần Minh Đoàn (năm 2004), Học viện Chính trị Quốc gia Hồ

Chí Minh; "Tư tưởng Hồ Chí Minh về bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời
sau" của tiến sỹ Trần Quy Nhơn (năm 2004); "Vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục - đào tạo thanh niên nước ta hiện nay", Luận án tiến sỹ Triết
học Đoàn Nam Đàn (năm 2005)..., đều có mục tiêu giáo dục tư tưởng, đạo
đức Hồ Chí Minh cho thanh niên, giáo dục tình cảm của thanh niên với Bác.
Các công trình nghiên cứu triển khai: Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh
của Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình các bộ môn khoa học
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh của
Bộ Giáo dục và Đào tạo (năm 2005), giúp cho việc nghiên cứu, giảng dạy
môn tư tưởng Hồ Chí Minh một cách có hệ thống. Tiến sỹ Nguyễn Duy Bắc
(năm 2004) với tác phẩm "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về dạy và học
môn học Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong trường Đại học"; đề tài
khoa học của TS. Phạm Văn Hùng về "Phương pháp giảng dạy Tư tưởng Hồ
Chí Minh"... là những công trình khoa học trực tiếp nghiên cứu phương pháp
dạy học tư tưởng Hồ Chí Minh ở bậc Đại học. GS.TS. Hoàng Chí Bảo (năm
2005): "Tư tưởng Hồ Chí Minh và Hồ Chí Minh học với tư cách là những
môn khoa học", công trình khoa học này yêu cầu phải đảm bảo nguyên tắc
khoa học khi tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh...
Như vậy, đến nay chúng ta có nhiều công trình nghiên cứu về giáo dục
tư tưởng Hồ Chí Minh nhưng chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu


5
giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh cho học sinh THPT. Do vậy, đây là một công
trình khoa học mới, được xây dựng trên cơ sở khảo sát thực tiễn giáo dục trên
địa bàn Hà Tĩnh, tham khảo tình hình giáo dục trong nước qua các báo, tạp
chí, các hội thảo, các diễn đàn và trực tiếp thực nghiệm dạy học của tác giả.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu
Đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm thực hiện giáo dục tư

tưởng Hồ Chí Minh cho học sinh THPT hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ góc độ khoa học giáo dục, luận văn phân tích, làm rõ cơ sở lý luận,
cơ sở thực tiễn của giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh và phát hiện, đề xuất một
số giải pháp thực hiện giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh ở trường Trung học
phổ thông nhằm nâng cao chất lượng giáo dục tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối
sống cho thanh niên học sinh; đi sâu nghiên cứu nội dung giáo dục tư tưởng
Hồ Chí Minh thông qua môn học Giáo dục công dân (GDCD)
4. Giới hạn đề tài
Khách thể nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về phương pháp giảng dạy ở trường THPT
Đối tượng nghiên cứu
Giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh cho học sinh THPT. Vận dụng trong
dạy học môn Giáo dục công dân.
Đối tượng khảo sát
Thực trạng giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh cho học sinh THPT hiện nay
5. Giả thuyết khoa học
Giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh là một giải pháp nâng cao chất lượng và
hiệu quả giáo dục tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, giáo dục năng lực
công dân cho học sinh THPT.
6. Phương pháp nghiên cứu


6
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở phương pháp
luận nghiên cứu; quan điểm giáo dục của Đảng là phương hướng nghiên cứu
của đề tài; quan điểm của Đảng về nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư
tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở xác định nội dung, mục tiêu nghiên cứu.
Trên cơ sở quan điểm và phương pháp giáo dục hiện đại, đề tài sử dụng
các phương pháp nghiên cứu khoa học: Phương pháp thực tiễn, phương pháp

lôgíc - lịch sử, phương pháp lôgíc biện chứng, phương pháp phân tích và tổng
hợp, các phương pháp quan sát, thu thập thông tin, phương pháp thể nghiệm.
Phương pháp nghiên cứu chuyên ngành lý luận chính trị và phương pháp
giáo dục chính trị kết hợp với phương pháp nghiên cứu tác phẩm và phương
pháp triển khai hoạt động.
7. Cấu trúc nội dung đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình đã công bố, danh
mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung đề tài gồm 2 chương.


7
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA GIÁO DỤC TƯ TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TRONG
THỜI KÌ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ
1.1. Cở sở lý luận của giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh cho học sinh
THPT trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
1.1.1. Vai trò của giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kì đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế
1.1.1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và
của dân tộc ta
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX năm 2001 của Đảng ta khẳng định:
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu
sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận
dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của
nước ta, kế thừa và phát triển những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu
tinh hoa văn hoá của nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại; về sức
mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc, về chính quyền nhân dân,

xây dựng nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân; về quốc phòng toàn dân,
xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, về phát triển kinh tế, văn hoá, không
ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; về đạo đức cách
mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; về chăm lo bồi dưỡng thế hệ
cách mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ,
đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của
nhân dân. Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân
ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và của dân tộc ta.[13,
tr.83 - 84]


8
Lịch sử cách mạng Việt Nam hơn một thế kỷ vừa qua đã chứng minh
rằng mọi thắng lợi của cách mạng nước ta đều gắn liền với đường lối cách
mạng đúng đắn của Đảng. Trong đó, tư tưởng Hồ Chí Minh là yếu tố cực kì
quan trọng bảo đảm cho đường lối đó đầy sáng tạo và phù hợp với mọi hoàn
cảnh. Từ cuối thế kỷ XIX đến những thập niên đầu thế kỷ XX, nhân dân ta đã
liên tiếp đứng lên chống chủ nghĩa thực dân, các phong trào diễn ra rất anh
dũng nhưng đều không thành công vì thiếu một đường lối đúng. Chỉ đến khi
Nguyễn Ái Quốc nhận thức được chủ nghĩa Mác- Lênin, phát hiện ra con
đường cứu nước theo cách mạng vô sản, truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và
con đường cách mạng vô sản vào phong trào cách mạng Việt Nam thì mới tạo
ra bước ngoặt mới của cách mạng Việt Nam, chỉ đến khi Đảng ta được thành
lập và lãnh đạo thì cách mạng Việt Nam mới giành được những thắng lợi to
lớn, có ý nghĩa lịch sử và thời đại. Bằng việc trực tiếp chủ trì hội nghị lần thứ
tám (năm 1941) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Hồ Chí Minh đã hoàn
thiện đường lối cách mạng giải phóng dân tộc, đưa đến thắng lợi của Cách
mạng tháng tám năm 1945, đánh đổ chế độ mấy mươi năm phong kiến thực
dân, xóa bỏ chế độ quân chủ đã tồn tại hàng trăm năm, lập nên nhà nước dân
chủ cộng hòa; bằng tư tưởng đối ngoại mềm dẻo, khôn khéo, chúng ta đã

thêm bạn, bớt thù, tiến hành kháng chiến thắng lợi, giải phóng dân tộc, bảo vệ
Tổ quốc; bằng việc kiên trì tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội, chúng ta đã tiến hành đổi mới thành công, tiếp tục giành được nhiều
thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử trong 20 năm qua.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và của dân
tộc ta, bởi vì trong những lúc khó khăn chúng ta có thể tìm thấy trong tư
tưởng của Người những vấn đề soi sáng cho tư duy, chỉ cho chúng ta phương
thức hành động, trên cơ sở đó mà giải quyết nhiều vấn đề tư tưởng, thống nhất
quan điểm trong việc nhìn nhận hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng,
nhằm phục vụ lợi ích của dân tộc. Chẳng hạn, những sai lầm, khuyết điểm


9
kéo dài của Đảng ta trong thời kỳ trước năm 1986 cùng với những khó khăn
khách quan đã đưa công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ta đến khủng hoảng
trầm trọng, cần phải đổi mới để tồn tại và phát triển, Đảng ta xác định trước
hết là phải đổi mới tư duy và đổi mới tổ chức, cán bộ. Tư tưởng đổi mới đó là
sự tiếp thu tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của lý luận đối với thực tiễn và
vai trò của tổ chức và cán bộ. Người đã từng căn dặn rằng: "Lý luận như cái
kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế.
Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi", "Muôn việc thành công
hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém". Đứng trước cuộc khủng hoảng
toàn diện hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới vào những năm đầu thập niên
chín mươi, song đất nước ta vẫn kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, đã
vượt qua những khó khăn, thách thức, tiến hành đổi mới thành công vì Đảng
ta đã tìm thấy tư tưởng "Không có gì quí hơn độc lập tự do" trong tư tưởng
Hồ Chí Minh, vì Đảng ta đã tìm thấy tư tưởng: "Muốn cứu nước và giải
phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản"
trong tư tưởng của Người, vì Hồ Chí Minh đã nhắc nhở chúng ta rằng: "Muốn
người ta giúp mình thì mình phải tự giúp lấy mình đã". Tiếp thu tư tưởng

"Con người là vốn quí nhất", Đảng ta đặc biệt coi trọng chiến lược phát triển
con người, đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục và đào tạo, coi đây là bước đột phá
đầu tiên trong đường lối đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
coi việc phát huy sức mạnh toàn dân tộc là nguồn sức mạnh to lớn, là động
lực chủ yếu để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế
quốc tế. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã làm cho dân tộc ta đứng vững trước mọi
khó khăn, thách thức để vượt lên, khẳng định bản sắc của dân tộc, khẳng định
sức mạnh của dân tộc trước thời đại mới.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần to lớn của chúng ta, vì đó
không chỉ là tư tưởng lý luận mà còn là tư tưởng nhân văn cao cả. Tư tưởng
xuất phát từ tình thương yêu con người với một tình cảm sâu sắc, vừa lớn lao,


10
vừa gần gũi đối với từng con người cụ thể. Chính tư tưởng nhân văn này đã
tạo nên sức mạnh to lớn cho Đảng ta, cho dân tộc ta vượt qua những khó khăn
trước mắt và làm nên những chiến công kỳ diệu. Trong thời đại khoa học và
công nghệ, thời đại toàn cầu hóa của nền kinh tế thị trường, tư tưởng nhân văn
sẽ giúp cho con người làm việc thiện, tránh điều ác, biết sử dụng thành tựu
văn minh của nhân loại phục vụ hạnh phúc con người.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin vào hoàn cảnh cụ thể nước ta, nên có tính thực tiễn lớn, gần gũi với
chúng ta và thiết thực với đời sống hàng ngày của chúng ta. Dưới ngọn cờ tư
tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta không phải chờ kinh tế phát triển rồi xây dựng
chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống mới mà phải đồng thời diệt giặc đói, giặc
dốt, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa đấu
tranh thống nhất nước nhà..., bằng việc vừa phát huy nhân tố con người vừa
bảo đảm mục tiêu vì con người. Đi theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đất nước ta
từng bước đi lên, mặc dầu nền kinh tế còn kém phát triển do hậu quả lịch sử
để lại, nhưng xã hội Việt Nam hiện tại là xã hội ổn định, là điểm đến và có
sức hấp dẫn đối với các dân tộc trên thế giới.

Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản vô giá của dân tộc ta, vì tư tưởng đó là
sự kết tinh những giá trị văn hóa dân tộc, tư tưởng đó còn thể hiện ở tấm
gương đạo đức của Người, tấm gương mẫu mực về lối sống khiêm tốn, giản
dị, trong sáng, cần kiệm liêm chính, thống nhất lời nói với việc làm, suốt đời
nổ lực phấn đấu vươn lên và làm việc không mệt mỏi vì mục tiêu đã xác định,
đó là tấm gương học suốt đời để tiến bộ mãi. Những phẩm chất đạo đức đó đã
làm cho người trở nên gần gũi với tất cả mọi người mà ai cũng có thể học
được và làm theo được.
Chúng ta không nghĩ sẽ tìm thấy tất cả những gì chúng ta mong muốn
đều có trong tư tưởng Hồ Chí Minh vì tính tất yếu lịch sử của tư tưởng, chúng
ta càng không được cộng vào những gì mà tư tưởng Hồ Chí Minh chưa phản


11
ánh vì như thế cũng là hiểu sai tư tưởng của Người. Nhưng công cuộc đổi mới
đất nước hiện nay càng đi vào chiều sâu thì chúng ta càng tìm thấy ở tư tưởng
Hồ Chí Minh những quan điểm và kinh nghiệm quí báu chỉ cho chúng ta con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội, chỉ cho chúng ta biết mình phải làm gì để vươn
lên sánh vai với các cường quốc năm châu. Bởi vì, tư tưởng Hồ Chí Minh là
hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc nên đồng thời là hệ thống phương
pháp. Đó là phương pháp cách mạng, phương pháp tư duy, phương pháp ứng
xử, phương pháp giao tiếp, phương pháp đối thoại với con người. Giáo sư,
tiến sĩ Hoàng Chí Bảo nhận xét: "Mỗi luận điểm, mỗi nguyên lí (tư tưởng Hồ
Chí Minh - tác giả nhấn mạnh) không chỉ có giá trị nhận thức mà còn là
những chỉ dẫn về phương pháp hành động. Đó vừa là thế giới quan vừa là
nhân sinh quan, vừa là phương pháp luận, vừa là ý thức hệ. Thống nhất giữa
tư tưởng và phương pháp, thống nhất giữa lí luận và thực tiễn, đem lý luận
ứng dụng vào thực tiễn, từ thực tiễn khái quát hoá thành lý luận. Đó là một
đặc điểm nội bật của tư tưởng Hồ Chí Minh"[1].
Lịch sử cách mạng nước ta từ khi có tư tưởng Hồ Chí Minh soi rọi đã kế

tiếp truyền thống vẻ vang của dân tộc, xứng danh với tổ tiên ta đã bao đời
dựng nước và giữ nước, có biết bao người mà tên tuổi của họ mãi mãi trong
sử vàng của dân tộc. Do đó, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh, chỉ cho thanh
niên học sinh đi theo con đường Người đã chọn có ý nghĩa vô cùng to lớn
trong giáo dục đạo đức, lối sống, giáo dục niềm tin và lý tưởng cách mạng
của Đảng, của dân tộc, có ý nghĩa chuyển giao cho thế hệ trẻ "nguồn vốn quý"
của dân tộc, để họ vững bước đi lên trong thời kỳ mới của đất nước.
1.1.1.2. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về giáo dục tư tưởng Hồ Chí
Minh trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập
quốc tế
Bước vào thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập
quốc tế. Để phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển


12
nhanh và bền vững, Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng
lần thứ 2 khóa VIII về chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo khẳng định:
"Đưa việc giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh vào nhà trường phù hợp với lứa
tuổi và từng bậc học" là một trong những nội dung giải pháp để thực hiện mục
tiêu giáo dục trong thời kì mới, nhằm đào tạo "Những người thừa kế xây dựng
chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên" như lời Bác Hồ dặn".
Nhận thức về công tác tư tưởng, lí luận trong tình hình mới. Đảng ta cho
rằng cần phải “Xây dựng kế hoạch phát triển cuộc vận động thi đua yêu nước,
học tập tư tưởng, đạo đức, lối sống Hồ Chí Minh nhân kỉ niệm 112 năm ngày
sinh của Bác”[14]. Chỉ thị 23 - CT/TW của Ban Bí thư về đẩy mạnh nghiên
cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới đã chỉ
rõ: "Bước sang thế kỉ XXI, đất nước ta có cơ hội lớn, nhưng đang đứng trước
những thách thức không nhỏ, tình hình thế giới đang diễn biến phức tạp, khó
lường. Để thực hiện nhiệm vụ cách mạng Việt Nam trong thời kì phát triển
mới, cần thấm nhuần sâu sắc, vận dụng sáng tạo những nguyên lý của chủ

nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để giải quyết những vấn đề thực
tiễn trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh, quốc phòng,
đối ngoại, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, trong đó việc tổ chức học tập
tư tưởng Hồ Chí Minh là một nhiệm vụ mấu chốt của công tác tư tưởng của
Đảng, cần được toàn Đảng thực hiện chặt chẽ, có chất lượng, hiệu quả"[15].
Chỉ thị nhấn mạnh nhiệm vụ: "Cần sớm tổ chức biên soạn giáo trình và sách
giáo khoa thống nhất về tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với từng cấp học, bậc
học, thực hiện chế độ thi cử nghiêm túc". Trước yêu cầu tăng cường công tác
tư tưởng trong tình hình mới nhằm đấu tranh có hiệu quả chống lại các âm
mưu, thủ đoạn diễn biến hoà bình, kích động bạo loạn lật đổ của các thế lực
thù địch, kiên quyết bác bỏ những luận điệu tuyên truyền, bịa đặt, xuyên tạc
và vu khống, khắc phục những biểu hiện giao động và thiếu ý thức tổ chức kỉ
luật của một số cán bộ, đảng viên. Hội nghị lần thứ 12 Ban chấp hành Trung


13
ương Đảng (khoá IX) đã quyết định triển khai chỉ đạo điểm cuộc vận động
“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong cán bộ, đảng
viên và nhân dân. Bộ Chính trị ra chỉ thị 06-CT/TW về triển khai cuộc vận
động trong toàn Đảng, toàn dân. Đây là một chủ trương lớn vừa mang tính
cấp bách trong tình hình hiện nay, vừa có ý nghĩa lâu dài đối với sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cuộc vận động nhằm: “Làm cho toàn Đảng,
toàn dân nhận thức sâu sắc về những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư
tưởng đạo đức và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Tạo sự chuyển biến mạnh
mẽ về ý thức tu dưỡng, rèn luyện và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh sâu rộng trong toàn xã hội, đặc biệt trong cán bộ, đảng viên, đoàn viên,
công chức, viên chức, thanh niên, học sinh...nâng cao đạo đức cách mạng,
cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống và các tệ nạn xã hội; góp phần thực hiện thắng lợi nghị
quyết đại hội X của Đảng"[28]. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có chỉ thị đẩy

mạnh việc thực hiện cuộc vận động trong toàn ngành, yêu cầu “Rà soát các
các chương trình môn học và các hoạt đông đang triển khai để lồng ghép nội
dung cuộc vận động”[5], đồng thời nhấn mạnh việc “Đẩy mạnh đổi mới
phương pháp giáo dục nói chung và phương pháp dạy học các môn khoa học
Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, môn Chính trị, Giáo dục công dân, Đạo
đức nói riêng trong nhà trường”[6] là những biện pháp thực hiện cuộc vận
động.
Như vậy cùng với sự khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản vô giá
của Đảng và nhân dân ta. Đảng ta cũng đồng thời nhận thức rằng đạo đức Hồ
Chí Minh là "Tấm gương sáng để mọi người Việt Nam học tập và noi theo",
đẩy mạnh giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh, tổ chức tốt cuộc vận động học tập
và làm theo tấm gương đạo đức của Người trong toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân là vấn đề cấp thiết. Giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh, học tập và làm theo
tư tưởng, đạo đức của Người được coi là điểm mấu chốt, đầu tiên để phát


14
hiện, giải quyết những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn, là đòi hỏi khách quan
của mỗi cá nhân, đơn vị, địa phương, của từng ngành, từng tổ chức và của
toàn xã hội; giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh phải làm cho người học thấy lại
được mình, tự chỉ trích mình, biết cần thiết phải điều chỉnh nhận thức và hành
động của mình để đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội; học tư tưởng Hồ Chí
Minh là học cách làm người mà cụ thể là học phương pháp xử thế, phương
pháp lấy tình thương yêu con người để thực hành chân lí. Người đã từng nói
"Hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc
bao nhiêu sách mà sống với nhau không có tình có nghĩa thì làm sao gọi là
chủ nghĩa Mác-Lênin"[30, tr.554]. Đây là những vấn đề mang tính phương
pháp luận mà người dạy tư tưởng Hồ Chí Minh cần vận dụng để xác định nội
dung, hình thức, phương pháp phù hợp với từng đối tượng; người học vận
dụng để phát hiện được những điều bổ ích cho công tác, học tập và rèn luyện

bản thân. Nhận thức sâu sắc về ý nghĩa to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh,
càng nghiên cứu kĩ tư tưởng của Người sẽ cho ta thấy được nhiều điều mới
mẻ. Điều quan tâm hơn nữa là đến nay, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ
Chí Minh vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế, "Cách làm chưa được đổi mới, còn
dừng lại ở mức tuyên truyền bề rộng, học lí luận chưa gắn với liên hệ tình
hình thực hiện nhiệm vụ chính trị"[16]. Trong giáo dục và đào tạo, nội dung
chương trình mới chỉ được thực hiện ở bậc Đại học và Trung học chuyên
nghiệp, chưa được đưa vào chương trình dạy học phổ thông, chưa có nội dung
và phương pháp thực hiện giáo dục lồng ghép tư tưởng Hồ Chí Minh qua các
môn học. Do đó, tiếp tục nghiên cứu để nâng cao chất lượng công tác tuyên
truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh cho học sinh là nhiệm vụ cấp thiết của
người giáo viên.
1.1.2. Đổi mới GDCD, giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống cho học
sinh THPT trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế là yêu cầu khách quan của sự nghiệp giáo dục


15
1.1.2.1. Tư tưởng cơ bản về đổi mới giáo dục phổ thông hiện nay
Công cuộc cải cách giáo dục bắt đầu từ năm học 1981 - 1982 đã đạt
được nhiều thành tựu trong việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài. Trước yêu cầu mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước,
trước sự phát triển nhanh và mạnh mẽ của kinh tế, xã hội, của khoa học - công
nghệ nói chung và khoa học giáo dục nói riêng, chương trình và sách giáo
khoa hiện hành đã bộc lộ những hạn chế và bất cập. Vì vậy, phải đổi mới giáo
dục phổ thông là yêu cầu cấp thiết. "Con người là vốn quí nhất", là nhân tố
quyết định mọi thắng lợi của cách mạng. Nguồn lực con người chỉ có thể
được phát triển trên cơ sở mặt bằng dân trí được nâng cao, chỉ trên một nền
tảng kiến thức đủ và chắc chắn thì mới phát huy được những phẩm chất và
năng lực sẵn có của con người. Do vậy phải bắt đầu chiến lược con người từ

giáo dục phổ thông, từ việc xác định mục tiêu cần đạt được ở người học sau
một quá trình giáo dục. Nhà trường phổ thông ngày nay không thể thâu tóm
được mọi tri thức mà người học mong muốn, do đó cần phải thường xuyên
xem xét lại chương trình, nội dung giáo dục, phải thay đổi phương pháp dạy
học theo hướng giáo dục phương pháp để người học có khả năng tự học, tự
đánh giá, tự tiếp nhận tri thức và học suốt đời. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế yêu cầu con người cần có những phẩm chất cần thiết để
biết hưởng thụ những thành tựu mới cho sự phát triển. Trong đó tư cách công
dân, đạo đức nghề nghiệp, ý thức nghĩa vụ, bổn phận và trách nhiệm, ý chí
phấn đấu vươn lên, tri thức và kỷ năng có liên quan trực tiếp với cuộc sống
hàng ngày, tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo là những phẩm chất
không thể thiếu được của người công dân hiện đại. Trước yêu cầu mới, Quốc
hội đã ra nghị quyết về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông. Mục tiêu
đổi mới chương trình giáo dục phổ thông là: "Nâng cao chất lượng giáo dục
toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phù hợp với thực tiễn và truyền thống Việt


16
Nam; tiếp cận trình độ giáo dục phổ thông ở các nước phát triển trong khu
vực và thế giới"[34]. Thủ tướng Chính phủ ban hành chỉ thị về đổi mới
chương trình giáo dục phổ thông thực hiện nghị quyết của Quốc hội. Chương
trình giáo dục phổ thông yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học: "Phải phát
huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc
trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện của từng lớp học; bồi
dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác; rèn luyện kỉ năng
vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui,
hứng thú và trách nhiệm học tập của học sinh"[7, tr.8] và "Chỉ có thể đổi mới
phương pháp dạy học chúng ta mới có thể tạo được đổi mới thực sự trong
giáo dục, mới có thể đào tạo lớp người năng động, sáng tạo, có tiềm năng

cạnh tranh trí tuệ trong bối cảnh đang hướng tới nền kinh tế tri thức"[7, tr.9].
Như vậy, khâu đột phá trong đổi mới giáo dục phổ thông là đổi mới phương
pháp dạy học. Song, đổi mới phương pháp dạy học "Không có nghĩa là phủ
định phương pháp truyền thống, mà là những phương pháp truyền thống lạc
hậu, lỗi thời phải được loại bỏ, những phương pháp truyền thống thích hợp
phải được phát huy"[2]; phương hướng của đổi mới phương pháp dạy học là
thay đổi lối dạy học truyền thụ một chiều sang dạy học theo “Phương pháp
dạy học tích cực”.
Phương pháp dạy học tích cực là một thuật ngữ rút gọn được dùng
ở nhiều nước để chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. “Tích cực” trong phương
pháp dạy học được dùng với nghĩa là hoạt động, chủ động, trái với nghĩa
không hoạt động, thụ động chứ không dùng theo nghĩa trái với tiêu cực[35].
Cơ sở của phương pháp dạy học tích cực là tính tích cực, muốn hiểu biết,
là khát vọng vươn lên vốn có của con người để đạt được mục đích cuộc sống,
được thỏa mãn để phát triển. Tính tích cực còn xuất phát từ thực tiễn cuộc
sống, để tồn tại và phát triển, con người luôn luôn phải hoạt động, tích cực cải


17
biến môi trường tự nhiên, cải tạo xã hội. Vì vậy, phát hiện, nuôi dưỡng và
phát triển tính tích cực của người học là trách nhiệm của những người làm
công tác giáo dục. Trong giáo dục, tính tích cực của người học biểu hiện ở
khát vọng hiểu biết, cố gắng trí lực và có nghị lực cao trong chiếm lĩnh tri
thức. Tính tích cực liên quan đến động cơ học tập, động cơ đúng thì người
học nảy sinh hứng thú, có hứng thú thì mới tự giác học tập. Hứng thú và tự
giác trong học tập vừa là nội dung vừa là động lực của tính tích cực nhận
thức. Từ hứng thú và tự giác, người học mới độc lập suy nghĩ, tính độc lập
suy nghĩ sẽ là tiền đề của sáng tạo. Hứng thú và tự giác của người học phụ
thuộc vào nhiều yếu tố: Phụ thuộc vào các phẩm chất về năng lực, điều kiện

của người học, phụ thuộc vào nội dung, phương pháp, ý nghĩa bài học, quan
hệ thầy trò.., đặc biệt là nhu cầu xã hội. Để học sinh tích cực học tập theo mục
tiêu giáo dục thì việc lựa chọn nội dung, phương pháp phù hợp, việc giúp các
em nhận thức được nhiều vấn đề thực tiễn cuộc sống là yếu tố có ý nghĩa
quyết định nhất. Dạy học tích cực được thực hiện bằng nhiều hình thức: Thảo
luận nhóm, phương pháp động não, phương pháp dạy học hợp tác, phương
pháp đặt và giải quyết vấn đề, phương pháp đóng vai, phương pháp tình
huống, tích cực hóa các phương pháp thuyết trình, phương pháp vấn đáp,
phương pháp trực quan... Song lựa chọn phương pháp còn phụ thuộc lớn vào
nội dung, trên cơ sở chuẩn chương trình, giáo viên xây dựng nội dung dạy học
phù hợp với từng đối tượng để phát huy tính tích cực học tập của học sinh.
Như vậy, đổi mới giáo dục phổ thông vừa chuẩn bị cho đào tạo nguồn
nhân lực mới, vừa giúp cho con người biết hưởng thụ những thành tựu của
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Nâng cao chất lượng cuộc
sống của con người là mục tiêu cao nhất của đường lối công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và hội nhập quốc tế của nước ta. Hình thành và phát triển năng lực
nâng cao cuộc sống của con người, của mọi người là trách nhiệm của sự
nghiệp giáo dục, trước hết là giáo dục phổ thông, đổi mới phương pháp dạy


18
học là con đường để phát triển năng lực, đổi mới nội dung dạy học là yếu tố
quyết định đổi mới phương pháp. Đứng trước thực tiễn cuộc sống, con người
có khả năng tích cực, chủ động lựa chọn con đường phát triển, loại bỏ được
những tác động xấu do nền kinh tế thị trường và những hiệu ứng phi văn hóa
nảy sinh trong quá trình phát triển xã hội là mục tiêu cao nhất của chế độ xã
hội mà chúng ta đang xây dựng. Nếu làm tốt giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh
cho thế hệ trẻ Việt Nam có ý nghĩa làm tăng chất lượng cuộc sống của họ.
Chẳng hạn, nếu giáo dục được ý thức tự học cho học sinh theo tấm gương tự
học Hồ Chí Minh thì học sinh THPT sẽ tiếp nhận được rất nhiều thông tin

phục vụ cho học tập, cho sự lựa chọn nghề nghiệp, nhanh nhạy nắm bắt cái
mới, thích ứng với môi trường lao động đầy biến động của kinh tế thị trường
trong thời kỳ cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, điều mà thầy cô giáo
và cha mẹ, nhà trường ngày nay khó làm thay cho họ; nếu học sinh hiểu được
giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh đối với những thắng lợi của cách mạng nước ta,
hiểu được rằng mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội thực chất là mối
quan hệ nước độc lập và dân tự do thì sẽ có niềm tin sâu sắc vào con đường
mà Đảng và nhân dân ta đã chọn, họ sẽ kiên định, không mất phương hướng
trước những tác động tiêu cực, hình thành bản lĩnh chính trị vững vàng và sẽ
tích cực đấu tranh cho ý thức chính trị đó. Tức là tích cực góp phần vào sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước nhà; nếu học sinh hiểu rằng "đạo
đức là thước đo của lòng cao thượng" thì các em dễ tránh được những cám dỗ
vật chất, những hành vi tàn ác, bản năng. Mới có thể làm được những nhiệm
vụ nặng nề mà vẻ vang... Nên trong giáo dục phổ thông nói chung, giáo dục
THPT nói riêng, người thầy giáo cần kết hợp giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh
cho học sinh, trong đó môn GDCD có vị trí và ý nghĩa vô cùng quan trọng.
1.1.2.2. Vấn đề giáo dục công dân và môn học GDCD trong đổi mới
giáo dục phổ thông hiện nay


19
Giáo dục công dân được hiểu theo nghĩa chung nhất là đào tạo thế hệ trẻ
trở thành người lao động mới với những phẩm chất và năng lực nhất định về
sức khỏe, đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ, đáp ứng được yêu cầu sự nghiệp đổi mới
trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Theo nghĩa này, GDCD là nhiệm vụ của toàn xã hội, của mọi cấp, mọi ngành,
mọi người đối với sự phát triển của thế hệ trẻ. Theo nghĩa thường dùng trong
giáo dục hiện nay thì GDCD là: “Giáo dục, bồi dưỡng cho học sinh những
chuẩn mực đạo đức của người công dân, phản ánh những quan hệ đạo đức đối
với lao động, công việc, đối với người khác, đối với bản thân, đối với xã hội,

đối với nhà nước, những chuẩn mực về phương pháp mà người công dân phải
tuân theo, bao gồm những chuẩn mực về quyền lợi và nghĩa vụ và cả những
chuẩn mực về nguyên tắc ứng xử của công dân”[36]. Đây là nhiệm vụ của
toàn ngành giáo dục, được thực hiện trong từng nội dung và hoạt động giáo
dục. Trong giáo dục phổ thông, GDCD là một môn học ở bậc Trung học. Môn
học GDCD có vai trò hết sức quan trọng: “Nó không chỉ cung cấp cho những
công dân tương lai những tri thức vừa khái quát hoá mà còn thông qua môn
học giúp người học hình thành và phát triển phương pháp suy nghĩ và hành
động phù hợp với những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể”[20].
Môn GDCD ở trường THPT có những nhiệm vụ: Trực tiếp hình thành
phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống; trực tiếp hình thành và phát
triển dần dần nhân cách, năng lực, phẩm chất của người học sinh trung học,
có thế giới quan khoa học, nhân sinh quan tiên tiến, có đạo đức trong sáng, có
ý thức cao thực hiện nhiệm vụ cách mạng của Đảng và Nhà nước, có trách
nhiệm cao với Tổ quốc, nhân dân, gia đình và bản thân, có lối sống kỉ cương,
pháp luật. Trên cơ sở tri thức môn học, học sinh sẽ hình thành những quan
điểm mới, những khuynh hướng tư tưởng mới, động cơ, hoài bão, lòng tin, và
hành vi tốt đẹp của con người. Đây là điều hết sức quan trọng đối với mỗi cá
nhân trong giai đoạn hiện nay.


20
Chương trình, nội dung môn GDCD ở THPT "Được xây dựng và phát
triển trên cơ sở tri thức các môn khoa học cơ bản là: Triết học, đạo đức học,
kinh tế chính trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học, luật học và các đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước hiện nay"[7, tr.44]. Quá trình
dạy học môn GDCD là quá trình khai thác tiềm năng và phát triển tâm lực học
sinh, phát triển tính tích cực hoạt động nhận thức và năng lực tự hoàn thiện
của học sinh. Coi trọng nguyên tắc hoạt động, gắn việc học tập với hoạt động
xã hội, hoạt động lao động sản xuất và hoạt động thực tiễn khác. Môn GDCD

hướng học sinh vươn tới những giá trị cơ bản của người công dân Việt Nam
trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, những giá trị
tốt đẹp của dân tộc trong sự hội nhập và tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại,
giúp học sinh có sự thống nhất cao giữa ý thức và hành vi, giữa học và hành,
giữa nói và làm. Đảm bảo sự gắn bó chặt chẽ với cuộc sống thực tiễn của
người học, gắn liền với các sự kiện trong đời sống đạo đức, chính trị, kinh tế,
xã hội, pháp luật của địa phương, của đất nước và phù hợp với đặc điểm tâm
sinh lí lứa tuổi học sinh. Trên cơ sở quan điểm chỉ đạo và chuẩn chương trình,
giáo viên có thể chủ động và sáng tạo trong giảng dạy, xác định phương pháp,
tìm kiếm điều kiện để thực hiện thành công mục tiêu giáo dục đặt ra nhằm
phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh; bồi dưỡng năng lực tự
học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên, bỏ thói quen
học tập thụ động. Dạy học môn GDCD phải gắn bó chặt chẽ với cuộc sống
của học sinh, cần tăng cường sử dụng các tình huống, các câu chuyện, các
hiện tượng thực tế để phân tích, đối chiếu, minh hoạ cho bài giảng. Khuyến
khích học sinh liên hệ, tự liên hệ, tự phát hiện và đánh giá các sự vật, hiện
tượng, sự kiện đã và đang xẩy ra trong nước, ở địa phương, trường học.
1.2. Cơ sở thực tiễn của giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh cho học sinh
THPT trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa


21
1.2.1. Đặc điểm sự phát triển nhân cách và những tác động của môi
trường giáo dục đối với học sinh THPT hiện nay
1.2.1.1. Đặc điểm sự phát triển tâm lý, nhân cách của hoc sinh THPT
hiện nay
Thành tựu của sự nghiệp đổi mới đất nước đã hình thành “Một thế hệ
thanh niên có đạo đức, nhân cách, tri thức, sức khoẻ, khát khao sáng tạo, cống
hiến cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa". Bên cạnh
đó, cũng còn "một bộ phận thanh niên sống thiếu lý tưởng, hoài bão, niềm tin,

thiếu ý chí vươn lên trong học tập, lao động, công tác”[18].
Về đặc điểm tâm lí lứa tuổi. Theo quan niệm của nhà giáo dục I.X.Côn
cho rằng: Tuổi thanh niên là “thế giới thứ 3” theo nghĩa đen của từ này, tồn
tại giữa tuổi trẻ em và tuổi người lớn. M.I.Kalinin nhà giáo dục Xô Viết thì
quan niệm: Thanh niên mọi thời đại và mọi thế hệ đều vốn có nhiều ước mơ
và tưởng tượng khoáng đạt, không một người hoạt động và suy nghĩ nào đạt
được kết quả tốt nếu không tưởng tượng khoáng đạt. Nhưng thanh niên thì
khuynh hướng này phát triển hơn nhiều so với người đứng tuổi. Giáo sư
Nguyễn Khắc Viện khẳng định: “Tuổi thanh niên là tuổi trăn trở, phân vân
trước các ngả đường, cho đến lúc tìm được chỗ đứng ổn định...Không lạ gì
tâm lí thanh niên thường không ổn định. Sức khoẻ dồi dào, hiểu biết của
nhiều người bắt đầu khá sâu rộng nhưng dù sao kinh nghiệm cuộc đời còn ít,
cho nên dễ có những thái độ và hành động cực đoan, dễ nhiệt tình mà cũng dễ
bi quan chán nản, và thường xen lẫn cả hai. Đây là tuổi có thể tiếp thu một
đạo lí cao cả, một lí tưởng sáng đẹp, mà cũng có thể bị lôi cuốn vào những
hành động phiêu lưu, phạm pháp nghiêm trọng”[9, tr.108]. Các nhà tâm lý
đều gọi “Tuổi thanh niên là một hiện tượng tâm lý xã hội”[9, tr.108].
Về nhân cách. Thanh niên học sinh ngày nay được sinh ra và lớn lên
trong hoà bình, được hưởng các thành tựu kinh tế – xã hội do sự nghiệp đổi
mới đem lại nên họ có nhiều điểm phát triển khác với thế hệ cha anh. Tự ý


22
thức rất lớn, khát vọng về học tập, về cống hiến, hoài bão vươn tới cái cao
thượng, cái chân, thiện, mỹ thể hiện khá rõ ràng. Khát khao học giỏi để được
vào đại học, để có việc làm, để có đời sống tốt, để lập thân, lập nghiệp đã hình
thành lý tưởng sống của thanh niên học sinh hiện nay. Thanh niên học sinh tin
tưởng vào sự nghiệp cách mạng của Đảng, hăng hái tham gia các hoạt động
chính trị xã hội. Đây là đặc sắc riêng của môi trường giáo dục THPT. Thực
tiễn trong 20 năm qua, nhiều phong trào thanh niên trường học được thực hiện

một cách rầm rộ, có hiệu quả, nhiều tấm gương sáng của thế hệ cha anh và
những khát khao, suy nghĩ của họ được thế hệ trẻ hôm nay ngưỡng mộ, cảm
mến và học tập, được thanh niên học sinh tiếp nhận như là con đường phấn
đấu, rèn luyện của mình.
Về lý tưởng. Nói về lý tưởng của thanh niên ngày nay, nguyên Tổng bí
thư Đỗ Mười có nhận xét: "Họ tìm thấy ở những người thanh niên lớp trước
sự đồng cảm ở tinh thần tự nguyện, cống hiến, xả thân, và điều sâu sắc hơn,
tôi nghĩ, đã có sự rung động của tuổi trẻ ngày nay trước vẻ đẹp cao cả của
cuộc chiến tranh chính nghĩa, của chân lí mà chúng ta đã tìm thấy trong lịch
sử đấu tranh cách mạng hào hùng của dân tộc”[38]. Trong tính nhiều mặt của
khát vọng, ước mơ, lý tưởng thì “Cái then chốt quyết định đối với thanh niên
là lý tưởng chính trị vì đây là sự định hướng cho cả cuộc đời của họ”[38]. Hồ
Chí Minh cũng từng nói tuổi trẻ đồng nghĩa với sáng tạo, năng động, linh
hoạt, đây là lứa tuổi đẹp nhất của cuộc đời, là mùa xuân của xã hội. Trước
điều kiện sống mới, chúng ta cần phải bồi dưỡng lý tưởng, lòng yêu nước, ý
chí tự lực, tự cường, không cam chịu đói nghèo, lạc hậu, không chịu thua kém
các nước khác để tạo nên bản lĩnh chính trị vững bền cho thanh niên, giúp họ
tự tin, vượt qua mọi thử thách, giúp cho thanh niên tự nhận biết cái đúng, cái
sai, biết tiếp thu những tinh hoa cũng như đấu tranh chống lại những âm mưu,
những cám dỗ. Cho nên, nếu làm tốt công tác giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh,
tổ chức tốt để thế hệ trẻ học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Người có


23
ý nghĩa vô cùng to lớn trong giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống, giáo dục
các phẩm chất cao quí của con người Việt Nam và phát huy được sức mạnh
nội sinh từ mỗi cá nhân học sinh trong học tập, lao động và cống hiến.
Sự phát triển tâm lý - nhân cách thanh niên hiện nay phản ánh sự trưởng
thành của họ trong điều kiện mới. Tuy nhiên, bên cạnh những biểu hiện tích
cực, thấy có cả những yếu tố hạn chế, tiêu cực. Thanh niên có nhiều hoài bão,

ước mơ nhưng cũng có nhiều ảo tưởng và hạn chế trong khát vọng, trong ước
mơ và khát vọng có cả cảm giác như sự mất phương hướng, không xác định
được mình. Thanh niên học sinh được học nhiều hơn, có nhận thức nhiều hơn
nhưng sự trưởng thành có biểu hiện muộn hơn. Chẳng hạn: Trước đây Lý Tự
Trọng đã biết xác định lý tưởng cách mạng từ khi 14 tuổi; tuổi 15, 16, chỉ
trình độ tiểu học nhưng thế hệ cha anh đã làm công chức, tuổi 20 đã làm nên
sự nghiệp; thế hệ cách mạng tiền bối của Đảng ta như Trần Phú, Lê Hồng
Phong, Hà Huy Tập... trở thành nhà lãnh đạo kiệt xuất khi còn rất trẻ; các nhà
văn, nhà thơ, nhạc sĩ quen thuộc với thanh niên học sinh như Nguyễn Khải,
Nguyên Ngọc, Nguyễn Đức Toàn, Huy Du...đã làm nên sự nghiệp khi tuổi
20-25 v.v.. Còn ngày nay, chúng ta không phủ nhận những tài năng ở học sinh
THPT nhưng đó trước hết kết quả của sự chăm sóc và giáo dục mà chưa biểu
hiện rõ về nhân cách cá nhân.
Từ thực trạng sự phát triển nhân cách của thanh niên học sinh trong
những năm đầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế, trước những biểu hiện yếu kém về thái độ học tập, ý thức phấn
đấu vươn lên, xa rời truyền thống văn hóa... của một bộ phận thanh niên học
sinh hiện nay, yêu cầu chúng ta phải đổi mới giáo dục công dân, cần phải có
định hướng chính trị đúng đắn. Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khóa X) định hướng công tác giáo dục thanh niên trong thời kỳ
mới là: "Chăm lo, bồi dưỡng, giáo dục thanh niên thành lớp người "vừa hồng,
vừa chuyên" theo tư tưởng Hồ Chí Minh" và khẳng định: "Sự nỗ lực học tập,


24
rèn luyện và phấn đấu không ngừng của thanh niên theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh là yếu tố quan trọng để xây dựng thế hệ thanh niên thời kỳ
mới"[19]. Hội nghị cũng đặt ra nhiệm vụ đến năm 2010 là: "Nâng cao nhận
thức chính trị, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng cho thanh niên, nhất là học sinh,
sinh viên. Tập trung giáo dục, định hướng, cổ vũ thanh niên thực hiện có hiệu

quả cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh",
tạo chuyển biến thực sự trong đạo đức, lối sống và hành động của thanh
niên"[19].
1.2.1.2. Những yếu tố tác động đến sự phát triển tâm lý, nhân cách
của học sinh Trung học phổ thông hiện nay
Những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử của 20 năm đổi mới là điều
kiện kinh tế, xã hội làm thay đổi sự phát triển con người, đặc biệt là sự phát
triển các thế hệ thanh niên.
Sự quan tâm đặc biệt giáo dục phổ thông đã hình thành môi trường giáo
dục lành mạnh, an toàn để học sinh học tập, rèn luyện, phấn đấu; sự phát triển
mạnh mẽ giáo dục đại học và dạy nghề là một động lực thúc đẩy học sinh phổ
thông chăm chỉ học tập, nuôi dưỡng khát vọng trở thành người thanh niên
sinh viên. Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh ở các trường phổ thông có
vai trò to lớn trong rèn luyện đạo đức, xây dựng niềm tin, kế thừa truyền
thống dân tộc, quê hương, giáo dục lý tưởng cho thanh niên theo con đường
Đảng và nhân dân ta đã chọn. Học sinh THPT luôn ý thức phấn đấu để trở
thành người đoàn viên, việc được kết nạp Đảng ở trường học là một điều
thiêng liêng trong nhận thức của họ. Sau những năm đầu của đổi mới, Đảng ta
khẳng định: "Sự nghiệp đổi mới có thành công hay không, đất nước bước vào
thế kỉ 21 có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không, cách mạng
Việt Nam có vững bước trên con đường xã hội chủ nghĩa hay không phần lớn
tuỳ thuộc vào lực lượng thanh niên, vào việc bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ


25
thanh niên"[10]. Đồng thời "Thực sự coi giáo dục và đào tạo là quốc sách
hàng đầu" nên thanh niên hiện nay có nhiều phẩm chất tốt đẹp.
Tuy nhiên, quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế đã phát sinh nhiều vấn đề ảnh hưởng đến tâm lý, nhân cách của
thanh niên. Chẳng hạn: Hậu quả thừa lao động nông thôn do công nghiệp hóa,

hiện tượng được đào tạo nhưng không tìm được việc làm, hoặc có việc làm
nhưng không qua đào tạo, lao động hiện nay phần lớn trong các doanh nghiệp
đầu tư nước ngoài và dân doanh mà hầu hết những nơi đó không có tổ chức
Đoàn như hiện nay đã ảnh hưởng rất lớn đến động cơ học tập, lý tưởng chính
trị, khát khao cống hiến của tuổi thanh niên; sự biến đổi, phân hóa hình thức
gia đình truyền thống, tính đa dạng trong sản xuất, kinh doanh, làm giàu của
gia đình... Đã tạo nên tâm lý đa chiều, phức tạp trong không giới trẻ. Thế hệ
thanh niên học sinh trong vài thập kỉ nay có thể gọi là thế hệ chuyển giao.
Quá khứ hào hùng của dân tộc cách đây không xa, cùng với vai trò giáo dục
đã bồi dưỡng và phát huy ở họ lòng tự hào dân tộc, tự hào về Đảng, về Bác
Hồ kính yêu. Nhưng sự chưa đoạn tuyệt về tư tưởng bao cấp, thái độ, tác
phong mệnh lệnh, hành chính, quyền uy của xã hội cũ đang tồn tại khá nặng
nề trong tư tưởng và hành vi của người lớn, ở cha mẹ, ở thầy cô giáo, ở trong
mọi lĩnh vực đời sống xã hội đã ảnh hưởng tư tưởng tự do của họ. Sự phát
triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế đã tạo ra nhiều cơ hội, song cũng
làm cho thế hệ trẻ có nhiều biểu hiện phức tạp thêm, có nhiều mâu thuẫn
trong suy nghĩ, trong hành động, không xác định được mình. Sự "Đan xen cả
những yếu tố tích cực và tiêu cực" là biểu hiện tiêu biểu của tâm lý, nhân cách
người thanh niên hiện nay.
Do đó, chỉ bằng cách tăng cường giáo dục lý tưởng, đạo đức cách mạng,
lối sống văn hóa, ý thức công dân đi đôi với đổi mới toàn diện giáo dục và
đào tạo, xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh và nâng cao hiệu quả giáo
dục của Ðoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh thì mới có thể khắc phục


×