Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

CHUYÊN ĐỀ: PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO PHỤC VỤ SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (420.24 KB, 36 trang )

MỤC LỤC
Tran
MỞ ĐẦU
Phần 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN

g
3

CƠNG NGHIỆP NƠNG THƠN TRONG Q TRÌNH
CƠNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở THỌ XUÂN
5

1.1.

HIỆN NAY
Cở sở lý luận về phát triển công nghiệp nông thôn trong q

5

1.2.

trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Thọ Xn hiện nay
Thực tiễn phát triển CNNT trong quá trình CNH, HĐH ở

15

Phần 2

Thọ Xuân hiện nay
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN CƠNG
NGHIỆP NƠNG THƠN TRONG Q TRÌNH CƠNG


NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở HUYỆN THỌ XUÂN

27

2.1.

HIỆN NAY
Nâng cao hiệu quả công tác quy hoạch, quản lý và sử dụng

2.2.
2.3.
2.4.

nguồn nhân lực chất lượng cao
Đẩy mạnh công tác giáo dục và đào tạo
Phân bổ và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực
Tăng cường thu hút nguồn nhân lực chất lượng từ nước

27
28
29

ngoài, nhất là những nước phát triển thông qua hội nhập kinh
2.5.

tế quốc tế
Chăm lo sức khỏe, nâng cao chất lượng dân số, đảm bảo an

29


sinh xã hội và mở rộng dân chủ cơ sở nhằm tạo điều kiện thuận
lợi để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
2.6.
Tạo việc làm cho người lao động
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

30
61
33
34


BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT
VIẾT ĐẦY ĐỦ
Công nghiệp nông thôn
Công nghiệp hóa
Hiện đại hóa

CHỮ VIẾT TẮT
CNNT
CNH
HĐH


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn chuyên đề
Sự phát triển của nền kinh tế thế giới đang bước sang thời kỳ phát triển
mới, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư với những thành tựu có tính đột
phá về khoa học công nghệ, nền kinh tế chủ yếu dựa vào tri thức, trong xu thế

tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế, phát triển nguồn nhân lực (NNL), nhất là
nguồn nhân lực chất lượng cao ngày càng thể hiện vai trò quyết định đối với
phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia.
Các lý thuyết của kinh tế hiện đại đều khẳng định, để có thể tăng trưởng
kinh tế nhanh, bền vững và với mức độ cao, các nền kinh tế phải dựa vào ba trụ
cột cơ bản là: Áp dụng công nghệ mới, phát triển kết cấu hạ tầng, cơ sở hiện đại
và nguồn nhân lực chất lượng cao, trong đó trụ cột quan trọng nhất là nguồn
nhân lực có chất lượng cao.
Thực tiễn phát triển của kinh tế thế giới trong thế kỷ XX cho thấy có
những quốc gia nghèo về tài nguyên thiên nhiên nhưng do phát triển tốt nguồn
nhân lực, có được nguồn nhân lực chất lượng cao nên đã đạt được những thành
tựu vượt bậc về phát triển kinh tế-xã hội, hồn thành cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa chỉ trong vài thập kỷ.
Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định coi con người là trung
tâm của sự phát triển, của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hiện nay,
trong điều kiện đất nước đang đổi mới mơ hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh
tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, phát triển NNL,
nhất là NNL chất lượng cao được coi là một trong ba đột phá chiến lược, góp
phần chuyển đổi mơ hình tăng trưởng và phát triển theo hướng bền vững.
Phát triển NNL và NNL chất lượng cao phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH ở
Việt Nam hiện nay vẫn còn là một vấn đề mới mẻ, có nhiều phức tạp nhưng lại
chưa được quân tâm nghiên cứu đúng mức cả về lý luận và thực tiễn. Từ thực
trạng và yêu cầu cấp thiết phát triển của NNL chất lượng cao nêu trên, với mong
muốn được đóng góp một phần nhỏ vào sự phát triển của sự nghiệp CNH, HĐH
đất nước, tác giả chọn đề tài “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ
sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” làm chun đề của mình.
3


2. Mục tiêu và nội dung nghiên cứu của chuyên đề

- Mục tiêu: Thông qua việc luận giải những vấn đề lý luận cơ bản về phát
triển NNL chất lượng cao, và thực trạng của quá trình phát triển NNL chất lượng
cao trong quá trình CNH,HĐH ở Việt Nam, từ đó đề xuất những phương hướng
và những giải pháp cơ bản nhằm phát triển NNL ở Việt Nam hiện nay và trong
thời gian tới.
- Nội dung cơ bản:
+ Trình bày những vấn đề chung về NNL chất lượng cao trong q trình
CNH, HĐH đất nước.
+ Phân tích thực trạng phát triển NNL chất lượng cao trong quá trình
CNH, HĐH đất nước trong những năm vừa qua.
+ Đề xuất những phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm phát triển NNl
chất lượng cao phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước hiện nay và trong thời
gian tiếp theo.
3. Phương pháp nghiên cứu của chuyên đề
- Nghiên cứu trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng, đường lối, chính sách của Đảng,
Nhà nước ta về phát triển NNL chất lượng cao trong quá trình CNH, HĐH.
- Các phương pháp nghiên cứu là các phương pháp cơ bản của Kinh tế
chính trị học, bao gồm: Phương pháp trừu tượng hóa khoa học, kết hợp lơgic và
lịch sử, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp thống kê so sánh;
ngồi ra cịn sử dụng một số phương pháp khác của các môn liên ngành.
4. Kết cấu của chuyên đề
Chuyên đề gồm có: mở đầu, phần 1 và phần 2, kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo, phụ lục.

4


Phần 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN

LỰC CHẤT LƯỢNG CAO PHỤC VỤ SỰ NGHIỆP CƠNG NGHIỆP
HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA ĐẤT NƯỚC
1.1. Cở sở lý luận về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục
vụ sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
1.1.1. Những quan niệm chung
* Nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực (Human Resource) là nguồn lực con người, là yếu tố
cấu thành quan trọng của lực lượng sản xuất xã hội, quyết định sức mạnh
của một quốc gia, một ngành kinh tế hoặc một địa phương. Hiện nay có
nhiều quan niệm khác nhau về nguồn nhân lực. Theo Cơ quan phát triển của
Liên hiệp quốc UNDP: "Nguồn nhân lực là tất cả những kiến thức, kỹ năng,
kinh nghiệm, năng lực và tính sáng tạo của con người có quan hệ tới sự phát
triển của mỗi cá nhân và của đất nước"(Trích dẫn bởi Trần Xuân Cầu và
Mai Quốc Chánh 200).
Trong Đại từ điển Tiếng Việt: "Nhân lực" được hiểu là sức người trong sản
xuất. Như vậy, nguồn nhân lực, theo nghĩa rộng, được hiểu là toàn bộ những khả
năng vật chất (sức khỏe) và tinh thần (tâm lý, ý thức...) của con người được
dùng để cung cấp cho lao động làm phát triển xã hội; theo nghĩa hẹp về mặt tâm
lý học, đó là tồn bộ tri thức, hiểu biết, kỹ năng, kỹ xảo, trí tuệ, năng lực và cả
tài năng của con người để phục vụ cho các hoạt động làm phát triển xã hội.
Theo Tổ chức lao động quốc tế (ILO), Nguồn nhân lực của một quốc gia
là toàn bộ những người trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động. Nguồn
nhân lực được hiểu theo hai nghĩa: Theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực là nguồn
cung cấp sức lao động cho sản xuất xã hội, cung cấp nguồn lực con người cho
sự phát triển. Theo nghĩa hẹp, nguồn nhân lực là khả năng lao động của xã hội,
là nguồn lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội, bao gồm các nhóm dân cư trong
độ tuổi lao động, có khả năng tham gia vào các q trình lao động, sản xuất xã
hội, tức là toàn bộ các cánhân có thể tham gia q trình lao động.
5



Theo Ngân hàng thế giới cho rằng: Nguồn nhân lực là tồn bộ vốn con
người bao gồm thể lực, trí lực; kỹ năng nghề nghiệp...của mỗi cá nhân. Nguồn
lực con người được coi như một nguồn vốn bên cạnh các loại vốn vật chất khác.
Theo giáo trình kinh tế nguồn nhân lực của Đại học kinh tế quốc dân:
Nguồn nhân lực là nguồn lực con người. Nguồn lực đó được xem xét ở hai khía
cạnh. Trước hết, với ý nghĩa là nguồn gốc, là nơi phát sinh ra nguồn lực. Nguồn
nhân lực nằm ngay trong bản thân con người, đó cũng là sự khác nhau cơ bản
giữa nguồn lực con người và các nguồn lực khác. Thứ hai, nguồn nhân lực được
hiểu là tổng thể nguồn lực của từng cá nhân con người. Với tư cách là một
nguồn lực của quá trình phát triển, nguồn nhân lực là nguồn lực con người có
khả năng sáng tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội được biểu hiện ra là
số lượng và chất lượng nhất định tại một thời điểm nhất định.
Theo quy định của Tổng cục thống kê nguồn nhân lực bao gồm những người
đủ 15 tuổi trở lên có việc làm (lao động đang làm việc) và những người trong độ tuổi
lao động có khả năng lao động nhưng đang ở trong các tình trạng sau đây: đang thất
nghiệp; đang đi học; đang làm nội trợ trong gia đình mình; khơng có nhu cầu làm
việc; những người thuộc tình trạng khác chưa tham gia lao động.
Theo Phạm Minh Hạc cho rằng, nguồn nhân lực là tổng thể các tiềm năng
lao động của một nước hay một địa phương, tức là nguồn lao động được chuẩn
bị ở mức độ nào đó, tức là những người lao động có kỹ năng (hay khả năng nói
chung), bằng con đường đáp ứng được yêu cầu của chuyển đổi cơ cấu lao động,
chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH.
Theo tác giả Nguyễn Hữu Dũng thì cho rằng “Nguồn nhân lực là tổng thể
số lượng và chất lượng con người với tổng hịa các tiêu chí về thể lực, trí lực và
những phẩm chất đạo đức- tinh thần tạo nên năng lực mà bản thân con người và
xã hội đã, đang và sẽ huy động vào quá trình lao động sáng tạo vì sự phát triển
và tiến bộ xã hội”.
Kế thừa quan điểm của các tác giả nghiên cứu về NNL, tác giả cho rằng:
nguồn nhân lực là nguồn lực con người, là toàn bộ dân cư trong độ tuổi quy

6


định có khả năng tham gia lao động, bao gồm tổng thể năng lực về thể lực, trí
lực, đạo đức, tinh thần, tính năng động xã hội ở dạng tiềm năng và thực tế nhằm
đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
* Nguồn nhân lực chất lượng cao
Ngày nay, trong xu thế tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế và khu vực ngày
càng sâu rộng, nhất là sau khi nước ta gia nhập Tổ chức thương mại thế giới
(WTO) và các hiệp định Thương mại thế hệ mới ,địi hỏi nước ta phải đổi mới
tồn diện từ cơ chế quản lý, cơ cấu lại nền kinh tế, đến thay đổi hệ thống pháp
luật phù hợp với điều kiện nước ta và thông lệ quốc tế. Trong đó, lực lượng lao
động xã hội phải được đầu tư phát triển đạt đến trình độ khu vực và thế giới thì
mới có thể cạnh tranh bình đẳng và tiếp cận được công nghệ hiện đại, kinh
nghiệm quản lý tiên tiến. Do đó, nguồn nhân lực chất lượng cao khơng cịn dừng
ở các phạm trù lý luận, mà là đòi hỏi cấp thiết trong phát triển kinh tế-xã hội.
Tuy nhiên quan niệm về nguồn nhân lực chất lượng cao có sự biến đổi qua từng
giai đoạn của lịch sử. Thời của C.Mác, thuật ngữ NNL chất lượng cao chưa
được sử dụng, song C.Mác đã từng bàn đến yêu cầu xây dựng xã hội mới cần
phải có: "những con người có năng lực phát triển tồn diện, đủ sức tinh thơng và
nắm bắt nhanh chóng tồn bộ hệ thống sản xuất trong thực tiễn"
(C. Mác- Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội).
Đại từ điển Kinh tế thị trường của Trung Quốc cho rằng “nguồn nhân lực
chất lượng cao là những người, trong điều kiện xã hội nhất định có tri thức
chun mơn nhất định, có năng lực và kỹ năng cao, với tính lao động sáng tạo
của bản thân trong điều kiện hoạt động xã hội; có khả năng góp phần cống hiến
nào đó đối với sự phát triển của xã hội, của nhân loại”.
Trong các cơng trình khoa học đã được cơng bố gần đây, các nhà khoa
học đã đưa ra các quan niệm, khái niệm về nguồn nhân lực chất lượng cao. Theo
Đàm Đức Vượng, quan niệm rằng:

Xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao có nghĩa là xây dựng đội ngũ
nhân lực khoa học, công nghệ, nhất là các chuyên gia, tổng cơng trình sư, kỹ sư
đầu ngành, cơng nhân có tay nghề cao, có trình độ chun mơn, kỹ thuật tương
7


đương với các nước tiên tiến trong khu vực, có đủ năng lực nghiên cứu, tiếp
nhận, chuyển giao và đề xuất các giải pháp khoa học, công nghệ, kỹ thuật, giải
quyết những vấn đề cơ bản của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Xây
dựng đội ngũ doanh nhân có năng lực tổ chức, quản lý doanh nghiệp và có khả
năng cạnh tranh; xây dựng các cơ sở đào tạo nhân lực, hiện đại, đa dạng, cơ cấu
ngành nghề, đồng bộ, phù hợp với nhu cầu phát triển của xã hội; xây dựng sự
nghiệp giáo dục và đào tạo tiên tiến, hiện đại và một xã hội học tập toàn diện để
đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao.
Theo Phạm Minh Hạc cho rằng: Nguồn nhân lực chất lượng cao là đội
ngũ nhân lực có trình độ và năng lực cao, là lực lượng xung kích tiếp nhận
chuyển giao cơng nghệ tiên tiến, sử dụng có hiệu quả việc ứng dụng vào điều
kiện nước ta là hạt nhân đưa lĩnh vực của mình đi vào CNH, HĐH được mở
rộng theo kiểu "vết dầu loang" bằng cách dẫn dắt những bộ phận có trình độ và
năng lực thấp hơn, đi lên với tốc độ nhanh.
Theo Hoàng Văn Châu cho rằng, NNL chất lượng cao là "Khái niệm chỉ
lực lượng lao động có học vấn, có trình độ chun mơn cao và nhất là có khả
năng thích ứng nhanh với những thay đổi nhanh chóng của cơng nghệ sản
xuất"(Hồng Văn Châu (2010), "Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho
hộinhập kinh tế - vấn đề cấp bách sau khủng hoảng", Tạp chí Kinh tế đối ngoại
(38), tr. 28-21.
Phạm Thị Khanh (2007), cho rằng, "Nguồn nhân lực chất lượng cao là
nguồn nhân lực có khả năng (hay năng lực) tạo ra những sản phẩm hàng hóa có
giá trị gia tăng cao, sức cạnh tranh tốt, đảm bảo cho nền kinh tế hội nhập sâu
rộng và hiệu quả vào nền kinh tế thế giới".

Theo Phạm Tất Dong, nhấn mạnh vai trò của nhân cách con người trong
phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Ông cho rằng: những phẩm chất, nhân
cách của con người mới là yếu tố cơ bản bảo đảm phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao. Do vậy, giáo dục nhân cách phải được thực hiện trong bất cứ quá
trình nào của chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao”.
8


Như vậy, cho đến nay, về mặt khái niệm NNL chất lượng cao chưa có sự
thống nhất, xuất phát từ các cách tiếp cận khác nhau nên có những cách hiểu
khác nhau. Theo tác giả: Nguồn nhân lực chất lượng cao là bộ phận nhân lực có
đủ sức khỏe; có trình độ học vấn, trình độ chun mơn kỹ thuật cao, trình độ
ngoại ngữ, tin học đáp ứng yêu cầu; phẩm chất đạo đức tốt; năng động, sáng
tạo và khả năng thích ứng nhanh với những thay đổi của khoa học công nghệ,
lao động với năng suất, chất lượng cao, đóng góp hiệu quả cho phát triển kinh
tế - xã hội của địa phương và đất nước.
* Nguồn nhân lực chất lượng cao ngành công nghiệp

Để đáp ứng yêu cầu phát triển ngày càng cao của nền sản xuất công
nghiệp hiện đại, góp phần vào q trình phát triển kinh tế-xã hội, thực hiện sự
nghiệp CNH, HĐH và HNQT, đòi hỏi NNL ngành công nghiệp phải đảm bảo về
quy mô, chất lượng và cơ cấu, nhất là NNL chất lượng cao. Về chất lượng nguồn
nhân lực chất lượng cao ngành cơng nghiệp phải đảm bảo các u cầu: Có sức
khỏe - thể lực tốt; trình độ học vấn, trình độ chun mơn kỹ thuật, kỹ năng nghề
cao, trình độ ngoại ngữ, tin học đáp ứng u cầu, có tính năng động, sáng tạo và
khả năng thích ứng với sự thay đổi nhanh chóng của cơng nghệ sản xuất cơng
nghiệp. Bên cạnh đó, nền sản xuất cơng nghiệp cịn địi hỏi ở người lao động
phải có các năng lực cần thiết như: Có kỷ luật tự giác, biết tiết kiệm nguyên vật
liệu và thời gian, có tinh thần hợp tác và trách nhiệm, có tác phong lao động
cơng nghiệp và văn hóa nghề (văn hóa cơng nghiệp).

Vậy, có thể đưa ra khái niệm nguồn nhân lực chất lượng cao ngành công
nghiệp như sau: Nguồn nhân lực chất lượng cao ngành công nghiệp là bộ phận
tiên tiến nhất của nguồn nhân lực ngành cơng nghiệp, có sức khỏe-thể lực tốt,
có trình độ học vấn, trình độ chun mơn kỹ thuật cao, trình độ ngoại ngữ, tin
học đáp ứng yêu cầu; nhân cách, đạo đức tốt; văn hóa nghề cao; năng động,
sáng tạo, thích ứng nhanh với những thay đổi của cơng nghệ sản xuất, tạo ra
năng suất, chất lượng, hiệu quả cao trong ngành cơng nghiệp, góp phần phát
triển kinh tế- xã hội của đia phương và đất nước một cách hiệu quả.
9


* Phát triển nguồn nhân lực

Sự phát triển nói chung được xem là quá trình vận động theo khuynh
hướng đi lên từ trình độ thấp đến trình độ cao hơn, từ chưa hồn thiện đến hồn
thiện hơn. Đó là sự biến đổi cả về số lượng và chất lượng của sự vật theo hướng
ngày càng hồn thiện ở trình độ cao hơn.
Tùy theo từng quốc gia, phạm vi và từng giai đoạn cụ thể thì phát triển
nguồn nhân lực có mục tiêu chiến lược và chính sách cụ thể. Trong nhiều trường
hợp nó được hiểu như các hoạt động giáo dục đào tạo và phát triển.
Xuất phát từ các cách tiếp cận khác nhau nên có nhiều cách hiểu khác
nhau về phát triển nguồn nhân lực. Theo UNESCO: Phát triển NNL là làm cho
toàn bộ sự lành nghề của dân cư luôn luôn phù hợp trong mối quan hệ với sự
phát triển của đất nước - phát triển NNL là phát triển kỹ năng lao động và thích
ứng với yêu cầu về việc làm. Quan niệm của Tổ chức lao động quốc tế (ILO):
Phát triển nguồn nhân lực là phát triển năng lực và sử dụng năng lực đó của con
người để tiến tới có được việc làm hiệu quả, cũng như thỏa mãn nghề nghiệp và
cuộc sống cá nhân.
Liên Hợp quốc sử dụng chỉ số phát triển con người (HDI). HDI là thước đo
tổng hợp về sự phát triển con người trên ba phương diện sức khỏe, tri thức và thu

nhập. HDI có giá trị nằm trong khoảng từ 0 đến 1. HDI đạt tối đa bằng 1 thể hiện
trình độ phát triển con người cao nhất; HDI tối thiểu bằng 0 thể hiện xã hội khơng
có sự phát triển mang tính nhân văn. HDI được sử dụng làm thước đo chung để so
sánh sự phát triển con người và nhân lực của các quốc gia trên thế giới. Hiện nay,
nhiều nước trên thế giới cũng thường dùng chỉ số HDI để đánh giá mức độ nhất
định về phát triển nhân lực của quốc gia. Tuy nhiên chỉ số HDI chỉ áp dụng để tính
cho một địa phương, vùng, quốc gia. Không thể sử dung HDI để đánh giá mức độ
phát triển nguồn nhân lực của một ngành, một doanh nghiệp.
Theo tổ chức Hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) quan
niệm phát triển nguồn nhân lực được xem như các hoạt động học tập ở nơi làm
việc nhằm cải thiện năng lực và năng suất lao động của nguồn nhân lực thông
qua người lao động trong một tổ chức.
10


Theo Bùi Văn Nhơn: Phát triển nguồn nhân lực là tổng thể các hình thức,
phương pháp, chính sách và biện pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng cho
nguồn nhân lực (trí tuệ, thể chất và phẩm chất tâm lý xã hội) nhằm đáp ứng đòi hỏi về
nguồn nhân lực cho sự phát triển kinh tế xã hội trong từng giai đoạn phát triển.
Vũ Văn Phúc: Phát triển nguồn nhân lực là sự biến đổi về số lượng và
chất lượng trên các mặt thể lực, trí lực, kỹ năng và tinh thần cùng với quá trình
tạo ra những biến đổi tiến bộ về cơ cấu nhân lực.
Trần Xuân Cầu và Mai Quốc Chánh: Với cách tiếp cận phát triển từ góc
độ xã hội, có thể định nghĩa phát triển nguồn nhân lực là quá trình tăng lên về số
lượng (quy mô) nguồn nhân lực và nâng cao về chất lượng nguồn nhân lực, tạo
ra cơ cấu nguồn nhân lực ngày càng hợp lý. Cả ba mặt số lượng, chất lượng và
cơ cấu trong phát triển nguồn nhân lực gắn chặt với nhau, trong đó yêu tố quyết
định nhất của phát triển là chất lượng nguồn nhân lực phải được nâng cao.
* Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp cơng


nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Trong thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH và HNQT cùng với cách mạng
KHCN đang có những bước tiến vượt bậc, đặc biệt là cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ (Industry 4.0) đang diễn ra trên phạm vi toàn cầu. Vấn đề phát
triển NNL chất lượng cao ngành công nghiệp của từng địa phương hay phạm vi
quốc gia là một yêu cầu cơ bản và cấp thiết.
Từ khái niệm NNL chất lượng cao ngành công nghiệp, khái niệm phát
triển NNL và các khái niệm nêu trên chuyên đề này quan niệm: Phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp, hiện đại hóa là
q trình gia tăng về số lượng, nâng cao về chất lượng và chuyển dịch về cơ
cấu theo hướng tiến bộ nguồn nhân lực chất lượng cao nhằm đáp ứng tốt hơn
yêu cầu phát triển của sự nghiệp cơng nghiệ hóa, hiện đại hóa và góp phần phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước.
* Quan niệm về CNH, HĐH
CNH, HĐH nói chung được Đảng ta quan niệm tại hội nghi lần thứ 7,
BCHTW khóa VII như sau: CNH, HĐH là q trình chuyển đổi căn bản và toàn
11


diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế-xã hội từ sử
dụng sức lao động thủ cơng là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao
động với công nghệ, phơng tiện, phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự
phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao
động xã hội cao.
Đảng ta cũng xác định phải tiến hành đẩy mạnh quá trình CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn.
1.1.2. Sự cần thiết khách quan của việc phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Thứ nhất, nguồn nhân lực chất lượng cao vừa là động lực, vừa là mục
tiêu của quá trình CNH, HĐH.

Con người khơng ngừng tìm tịi, học hỏi, phát triển khoa học lã thuật
nhằm tìm ra những phương thức hiệu quả nhất tác động vào thiên nhiên, cải tạo
thiên nhiên, tạo ra những giá trị mới cho xã hội.
Con người là lực lượng tiêu dùng của cải vật chất và tinh thần của xã hội,
nó thể hiện rõ nét nhất mối quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng. Mặc dù mức độ
phát triển của sản xuất quyết định mức độ tiêu dùng song nhu cầu tiêu dùng của
con người lại tác động mạnh mẽ đển sản xuất thông qua quan hệ cung cầu hàng
hoá trên thị trường. Phát triển kinh tế - xã hội nhằm mục tiêu phục vụ con người,
làm cho cuộc sống con người ngày càng tốt hơn, xã hội ngày càng văn minh.
Thứ hai,nguồn nhân lực chất lượng cao là nguồn lực chỉnh
trong sự nghiệp CNH,HĐH đất nước.
Để thành cơng trong sự nghiệp CNH,HĐH thì chúng ta cần kết hợp rất
nhiều nguồn lực như: tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực, vốn đầu tư, khoa
học công nghệ... Trong các nguồn lực đó thì nguồn nhân lực được xem là yếu tố
nội sinh chi phối các yếu tố còn lại. Các nguồn lực như vốn, tài nguyên thiên
nhiên, vị trí địa lý... tự nó chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng và chúng chỉphát huy tác
dụng khi có ý thức của con người tác động vào. Bởi lẽ, con người là nguồn lực
duy nhất biết tư duy, có trí tuệ và ý chí biết tận dụng, gắn kết chúng lại với nhau
tạo thành sức mạnh tổng họp cùng tác động vào q trình cơng nghiệp hố, hiện
12


đại hố. Nguồn nhân lực cịn là nhân tố quyết định việc khai thác, sử dụng, bảo vệ
và tái tạo các nguồn lực khác. Các nguồn lực khác dù nhiều đến đâu cũng chỉ là
yếu tố có hạn và chỉ phát huy được tác dụng khi kết hợp với nguồn nhân lực một
cách có hiệu quả. Các nguồn lực khác là có hạn, có thể bị cạn kiệt khi khai thác.
Trong khi đó nguồn lực con người mà cốt lõi là trí tuệ lại là nguồn lực vơ tận. Tính
vơ tận, trí tuệ con người biểu hiện ở chỗ nó khơng chỉ có khả năng tái sinh mà cịn
tự sản sinh và đổi mới không ngừng nếu biết chăm lo, bồi dưỡng và khai thác hợp
lý. Nhờ vậy con người đã từng bước làm chủ tự nhiên, khám phá ra những tài

nguyên mới và s áng tạo ra những tài ngun vốn khơng có s ẵn trong tự nhiên.
Thứ ba, nguồn nhân lực chất lượng cao là yểu tổ quyết định sự thành
công của sự nghiệp CNH, HĐH
Một đất nước có khoa học kỳ thuật hiện đại thì sẽ là điều kiện lớn để phát
triển nền kinh tể. Tuy nhiên, con người lại là người phát minh, tạo ra khoa học
cơng nghệ. Trí tuệ của con người càng cao thì sẽ tạo ra một nền khoa học hiện
đại, có khả năng khai thác một cách tối đa nguồn tài nguyên thiên nhiên và mở
rộng ra nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, phục vụ cho sự phát triển ngày càng mạnh
mẽ của đất nước.
Bên cạnh đó, kinh nghiệm của nhiều nước và thực tiễn của chính nước ta
cho thấy sự thành cơng của cơng nghiệp hố hiện đại hố phụ thuộc chủ yếu vào
hoạch định đường lối chính sách cũng như cách thức tổ chức thực hiện các
nhiệm vụ. Điều này phụ thuộc vào năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn
của con người. Đây là yếu tố quan trọng góp phần thúc đẩy khoa học kỹ thuật
trong các ngành sản xuất phát triển, qua đó tác động đến q trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế được đi đúng hướng.
Thứ tư, nguồn nhân lực, đặc biệt là chất lượng cao là điều kiện để rút
ngắn khoảng cách tụt hậu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tể và đẩy nhanh sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước
Nguồn nhân lực mà có trình độ vãn hố, trình độ chun mơn kỳ thuật cao
thì khả năng tư duy sáng tạo, tinh thần làm việc cũng như tinh thần trách nhiệm
và tính tự giác sẽ cao,khả năng tiếp thu khoa học công nghệ cũng cao hơn. Nước
13


ta tiến hành cơng nghiệp hóa trong xu thế khu vực hóa và tồn cấu hóa về kinh
tế đang phát triển mạnh mẽ, trong điều kiện cách mạng khoa học - kỹ thuật và
công nghệ hiện đại trên thế giới phát triển rất nhanh chóng. Vì vậy, chúng ta cần
phải có nguồn nhân lực chất lượng cao, năng động sáng tạo để chủ động nắm lấy
thời cơ, phát huy những lợi thế sẵn có để đấy nhanh q trình cơng nghiệp hóa,

tạo ra thế và lực mới để vượt qua những thách thức, đẩy lùi nguy cơ, đưa nền
kinh tế phát triển nhanh và bền vững.
1.1.3. Nội dung và tiêu chí phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
* Nội dung phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước bao gồm ba nội dung cơ bản sau:
Một là, phát triển về số lượng nguồn nhân lực chất lượng cao
Hai là, phát triển về chất lượng nguồn nhân lực chất lượng cao
Ba là, hoàn thiện cơ cấu nguồn nhân lực chất lượng cao
* Tiêu chí phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
- Tiêu chí về sức khỏe- thể lực
+Chiều cao, cân nặng, tầm vóc
+ Nhanh nhẹn, hoạt bát, dẻo dai trong công việc
+Khả năng chống chọi với bệnh tất
+Khả năng chịu đựng những tác động của môi trường làm việc
+Khả năng làm việc thêm giờ dựa trên sức khỏe
-Tiêu chí về trí lực
+ Kiến thức cơ bản về tự nhiên và xã hội
+Năng lực tiếp thu tri thức mới và nâng cao
+Trình độ chun mơn kỹ thuật và kỹ năng nghề
+Năng lực đổi mới, nghiên cứu và sáng tạo
+Năng lực về ngoại ngữ
14


+Năng lực về tin học
-Tiêu chí về nhân cách

+ Đạo đức nghề nghiệp
+Tinh thần trách nhiệm trong công việc
+Tác phong lao động
- Ý thức phấn đấu vươn lên trong chuyên mơn
+Trách nhiệm với đồng nghiệp
-Tiêu chí về tính năng động và thích ứng
+ Khả năng vận dụng kiến thức vào cơng việc
+Khả năng thích ứng nhanh với mơi trường làm việc thay đổi
+Kỹ năng làm việc nhóm
+Kỹ năng làm việc độc lập
+Kỹ năng giao tiếp (đàm phán, thỏa thuận)
+ Khả năng giải quyết công việc
+Khả năng nắm bắt nhanh nhạy thơng tin thị trường
-Tiêu chí về văn hóa nghề
+ Ý thức kỷ luật tự giác trong thực hiện nhiệm vụ
+ Tinh thần hợp tác trong công việc
+Kỹ năng ứng xử có văn hóa trong cơng việc
+Mức độ nhiệt tình say mê và niềm tin trong công việc
1.2. Thực tiễn phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
1.2.1. Những nhân tố tác động tới sự phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
* Yếu tố kinh tế - xã hội
Hệ thống chính trị, pháp luật và các chính sách xã hội cũng là một trong
những nhân tố liên quan đến nguồn nhân lực, đến thị trường sức lao động. Hệ
thống các chính sách xã hội nhằm vào mục tiêu vì con người, phát huy mọi tiềm
năng sáng tạo của nguồn nhân lực trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội, với
phương hướng phát huy nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo cơng bằng, bình
15



đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân, giải quyết tốt tăng trưởng kinh tế với
tiến bộ và công bằng xã hội, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần, giữa
đáp ứng các nhu cầu trước mắt với việc chăm lo lợi ích lâu dài, giữa cá nhân với
tập thể và cộng đồng xã hội. Nghiên cứu về phát triển nguồn nhân lực không thể
không nghiên cứu đến đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước
như Luật Giáo dục, Luật Dạy nghề, Luật Lao động, chính sách chuyển dịch cơ
cấu kinh tế; chính sách, cơ chế quản lý kinh tế, xã hội...
Thực tiễn phát triển lực lượng sản xuất hiện đại cho thấy, sức sống và trình
độ phát triển lực lượng sản xuất hiện đại đều bắt nguồn từ trình độ xã hội hóa, tạo
ra mối quan hệ giữa các nguồn lực xã hội với các nhu cầu xã hội, bởi, khi sản xuất
và tiêu dùng ngày càng có tính chất xã hội thì sẽ đánh thức mọi tiềm năng về vật
chất và trí tuệ của xã hội vào phát triển kinh tế thị trường. Mức độ khai thác các
tiềm năng vật chất của xã hội thể hiện rõ ở quy mô phát triển của lực lượng sản
xuất, còn mức độ huy động và sử dụng tốt các tiềm năng trí tuệ của xã hội lại là
chỉ số về chất lượng và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại.
Và trong nền kinh tế thị trường, mặc dù người lao động có nhiều cơ hội
lựa chọn việc làm theo khả năng của mình, song họ cũng phải đối mặt với nhiều
thách thức, thậm chí là thất nghiệp, bởi xét đến cùng sự ổn định về việc làm chỉ
mang tính tương đối, do vậy, người lao động cần phải được đào tạo, tái đào tạo
để có được trình độ chun mơn, kỹ năng tay nghề giỏi hơn, có sức khỏe và tác
phong làm việc tốt hơn nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường lao
động, vì vậy, quy luật giá trị đặt ra yêu cầu tiên quyết là vấn đề chất lượng lao
động. Còn đối với quy luật cạnh tranh, thì đó là động lực của mọi sự phát triển.
Mục tiêu của cạnh tranh là giành lợi ích, lợi nhuận lớn nhất bảo đảm sự tồn tại
và phát triển của chủ thể tham gia cạnh tranh. Trong nền kinh tế thị trường, cạnh
tranh có vai trị to lớn, nó thúc đẩy người lao động phải thường xuyên trao dồi
kiến thức để thích ứng với cơng nghệ mới, phương thức quản lý mới. Cịn đối
với quy luật cung-cầu, thì đó là mối quan hệ giữa người bán và người mua, là
quan hệ không thể thiếu được trong nền kinh tế thị trường. Quan hệ cung-cầu

trên thị trường sức lao động là một cân bằng động. Do vậy, khi nghiên cứu phát
16


triển nguồn nhân lực cần phải chú ý đến tính cân bằng giữa cung và cầu lao
động, bởi đây là nhân tố rất quan trọng giúp cho việc hoạch định các chính sách
trở nên thiết thực và có hiệu quả hơn.
Như vậy, mối quan hệ giữa phát triển nguồn nhân lực và kinh tế-xã hội là
mối quan hệ nhân quả, quan hệ qua lại hai chiều. Kinh tế-xã hội càng phát triển
thì khả năng đầu tư của nhà nước và xã hội cho phát triển nguồn nhân lực ngày
càng tăng, tạo mọi cơ hội và môi trường thuận lợi cho phát triển nguồn nhân lực.
Ngược lại, nguồn nhân lực của quốc gia, địa phương được phát triển tốt sẽ góp
phần đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội và trong vòng xốy ốc thuận chiều này
nhân tố nọ kích thích nhân tố kia phát triển.
* Giáo dục và đào tạo
Giáo dục và đào tạo là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến lực lượng sản
xuất, quyết định sự tăng trưởng và phát triển kinh tế- xã hội. Bởi tri thức và
phẩm chất của người lao động là sản phẩm của quá trình giáo dục và đào tạo.
Các quốc gia đều nhìn nhận rằng một nền giáo dục hoàn chỉnh, đồng bộ, toàn
diện sẽ tạo ra những nhà khoa học, những người lao động có tri thức, có kỹ năng
nghề nghiệp, năng động và sáng tạo. Đối với mỗi người, giáo dục và đào tạo cịn
là q trình hình thành, phát triển thế giới quan, tình cảm, đạo đức, hồn thiện
nhân cách. Còn đối với xã hội, giáo dục và đào tạo là q trình tích tụ nguồn vốn
con người để chuẩn bị, cung cấp nguồn nhân lực cho xã hội. Trong đó, giáo dục
phổ thơng là nền tảng, là cơ sở tạo ra nguyên liệu cho đào tạo nguồn nhân lực;
giáo dục nghề nghiệp trực tiếp sản xuất ra sản phẩm cung cấp cho thị trường sức
lao động. Với ý nghĩa và tầm quan trọng ấy, đầu tư cho giáo dục được xem như
là đầu tư cho phát triển.
* Khoa học và công nghệ
Sự tiến bộ của khoa học và công nghệ ảnh hưởng lớn đến phát triển nguồn

nhân lực. Sự phát triển kinh tế-xã hội trên thế giới hiện nay thực chất là cuộc
chạy đua về khoa học và công nghệ, chạy đua nâng cao chất lượng và hiệu quả
lao động trên cơ sở hiện đại hóa nguồn nhân lực. Những tiến bộ khoa học và
công nghệ làm thay đổi cơ cấu lao động của mỗi quốc gia, mỗi địa phương; làm
17


thay đổi tính chất, nội dung lao động nghề nghiệp của người lao động, làm cho
lao động trí óc tăng dần và lao động chân tay ngày càng có khuynh hướng giảm
đi; tiến bộ khoa học và công nghệ từng bước được quốc tế hóa tạo nên sự cạnh
tranh gay gắt về năng suất, chất lượng, giá thành. Nhiều ngành nghề mới xuất
hiện, nhiều nghề cũ mất đi, kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp của người lao động
bị hao mòn nhanh chóng; tiến bộ của khoa học và cơng nghệ cũng đã làm thay
đổi nội dung, phương pháp dạy học từ giáo dục phổ thông đến đại học.
* Truyền thống lịch sử và văn hóa
Truyền thống lịch sử và giá trị văn hóa gồm ý thức dân tộc, lịng tự hào về
những giá trị truyền thống là yếu tố cơ bản, có ý nghĩa xun suốt khơng chỉ
hơm nay mà cả về sau. Những giá trị truyền thống như: tôn sư trọng đạo, ý thức
cộng đồng, lòng yêu nước, thương người, tinh thần dũng cảm, bất khuất, tinh
thần hiếu học, trọng học, chữ hiếu, lối sống thanh bạch, trong sạch, lòng nhân ái,
sẵn sàng tương trợ người khác trong những lúc gặp khó khăn hoạn nạn... đây là
giá trị truyền thống đang chi phối cuộc sống của mỗi chúng ta, là những nhân tố
có ý nghĩa nhất định, cần phát huy. Cũng lưu ý rằng, nhịp sống theo cơ chế thị
trường cũng có khơng ít những tác động làm biến đổi những giá trị truyền thống,
cũng phần nào tác động đến giá trị truyền thống, đến chất lượng nguồn nhân lực.
* Tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế
Tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế cũng ảnh hưởng đến phát triển nguồn
nhân lực, bởi những nhân tố này đã tạo điều kiện cho các quốc gia, địa phương
kết hợp tốt nhất sức mạnh dân tộc với sức mạnh quốc tế, phát huy được nội lực
và mọi tiềm năng sáng tạo; đồng thời, tranh thủ được tối đa các nguồn lực bên

ngoài phục vụ cho phát triển. Xu thế hội nhập quốc tế có tác động nhiều mặt và
đặt ra những yêu cầu mới đối với việc phát triển nguồn nhân lực ở mỗi quốc gia,
dẫn đến một cuộc cách mạng về đào tạo ngành nghề trong xã hội. Do đó, các
quốc gia, địa phương phải chuẩn bị cho mình những tiềm lực lao động đáp ứng
yêu cầu của một hệ thống ngành nghề mới đang phát triển phù hợp với xu thế
thời đại. Trong bối cảnh tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế, các quốc gia còn phải
hướng đến việc phát triển những con người thích ứng với thời đại cạnh tranh ồ ạt
18


và khốc liệt để phát triển. Có thể nhận ra rằng, tác động của xu thế tồn cầu hóa
và hội nhập quốc tế đối với việc điều chỉnh, lựa chọn chiến lược phát triển của
các quốc gia, địa phương mà trong đó có cả phát triển nguồn nhân lực là rất
mạnh mẽ và sâu sắc. Phát triển một thế hệ mới các doanh nhân, đội ngũ trí thức,
những người lao động có trình độ chun mơn cao, có tay nghề vững vàng, có
năng lực quản lý, sản xuất, kinh doanh để có thể giành phần thắng trong cuộc
cạnh tranh trước bối cảnh tồn cầu hóa hiện nay. Trong đó kinh tế tri thức hiện
nay cũng được xem là nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến phát triển nguồn nhân lực,
bởi sức lan tỏa mạnh mẽ và được xem như là xu hướng tất yếu của quá trình
phát triển kinh tế-xã hội nói chung, q trình cơng nghiệp hóa hiện đại hóa nói
riêng, nó thúc đẩy sự tăng nhanh năng suất lao động, sở hữu cá nhân và sở hữu
xã hội, tạo ra bước đột phá về chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân
lực chất lượng cao. Có thể thấy, trong nền kinh tế tri thức, tri thức trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp, là vốn quý nhất, là nguồn lực quan trọng hàng đầu,
quyết định sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Tiềm năng, ưu việt của kinh tế tri
thức thể hiện ở xu hướng mới của phát triển khoa học có tính chất liên ngành,
đặc biệt xu hướng thâm nhập vào nhau của khoa học tự nhiên và khoa học xã
hội (về tri thức, phương pháp, cách sử dụng thành tựu khoa học) hướng vào hình
thành mối quan hệ hài hịa giữa con người với con người và giữa con người với
tự nhiên. Phát triển nguồn nhân lực cần có những phương pháp tiếp cận hệ thống

trong nghiên cứu về phát triển nguồn nhân lực, đặt phát triển nguồn nhân lực
trong mối tương quan với các nhân tố tác động đến nó nhằm phát huy mặt tích
cực và hạn chế mặt tiêu cực, tìm ra những giải pháp hữu hiệu để phát triển
nguồn nhân lực cho đất nước trong bối cảnh mới.
1.2.2. Thực trạng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
* Những thành tựu đã đạt được
- Về số lượng
Hiện nay, lợi thế lớn nhất của Việt Nam là có lực lượng lao động dồi dào và
cơ cấu lao động trẻ. Theo Tổng cục Thống kê, năm 2018, Việt Nam có khoảng 94
triệu lao động, trong đó, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên chiếm khoảng 55,16
19


triệu người. Tỷ lệ lao động 15 tuổi trở lên có việc làm năm 2018 ước tính là 54
triệu người, bao gồm 20,9 triệu người đang làm việc ở khu vực nông, lâm nghiệp
và thủy sản (chiếm 38,6%); khu vực công nghiệp và xây dựng 14,4 triệu người
(chiếm 26,7%); khu vực dịch vụ 18,7 triệu người (chiếm 34,7%).
Đồng thời, năng suất lao động của Việt Nam thời gian qua đã có sự cải
thiện đáng kể theo hướng tăng đều qua các năm và là quốc gia có tốc độ tăng
năng suất lao động cao trong khu vực ASEAN. Theo Tổng cục Thống kê, năng
suất lao động toàn nền kinh tế theo giá hiện hành năm 2018 ước tính đạt 102
triệu đồng/lao động (tương đương 4.512 USD), tăng 346 USD so với năm 2017.
Tính theo giá so sánh, năng suất lao động năm 2018 tăng 5,93% so với năm
2017, bình quân giai đoạn 2016-2018 tăng 5,75%/năm, cao hơn mức tăng
4,35%/năm của giai đoạn 2011-2015.
Song song với đó, chất lượng lao động Việt Nam trong những năm qua
cũng đã từng bước được nâng lên; Lao động qua đào tạo đã phần nào đáp ứng
được yêu cầu của doanh nghiệp và thị trường lao động. Lực lượng lao động kỹ
thuật của Việt Nam đã làm chủ được khoa học - công nghệ, đảm nhận được hầu

hết các vị trí cơng việc phức tạp trong sản xuất kinh doanh mà trước đây phải
thuê chuyên gia nước ngoài…
- Về chất lượng
+ Thể trạng, sức khoẻ nguồn nhân lực Việt Nam
Thể lực của người Mệt Nam nhìn chung cịn thấp kém, phần lớn chưa đáp
ứng u cầu cường độ làm việc của xã hội công nghiệp hiện đại và các chuẩn
quốc tể. Theo đánh giá của Viện Khoa học Thể dục-Thể thao (Uỷ ban Thể dụcthể thao), so với thể lực của thanh thiểu niên các nước Trung Quốc, Nhật Bản,
Thái Lan, Singapore, Inđơnêsia thì thể chất người Mệt Nam từ 6-20 tuổi còn
kém hơn về chiều cao, cân nặng, sức mạnh, sức bền và chỉ tương đương về sức
nhanh, sự khéo léo và mềm dẻo. Theo kểt quả điều tra năm 2000 số người lao
động không đủ tiêu chuẩn về cân nặng là 48,7%, số người suy dinh dưỡng là
28%, số phụ nữ thiểu máu là 40%. Tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi
theo chiều cao (tỷ lệ thấp còi) còn cao.
20


Như vậy tình trạng sức khoẻ người Việt Nam ở mức trung bình kém, điều
này làm giảm chất lượng nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
công nghiệp hoá của đất nước và giảm sức cạnh tranh của lao động Mệt Nam
trên thị trường lao động thể giới.
- Trình độ giáo dục của nguồn nhân lực Việt Nam
Trình độ giáo dục của nguồn nhân lực ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng
nguồn nhân lực, nó phản ánh khả năng tiếp thu và vận dụng các thành tựu khoa học
kỹ thuật vào sản xuất. Tuy nhiên, trình độ giáo dục nguồn lao động của Mệt Nam
chưa đáp ứng được những đòihỏi phát triển trong giai đoạn hiện nay thơng qua nhiều
thơng số.

Biểu đồ về trình độ nguồn nhân lực Việt Nam
Tính trong cả nước, vào năm 2004 dân số hoạt động kinh tể có 32,8% mới
tốt nghiệp tiểu học; 19,7% tốt nghiệp trung học phổ thông; tỷ lệ mù chữ là 5,01%.

Trình độ học vấn của lao động nước ta trong những năm gần đây đã được
nâng lên đáng kể. Nếu như năm 2003, lao động có trình độ trung học phổ thơng
chiếm 62,2% thì đến năm 2005 con số này tăng lên đến 69,3%. Tuy nhiên, so
với u cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hóa,hiện đạihóa và so với trình độ của
21


lao động các nước trong khu vực và quốc tế thì trình độ học vấn của lao động
nước ta cịn thấp.
Trong những năm vừa qua, tỷ lệ lực lượng lao động có trình độ chun
mơn kỹ thuật có xu hướng tăng lên. Năm 1999, có 8,1% tổng lực lượng lao động
cả nước có chun mơn kỹ thuật; năm 2003 là 21,22% và đến năm 2005, tỷ lệ
lao động cả nước có trình độ chun mơn kỹ thuật tăng lên 24,79%.
Tuy nhiên, con số này còn thấp so với yêu cầu. Tính đến 2005, lao động
qua đào tạo ở Mệt Nam chiếm một tỷ lệ rất thấp (24,79%), lao động chưa qua
đào tạo còn chiếm một tỷ lệ rất cao (75,21%).
Bên cạnh đó, trình độ giáo dục và đào tạo chun nghiệp nguồn lao động
của Mệt Nam còn chứa đựng nhiều mâu thuẫn: Một mặt, thiếu hẳn đội ngũ lao
động có chuyên môn cao; mặt khác, việc đào tạo sinh viên tốt nghiệp chưa đáp
ứng với yêu cầu của xã hội phát triển trong giai đoạn hiện nay. Điều tra của Bộ
Gáo dục và Đào tạo năm 2006 cho thấy cả nước có tới 63% số sinh viên ra
trường khơng có việc làm, 37% số cịn lại có việc làm thì hầu hết phải đào tạo
lại và có nhiều người khơng làm đúng nghề mình đãhọc, trong khi đó nhiều
doanh nghiệp, kể cả những doanh nghiệp có FDI và nhiều dự án kinh tế quan
trọng khác rất thiếu nguồn lực chuyên nghiệp. Việt Nam thiếu trầm trọng đội
ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật có tay nghề cao trong các lĩnh vực như quản lý,
thương mại và công nghệ cao. Đặc biệt trong những năm qua, nhiều sinh viên,
chuyên gia được nhà nước cho đi đào tạo ở nước ngoài, sau khi tốt nghiệp không
quay trở về để làm việc. Trong khi đó ở các doanh nghiệp và cơng sở nhà nước
những lao động dư thừa bởi khơng có chun mơn, kỹ thuật chiếm tỷ lệ khá cao.

Nước ta hiện cần có khoảng 250 - 300 ngàn người lao động có tay nghề cao như
kỹ sư, các nhà quản lý cho các khu công nghiệp, khu chế xuất ở trong các vùng
kinh tế trọng điểm bắt đầu hoạt động từ năm 2000, nhưng chúng ta chỉ mới đáp
ứng được khoảng 30-40%.
Thêm vào đó, những cơng nhân qua đào tạo ở các trường trung học
chuyên nghiệp, các trường dạy nghề, về cơ bản, không thoả mãn các nhu cầu
của các doanh nghiệp trong các khu cơng nghiệp, khu chế xuất.
- Thói quen, nếp nghĩ, tác phong của người lao động
22


Nếp nghĩ và tác phong của người lao động vẫn cịn mang nặng thói quen
của nền sản xuất nhỏ, một bộ phận lớn lao động làm việc ở nông thôn, nên tính tổ
chức, kỷ luật cịn yểu, tác phong cơng nghiệp chưa cao, tùy tiện về giờ giấc và
hành vi, trình độ văn hóa cơng nghiệp cịn thấp. Sự kiện rất nhiều người lao động
làm việc tại các khu công nghiệp, khu chể xuất ở các khu công nghiệp trong vùng
Đông Nam Bộ về quê ăn tết rồi bỏ việc diễn ra thường xuyên hàng năm trong mấy
năm gần đây là một minh chứng, làm cho nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn về lao
động, ảnh hưởng đến việc thực hiện các hợp đồng giao hàng.
Một bộ phận không nhỏ nguồn nhân lực bị nghèo đó i, thất nghiệp đang là
thách thức rất lớn hiện nay ở nước ta. Bên cạnh đó, một bộ phận khác lại sa vào
tệ nạn xã hội, nhất là nghiện hút, mãi dâm và tội phạm.
Mặc dù còn những điểm hạn chế, yếu kém như trên, song nhìn chung,
nguồn nhân lực Việt Nam có được những phẩm chất vượt trội như: hiếu học,
thông minh, cần cù, chịu khó, khéo tay, khả năng nắm bắt các kỹ năng lao động,
đặc biệt là kỹ năng sử dụng các công nghệ hiện đại tương đối nhanh. Đây là yếu tố
quan trọng của nguồn nhân lực nước nhà trong quá trình CNH, HĐH đất nước.
- Về cơ cấu nguồn nhân lực
Xét cơ cấu lực lượng lao động theo giới tính, tỷ lệ lao động nam lại nhiều
hơn nữ với trên 50% lao động là nam giới. Tuy nhiên, sự chênh lệch này không

đáng kể và cho thấy lao động nữ chiếm một lượng đông đảo. Tỷ lệ thất nghiệp của
lao động nữ khá cao so với lao động nam do hạn chế về sức khỏe, những mâu
thuẫn giữa sinh đẻ và làm việc, cơ hội tìm được việc làm vừa ý sau khi sinh là thấp.
Hiện nay, lực lượng lao động vẫn tập trung đông nhất ở khu vực Đồng
bằng sông Hồng (chiếm trên 22%), tiếp đến là khu vực Bắc trung bộ, Duyên hải
miền Trung (trên 21%) và Đồng bằng sơng Cửu Long. Đây là các khu vực có
diện tích đất rộng, tập trung nhiều thành phố lớn, khu đô thị và nhiều khu công
nghiệp, thuận lợi cho việc sản xuất kinh doanh nên thu hút đông đảo lao động
tập trung ở những khu vực này. Những khu vực chiếm tỷ lệ thấp, là những khu

23


vực có diện tích đất hẹp, nhiều đồi núi, ít khu đô thị và khu công nghiệp nên
không thu hút nhiều lao động đến đây.

Cơ cấu lực lượng lao động phân theo 2 khu vực thành thị và nông thôn
cũng có sự chênh lệch lớn. Nhìn chung, lực lượng lao động ở nước ta chủ yếu
tập trung ở khu vực nơng thơn, chiếm khoảng gần 70%. Con số này có xu hướng
giảm qua các năm nhưng vẫn ở mức cao. Cả nước hiện có khoảng 17 triệu thanh
niên nơng thơn có độ tuổi từ 15-30, chiếm 70% số thanh niên và 60% lao động
nông thôn. Tuy nhiên, 80% trong số này chưa qua đào tạo chuyên môn. Đặc
24


điểm này là trở ngại lớn cho lao động nông thơn trong tìm kiếm việc làm. Tính
đến năm 2017, dân số trong độ tuổi lao động của Việt Nam là hơn 72,04 triệu
người (chiếm khoảng 75% tổng dân số cả nước), trong đó, tỷ lệ tham gia lực
lượng lao động đạt 75,5%, với 54,4 triệu người. So với năm 2010 (tỷ lệ tham gia
lực lượng lao động là 75%), lực lượng lao động tính đến năm 2017 tăng cả về tỷ

lệ và số lượng tuyệt đối.
Nhận xét chung về nguồn nhân lực ở Vĩệt Nam hiện nay
Từ việc phân tích thực trạng nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay, nhóm
chúng tơi có những nhận xét như sau:
Về mặt tích cực, Mệt Nam có nguồn lao động trẻ và dồi dào. Đây là lực
lượng dễ tiếp thu kiến thức, kỹ thuật mới nhằm đáp ứng nhu cầu CNH, HĐH đất
nước. Thêm vào đó, nguồn nhân lực Việt Nam cịn có những phẩm chất hiếu học,
thơng minh, cần cù, chịu khó, khéo tay, khả năng nắm bắt các kỹ năng lao động,
đặc biệt là kỹ năng sử dụng các công nghệ hiện đại tương đối nhanh... Do đó, nếu
được đào tạo tốt họ sẽ phát huy tác dụng trong quá trình CNH, HĐH đất nước
Trong thời gian qua, chất lượng nguồn nhân lực thể hiện trên các mặt thể
lực và trí lực cũng được cải thiện một cách đáng kể. Trình độ giáo dục của lao
động Mệt Nam được nâng cao hom, tỷ lệ mù chữ ngày càng giảm, số lượng lao
động có trình độ chun mơn kỹ thuật ngày càng nhiều. Đội ngũ cán bộ khoa
học cũng ngày một tăng lên.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đó, nguồn nhân lực Mệt Nam vẫn
còn nhiều hạn chể.
Thứ nhất, mặc dù thể lực lao động Mệt Nam đã có sự cải thiện nhưng
nhìn chung vẫn cịn thấp kém, phần lớn chưa đáp ứng yêu cầu cường độ làm
việc của xã hội công nghiệp hiện đại và các chuẩn quốc tể.
Thứ hai, trình độ tay nghề và chun mơn kỹ thuật còn thấp, tạo nên sự
chênh lệch trong cung cầu nguồn nhân lực chất lượng cao.
Thứ ba, nếp nghĩ và tác phong của người lao động vẫn cịn mang nặng
thói quen của nền sản xuất nhỏ, tính tổ chức, kỷ luật cịn yếu, tác phong cơng
25


×