Tải bản đầy đủ (.docx) (100 trang)

bai thi VietLao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 100 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<i><b>Họ và tên: Hà Thị Hiền</b></i>


<i><b>Năm sinh: 1974</b></i>



<i><b>Đơn vị: Trường TH Hợp Hòa – Tam Dương – Vĩnh Phúc</b></i>



<b>“LỊCH SỬ QUAN HỆ ĐẶC BIỆT </b>


<b>VIỆT NAM - LÀO, LÀO- VIỆT NAM”</b>



<b> </b>


<b> Chủ đề 1</b>


<b>NHỮNG NHÂN TỐ HÌNH THÀNH, QUYẾT ĐỊNH</b>
<b>MỐI QUAN HỆ HỮU NGHỊ ĐẶC BIỆT</b>


<b>VIỆT NAM-LÀO, LÀO- VIỆT NAM.</b>
<b></b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Từ bao đời qua, Việt Nam và Lào là hai nước láng giềng, gần gũi bên nhau
như làng trên xóm dưới. Nhân dân Việt Nam thường nói láng giềng tối lửa tắt
<i>đèn có nhau tương tự như cách nhân dân Lào gọi nhân dân Việt Nam là bản cạy</i>
<i>hươn khiêng (bản kề, nhà cạnh). Quan hệ Việt Nam –Lào, Lào –Việt Nam là mối</i>
quan hệ nhân hòa, nảy sinh từ đời sống thích ứng với tự nhiên và dựng xây xã hội
của biết bao thế hệ cộng đồng dân cư hai nước có nhiều lợi ích tương đồng, cao
hơn hết là vận mệnh hai dân tộc gắn bó với nhau rất khăng khít và được phát
triển thành quan hệ đặc biệt chưa từng có trong lịch sử quan hệ quốc tế.


Quan hệ đoàn kết đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam hình thành
nên khơng hề do ý muốn chủ quan của bất kỳ bên nào, cũng không phải là một
hiện tượng nhất thời mà bắt nguồn từ vị trí địa – chiến lược của hai nước, từ bản
chất nhân văn, nương tựa lẫn nhau của hai dân tộc có cùng lợi ích cơ bản về độc


lập, tự chủ và nguyện vọng chính đáng thiết tha về hịa bình và phát triển. <i>Quan</i>
<i>hệ truyền thống hữu nghị Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam được nâng thành</i>
<i>quan hệ đặc biệt kể từ khi lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc (tức Chủ tịch Hồ Chí Minh)</i>
<i>thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào đầu năm 1930 và sau đó (tháng 10 năm</i>
<i>1930), Đảng được đổi tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương, tiền thân của</i>
<i>Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào sau này. </i>


<b>Về các điều kiện tự nhiên: Việt Nam và Lào nằm ở trung tâm bán đảo</b>
Ấn-Trung, thuộc vùng Đông Nam Á lục địa. Trong phạm vi của bán đảo Đơng
Dương, Việt Nam nằm ở phía đơng dãy Trường Sơn, như một bao lơn nhìn ra
biển; Lào nằm ở sườn tây dãy Trường Sơn, lọt sâu vào vùng đất liền của bán đảo.
Như vậy, dãy Trường Sơn có thể ví như cột sống của hai nước, tạo thành biên
giới tự nhiên trên đất liền giữa Việt Nam và Lào. Với địa hình tự nhiên này, về
đường bộ cả Việt Nam và Lào đều theo trục Bắc-Nam. Còn về đường biển, con
đường gần nhất để Lào có thể thơng thương ra biển đó là từ Sầm Nưa thuộc tỉnh
Hủa Phăn (Lào) qua Thanh Hoá; Xiêng khoảng (Lào) qua Nghệ An; Khăm Muộn
(Lào) qua Hà Tĩnh; Savẳnnakhệt (Lào) qua Quảng Trị và Khăm Muộn (Lào) qua
Quảng Bình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Bình Dương và Ấn Độ Dương cho nên chiếm vị trí địa- chiến lược quan trọng ở
vùng Đơng Nam Á.


<b>Về quốc phịng: bờ biển Việt Nam tương đối dài, nên việc bố trí chiến</b>
lược gặp khơng ít khó khăn. Trong khi đó, dãy Trường Sơn, biên giới tự nhiên
giữa Việt Nam và Lào được ví như bức tường thành hiểm yếu, để hai nước tựa
lưng vào nhau, phối hợp giúp đỡ lẫn nhau tạo ra thế chiến lược khống chế những
địa bàn then chốt về kinh tế và quốc phòng, trở thành điểm tựa vững chắc cho
Việt Nam và Lào trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.


Về các nhân tố dân cư, xã hội: Việt Nam và Lào đều là những quốc gia đa


dân tộc, đa ngôn ngữ. Hiện tượng một tộc người sống xuyên biên giới quốc gia
của hai nước, hoặc nhiều nước là đặc điểm tự nhiên của sự phân bố tộc người ở
khu vực Đông Nam Á nói chung, ở Việt Nam và Lào nói riêng. Đặc điểm này,
đến nay vẫn tiếp tục chi phối mạnh mẽ các mối quan hệ khác trên đường biên
giới quốc gia Việt Nam-Lào. Chính q trình cộng cư, hoặc sinh sống xen cài của
những cư dân Việt Nam và cư dân Lào trên địa bàn biên giới của hai nước đã dẫn
đến việc cùng khai thác và chia sẻ nguồn lợi tự nhiên, đặc biệt là nguồn lợi sinh
thuỷ. Điều này, thêm một lần nữa khẳng định các quan hệ cội nguồn và quan hệ
tiếp xúc chính là những điều kiện lịch sử và xã hội đầu tiên, tạo ra những mối dây
liên hệ và sự giao thoa văn hoá nhiều tầng nấc giữa cư dân hai nước. Một trong
những minh chứng cho nhận định trên đó chính là hai câu chuyện huyền thoại
của hai dân tộc đều xoay quanh mơtíp quả bầu mẹ, đó là: người Lào, thơng qua
câu chuyện huyền thoại đã cho rằng các nhóm dân cư: Lào, Thái, Khơmú, Việt
đều có chung nguồn gốc. Đặc biệt, trong câu chuyện này, Khún Bulơm đã dặn dị
với các con cháu của Người: “Các con phải luôn ln giữ tình thân ái với
<i><b>nhau, khơng bao giờ được chia rẽ nhau. Các con phải làm cho mọi người noi</b></i>
<i><b>gương các con và coi nhau như anh em một nhà, người giàu phải giúp đỡ kẻ</b></i>
<i><b>nghèo, người mạnh giúp kẻ yếu. Các con phải bàn bạc kỹ trước khi hành động</b></i>
<i><b>và đừng bao giờ gây hấn xâm lăng lẫn nhau”. Cịn ở miền tây Quảng Bình và</b></i>
Quảng Trị của Việt Nam, người B’ru cũng giải thích nguồn cội của các dân tộc
Tà Ôi, Ê đê, Xơ đăng, Bana, Khùa, Sách, Mông, Dao, Tày, Khơme, Lào, Thái,
Việt...cũng từ quả bầu mẹ. Hình tượng quả bầu mẹ đã trở thành biểu tượng cao
đẹp, lý giải nguồn gốc và tình đồn kết keo sơn giữa các dân tộc hai bên dãy
Trường Sơn. Chính vì vậy, đến nay, các dân tộc anh em sống ở khu vực biên giới
hai nước vẫn còn nuôi dưỡng niềm tự hào và truyền mãi cho nhau những câu
chuyện về đạo lý làm người vô cùng sâu sắc mà người xưa để lại.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

chí” (1) <sub>của Nguyễn Trãi đã mô tả khá ấn tượng về nền văn hoá độc đáo và phong</sub>


tục thuần phác của dân tộc Lào, cũng như hiện tượng giao thoa văn hoá nở rộ


giữa Đại Việt với các nước láng giềng Đơng Nam Á, trong đó có Lào Lạn Xạng.


Sự giao thương của người dân Lào với người dân Việt nhất là với người
dân các tỉnh biên giới của Việt Nam cũng khá nhộn nhịp. Người dân Việt Nam
bày tỏ mối thiện cảm với một số mặt hàng có chất lượng cao của Lào như: vải
dệt, chiêng...Chính vì vậy, mà hiện nay, nhiều dân tộc ít người ở Tây Nguyên của
nước ta vẫn còn giữ được những chiếc chiêng Lào nổi tiếng. Đúng như nhà bác
học Lê Quý Đôn nhận xét: "Thật là một nước đã giàu lại khéo”.(2)<sub> Điều đáng chú</sub>


ý là trong quan hệ giao thương với Đại Việt, Lào Lạn Xạng đã khơng ít lần bộc lộ
mối quan tâm của mình muốn hướng ra biển, trong khi Đại Việt lại tìm cơ hội để
mở rộng bn bán vào sâu lục địa.


Có thể khẳng định rằng, sự hài hồ giữa tình cảm nhân ái và tinh thần cộng
đồng là một nét đặc sắc của triết lý nhân sinh ngươì Việt cũng như người Lào.
Chính trong cuộc sống chan hoà này, nhân dân Việt Nam và nhân dân Lào đã
ngày càng hiểu nhau hơn và bày tỏ những tình cảm rất đỗi chân thành với nhau.
Ngạn ngữ Lào có câu: “Nói hợp lịng thì xin ăn cho cũng chả tiếc, nói trái ý thì
<i>dẫu xin mua cũng chẳng bán” (Vầu thực khọ, khỏ kin cò bò thi (bò khỉ thi), vầu</i>
bò thực khọ khỏ xừ cò bò khải). Đó cũng là những tình cảm bình dị nhưng chân
thành mà người dân nước Việt dành cho người bạn láng giềng của mình, cịn
được lưu lại trong thư tịch cổ: “người Lào thuần hậu chất phác”<i>(3)</i><sub> trong giao</sub>


dịch bn bán thì “họ vui lịng đổi chác”(4)


Mặc dầu Việt Nam và Lào có tiếng nói, văn tự khơng giống nhau, sáng tạo
và lựa chọn các nền văn hóa cũng như các hình thức tổ chức chính trị -xã hội
khác nhau, nhưng những nét tương đồng thì vẫn thấy phổ biến trong muôn mặt
đời sống hàng ngày của cư dân Việt Nam và Lào. Các nền văn hóa nghệ thuật
truyền thống của Việt Nam và Lào dễ dàng tìm thấy: sự đồng cảm lẫn nhau, chia


sẻ các giá trị cộng đồng, coi trọng luật tục, tơn kính người già… Sự tương đồng
giữa văn hóa làng – nước của người Việt và văn hóa bản - mường của người Lào
xuất phát từ cội nguồn cùng nền văn minh nông nghiệp lúa nước ở Đơng Nam Á.
Đồng thời, lịng nhân ái bao la và đời sống tâm linh phong phú, trong đó có
những ảnh hưởng sâu đậm của đạo Phật mà trong cách đối nhân xử thế của mình,
nhân dân Việt Nam và nhân dân Lào bao giờ cũng nêu cao những phẩm chất yêu
thương và hướng thiện.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

cứ chống giặc ngoại xâm, mở ra mối quan hệ đầu tiên Việt Nam-Lào, Lào-Việt
-Nam. Cịn hai bộ chính sử khác là “Đại Việt sử ký toàn thư”, “Khâm định Việt
sử thơng giám cương mục” thì sự kiện quan hệ ngoại giao, thông hiếu đầu tiên
giữa các nước Đại Việt và Lào là vào năm 1067(5)<sub>. Tiếp đến vào giữa thế kỷ XIV</sub>


(năm 1353) những quy ước hồ bình đầu tiên về biên giới quốc gia đã được xác
lập giữa Đại Việt và Lạn Xạng khi Chạu Phạ Ngừng lần lượt chinh phục các
mường Lào, lập nên vương quốc Lạn Xạng thống nhất đầu tiên của người Lào.
Ngoài ra, trong suốt quá trình của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1418-1427), nghĩa
quân Lê Lợi cũng luôn nhận được sự tiếp sức của các tộc trưởng và nhân dân Lào
ở vùng biên giới.


Điều đáng nói, là trong khoảng thời gian từ thế kỷ XIV đến XV, hai nước
Đại Việt- Lạn Xạng, Lạn Xạng-Đại Việt mặc dù khơng phải khơng có những thời
khắc gặp nguy nan nhưng với tinh thần lấy hoà hiếu làm trọng nên đã sáng suốt
và cơng bằng, có ý thức đề cao không thù hận, đồng thời biết chủ động vun đắp
tình thân ái và hữu nghị lâu dài giữa hai dân tộc.


Đến thế kỷ XVII là thời kỳ tồn thịnh của Lạn Xạng dưới Vương triều
Xulinhavơngsả (1637-1694), nhà vua Lào đích thân cầu hơn cơng chúa Vua Lê
Duy Kỳ. Tuy nhiên, đây cũng là lúc chế độ phong kiến Việt Nam bước vào giai
đoạn khủng hoảng nên quan hệ giữa hai vương triều hậu Lê và Lạn Xạng không


phát triển được nhiều. Cuối thế kỷ XVII, nội bộ hoàng tộc Lào rối ren. Tuy nhiên
bất chấp hoàn cảnh bất lợi của chế độ phong kiến ở Đại Việt và Lạn Xạng, quan
hệ nương tựa vào nhau giữa nhân dân hai nước vẫn tiếp tục được ni dưỡng.
Chính vì vậy, nửa cuối thế kỷ XVIII, khu vực Mương Phuôn (Xiêng Khoảng) đã
trở thành một căn cứ đề kháng quan trọng của nghĩa quân Tây Sơn chống lại thế
lực Nguyễn Ánh. Thế kỷ XIX, quan hệ Việt Nam-Lào, Lào -Việt Nam đã có
bước trưởng thành sâu hơn, nhất là về phương diện nhận thức chủ quyền quốc
gia, quan điểm bạn thù cũng như phương cách xây dựng đồng minh giữa nhân
dân hai nước. Đó là những yếu tố lịch sử.


Cùng với các điều kiện tự nhiên, dân cư, xã hội, văn hoá và lịch sử và
<b>sự tự nguyện phối hợp của nhân dân hai nước Việt Nam và Lào trong chống</b>
<b>ngoại xâm nhất là trong </b>cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
xâm lược càng khẳng định mối quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

năm và cũng phải ngoan cường chống xâm lược để khẳng định sự tồn tại của
mình với tư cách một dân tộc, một quốc gia độc lập.


Từ đầu thế kỷ 20, không cam chịu ách nô lệ, nhân dân hai nước Lào-Việt
Nam đã đoàn kết, cùng nhau đấu tranh chống Pháp. Như vậy, trước 1930, hai dân
tộc Lào-Việt đã đoàn kết cùng chiến đấu chống kẻ thù chung, nhưng lúc đó chỉ
dừng lại ở tính chất tự phát do hạn chế về trình độ nhận thức và điều kiện lịch sử.
Từ khi có chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường, đặc biệt là
từ khi Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập,
trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng của hai dân tộc Lào-Việt Nam tình
đồn kết đó đã được phát triển mạnh mẽ và liên tục. Chính truyền thống yêu
nước vẻ vang là cơ sở vững chắc cho sự đoàn kết giữa hai dân tộc.


<i> Tình cảm gắn bó keo sơn giữa hai dân tộc Việt Nam - Lào trong những</i>
<b>năm tháng chiến tranh mà biểu hiện của nó là nhân dân Lào cùng Việt kiều đấu</b>


tranh chống chế độ thuộc địa, phối hợp và ủng hộ cách mạng Việt Nam giai đoạn
(1930-1939), tiếp đến giúp nhau tiến hành cuộc vận động khởi nghĩa vũ trang
giành chính quyền thắng lợi (1939 - 1945) và liên minh Việt-Lào, Lào-Việt Nam
chiến đấu chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược (1945 – 1975). Sau
năm 1975, quan hệ Việt Nam và Lào bước sang một trang hoàn toàn mới: từ liên
minh chiến đấu chung một chiến hào sang hợp tác toàn diện giữa hai quốc gia có
độc lập chủ quyền. Tình cảm gắn bó keo sơn giữa hai dân tộc Việt Nam - Lào
được biểu hiện sâu nặng trong sự nghiệp xây dựng đất nước.


<b>Chủ tịch Hồ Chí Minh-Người đặt nền móng vững chắc cho quan hệ</b>
<b>đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào -Việt Nam.</b>


<b> Trong những thập kỷ đầu thế kỷ XX, chính Nguyễn Ái Quốc (Chủ</b>
tịch Hồ Chí Minh), với lịng u nước nồng nàn và nghị lực phi thường, vượt lên
mọi khó khăn, gian khổ, đã tự mình khám phá thế giới tư bản chủ nghĩa và các
dân tộc thuộc địa, nhằm phát hiện chân lý cứu nước. Người tiếp nhận và vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của Đơng Dương để
xác định con đường giải phóng các dân tộc Việt Nam, Lào, Campuchia theo con
đường cách mạng vô sản. Trong quá trình tìm đường cứu nước của mình,
Nguyễn Ái Quốc rất quan tâm đến tình hình Lào. Người khơng chỉ lên án chế độ
thực dân Pháp nói chung mà cịn tố cáo cụ thể sự tàn bạo của thực dân Pháp ở
Lào (6)<sub>. Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên - một trong những tổ chức tiền thân</sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Nam vừa tham gia cuộc vận động cứu nước tại Lào, vừa sát cánh cùng nhân dân
Lào xây dựng mối quan hệ đồn kết khăng khít giữa Việt Nam – Lào, Lào – Việt
Nam. Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã lập Hội Ái hữu, Hội Việt kiều
yêu nước, mở các lớp huấn luyện cách mạng trên đất Lào. Trên thực tế, từ nửa
sau những năm 20 thế kỷ XX, Lào là một đầu cầu trực tiếp truyền bá chủ nghĩa
Mác – Lênin và tư tưởng cứu nước mới của Nguyễn Ái Quốc vào Đơng Dương.
Năm 1928, đích thân Người bí mật tổ chức khảo sát thực địa tại Lào (7) <sub>càng cho</sub>



thấy mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng Lào.
Cũng trong năm này, chi bộ Thanh niên cộng sản đầu tiên được thành lập tại
Viêng Chăn, đồng thời đường dây liên lạc giữa nhiều thị trấn ở Lào với Việt Nam
được tổ chức.


Như vậy, Lào trở thành địa bàn đầu tiên trên hành trình trở về Đông
Dương của Nguyễn Ái Quốc, nơi bổ sung những cơ sở thực tiễn mới cho cơng
tác chính trị, tư tưởng và tổ chức của Người về phong trào giải phóng dân tộc ở
ba nước Đơng Dương. Q trình Nguyễn Ái quốc đặt nền móng cho quan hệ đặc
biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam báo hiệu bước ngoặt lịch sử trọng đại sắp
tới của cách mạng Việt Nam cũng như cách mạng Lào.


Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đặt nền móng và chính Người cùng đồng
chí Kayxỏn Phơmvihản, đồng chí Xuphanuvơng và các thế hệ lãnh đạo hai Đảng,
hai Nhà nước, nhân dân hai nước dày công vun đắp, dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Đông Dương, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào và Đảng Cộng sản Việt
Nam.


<b>Tóm lại: Nhân tố hình thành, quyết định mối quan hệ hữu nghị đặc biệt này là:</b>


-<b> Hai nước cùng tựa lưng vào dãy Trường Sơn hùng vĩ:</b> Việt Nam và Lào có
vị trí địa – chiến lược quan trọng ở vùng Đông Nam Á do nằm kề con đường giao
thương hàng hải hàng đầu thế giới, nối liền Đơng Bắc Á, Nam Á qua Tây Thái
Bình Dương và Ấn Độ Dương, nơi có nguồn trữ lượng dầu khí và tiềm năng tài
ngun khống sản khá dồi dào, một tiêu điểm của sự tranh giành lợi ích và ảnh
hưởng giữa các nước lớn và các trung tâm quyền lực quốc tế.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

của cả hai nước, có thể trở thành điểm tựa vững chắc cho Việt Nam và Lào trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.



Do điều kiện tự nhiên và sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam và
Lào có nhiều điểm tương đồng, lại vừa có những nét khác biệt, trong hồn cảnh
tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày nay, hai nước hồn tồn có thể bổ sung
cho nhau bằng tiềm năng, thế mạnh của mỗi nước về vị trí địa lý, tài nguyên,
nguồn nhân lực, thị trường cũng như sự phân vùng kinh tế và phân công lao động
hợp lý để hợp tác cùng phát triển.


-<b> Nhân dân hai nước giàu lòng nhân ái, bao dung</b> <b>và văn hóa của hai dân tộc</b>
<b>có nhiều nét tương đồng</b>: Việt Nam và Lào đều là những quốc gia đa dân tộc, có
lịch sử phát triển lâu đời trên bán đảo Đơng Dương. Q trình cộng cư, hoặc sinh
sống xen cài của những cư dân Việt Nam và cư dân Lào trên địa bàn biên giới
của hai nước đã phản ánh sinh động, liên tục mối quan hệ cội nguồn và quan hệ
tiếp xúc từ xa xưa của nhân dân hai nước. Huyền thoại khởi nguyên về quả bầu
mẹ đã trở thành biểu tượng cao đẹp về nguồn gốc chung và tình đồn kết keo sơn
giữa các dân tộc hai bên dãy Trường Sơn. Cho đến nay, các dân tộc anh em sống
ở khu vực biên giới hai nước vẫn cịn ni dưỡng niềm tự hào và truyền mãi cho
nhau những câu chuyện về đạo lý làm người vô cùng sâu sắc mà ông bà xưa để
lại.


Sự hài hòa giữa lòng nhân ái và tinh thần cộng đồng là một nét đặc sắc
trong triết lý nhân sinh người Việt Nam cũng như người Lào. Ngạn ngữ Lào có
câu: “Nói hợp lịng thì xin ăn cho cũng chả tiếc, nói trái ý thì dẫu xin mua cũng
<i>chẳng bán” (Vầu thực khọ, khỏ kin cò bò thi (bò khỉ thi), vầu bò thực khọ khỏ xừ</i>
<i>cò bò khải). Đó cũng là những tình cảm bình dị nhưng chân thành mà người dân</i>
nước Việt dành cho người bạn láng giềng của mình, cịn được lưu lại trong thư
tịch cổ: “người Lào thuần hậu chất phác”, trong giao dịch buôn bán thì “họ vui
<i>lịng đổi chác”.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Sự tương đồng giữa văn hóa làng – nước của người Việt và văn hóa bản


<i>-mương của người Lào bắt nguồn từ chính nền tảng chung của văn minh nơng</i>
nghiệp lúa nước ở Đơng Nam Á. Nhờ lịng nhân ái bao la và đời sống tâm linh
phong phú, trong đó có những ảnh hưởng sâu đậm của đạo Phật mà trong cách
đối nhân xử thế của mình, nhân dân Việt Nam và nhân dân Lào bao giờ cũng nêu
cao những phẩm chất yêu thương và hướng thiện.


-<b> Nhân dân hai nước có truyền thống bang giao hịa hiếu, cưu mang đùm bọc</b>
<b>lẫn nhau từ lâu đời, cuối thế kỷ XIX cùng bị thực dân Pháp xâm lược và đặt</b>
<b>ách cai trị tàn bạo</b>: Trong thời kỳ phong kiến, đặc điểm nổi bật về quan hệ giữa
nhân dân hai nước và mối bang giao giữa các triều đại là thân thiện, hữu hảo.
Giữa hai dân tộc khơng có sự áp bức và nơ dịch nhau, khơng có hiềm khích và
thù hằn nhau; mặt khác, nhân dân hai nước lại có cả ngàn năm giúp đỡ, che chở
lẫn nhau, là láng giềng chí cốt của nhau.


Cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp tiến hành xâm lược và đặt ách đô hộ lên
Việt Nam (1883), Campuchia (1863) và Lào (1893). Việc thực dân Pháp sáp
nhập cưỡng bức ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia vốn có nền văn hóa, ngơn
ngữ, tơn giáo, phong tục tập quán khác nhau thành một thực thể “Đơng Dương
thuộc Pháp”, chẳng những hủy bỏ tính chất quốc gia của mỗi nước, mà cịn biến
Đơng Dương trở thành một địa bàn chia rẽ sâu sắc giữa các dân tộc. Một mặt,
thực dân Pháp tìm mọi cách thực hiện âm mưu “chia để trị” trong nội bộ từng
nước và giữa ba nước Đông Dương với nhau; gây thù hằn và chống đối giữa Việt
Nam với Lào, Lào với Việt Nam, hịng xun tạc và phá hoại tình hữu nghị
truyền thống Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam. Mặt khác, về khách quan, Đông
Dương biến đổi thành một đơn vị hồn tồn mới, có những mối ràng buộc chặt
chẽ về chính trị, quân sự, kinh tế, xã hội, văn hóa,…và vì thế, phong trào đấu
tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, Lào, Campuchia nhất định có
tác động, ảnh hưởng mật thiết lẫn nhau.


Do có cùng một kẻ thù và chung một cảnh ngộ bị xâm lược và áp bức, phát


huy truyền thống đoàn kết hữu nghị sẵn có, nhân dân ba nước Việt Nam, Lào,
Campuchia dễ dàng đồng cảm, liên kết tự nhiên với nhau và tự nguyện phối hợp
với nhau trong một vận mệnh chung đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược,
giành độc lập, tự do.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

phong trào trong số đó nhận được sự ủng hộ giúp đỡ của nhân dân Lào tại vùng
sát biên giới Lào – Việt, chạy dài từ Hạ Lào, Trung Lào lên Thượng Lào. Đặc
biệt, trong những năm đầu thế kỷ XX, cuộc khởi nghĩa Hạ Lào do Ơng Kẹo và
Ơng Cơmmađăm lãnh đạo (1901- 1937) phối hợp với nghĩa quân dân tộc Xơđăng
ở Tây Nguyên (Việt Nam); phong trào chống Pháp của người Mông ở Tây Bắc
Việt Nam do Chạu Phạpắtchây lãnh đạo (1918 - 1922) lan rộng trên địa bàn
nhiều tỉnh biên giới hai nước thuộc Thượng Lào và Tây Bắc Việt Nam, gây cho
quân Pháp nhiều thiệt hại.


Tuy các phong trào trên đều bị chính quyền thực dân đàn áp, dập tắt, song
mối quan hệ giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân Lào trong những năm đầu
chống sự xâm lược và ách áp bức, bóc lột của thực dân Pháp cho thấy nhận thức
của hai dân tộc về xây dựng khối đoàn kết đấu tranh trở nên một nhu cầu tất yếu
khách quan. Việc xác định con đường cứu nước đúng đắn và xây dựng mối quan
hệ đoàn kết giữa các dân tộc trên bán đảo Đông Dương là những nhiệm vụ cấp
bách đặt ra cho các nhà lãnh đạo phong trào yêu nước và cách mạng tại xứ này.
-<b> Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm xác định con đường giải phóng dân tộc Việt</b>
<b>Nam và dân tộc Lào </b>: Trong những thập kỷ đầu thế kỷ XX, chính Nguyễn Ái
Quốc (tức Chủ tịch Hồ Chí Minh sau này), với lòng yêu nước nồng nàn và nghị
lực phi thường, vượt lên mọi khó khăn, gian khổ, đã tự mình khám phá thế giới
tư bản chủ nghĩa và các dân tộc thuộc địa, nhằm phát hiện chân lý cứu nước.
Người tiếp nhận và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ
thể của Đông Dương để xác định con đường giải phóng các dân tộc Việt Nam,
Lào, Campuchia theo quỹ đạo cách mạng vô sản.



</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

tưởng cứu nước mới của Nguyễn Ái Quốc vào Đơng Dương. Năm 1928, đích
thân Người bí mật tổ chức khảo sát thực địa tại Lào càng cho thấy mối quan hệ
gắn bó mật thiết giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng Lào. Cũng trong năm
này, chi bộ Thanh niên cộng sản đầu tiên được thành lập tại Viêng Chăn, đồng
thời đường dây liên lạc giữa nhiều thị trấn ở Lào với Việt Nam được tổ chức.


Như vậy, Lào trở thành địa bàn đầu tiên trên hành trình trở về Đơng
<i>Dương của Nguyễn Ái Quốc, nơi bổ sung những cơ sở thực tiễn mới cho công tác</i>
chính trị, tư tưởng và tổ chức của Người về phong trào giải phóng dân tộc ở ba
nước Đơng Dương. Q trình Nguyễn Ái quốc đặt nền móng cho quan hệ đặc
biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam báo hiệu bước ngoặt lịch sử trọng đại sắp
tới của cách mạng Việt Nam cũng như cách mạng Lào.


Thực tiễn đã khẳng định rằng, trong quan hệ quốc tế ít có nơi nào và lúc
nào cũng có được mối quan hệ đặc biệt, đoàn kết, hợp tác bền vững lâu dài, trong
sáng như mối quan hệ Việt - Lào.


Trong bối cảnh tồn cầu hóa hiện nay, quan hệ hữu nghị truyền thống đặc
biệt giữa Việt Nam – Lào, Lào - Việt Nam cùng với những cơ hội vẫn cịn khơng
ít thách thức, nhất là các thế lực thù địch tìm mọi cách xun tạc, bóp méo lịch
sử, chia rẽ tình hữu nghị đặc biệt Việt Nam – Lào. Vì vậy, việc duy trì, củng cố
và tăng cường mối quan hệ đặc biệt trong sáng, thuỷ chung giữa hai Đảng, hai
Nhà nước và nhân dân hai nước Việt Nam – Lào là nhiệm vụ hết sức quan trọng
của Đảng, chính quyền và nhân dân hai nước Việt Nam-Lào, lào-Việt Nam.


______________________


(1) Xem Nguyễn Trãi:Toàn tập, bản dịch, in lần thứ hai, NXB Khoa học xã
hội, Hà Nội 1976.



(2)Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục, bản dịch, NXB khoa học xã hội, Hà nội
1964, q9 trang 156,155 (dẫn theo Lịch sử Quan hệ đựac biệt Việt Nam-Lào, Lào
Việt Nam. NXB CTQG Hà Nội 2011. Trang 10


(3) Hồ Chí Minh: Lời phát biểu tại Hội nghị cán bộ Liên minh nhân dân
<i>Việt - Miên - Lào lần thứ nhất tháng 9-1952. Tài liệu lưu tại Viện Lịch sử Đảng,</i>
Học viện Chính trị-Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.


(4) Kayxỏn Phơmvihản: Bài nói tại Hội nghị cán bộ toàn quốc ngày
13-5-1974. Tài liệu lưu tại Viện Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị-Hành chính quốc
gia Hồ Chí Minh..


(5)Lịch sử Quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào Việt Nam. NXB CTQG
Hà Nội 2011. Trang 13


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

(7). Tổng cục Chính trị, Đảng lãnh đạo quân tình nguyện và chuyên gia
<i>quân sự Việt Nam làm nhiệm vụ quốc tế, Nxb Quân đội nhân dân, H. 2008, tr.</i>
317-318.


(8) Lê Quý Đôn: <i>Phủ biên tạp lục</i> - Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977, tr.108.)




<b>---Chủ đề 2</b>



<b>TÌNH CẢM GẮN BĨ KEO SƠN </b>
<b>GIỮA HAI DÂN TỘC VIỆT NAM - LÀO </b>


<b>TRONG NHỮNG NĂM THÁNG CHIẾN TRANH TRƯỚC ĐÂY </b>
<b>CŨNG NHƯ TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG </b>



<b>ĐẤT NƯỚC HIỆN NAY</b>
<b></b>


---Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam phát triển từ quan hệ
truyền thống, do Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng nền móng và chính Người cùng
đồng chí Kayxỏn Phơmvihản, đồng chí Xuphanuvông và các thế hệ lãnh đạo hai
Đảng, hai Nhà nước, nhân dân hai nước dày công vun đắp; đặt dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Đông Dương, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào và Đảng Cộng
sản Việt Nam. Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam trải qua nhiều
thử thách khắc nghiệt, đầy hy sinh, gian khổ vì độc lập, tự do, hạnh phúc của hai
dân tộc và nhân dân hai nước, đã trở thành quy luật sống còn và sức mạnh kỳ
<i>diệu đưa tới nhiều thắng lợi vĩ đại của Việt Nam và Lào trong đấu tranh giải</i>
phóng dân tộc, trong xây dựng và bảo vệ đất nước, cùng phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Đối với nhân dân hai nước Việt Nam, Lào, quan hệ đặc
biệt được coi là lẽ sống, là tình nghĩa ruột thịt thân thiết, trước sau như một, dù
gian nan nguy hiểm đến chừng nào cũng không thể chia tách được.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

-Lào trong những năm tháng chiến tranh trước đây cũng như trong sự nghiệp xây
dựng đất nước hiện nay.


<i>Thứ nhất: </i><b>Hai dân tộc sát cánh bên nhau, vượt qua mọi gian khổ, hy</b>
<b>sinh, địan kết gắn bó đánh giặc ngoại xâm. </b>


Dân tộc Việt Nam kể từ khi Nhà nước Văn Lang thành lập đã trải qua mấy
ngàn năm lịch sử và liên tục bị chế độ phong kiến phương Bắc xâm lược, thống
trị và do đó đã phải khơng ngừng chiến đấu giành và bảo vệ độc lập dân tộc.
Nước Lào cũng trải qua lịch sử hàng nghìn năm và cũng phải ngoan cường chống
xâm lược để khẳng định sự tồn tại của mình với tư cách một dân tộc, một quốc
gia độc lập.



Từ đầu thế kỷ 20, không cam chịu ách nô lệ, nhân dân hai nước Lào-Việt
Nam đã đoàn kết, cùng nhau đấu tranh chống Pháp. Trong đó, có phong trào
chống Pháp ở Áttapư do Khi Volảlạt lãnh đạo (1900-1901), phong trào
Phùmibun ở Trung Lào của Phò Càduột (1901-1902) và cuộc khởi nghĩa Hạ Lào
do ông Kẹo, ông Côm mađăm lãnh đạo (1901-1937) đã có sự liên kết với các
cuộc nổi dậy chống Pháp của bộ tộc Xơ đăng ở KonTum (Việt Nam). Đặc biệt,
năm 1918, phong trào chống Pháp của người Mông ở Tây Bắc Việt Nam do
Chạu Phạpắt chây lãnh đạo lan rộng trên địa bàn nhiều tỉnh Bắc Lào và Tây Bắc
Việt Nam, kéo dài đến tận năm 1922 gây cho Pháp nhiêù thiệt hại.


Như vậy, trước 1930, đã xuất hiện đoàn kết Lào-Việt cùng chiến đấu
chống kẻ thù chung nhưng lúc đó chỉ dừng lại ở tính chất tự phát do hạn chế về
trình độ nhận thức và điều kiện lịch sử. Từ khi được chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh soi đường, đặc biệt là từ khi Đảng Cộng sản Đơng Dương ra
đời do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh giải
phóng của hai dân tộc Lào-Việt Nam, tình đồn kết đó đã được phát triển mạnh
mẽ và liên tục.


<i> Nhân dân Lào cùng Việt kiều đấu tranh chống chế độ thuộc địa, phối hợp</i>
<i>và ủng hộ cách mạng Việt Nam giai đoạn (1930-1939). </i>


Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (3-2-1930) đã mở đầu trang sử vẻ
vang của quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Trong thời gian trên, Tỉnh uỷ Quảng Trị đã bắt mối xây dựng một số chi bộ
Đảng trong Việt kiều ở địa bàn Trung Lào. Sự ra đời của các chi bộ này, thể hiện
sự phát triển của phong trào đấu tranh của công nhân và nhân dân lao động Lào
cũng như vai trò rất lớn của Việt kiều. Dưới sự lãnh đạo của các chi bộ Đảng, sự
vận động của các đoàn thể quần chúng, những hoạt động chống Pháp có tính chất


lẻ tẻ trong phạm vi bộ tộc, bộ lạc, mang tính chất địa phương và tự phát ở Lào
dần chuyển lên mang tính tổ chức, hồ nhịp với phong trào đấu tranh của ba nước
Đông Dương. Những hoạt động yêu nước và cách mạng ở Việt Nam và Lào có
sự phối hợp và ngày càng gắn kết chặt chẽ bổ sung, hỗ trợ nhau.


<i>Nhân dân hai nước Việt Nam-Lào giúp nhau tiến hành cuộc vận động khởi</i>
<i>nghĩa vũ trang giành chính quyền thắng lợi(1939 - 1945).</i>


<i>Liên quân Việt - Lào trước giờ xuất trận năm 1946.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

đều chịu chung một ách thống trị của phát xít Pháp-Nhật cho nên phải đồn kết
lại đánh đuổi kẻ thù chung.


Cuối năm 1944 đầu năm 1945, tình hình thế giới và Đơng Dương có nhiều
biến đổi, đe doạ trực tiếp quyền lực và lợi ích của phát xít Nhật ở Đơng Dương.
Trước tình hình đó, hai dân tộc Việt Nam - Lào đã phối hợp đấu tranh chống
phát-xít Nhật tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi, thành lập chính phủ độc
lập ở mỗi nước. Sự ra đời của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hồ
(ngày 2-9-1945), Chính phủ Lào Ítxalạ (Lào tự do) (ngày 12-10-1945) là một
trong những cơ sở đưa tình đồn kết, giúp đỡ nhau lên tầm liên minh chiến đấu


<i>Liên quân Việt - Lào phối hợp chiến đấu tại Lao Bảo</i>
<i> (Quảng Trị) năm 1946.</i>


để hai bên xây dựng mối quan hệ hữu hảo và vững chãi hơn trước là một bước
ngoặt đưa tình đồn kết, giúp đỡ nhau lên tầm liên minh chiến đấu.


<i>Liên minh Việt Nam-Lào , Lào-Việt Nam chiến đấu chống thực dân Pháp</i>
<i>và đế quốc Mỹ xâm lược </i>



<i> Sau khi giành lại được chính quyền, Chính phủ hai nước đã ký Hiệp ước</i>
<i>tương trợ Lào – Việt (1<b>[1]</b>)</i><sub> và Hiệp định về tổ chức Liên quân Lào - Việt </sub><i>(2<b>[2]</b>)</i><sub>, đặt</sub>
11 Đảng cộng sản Việt Nam: <i>Văn kiện Đảng toàn tập</i>. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1998,
t.7, tr.424.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

cơ sở pháp lý đầu tiên cho sự hợp tác giúp đỡ và liên minh chiến đấu chống kẻ
thù chung của hai dân tộc Việt Nam - Lào.


Ngày 25-11-1945, trước nguy cơ tồn vong nền độc lập dân tộc của ba nước
Việt Nam - Lào - Campuchia, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông
Dương ra Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc để chỉ đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc
của ba nước Đơng Dương. Chỉ thị chủ trương: “Thống nhất mặt trận Việt – Miên
- Lào chống Pháp xâm lược”. Thực hiện chủ trương này, trong 3 năm
(1945-1948), liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào từng bước được hình thành, phát triển
và thu được nhiều kết quả, góp phần thúc đẩy quan hệ đồn kết chiến đấu Việt
Nam - Lào gắn bó mật thiết hơn. Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ sáu, (tháng
1- 1949) đã quyết định “mở rộng mặt trận Lào - Miên”, trong đó nhấn mạnh yêu
cầu mở rộng Mặt trận kháng chiến Lào và Campuchia, củng cố các lực lượng
Việt Nam làm nhiệm vụ quốc tế ở hai nước, tăng cường thêm cán bộ, xây dựng
và mở rộng các căn cứ ở Lào... Thực hiện chủ trương đó, Việt Nam đã cử nhiều
cán bộ phối hợp với lực lượng kháng chiến Lào mở lớp huấn luyện quân sự và
học tập chính trị. Lực lượng này, sau được tổ chức thành hệ thống riêng và lấy
tên là Quân tình nguyện.


Đại hội Quốc dân Lào (Mặt trận Lào kháng chiến) họp từ ngày 13 đến
ngày 15 - 8 - 1950, tại Tuyên Quang (Việt Nam) đã đề ra Cương lĩnh chính trị 12
điểm, trong đó nhấn mạnh u cầu tăng cường đoàn kết quốc tế, trước hết là với
Việt Nam và Campuchia, cùng nhau đánh đuổi kẻ thù chung là thực dân Pháp
xâm lược và can thiệp Mỹ, góp phần bảo vệ hịa bình thế giới.



</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

<i> Với việc ký kết Hiệp định Giơnevơ 1954, cách mạng hai nước Việt Nam,</i>
Lào bước vào thời kỳ mới: thời kỳ tập trung xây dựng lực lượng, đẩy mạnh đấu
tranh để giữ vững hịa bình và giành độc lập, thống nhất ở mỗi nước. Tuy nhiên,
đế quốc Mỹ vẫn nuôi tham vọng xâm lược, ra sức can thiệp vào miền Nam Việt
Nam và Lào, âm mưu biến nơi đây thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự, để
làm bàn đạp tiến công các nước xã hội chủ nghĩa. Trước sự chuyển biến mới của
cách mạng Lào, Đại hội thành lập Đảng Nhân dân Lào được tiến hành từ ngày 22
tháng 3 đến ngày 6 tháng 4 năm 1955 tại tỉnh Sầm Nưa. Đảng Nhân dân Lào ra
đời đã tạo cơ sở vững chắc để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cách
mạng Lào, đồng thời là nhân tố trọng yếu, có ý nghĩa quyết định thúc đẩy quan
hệ đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau giữa cách mạng hai nước Lào - Việt Nam. Đặc
biệt, sau Đại hội đại biểu lần thứ II của Neo Lào Hắc Xạt (Mặt trận Lào yêu
nước) đã mở ra triển vọng mới cho sự tăng cường hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau giữa
cách mạng hai nước Việt Nam – Lào.


Sau khi Đảng Nhân dân Lào được thành lập, các lực lượng yêu nước Lào
với sự phối hợp, hỗ trợ tích cực của các tổ cố vấn quân sự và dân chính Việt Nam
đã liên tiếp đánh bại các cuộc tiến công của các thế lực phái hữu trong chính
quyền và quân đội Viêng Chăn vào vùng căn cứ cách mạng, gây cho địch nhiều
thiệt hại. Đúng như khẳng định của Ban Chỉ đạo Đảng Nhân dân Lào:“ Sở dĩ
<i>cách mạng Lào đạt được những thắng lợi to lớn đó là do tinh thần đồn kết đấu</i>
<i>tranh anh dũng kiên cường của nhân dân, cán bộ, chiến sĩ Lào dưới sự lãnh đạo</i>
<i>của Đảng Nhân dân Lào, đồng thời cũng do sự đóng góp quan trọng của đồng</i>
<i>chí và Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã hết lịng theo dõi, giúp đỡ chúng</i>
<i>tơi trong mỗi giai đoạn của cách mạng” </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

<i>Đại tướng Võ Nguyên Giáp (người thứ 3 từ trái sang) và</i>
<i>Hoàng thân Souphanuovong (người thứ tư từ trái sang) cùng</i>


<i>các cán bộ quân đội</i>



<i> Việt - Lào bàn kế hoạch mở chiến dịch Thượng Lào năm 1953.</i>


<i>Bệnh viện Hồng Thập Tự của Việt Nam tại Xiêng Khoảng (Lào)</i>
<i> được xây dựng theo hiệp định ký kết giữa </i>


<i>Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Vương quốc Lào năm 1960.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

<i>Trường Sơn. Hai dân tộc chúng ta đã nương tựa vào nhau, giúp đỡ lẫn nhau như</i>
<i>anh em… Ngày nay chúng ta lại đang giúp đỡ nhau để xây dựng một cuộc sống</i>
<i>mới. Tình nghĩa láng giềng anh em Việt - Lào thật là thắm thiết không bao giờ</i>
<i>phai nhạt được”(3<b>[4]</b>)<sub>. </sub></i>


Mặc dù Hiệp định Giơnevơ năm 1962 về Lào được ký kết, đế quốc Mỹ
vẫn chưa từ bỏ âm mưu xâm lược Lào, tăng cường viện trợ, giúp chính quyền tay
sai thân Mỹ tiến cơng lấn chiếm vùng giải phóng, đồng thời ra sức phá hoại
Chính phủ liên hiệp, cơ lập và vu cáo Neo Lào Hắc Xạt. Từ cuối năm 1963, Việt
Nam cử chuyên gia quân sự sang làm nhiệm vụ quốc tế ở Lào và đến giữa năm
1964, thành lập hệ thống chuyên gia quân sự Việt Nam từ trên cơ quan Tổng tư
lệnh Lào xuống đến Bộ tư lệnh các quân khu, tỉnh đội và cấp tiểu đồn, có nhiệm
vụ phối hợp với bạn để nghiên cứu kế hoạch tác chiến, xây dựng lực lượng vũ
trang, xây dựng và củng cố các vùng căn cứ ở Lào. Đồng thời, các đơn vị quân
tình nguyện Việt Nam phối hợp với bộ đội Pathết Lào mở nhiều chiến dịch, chủ
yếu ở khu vực đường 9 – Trung Lào, Cánh đồng Chum – Xiêng Khoảng, đập tan
các cuộc tấn công lấn chiếm của địch, bảo vệ vững chắc vùng giải phóng Lào, tạo
điều kiện thuận lợi cho quân và dân Việt Nam vận chuyển trên đường Tây
Trường Sơn để chi viện cho chiến trường miền Nam Việt Nam và cách mạng hai
nước Lào, Campuchia.


Ngày 22-6-1965, Đảng Lao động Việt Nam đã thống nhất với Đảng Nhân


dân Lào về việc phối hợp và giúp đỡ lẫn nhau, trong đó tập trung giúp Lào xây
dựng vùng giải phóng về mọi mặt. Tiếp đó, ngày 3/ 7/ 1965, Bộ Chính trị Ban
Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam ra Nghị quyết khẳng định:
“Việt Nam cần phải nỗ lực đáp ứng đến mức cao nhất mọi yêu cầu đối với công
<i>cuộc phát triển cách mạng của Lào”4<b>[5]</b><sub>. Đầu năm 1968, bộ đội tình nguyện Việt</sub></i>


Nam phối hợp với Quân giải phóng Lào mở chiến dịch tiến cơng Nặm Bạc thắng
lợi, giải phóng hồn tồn khu vực Nặm Bạc – Khăm Đeng với trên một vạn dân,
nối liền vùng giải phóng Thượng Lào thành khu vực liên hồn, tạo thế vững chắc
cho hậu phương cách mạng Lào và hỗ trợ thiết thực cho cuộc kháng chiến của
nhân dân Việt Nam và Campuchia.


Những thắng lợi trên thể hiện nấc thang phát triển mới của lực lượng cách
mạng Lào, đồng thời khẳng định sức mạnh to lớn của quan hệ đoàn kết chiến đấu
giữa quân và dân hai nước Việt Nam – Lào, trong đó thể hiện tình cảm chân
thành nhất mực, sắt son của Việt Nam đối với sự nghiệp cách mạng Lào, như
đồng chí Cay xỏn Phơmvihản phát biểu trong cuộc hội đàm giữa Đảng Nhân dân
3


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

Lào và Đảng Lao động Việt Nam (12-1968) đã nhấn mạnh: “Sự giúp đỡ của Việt
<i>Nam cho cách mạng Lào hết sức tận tình và vơ tư. Việt Nam đã giúp Lào cả vật</i>
<i>chất và xương máu. Xương máu của nhân dân Việt Nam đã nhuộm đỏ khắp nơi</i>
<i>trên đất nước Lào vì nền độc lập của Lào…Sự giúp đỡ của Việt Nam đối với Lào</i>
<i>đã xây dựng nên mối quan hệ đặc biệt, thực tế đó cũng là sự vận dụng đúng đắn</i>
<i>chủ nghĩa Mác – Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản”5<b><sub>[6]. </sub></b></i>


Trước âm mưu và thủ đoạn chiến tranh mới của đế quốc Mỹ, Trung ương
Đảng Lao động Việt Nam và Trung ương Đảng Nhân dân Lào đã ra chỉ thị khẳng
định tăng cường đoàn kết giữa nhân dân hai nước, quyết tâm đánh bại đế quốc
Mỹ và bè lũ tay sai trong bất cứ tình huống nào. Với tinh thần đó, đến cuối năm


1972, cách mạng Lào đã giành được nhiều thắng lợi quan trọng và cùng với
những chiến thắng to lớn về nhiều mặt của quân tình nguyện Việt Nam và quân
giải phóng nhân dân Lào cuối năm 1972, đầu năm 1973 đã trực tiếp góp phần
quan trọng buộc chính phủ Viêng Chăn phải ký kết Hiệp định Viêng Chăn “lập
<i>lại hoà bình và thực hiện hịa hợp dân tộc ở Lào” (21-2-1973). </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

<i>Tư lệnh Đồng Sĩ Nguyên báo cáo Đại tướng Võ Nguyên Giáp kế</i>
<i>hoạch tác chiến chuẩn bị cho chiến dịch đường 9 Nam Lào, </i>


<i>năm 1971.</i>


Bước vào thời kỳ mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai Đảng Nhân
dân Lào đã quyết định đổi tên Đảng thành Đảng Nhân dân cách mạng Lào; Đại
hội đã suy tơn đồng chí Hồ Chí Minh là lãnh tụ của Đảng; thơng qua Nghị quyết:
<i>“Tăng cường đồn kết Lào – Việt”. Đặc biệt, đại hội khẳng định tình đoàn kết</i>
Lào – Việt trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và tinh thần quốc tế vô sản là mối
quan hệ đặc biệt. Đảng Lao động Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào
cũng đã thống nhất phương hướng hợp tác cần tập trung vào những vấn đề cơ
<i>bản nhất, những khâu then chốt nhất, tạo điều kiện cho Lào nhanh chóng đảm</i>
đương được cơng việc một cách độc lập, tự chủ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

Trước thắng lợi dồn dập, to lớn của nhân dân Việt Nam, Campuchia trong
tháng 4-1975, nhất là chiến thắng giải phóng hồn tồn miền Nam (30-4-1975)
của nhân dân Việt Nam, ngày 5-5-1975, Bộ Chính trị Trung ương Đảng nhân dân
cách mạng Lào tổ chức Hội nghị mở rộng, quyết định phát động toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân trong cả nước nổi dậy đoạt lấy chính quyền và giành thắng lợi
hồn tồn.


Tháng 12 năm 1975, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào ra đời. Đây là
thắng lợi to lớn, triệt để của nhân dân các bộ tộc Lào, đồng thời cũng là thắng lợi


quan trọng của mối quan hệ đặc biệt, liên minh đoàn kết chiến đấu, thủy chung,
son sắt giữa hai dân tộc Việt Nam – Lào.


<i>Thứ hai: Hợp tác và giúp đỡ nhau, vượt qua khó khăn cùng xây dựng</i>
<b>chủ nghĩa xã hội, hội nhập và phát triển.</b>


Sau năm 1975, quan hệ Việt Nam và Lào bước sang một trang mới. Đây là
thời kỳ Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào trở thành
Đảng cầm quyền ở mỗi nước; cả hai nước càng có điều kiện phát huy truyền
thống tốt đẹp đã từng gắn bó keo sơn trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù xâm
lược, xây dựng và tăng cường quan hệ liên minh, liên kết và hợp tác tồn diện về
chính trị, quốc phịng an ninh, kinh tế, văn hố, giáo dục… Tuy nhiên, vào thời
điểm này hai nước đều phải ra sức khắc phục hậu quả nặng nề của chiến tranh,
đặc biệt là hậu quả thống trị của chủ nghĩa thực dân mới. Trong khi đó, các thế
lực thù địch trong nước và bên ngồi câu kết, tìm cách chia rẽ Lào với Việt Nam,
Việt Nam với Lào gây khó khăn, trở ngại không nhỏ cho mối quan hệ giữa Việt
Nam và Lào.


Ngày 30-4-1976, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam ra
Nghị quyết Về tăng cường giúp đỡ và hợp tác với cách mạng Lào trong giai
<i>đoạn mới, xác định: việc tăng cường đoàn kết, giúp đỡ, hợp tác đối với Lào là</i>
một trong những nhiệm vụ quốc tế hàng đầu của Đảng và nhân dân Việt Nam. Từ
ngày 15 đến ngày 18-7-1977, Đoàn đại biểu cao cấp Đảng và Chính phủ Việt
Nam do Tổng Bí thư Lê Duẩn và Thủ tướng Phạm Văn Đồng dẫn đầu sang thăm
hữu nghị chính thức Lào. Hai bên đã trao đổi ý kiến về các vấn đề quốc tế quan
trọng mà hai bên cùng quan tâm, cũng như các vấn đề nhằm phát triển mối quan
hệ hữu nghị, hợp tác giữa Đảng, Chính phủ và nhân dân hai nước, trên cơ sở đáp
ứng nguyện vọng thiết tha và lợi ích sống cịn của hai dân tộc trong sự nghiệp
bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.



</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

<i>nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân</i>
<i>Lào; và ra Tuyên bố chung tăng cường sự tin cậy và hợp tác lâu dài giữa hai</i>
nước. Hiệp ước hữu nghị và hợp tác giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
<i>và Cộng hịa Dân chủ Nhân dân Lào là Hiệp ước tồn diện, mang tính chiến lược</i>
lâu dài, tạo cơ sở chính trị và pháp lý quan trọng để củng cố và tăng cường lâu
dài tình đồn kết, mối quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, mốc lịch sử quan trọng
đánh dấu bước ngoặt mới trong quan hệ giữa hai nước.


Ngày 3-7-1987, Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ thị:
“Trên cơ sở quán triệt đường lối đối ngoại của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI,
các Nghị quyết 10 và 11 của Bộ Chính trị về tăng cường đoàn kết, hợp tác toàn
diện với Lào và Campuchia và nội dung thỏa thuận trong các cuộc hội đàm lần
này6<sub>[7], các bộ ban ngành và các tỉnh trực tiếp làm nhiệm vụ hợp tác với bạn cần</sub>


kiểm điểm, rút kinh nghiệm, kiên quyết xử lý và có biện pháp chấm dứt các hiện
tượng tiêu cực, các quan điểm, nhận thức và hành động sai trái gây phương hại cho
quan hệ đặc biệt giữa ta với Lào”7<sub>[8]. Về phía Lào, Ban Bí thư Trung ương Đảng</sub>


Nhân dân cách mạng Lào cũng khẳng định: “Xuất phát từ truyền thống lịch sử và
tình hình, nhiệm vụ chiến lược của cách mạng ba nước, sự tăng cường liên minh
hợp tác toàn diện giữa ba Đảng, ba nước Lào – Việt Nam – Campuchia mới trở
thành nhiệm vụ chiến lược số một, là nguyên tắc cách mạng bất di bất dịch của
mỗi nước, là vấn đề sống còn của mỗi nước”8[9]<sub>. Đặc biệt, Chỉ thị của Ban Bí thư</sub>


Đảng Nhân dân cách mạng Lào ghi rõ: “hai bên nhất trí phải tăng cường giáo dục
cho cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu rõ quan hệ đồn kết sống cịn và lâu dài,
quán triệt quan điểm, phương châm nguyên tắc của mối quan hệ trong giai đoạn
cách mạng mới, uốn nắn tư tưởng và tác phong làm việc mới, tránh những bảo
thủ, chủ quan, chống mọi hiện tượng lơ là mất cảnh giác, thiếu trách nhiệm,
chống tư tưởng dân tộc hẹp hòi”9<sub>[10]. </sub>



Theo tinh thần đó, từ năm 1988, cuộc gặp hàng năm giữa hai Bộ Chính trị
đã trở thành một cơ chế hoạt động chính thức giữa hai Đảng và hai Nhà nước.
Trong đó có sự kiện có ý nghĩa quan trọng đánh dấu bước phát triển mới trong
quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam là chuyến thăm hữu nghị chính thức nước
Cộng hịa Dân chủ Nhân dân Lào của Đồn đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam do
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh dẫn đầu từ ngày 2 đến ngày 4 -7-1989. Đây là
chuyến thăm Lào chính thức đầu tiên của lãnh đạo cấp cao Đảng Cộng sản Việt
Nam từ sau Đại hội IV Đảng Nhân dân Cách mạng Lào. Hai bên thống nhất với
6


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

nhau nhiều vấn đề quan trọng trong việc đổi mới phương thức hợp tác giữa hai
nước và giải quyết các vấn đề quốc tế và khu vực. Thành tựu nổi bật nhất của
quan hệ hợp tác chính trị Việt Nam – Lào trong giai đoạn này là hai nước vẫn
<i>kiên định giữ vững định hướng chính trị theo con đường xã hội chủ nghĩa.</i>


Tháng 10 năm 1991, đồng chí Cayxỏn Phơmvihản, Tổng Bí thư Đảng
Nhân dân Cách mạng Lào và Đồn đại biểu cấp cao Đảng Nhân dân Cách mạng
Lào thăm chính thức Việt Nam. Hai bên khẳng định quyết tâm trước sau như một
là tăng cường, củng cố và nâng cao quan hệ đoàn kết đặc biệt Lào – Việt Nam,
Việt Nam – Lào, đẩy mạnh hợp tác kinh tế, định kỳ trao đổi cấp Thứ trưởng
Ngoại giao giữa hai nước nhằm phối hợp chặt chẽ các hoạt động ngoại giao trên
các diễn đàn quốc tế.


Từ đó đến nay, trung bình mỗi năm, hai Đảng cử trên 30 đoàn từ cấp
Trung ương đến cấp tỉnh sang trao đổi với nhau những kinh nghiệm về giữ vững
định hướng xã hội chủ nghĩa, về công tác tư tưởng, lý luận, công tác dân vận.
Quan hệ giữa các bộ, ban, ngành, đoàn thể, địa phương, nhất là các tỉnh biên giới
kết nghĩa đều có những trao đổi hợp tác và mối quan hệ đó ngày càng đi vào
chiều sâu với nội dung thiết thực và có hiệu quả. Đặc biệt, hai bên phối hợp


nghiên cứu, biên soạn cơng trình Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào –
<i>Việt Nam (1930 – 2007) nhằm tổng kết quá trình liên minh chiến đấu và hợp tác</i>
toàn diện Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam, đúc kết những bài học kinh nghiệm
phục vụ cho việc tiếp tục xây dựng và phát triển quan hệ đặc biệt Việt Nam –
Lào, Lào – Việt Nam lên một tầm cao mới.


Mối quan hệ đặc biệt Việt Nam -Lào, Lào -Việt Nam quý báu và thiêng
liêng đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đúc kết trong 4 câu thơ bất hủ:


<i>"Thương nhau mấy núi cũng trèo,</i>
<i>Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua.</i>


<i>Việt - Lào, hai nước chúng ta,</i>
<i>Tình sâu hơn nước Hồng Hà, Cửu Long".</i>


Chủ tịch Kayxỏn Phômvihản cũng đã khẳng định: "Trong lịch sử cách
<i>mạng thế giới, đã có nhiều tấm gương chói sáng về tinh thần quốc tế vơ sản,</i>
<i>nhưng chưa ở đâu và chưa bao giờ, có được sự đồn kết liên minh chiến đấu đặc</i>
<i>biệt, lâu dài và toàn diện như quan hệ Lào - Việt Nam"; "Núi có thể mịn, sơng có</i>
<i>thể cạn, song tình nghĩa Lào - Việt Nam mãi mãi vững bền hơn núi, hơn sông". </i>


Cùng với cả nước, mối quan hệ giữa tỉnh Quảng Trị với hai tỉnh Savẳn
nakhệt, Salavăn của nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào cũng khơng ngồi
truyền thống q báu đó.


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

tỉnh Quảng Trị, Savẳnnakhệt và Salavăn thường xuyên phối hợp tổ chức các cuộc
hội thảo quảng bá đầu tư, cải cách thủ tục hành chính tại cửa khẩu Quốc tế Lao
Bảo, Đensavẳn và cửa khẩu Quốc gia La Lay nhằm khuyến khích giao lưu phát
triển kinh tế, thương mại, du lịch và tạo điều kiện bà con 2 bên biên giới qua lại
thăm thân, trao đổi hàng hố, tham quan, du lịch... Quan hệ bn bán giữa các


doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế của Quảng Trị và các tỉnh biên giới của Lào
từng bước được xác lập và bước đầu đạt kết quả tốt. Các Công ty du lịch của 3
tỉnh Quảng Trị - Việt Nam, Savẳnnakhệt - Lào và Mụcđahản - Thái Lan đã có
các chương trình hợp tác đưa đón khách tham quan du lịch theo tour " Một ngày
ăn cơm 3 nước" ngày càng thu hút nhiều khác trong và ngoài nước. Các Sở, Ban,
ngành, đoàn thể, tổ chức xã hội, các lực lượng Công an, Quân sự, Bộ đội biên
phòng, Hải quan tỉnh Quảng Trị và tỉnh Savẳnnakhệt, tỉnh Salavăn định kỳ có các
cuộc gặp gỡ giao lưu, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau. Cơng an, Biên phịng các
huyện biên giới cũng thường xuyên phối hợp với nhau trong cơng tác nắm tình
hình, điều tra cơ bản bổ sung các tuyến điểm, địa bàn trọng điểm để hoàn chỉnh
kế hoạch đấu tranh phòng chống tội phạm. Nhờ vậy, đường biên, cột mốc giữa
các tỉnh luôn được bảo vệ nguyên trạng; tình hình an ninh chính trị, trật tự an
tồn xã hội trong khu vực biên giới của hai bên luôn được giữ vững.


Hiện nay, các thế lực thù địch đang thực hiện các âm mưu “diễn biến hịa
bình” với nhiều thủ đoạn nhằm phá hoại, chia rẽ tình đồn kết hữu nghị đặc biệt
Việt- Lào và cơng cuộc xây dựng CNXH ở mỗi nước. Hai Đảng, hai Nhà nước
Việt Nam- Lào tiếp tục khẳng định ý chí, quyết tâm tăng cường quan hệ hữu nghị
hợp tác toàn diện nhằm góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng ở mỗi
nước, giữ gìn và phát triển tình hữu nghị láng giềng gắn bó keo sơn này.


Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ vẻ vang đó, Đảng bộ, chính quyền và
nhân dân tỉnh Quảng Trị cùng với Đảng bộ, chính quyền và nhân dân 2 tỉnh
Quảng Trị, Savẳnnakhệt, Salavăn sẽ làm hết sức mình, tiếp tục đổi mới phương
thức, nội dung, cơ chế phù hợp trên tất cả các lĩnh vực hoạt động thúc đẩy quan
hệ hữu nghị hợp tác toàn diện lên tầm cao mới và càng phát triển bền vững.


(1)Ký ngày 16 tháng 10 năm 1945
(2) Ký ngày 30 tháng 10 năm 1945



(3) Nguyễn Văn Vịnh, Những sự kiện LS ở Lào (1353-1975), Nxb. LĐ, Hà Nội, 2008,tr. 326
(4) Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.11, tr 37.


(5) Nghị quyết Bộ Chính trị T.Ư Đảng về công tác Lào, Hồ sơ: TƯ 364; trang 28; VP BQP.
(6)Dẫn theo Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam 1930-2007, Nxb.
Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.439


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

(8) Chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam số 09 CT/ TW ngày 3 tháng 7
năm 1987 về việc quan hệ Đảng ta với Đảng Lào và Đảng Campuchia, Tài liệu lưu tại Kho lưu
trữ Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.


(9) Chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào số 24/BBT, ngày 20 tháng
5 năm 1987 về việc triển khai kết quả của cuộc Hội đàm giữa Bộ Chính trị Đảng Nhân dân cách
mạng Lào với Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam, Tài liệu lưu tại Kho lưu trữ Trung ương
Đảng Cộng sản Việt Nam.


(10) Chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào số 24/BBT,
ngày 20 tháng 5 năm 1987…Tài liệu đã dẫn.


<b>Chủ đề 3</b>



<b>VAI TRÒ CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH, </b>


<b>CHỦ TỊCH CAY XỎN PHÔMVIHẢN, CHỦ TỊCH XUPHANUVÔNG VÀ</b>
<b>CÁC NHÀ LÃNH ĐẠO CẤP CAO CỦA HAI ĐẢNG, HAI NHÀ NƯỚC</b>


<b>TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN </b>
<b>QUAN HỆ ĐẶC BIỆT VIỆT NAM – LÀO, LÀO - VIỆT NAM.</b>


Trong lịch sử quan hệ quốc tế từ xưa tới nay, quan hệ Việt Nam - Lào,


Lào – Việt Nam là quan hệ đặc biệt, là một điển hình, một tấm gương mẫu mực,
hiếm có về sự gắn kết bền chặt, thuỷ chung, trong sáng và đầy hiệu quả giữa hai
dân tộc đấu tranh vì độc lập, tự do và tiến bộ xã hội. Quan hệ đặc biệt Việt Nam
-Lào, Lào - Việt Nam phát triển từ quan hệ truyền thống, do Chủ tịch Hồ Chí
Minh xây dựng nền móng và chính Người cùng đồng chí Kayxỏn Phơmvihản,
đồng chí Xuphanuvông và các thế hệ lãnh đạo hai Đảng, hai Nhà nước, nhân dân
hai nước dày công vun đắp; đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông
Dương, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào và Đảng Cộng sản Việt Nam:


<b>Chủ tịch Hồ Chí Minh, người đặt nền móng cho quan hệ đặc biệt </b>
<b>Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam.</b>


Trong những thập kỷ đầu thế kỷ XX, chính Nguyễn Ái Quốc, với lịng u
nước nồng nàn và nghị lực phi thường, vượt lên mọi khó khăn, gian khổ, đã tự
mình khám phá thế giới tư bản chủ nghĩa và các dân tộc thuộc địa, nhằm phát
hiện chân lý cứu nước. Người tiếp nhận và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác –
Lênin vào điều kiện cụ thể của Đơng Dương để xác định con đường giải phóng
các dân tộc Việt Nam, Lào, Campuchia theo con đường cách mạng vơ sản.


Trong q trình tìm đường cứu nước của mình, Nguyễn Ái Quốc rất quan
tâm đến tình hình Lào. Người không chỉ lên án chế độ thực dân Pháp nói chung
mà cịn tố cáo cụ thể sự tàn bạo của thực dân Pháp ở Lào (1)<sub>. Hội Việt Nam Cách</sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

tháng 2 năm 1927, Hội này gây dựng được cơ sở tại Lào. Thông qua hoạt động
của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Lào, Nguyễn Ái Quốc thấy đây là
điều kiện thuận lợi để người Việt Nam vừa tham gia cuộc vận động cứu nước tại
Lào, vừa sát cánh cùng nhân dân Lào xây dựng mối quan hệ đồn kết khăng khít
giữa Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam. Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã
lập Hội Ái hữu, Hội Việt kiều yêu nước, mở các lớp huấn luyện cách mạng trên
đất Lào. Trên thực tế, từ nửa sau những năm 20 thế kỷ XX, Lào là một đầu cầu


trực tiếp truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng cứu nước mới của Nguyễn
Ái Quốc vào Đông Dương. Năm 1928, đích thân Người bí mật tổ chức khảo sát
thực địa tại Lào (2) <sub>càng cho thấy mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa cách mạng</sub>


Việt Nam và cách mạng Lào. Cũng trong năm này, chi bộ Thanh niên cộng sản
đầu tiên được thành lập tại Viêng Chăn, đồng thời đường dây liên lạc giữa nhiều
thị trấn ở Lào với Việt Nam được tổ chức.


Như vậy, Lào trở thành địa bàn đầu tiên trên hành trình trở về Đơng
Dương của Nguyễn Ái Quốc, nơi bổ sung những cơ sở thực tiễn mới cho công
tác chính trị, tư tưởng và tổ chức của Người về phong trào giải phóng dân tộc ở
ba nước Đơng Dương. Q trình Nguyễn Ái quốc đặt nền móng cho quan hệ đặc
biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam báo hiệu bước ngoặt lịch sử trọng đại sắp
tới của cách mạng Việt Nam cũng như cách mạng Lào.


Ngày 3 -2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam do chủ tịch Hồ Chí Minh sáng
lapạ đã ra đời - tiền thân của Đảng Cộng sản Đông Dương cũng là sự mở đầu
những trang sử vẻ vang của quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam.


Trên cơ sở sự phát triển của tổ chức Đảng ở Lào, tháng 9 năm 1934, Ban
Chấp hành Đảng bộ lâm thời Ai Lao (tức Xứ uỷ lâm thời Ai Lao) được thành lập.
Sự ra đời của Xứ uỷ Ai Lao là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử đấu tranh
yêu nước của nhân dân các bộ tộc Lào, khẳng định trên thực tế vai trò lãnh đạo
của Đảng bộ Lào đối với cách mạng Lào cũng như đánh dấu một bước phát triển
mới trong quan hệ giữa phong trào cách mạng hai nước Việt Nam Lào, Lào
-Việt Nam.


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

cộng sản Đông Dương đầu tiên, bất luận họ là người Việt Nam, người Lào, hay là
người Campuchia. Đây chính là nền móng vững chắc của quan hệ đặc biệt Việt
Nam-Lào, Lào-Việt Nam mà Nguyễn Ái Quốc là kiến trúc sư vĩ đại của tình


đồn kết đặc biệt đó.


<i><b>Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng đồng chí Kayxỏn Phơmvihản, đồng chí</b></i>
<i><b>Xuphanuvơng và các thế hệ lãnh đạo hai Đảng, hai Nhà nước, nhân dân hai</b></i>
<i><b>nước dày công vun đắp mối quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam.</b></i>


Ngay sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, Chủ tịch Hồ Chí
Minh mời Hồng thân Xuphanuvơng đang ở Vinh ra Hà Nội và tiếp Hoàng thân.
Cuộc gặp gỡ đã có tác động mạnh mẽ, quyết định đối với Hoàng thân trong việc
chọn lựa con đường làm cách mạng. Ngày 3-10-1945, tại cuộc mít tinh của hàng
vạn nhân dân tỉnh Savẳnnakhệt đón chào Hồng thân Xuphanuvơng trở về tham
gia chính phủ Lào, Hồng thân tun bố: “Quan hệ Lào - Việt từ nay sẽ mở ra
<i>một kỷ nguyên mới...”. Hình ảnh, uy tín, quyết tâm làm cách mạng, cứu nước</i>
và những lời nói tốt đẹp của Hồng thân về quan hệ Lào - Việt đã tác động lớn
lao đến sự hưởng ứng, tham gia cách mạng của các tầng lớp nhân dân Lào, càng
tạo thêm chất keo gắn kết tình cảm của nhân dân Lào với Việt kiều cũng như với
Việt Nam. Chính phủ Lào Ítxalạ (Lào tự do) vừa được thành lập cũng đã chủ
trương: “Nhân dân Lào thân thiện với nhân dân Việt Nam và quyết tâm cùng
<i>nhân dân Việt Nam đánh đuổi bọn thực dân Pháp ra khỏi Đông Dương</i>” (3)<sub>. Thủ</sub>


tướng Khăm Mạo tuyên bố với Việt kiều: “mong rằng ba nước Việt, Miên, Lào
<i>bắt tay nhau để kiến thiết quốc gia” </i>(4)<sub>. Chính phủ hai nước đã ký Hiệp ước</sub>


<i>tương trợ Lào – Việt (4) </i><sub>và Hiệp định về tổ chức Liên quân Lào - Việt </sub><i>(5)</i><sub>, đặt cơ sở</sub>


pháp lý đầu tiên cho sự hợp tác giúp đỡ và liên minh chiến đấu chống kẻ thù
chung của hai dân tộc Việt - Lào.


Sau khi giành được chính quyền, nhân dân hai nước Việt Nam, Lào hơn
lúc nào hết, chỉ mong muốn được sống trong hịa bình, tiếp tục hợp tác, cùng


nhau bảo vệ nền độc lập và xây dựng lại đất nước nhưng ngày 23 tháng 9 năm
1945, thực dân Pháp được sự đồng lõa của quân Anh, nổ súng đánh chiếm thành
phố Sài Gịn. Tiếp đó, chúng mở rộng chiến tranh ra toàn Nam Bộ, Nam Trung
Bộ của Việt Nam, sang Campuchia, Hạ Lào, rồi toàn cõi Đông Dương.


</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

Pháp của Lào – Việt lan rộng và chiến tranh du kích nảy nở ở thôn quê, đặng bao
vây lại quân Pháp ở nơi sào huyệt của chúng và quét sạch chúng khỏi đất Lào” (6)<sub>.</sub>


Đảng và Chính phủ Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh ln coi
nhiệm vụ giúp cách mạng Lào như mình tự giúp mình để cùng phối hợp chiến
đấu, đánh đuổi kẻ thù chung, giành độc lập tự do cho mỗi nước trên bán đảo
Đông Dương. Thấm nhuần quan điểm quốc tế cao cả của Đảng Lao động Việt
Nam và của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam từ tiền tuyến đến hậu
phương sẵn sàng chia sẻ những thuận lợi, cùng khắc phục khó khăn, cử nhiều
người con yêu dấu của mình sang phối hợp cùng bạn Lào đẩy mạnh chiến tranh
du kích, phát triển lực lượng kháng chiến.


Nhân dịp giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh thực hiện hoà hợp dân
tộc, thống nhất quốc gia, thành lập Chính phủ Liên hiệp, ngày 10 tháng 1 năm
1958, Ban Chỉ đạo Đảng Nhân dân Lào gửi thư cho Chủ tịch Hồ Chí Minh và
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam khẳng định: “Sở dĩ cách
<i>mạng Lào đạt được những thắng lợi to lớn đó là do tinh thần đồn kết đấu tranh</i>
<i>anh dũng kiên cường của nhân dân, cán bộ, chiến sĩ Lào dưới sự lãnh đạo của</i>
<i>Đảng Nhân dân Lào, đồng thời cũng do sự đóng góp quan trọng của đồng chí và</i>
<i>Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã hết lịng theo dõi, giúp đỡ chúng tơi</i>
<i>trong mỗi giai đoạn của cách mạng”.</i>(7)


</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

<i>Chủ tịch Hồ Chí Minh trao đổi với Chủ tịch Kaysone Phomvihane</i>
<i> tại Hà Nội năm 1966.</i>



Những thắng lợi trên thể hiện nấc thang phát triển mới của lực lượng cách
mạng Lào, đồng thời khẳng định sức mạnh to lớn của quan hệ đoàn kết chiến đấu
giữa quân và dân hai nước Việt Nam – Lào, trong đó thể hiện tình cảm chân
thành nhất mực, sắt son của Việt Nam đối với sự nghiệp cách mạng Lào, như
đồng chí Cay xỏn Phơmvihản phát biểu trong cuộc hội đàm giữa Đảng Nhân dân
Lào và Đảng Lao động Việt Nam (12-1968) đã nhấn mạnh: “Sự giúp đỡ của Việt
<i>Nam cho cách mạng Lào hết sức tận tình và vô tư. Việt Nam đã giúp Lào cả vật</i>
<i>chất và xương máu. Xương máu của nhân dân Việt Nam đã nhuộm đỏ khắp nơi</i>
<i>trên đất nước Lào vì nền độc lập của Lào… Sự giúp đỡ của Việt Nam đối với Lào</i>
<i>đã xây dựng nên mối quan hệ đặc biệt, thực tế đó cũng là sự vận dụng đúng đắn</i>
<i>chủ nghĩa Mác – Lênin và chủ nghĩa quốc tế vơ sản”</i>(8)<i><sub>. </sub></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

cao thêm tinh thần đồn kết quốc tế cho cán bộ, chiến sĩ quân tình nguyện và đội
ngũ chuyên gia Việt Nam.


Sau năm 1975, quan hệ Việt Nam và Lào bước sang trang mới: từ liên
minh chiến đấu chung một chiến hào sang hợp tác tồn diện giữa hai quốc gia có
độc lập chủ quyền. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang diễn ra như vũ
bão, đẩy nhanh xu thế quốc tế hố, tồn cầu hoá trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Do đó, các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam và Lào đều
có cơ hội và điều kiện thu hút vốn đầu tư, kinh nghiệm quản lý, sử dụng các
thành tựu khoa học công nghệ của thế giới để đẩy nhanh quá trình phát triển kinh
tế, xây dựng đất nước…


Năm 1976, ngay sau thành lập nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, Lào
và Việt Nam đã đạt được thỏa thuận quan trọng trong vòng hai tháng rút toàn bộ
quân đội và chuyên gia Việt Nam về nước và bắt đầu xúc tiến việc hoạch định
biên giới quốc gia giữa hai nước. Tuy nhiên, lợi dụng cơ hội này, bọn phản động
trong nước Lào, với sự hỗ trợ của các thế lực thù địch quốc tế, đã hoạt động nổi
dậy ở nhiều nơi. Do vận mệnh của hai nước liên đới lẫn nhau nên mối quan tâm


hàng đầu về an ninh chính trị của Lào cũng là mối quan tâm thường trực của Việt
Nam. Ngày 30 tháng 4 năm 1976, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt
Nam ra Nghị quyết Về tăng cường giúp đỡ và hợp tác với cách mạng Lào trong
<i>giai đoạn mới, xác định: việc tăng cường đoàn kết, giúp đỡ, hợp tác đối với Lào</i>
là một trong những nhiệm vụ quốc tế hàng đầu của Đảng và nhân dân Việt Nam,
cũng là vì lợi ích thiết thân của cách mạng Việt Nam.


Đặc biệt, từ ngày 15 đến ngày 18 tháng 7 năm 1977, Đoàn đại biểu cao cấp
Đảng và Chính phủ Việt Nam do Tổng Bí thư Lê Duẩn và Thủ tướng Phạm Văn
Đồng dẫn đầu sang thăm hữu nghị chính thức Lào. Hai bên đã trao đổi ý kiến về
các vấn đề quốc tế quan trọng mà hai bên cùng quan tâm, cũng như các vấn đề
nhằm phát triển mối quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa Đảng, Chính phủ và nhân
dân hai nước, trên cơ sở đáp ứng nguyện vọng thiết tha và lợi ích sống cịn của
hai dân tộc trong sự nghiệp bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Ngày 18 tháng 7 năm 1977, hai nước chính thức ký kết các Hiệp ước: Hiệp ước
<i>hữu nghị và hợp tác giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Dân</i>
<i>chủ Nhân dân Lào; Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa nước Cộng hòa</i>
<i>xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào; và ra</i>
<i>Tuyên bố chung tăng cường sự tin cậy và hợp tác lâu dài giữa hai nước.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

ước có giá trị trong 25 năm và sẽ được mặc nhiên gia hạn thêm từng 10 năm nếu
một trong hai bên không thông báo cho bên kia muốn hủy bỏ Hiệp ước ít nhất là
một năm trước khi hết hạn. Hiệp ước nêu rõ: Hai bên cam kết ra sức bảo vệ và
phát triển mối quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam, không ngừng
tăng cường tình đồn kết và tin cậy lẫn nhau, sự hợp tác lâu dài và giúp đỡ lẫn
nhau về mọi mặt trên tinh thần của chủ nghĩa quốc tế vơ sản và theo ngun tắc
<i>hồn tồn bình đẳng, tơn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của</i>
<i>nhau, tơn trọng lợi ích chính đáng của nhau, khơng can thiệp vào công việc nội</i>
<i>bộ của nhau. Đây là mốc lịch sử quan trọng đánh dấu bước ngoặt mới trong</i>
<i>quan hệ giữa hai nước. Việc ký kết hiệp ước đó cịn có ý nghĩa quốc tế quan</i>


trọng, nêu cao tinh thần quốc tế trong sáng giữa hai nước đang cùng hướng tới
mục tiêu chủ nghĩa xã hội và phát huy ảnh hưởng tích cực trong khu vực.


<i>Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia là một biểu hiện tốt đẹp của việc</i>
giải quyết vấn đề lợi ích dân tộc trên tinh thần kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa
u nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vơ sản trong sáng, là mẫu mực về
chính sách láng giềng hữu nghị của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
và nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào.


<i><b>Từ khi hai nước tiến hành đổi mới vào năm 1986, lãnh đạo cấp cao hai</b></i>
<i><b>Đảng hai Nhà nước càng tăng cường cũng cố quan hệ hợp tác toàn diện Việt</b></i>
<i><b>Nam - Lào, Lào - Việt Nam. </b></i>


Ngày 3-7-1987, Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ thị:
“Trên cơ sở quán triệt đường lối đối ngoại của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI,
các Nghị quyết 10 và 11 của Bộ Chính trị về tăng cường đoàn kết, hợp tác toàn
diện với Lào và Campuchia và nội dung thỏa thuận trong các cuộc hội đàm lần
này10<sub>[11], các bộ ban ngành và các tỉnh trực tiếp làm nhiệm vụ hợp tác với bạn cần</sub>


kiểm điểm, rút kinh nghiệm, kiên quyết xử lý và có biện pháp chấm dứt các hiện
tượng tiêu cực, các quan điểm, nhận thức và hành động sai trái gây phương hại cho
quan hệ đặc biệt giữa ta với Lào”11<sub>[12]. Về phía Lào, Ban Bí thư Trung ương</sub>


Đảng Nhân dân cách mạng Lào cũng khẳng định: “Xuất phát từ truyền thống lịch
sử và tình hình, nhiệm vụ chiến lược của cách mạng ba nước, sự tăng cường liên
minh hợp tác toàn diện giữa ba Đảng, ba nước Lào – Việt Nam – Campuchia mới
trở thành nhiệm vụ chiến lược số một, là nguyên tắc cách mạng bất di bất dịch
của mỗi nước, là vấn đề sống còn của mỗi nước”12[13]<sub>. Đặc biệt, Chỉ thị của Ban</sub>


Bí thư Đảng Nhân dân cách mạng Lào ghi rõ: “hai bên nhất trí phải tăng cường


giáo dục cho cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu rõ quan hệ đồn kết sống cịn và
lâu dài, qn triệt quan điểm, phương châm nguyên tắc của mối quan hệ trong
10


</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33>

giai đoạn cách mạng mới, uốn nắn tư tưởng và tác phong làm việc mới, tránh
những bảo thủ, chủ quan, chống mọi hiện tượng lơ là mất cảnh giác, thiếu trách
nhiệm, chống tư tưởng dân tộc hẹp hịi”13<sub>[14]. </sub>


Theo tinh thần đó, từ năm 1988, cuộc gặp hàng năm giữa hai Bộ Chính trị
đã trở thành một cơ chế hoạt động chính thức giữa hai Đảng và hai Nhà nước.
Trong đó có sự kiện có ý nghĩa quan trọng đánh dấu bước phát triển mới trong
quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam là chuyến thăm hữu nghị chính thức nước
Cộng hịa Dân chủ Nhân dân Lào của Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam do
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh dẫn đầu từ ngày 2 đến ngày 4 -7-1989. Đây là
chuyến thăm Lào chính thức đầu tiên của lãnh đạo cấp cao Đảng Cộng sản Việt
Nam từ sau Đại hội IV Đảng Nhân dân Cách mạng Lào. Hai bên thống nhất với
nhau nhiều vấn đề quan trọng trong việc đổi mới phương thức hợp tác giữa hai
nước và giải quyết các vấn đề quốc tế và khu vực. Thành tựu nổi bật nhất của
quan hệ hợp tác chính trị Việt Nam – Lào trong giai đoạn này là hai nước vẫn
<i>kiên định giữ vững định hướng chính trị theo con đường xã hội chủ nghĩa.</i>


Tháng 10 năm 1991, đồng chí Cayxỏn Phơmvihản, Tổng Bí thư Đảng
Nhân dân Cách mạng Lào và Đoàn đại biểu cấp cao Đảng Nhân dân Cách mạng
Lào thăm chính thức Việt Nam. Hai bên khẳng định quyết tâm trước sau như một
tăng cường, củng cố và nâng cao quan hệ đoàn kết đặc biệt Lào – Việt Nam, Việt
Nam – Lào, đẩy mạnh hợp tác kinh tế, định kỳ trao đổi cấp Thứ trưởng Ngoại
giao giữa hai nước nhằm phối hợp chặt chẽ các hoạt động ngoại giao trên các
diễn đàn quốc tế.


Từ đó đến nay, trung bình mỗi năm, hai Đảng cử trên 30 đoàn từ cấp


Trung ương đến cấp tỉnh sang trao đổi với nhau những kinh nghiệm về giữ vững
định hướng xã hội chủ nghĩa, về công tác tư tưởng, lý luận, công tác dân vận.
Quan hệ giữa các bộ, ban, ngành, đoàn thể, địa phương, nhất là các tỉnh biên giới
kết nghĩa đều có những trao đổi hợp tác và mối quan hệ đó ngày càng đi vào
chiều sâu với nội dung thiết thực và có hiệu quả. Đặc biệt, hai bên phối hợp
nghiên cứu, biên soạn cơng trình Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào –
<i>Việt Nam từ 1930 – 2007 nhằm tổng kết quá trình liên minh chiến đấu và hợp tác</i>
toàn diện Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam, đúc kết những bài học kinh nghiệm
phục vụ cho việc tiếp tục xây dựng và phát triển quan hệ đặc biệt Việt Nam –
Lào, Lào – Việt Nam lên một tầm cao mới.


</div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34>

đại biểu Quốc hội của hai nước, phối hợp tổ chức thành công nhiều hoạt động
giao lưu giữa các cơ quan của hai Quốc hội như: Hội thảo giao lưu giữa Ủy ban
Đối ngoại Quốc hội Việt Nam - Lào tại Hội An (Việt Nam) vào tháng 6/2011;
Hội thảo giữa ba Ủy ban Đối ngoại Quốc hội Việt Nam - Lào - Campuchia tại
Chămpaxắc (Lào) vào tháng 7/2011; Hội thảo giao lưu giữa Văn phòng Quốc hội
Việt Nam - Lào tại Savẳnnakhệt (Lào) vào tháng 7/2011; Hội thảo giữa hai Ủy
ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của hai Quốc hội
tháng 2/2011 tại Lào, qua đó tăng cường hiểu biết, tin cậy và quan hệ hợp tác
toàn diện giữa hai Quốc hội nói riêng, hai Đảng, Nhà nước và nhân dân hai nước
Việt Nam - Lào nói chung.


Tháng 8/2011,Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Lào Chummaly xaynhasỏn dẫn
đầu Ðoàn đại biểu cấp cao Lào sang thăm Việt Nam tiếp tục góp phần thắt chặt
hơn nữa mối quan hệ truyền thống, hữu nghị vĩ đại, tình đồn kết đặc biệt và sự
hợp tác toàn diện giữa hai Ðảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước Lào - Việt
Nam phát triển lên tầm cao mới, vì lợi ích của nhân dân hai nước Lào - Việt
Nam, vì hịa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới.


Cùng với cả nước, mối quan hệ giữa tỉnh Quảng Trị với hai tỉnh


Savẳnakhệt, Xalavăn của nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào cũng khơng
ngồi truyền thống q báu đó.


Phát huy truyền thống trong chiến đấu, ngày nay trong sự nghiệp xây dựng
đất nước với lợi thế Quảng Trị có chung 206 km đường biên giới, chính quyền 3
tỉnh Quảng Trị, Savẳnnakhệt và Xalavăn thường xuyên phối hợp tổ chức các
cuộc hội thảo quảng bá đầu tư, cải cách thủ tục hành chính tại Cửa Khẩu Quốc tế
Lao Bảo, Đensavẳn và Cửa khẩu Quốc gia La Lay nhằm khuyến khích giao lưu
phát triển kinh tế, thương mại, du lịch và tạo điều kiện bà con 2 bên biên giới qua
lại thăm thân, trao đổi hàng hoá, tham quan, du lịch... Quan hệ buôn bán giữa các
doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế của Quảng Trị và các tỉnh biên giới của Lào
từng bước được xác lập và bước đầu đạt kết quả tốt. Các Công ty du lịch của 3
tỉnh Quảng Trị - Việt Nam, Savannakhẹt - Lào và Mụcđahản - Thái Lan đã có
các chương trình hợp tác đưa đón khách tham quan du lịch theo tour " Một ngày
ăn cơm 3 nước" ngày càng thu hút nhiều khác trong và ngồi nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(35)</span><div class='page_container' data-page=35>

ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trong khu vực biên giới của hai bên luôn
được giữ vững. Vừa qua, tại Cửa khẩu Quốc tế Lao Bảo - Đensavẳn, tỉnh Quảng
Trị là tỉnh đầu tiên trong 13 tỉnh, thành phố có chung đường biên giới với nước
bạn Lào được triển khai xây dựng thí điểm và tỉnh Savănnakhệt (Lào) khởi công
xây dựng cột mốc Quốc giới Việt Nam - Lào đoạn qua tỉnh Quảng Trị và
Savănnakhet (mốc 605-1 và 605-2). Đây là cặp mốc đầu tiên được khởi công xây
dựng nằm trong dự án tăng dày, tôn tạo hệ thống mốc Quốc giới Việt – Lào.


Hiện nay, các thế lực thù địch đang thực hiện các âm mưu “diễn biến hịa
bình” với nhiều thủ đoạn nhằm phá hoại, chia rẽ tình địan kết hữu nghị đặc biệt
Việt- Lào và cơng cuộc xây dựng CNXH ở mỗi nước. Hai Đảng, hai Nhà nước
Việt Nam- Lào tiếp tục khẳng định ý chí, quyết tâm tăng cường quan hệ hữu nghị
hợp tác toàn diện nhằm góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng ở mỗi
nước, giữ gìn và phát triển tình hữu nghị láng giềng gắn bó keo sơn này.



Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ vẻ vang đó, Đảng bộ, chính quyền và
nhân dân tỉnh Quảng Trị cùng với Đảng bộ, chính quyền và nhân dân 2 tỉnh
Quảng Trị, Savănnakhệt,Xalavăn sẽ làm hết sức mình, tiếp tục đổi mới phương
thức, nội dung, cơ chế phù hợp trên tất cả các lĩnh vực hoạt động thúc đẩy quan
hệ hữu nghị hợp tác toàn diện lên tầm cao mới, trở thành mối quan hệ quốc tế
mẫu mực, thuỷ chung trong sáng này ngày càng phát triển bền vững, trước mắt,
thực hiện các nội dung chương trình hợp tác mà lãnh đạo cao cấp 3 tỉnh đã ký kết
hàng năm, góp phần cùng với hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân Việt
Nam-Lào bảo vệ và nâng quan hệ đặc biệt lên tầm cao mới.


</div>
<span class='text_page_counter'>(36)</span><div class='page_container' data-page=36>

tộc Lào, giúp đỡ quốc tế đối với bạn Lào là vô cùng trong sáng, thủy chung,
không tiếc xương máu và vật chất, giúp bạn phải làm sao cho bạn càng tin tưởng
ở bản chất cách mạng và truyền thống tốt đẹp của dân tộc mình.


Và nhân dịp Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh
(19/5/1890-19/5/1990), báo Nhân Dân, số ra ngày 19/5/1990 đã đăng bài viết,
trong đó có lời của đồng chí Cayxỏn Phơmvihản trân trọng viết về cơng lao của
Bác Hồ đối với cách mạng Lào như sau: "Tư tưởng và tình cảm của Bác là ngọn
đuốc soi đường, là nguồn cổ vũ sức mạnh đoàn kết đấu tranh của nhân dân các bộ
tộc Lào chúng tôi. Từ ngày cách mạng Lào còn trứng nước cho đến lúc đã trưởng
thành, Bác Hồ luôn quan tâm dẫn đường chỉ lối".


(1) Xem: Nguyễn Ái Quốc: “Bản án chế độ thực dân Pháp”<i> trong Hồ Chí Minh:</i>
<i>Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 2.</i>


(2) Ban Chỉ đạo nghiên cứu lý luận và thực tiễn Trung ương Đảng Nhân dân
cách mạng Lào: Lịch sử Đảng Nhân dân cách mạng Lào (Tóm lược), Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 18. Địa điểm mà Nguyễn Ái Quốc đặt chân đến
Lào được xác định là bản Xiêng Vảng, huyện Noỏng Bốc, tỉnh Khăm Muộn.


Thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng
Lào nhân dịp kỷ niệm 120 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19 tháng 5
năm 1890 – 19 tháng 5 năm 2010), đồng chí Bun Nhăng Vơlachít, Ủy viên Bộ
Chính trị, Thường trực Ban bí thư, Phó Chủ tịch nước Cộng hịa Dân chủ Nhân
dân Lào và đồng chí Hồ Đức Việt, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương
Đảng, Trưởng ban Tổ chức Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã dự lễ động
thổ xây dựng Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại bản Xiêng Vảng, huyện
Noỏng Bốc, tỉnh Khăm Muộn.


(3). Báo Cờ Giải phóng - Cơ quan của Đảng Cộng sản Đông Dương, số 27 ngày
21-10-1945.


(4) Ký ngày 16 tháng 10 năm 1945
(5) Ký ngày 30 tháng 10 năm 1945


(6) Chỉ thị kháng chiến kiến quốc, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 8 1945-1947, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 26.


(7) Nguyễn Văn Vịnh, Những sự kiện lịch sử ở Lào (1353-1975), Nxb. Lao động,
Hà Nội, 2008,tr. 326


</div>
<span class='text_page_counter'>(37)</span><div class='page_container' data-page=37>

<b>Chủ đề 4</b>



<b>NHỮNG THÀNH TỰU CÓ Ý NGHĨA QUAN TRỌNG TRONG LỊCH SỬ</b>
<b>QUAN HỆ ĐẶC BIỆT VIỆT NAM - LÀO, LÀO - VIỆT NAM</b>


<b></b>


---Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào đã ghi vào lịch sử dân tộc của hai nước
những trang chói ngời nhất về tinh thần quốc tế vô sản trong sáng, thủy chung,


lâu dài và toàn diện, trở thành một trong những nhân tố bảo đảm phát triển của
cách mạng mỗi nước trên con đường phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội.


Kể từ khi lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc thành Đảng cộng sản Việt Nam vào
tháng 2-1930 và sau đó đổi tên thành Đảng cộng sản Đông Dương (tháng
10-1930), mối quan hệ truyền thống, lâu đời của hai dân tộc được nâng lên thành
quan hệ đặc biệt, không ngừng được hai Đảng, hai Nhà nước, nhân dân hai nước
vun đắp và đạt được những thành tựu có ý nghĩa quan trọng.


<b>1. Hai dân tộc Việt Nam, Lào sát cánh bên nhau cùng tiến hành khởi</b>
<b>nghĩa tháng Tám năm 1945, giành độc lập dân tộc</b>


Hai tháng sau khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Đảng cộng sản
Đông Dương đã đưa ra những luận điểm và chủ trương quan trọng chuẩn bị cho
công cuộc khởi nghĩa giành độc lập, tự do cho các dân tộc Việt Nam, Lào, Miên.
Do điều kiện cụ thể khi kết thúc chiến tranh thế giới thứ hai, chỉ có hai nước Việt
Nam, Lào tiến hành khởi nghĩa giành được độc lập.


</div>
<span class='text_page_counter'>(38)</span><div class='page_container' data-page=38>

nhiều cán bộ cao cấp của Đảng và đảng viên bị cầm tù và hy sinh, nhưng dưới sự
lãnh đạo của lãnh tụ Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Đơng Dương, công tác
chuẩn bị về mọi mặt cho công cuộc khởi nghĩa giành chính quyền vẫn được cán
bộ, đảng viên, nhân dân hai nước tham gia tích cực và xúc tiến mạnh mẽ.


Tại Việt Nam, căn cứ địa Việt Bắc, Mặt trận Việt Minh và nhiều tổ chức
quần chúng do Đảng lãnh đạo được thành lập; nhiều đơn vị vũ trang như Cứu
quốc quân, Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân lần lượt ra đời. Sau ngày
Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945), Ban Thường vụ Trung ương Đảng cộng sản
Đông Dương ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”,
nhiều tỉnh thành lập chiến khu, khởi nghĩa từng phần ở nhiều địa phương miền


Bắc và miền Trung nổ ra thắng lợi.


Ở Lào, đầu năm 1945, Xứ ủy Lào được lập lại lần thứ tư và xác định các
đô thị và địa phương lớn như Viêng Chăn, Thà Khẹc, Savẳnnakhệt là địa bàn
hoạt động chính. Sau ngày Nhật đảo chính Pháp, phong trào cứu nước càng phát
triển mạnh mẽ. Tổ chức Lào Itxalạ (Lào tự do) bao gồm cơng chức, học sinh có
tinh thần u nước, chịu ảnh hưởng đường lối cứu nước Đảng cộng sản Đông
Dương ra đời, nhiều căn cứ địa cách mạng xuất hiện. Tháng 6-1945, đơn vị Việt
Nam Độc lập quân được thành lập ở chiến khu trên đất Thái Lan.


Trung tuần tháng 8-1945, thời cơ giành độc lập cho Đông Dương xuất
hiện, lãnh tụ Hồ Chí Minh và Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Đông
Dương quyết định Tổng khởi nghĩa và tiến hành Hội nghị toàn Đảng tại Tân Trào
(Tuyên Quang vào ngày 14 và 15-8-1945). Nghị quyết hội nghị nêu rõ: “Những
điều kiện khởi nghĩa ở Đông Dương như đã chín muồi, cơ hội cho ta giành quyền
độc lập đã tới”1<sub>. Vào thời điểm này, Bác Hồ gặp các đồng chí đại biểu Xứ ủy</sub>


Lào, Người dặn: thời cơ rất thuận lợi cho nhân dân Đông Dương, ở đâu có điều
kiện, phải giành được chính quyền khi Đồng minh vào. Pháp và Đồng minh Anh,
Mỹ gắn bó với nhau. Pháp sẽ núp sau lưng Đồng minh để trở lại xâm lược Việt
Nam, Lào, Miên, chúng ta phải đoàn kết để đánh kẻ thù chung.


Nhân dân hai nước Việt, Lào chớp thời cơ, tiến hành khởi nghĩa thành
cơng tháng 8-1945.


Đó là kỳ tích đầu tiên của hai nước Việt Nam - Lào, của quan hệ đặc biệt
Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam, đặt nền tảng vững chắc cho mối quan hệ phát
triển rực rỡ trong giai đoạn sau.


<b>2. Việt Nam, Lào đoàn kết, liên minh chiến đấu chống đế quốc xâm</b>


<b>lược, hồn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc</b>


<i><b>Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược lần thứ hai:</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(39)</span><div class='page_container' data-page=39>

Hai dân tộc Việt Nam, Lào vừa giành được quyền độc lập, đã phải đối phó
ngay với thực dân Pháp quay trở lại xâm lược.


Sau cách mạng tháng Tám, Việt Nam đứng trước những thử thách hết sức
nghiêm trọng. Song Chủ tịch tịch Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Đông Dương
đã phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, thực thi chính sách đối nội, đối
ngoại đúng đắn, đưa cách mạng vượt qua thác ghềnh, bảo vệ thành quả cách
mạng tháng Tám, bước vào cuộc kháng chiến toàn quốc và thực hiện nghĩa vụ
quốc tế đối với cách mạng Lào.


<i>Một là, ngay từ khi mở đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chiến</i>
trường Việt Nam, Lào đã bị các thế lực đế quốc vây hãm trên trên biển Đông và
lục địa, Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương xác định nhiệm vụ “phải liên
minh với các dân tộc bị áp bức và vô sản thế giới, đặc biệt với các nước lân cận
để củng cố công cuộc cách mạng của mình”. Trên tinh thần đó, Chủ tịch Hồ Chí
Minh và Chính phủ Việt Nam chỉ đạo các cơ quan ngoại giao mở một con đường
ngoại giao ở hướng tây nam từ Việt Nam qua Lào tới Thái Lan từ giữa năm 1946
đến năm 1951. Đồng thời tranh thủ sự giúp đỡ của quốc gia Miến Điện (sau khi
Miến Điện tuyên bố độc lập từ năm 1948). Chiến khu cách mạng của Lào được
mở tại Thái Lan, cán bộ và Việt kiều yêu nước trú chân tại Miến Điện để chuẩn
bị lực lượng, gây dựng khu kháng chiến tại Lào.


Các hoạt động ngoại giao trong những năm đầu kháng chiến chống thực
dân Pháp đã hỗ trợ nhiều mặt cho cuộc kháng chiến của hai dân tộc Việt Nam,
Lào và ươm mầm cho sự phát triển của phong trào ủng hộ cách mạng giải phóng
dân tộc của Việt Nam, Lào ở những chặng đường tiếp theo.



<i>Hai là, xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt đầu tiên của quan hệ Việt Nam </i>
-Lào.


</div>
<span class='text_page_counter'>(40)</span><div class='page_container' data-page=40>

<i> Ba là, gây dựng cơ sở chính trị, phát triển chiến tranh du kích và thắt chặt</i>
quan hệ đoàn kết Lào - Việt Nam, Việt Nam - Lào.


Đây là một nhiệm vụ cơ bản, rất quan trọng của cuộc chiến tranh cách
mạng giải phóng dân tộc Lào và cũng là một nhiệm vụ trọng yếu của quan hệ đặc
biệt Việt Nam - Lào mà phía Việt Nam tự nguyện góp phần thực hiện nghĩa vụ
quốc tế cao cả đó.


Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Đơng Dương, Việt Nam tận tình giúp
Lào đào tạo cán bộ, truyền bá kinh nghiệm vận động quần chúng, giúp đỡ bạn
xây dựng cơ sở chính trị, lực lượng vũ trang tuyên truyền, tạo điều kiện thuận lợi
để hình thành các khu kháng chiến, từng bước đưa phong trào cách mạng Lào
phát triển.


<i>Bốn là, xây dựng tại mỗi nước Việt Nam, Lào, Miên một đảng Mácxít</i>
-Lêninnít và thành lập Mặt trận liên minh Việt - Miên - Lào để nâng cao sức
mạnh quan hệ Việt Nam Lào, Lào Việt Nam trong quan hệ đoàn kết Việt
-Miên - Lào.


Đến năm 1951, Đảng cộng sản Đông Dương đã trải qua 21 năm xây dựng
và phát triển, lãnh đạo nhân dân Đông Dương đấu tranh chống chế độ thuộc địa
của đế quốc Pháp, phát xít Nhật, tiến hành khởi nghĩa giành độc lập cho hai dân
tộc Việt Nam, Lào và tổ chức cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đánh chiếm
Đông Dương lần thứ hai, làm thất bại nhiều kế hoạch xâm lược của chúng. Đến
thời điểm này, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Ban chấp hành Trung ương Đảng thấy
rằng việc xây dựng ở mỗi nước Việt Nam, Lào và Cămpuchia một đảng Mácxít


-Lêninnít trên cơ sở kế thừa bản chất và năng lực lãnh đạo của Đảng cộng sản
Đơng Dương đã có đủ điều kiện thực hiện.


Tại Đại hội II của Đảng cộng sản Đông Dương tháng 2-1951, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đề nghị thành lập tại mỗi nước Đông Dương một Đảng cộng sản. Ý
kiến này đã được đại biểu Đảng bộ Lào và đại biểu Đảng bộ Cămpuchia hết sức
tán thành.


</div>
<span class='text_page_counter'>(41)</span><div class='page_container' data-page=41>

Sau Đại hội II Đảng cộng sản Đông Dương, hội nghị thành lập Mặt trận
liên minh Việt - Miên - Lào cũng diễn ra tại Việt Bắc vào tháng 3-1951, càng
củng cố thêm mối quan hệ Việt Nam - Lào, góp phần thực hiện thắng lợi sự
nghiệp cách mạng của ba nước.


<i>Năm là, Việt Nam, Lào đồng tâm, hiệp lực giúp nhau trong chiến đấu, lập</i>
nhiều chiến công.


Lãnh đạo nhân dân ba nước Đông Dương chống Pháp, Trung ương Đảng
cộng sản Đông Dương đã quyết định: “Về quân sự, Việt Nam, Cao Miên, Ai Lao
là một chiến trường, phải đánh theo một chiến lược chung”. Chủ trương đó tạo cơ
sở cho khối đoàn kết, liên minh chiến đấu giữa ba dân tộc càng thêm củng cố và
tăng cường trên cùng một trận tuyến chống kẻ thù chung, thực hiện những mục
tiêu chiến lược và kế hoạch tác chiến trên các chiến trường Đơng Dương. Theo
đó, liên minh chiến đấu Việt - Lào xuất hiện giữa các đơn vị vũ trang hai nước;
các mặt trận phối hợp giữa các địa phương Việt Nam, Lào như Liên khu 10 với
Thượng Lào, Liên khu 4 với Trung Lào, Liên khu 5 với Hạ Lào, tiến tới quy mô
phối hợp lớn hơn về mặt chiến lược, về tổ chức chiến trường, bố trí lực lượng tác
chiến và sử dụng các phương pháp đấu tranh quân sự, chính trị, binh vận buộc
địch phải bị động đối phó. Cịn ta thì giành quyền chủ động chiến lược.


Cuối tháng 4 đến giữa tháng 5-1953, liên quân chiến đấu Việt Nam - Lào


mở chiến dịch Thượng Lào giành thắng lợi lớn: giải phóng tồn bộ tỉnh Sầm
Nưa, một phần tỉnh Xiêng Khoảng và Phôngxalỳ, mở rộng căn cứ địa cách mạng
Lào. Đối với Việt Nam, chiến dịch Thượng Lào đã góp phần phân tán lực lượng
địch, phá tan âm mưu củng cố vùng Tây Bắc và bình định vùng đồng bằng Bắc
Bộ của Pháp.


</div>
<span class='text_page_counter'>(42)</span><div class='page_container' data-page=42>

<i>Chiến thắng Điện Biên Phủ.</i>


Khi quân và dân ta tiến hành trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ,
quân và dân Lào đã anh dũng chiến đấu, chặt đứt con đường chi viện chiến lược
của địch cho Điện Biên Phủ, góp phần cô lập địch ở đây, tạo điều kiện thuận lợi
cho quân và dân Việt Nam giành thế chủ động tiến cơng địch, giành thắng lợi
hồn tồn.


Trong các chiến dịch này, có sự tham gia chỉ đạo của Bộ Tổng tư lệnh
quân đội hai nước và nhiều tướng lĩnh cấp cao, tập hợp nhiều đơn vị quân đội
Việt Nam, Lào cùng tham gia chiến đấu; được hậu phương hai nước cung cấp
khối lượng lớn lương thực, thực phẩm. Đó là thắng lợi của tinh thần đồn kết, ý
chí quyết chiến, quyết thắng của quân và dân hai nước, đánh bại hoàn toàn thực
dân Pháp, buộc Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ cơng nhận độc lập, chủ quyền,
thống nhất và tồn vẹn lãnh thổ của ba nước Việt Nam, Lào, Cămpuchia.


<i><b>Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược:</b></i>


21 năm chống Mỹ cứu nước là một chặng đường kế tục, phát triển quan hệ
đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam đã trở thành giá trị thiêng liêng của hai
dân tộc. Hoạt động phối hợp đấu tranh của các cơ quan lãnh đạo cùng quân và
dân Việt Nam, Lào đều xuất phát từ tình cảm sâu đậm, trách nhiệm cao cả của
hai phía Việt Nam, Lào dành cho nhau, tạo nên những nguồn lực mới, những nấc
thang phát triển mới của nội lực từng dân tộc, của quan hệ đặc biệt Việt Nam


-Lào, Lào - Việt Nam trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù chung và mở đường đi
tới toàn thắng. Thành quả của mối quan hệ đặc biệt này được thể hiện:


<i>Một là, sự phối hợp giữa lãnh đạo, quân và dân hai nước Việt Nam, Lào</i>
phá vỡ mưu đồ tiêu diệt lực lượng vũ trang nòng cốt Pathết Lào và hãm hại bộ
phận đầu não cơ quan lãnh đạo cách mạng Lào do đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai
tiến hành.


Việt Nam đã phối hợp với Lào giải thốt cho Hồng thân Xuvanuvơng và
nhiều nhà lãnh đạo cao cấp chủ chốt của cách mạng Lào khỏi trại giam của Mỹ
và chính quyền tay sai, đồng thời lực lượng vũ trang cách mạng Lào cũng thoát
khỏi vịng vây địch trở về căn cứ an tồn đã tạo điều kiện thuận lợi để Lào xây
dựng thực lực, lãnh đạo kháng chiến thắng lợi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(43)</span><div class='page_container' data-page=43>

<i>Ba là, tuyến đường chiến lược Trường Sơn, một cơng trình vĩ đại của quan</i>
hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam


Tuyến đường Trường Sơn xun qua triền phía đơng và phía tây dãy
Trường Sơn. Cơng trình này được tiến hành từ cuối năm 1959, đến đầu năm 1964
thì chuyển hẳn sang phía tây Trường Sơn. Nơi đây cũng là khu căn cứ hậu cần
của chiến trường Nam Việt Nam, Lào và Campuchia. Quá trình khai thông và
phát triển con đường chiến lược chi viện cho cách mạng miền Nam, Lào và
Campuchia là quá trình đấu tranh gian khổ, quyết liệt của cán bộ, chiến sĩ hai
nước Việt Nam, Lào đứng chân hoạt động trên chiến trường này, có sự đóng góp
to lớn của nhân dân Việt Nam và Lào tại các địa phương mà tuyến vận tải đi qua.
Trong mọi hoàn cảnh, quân đội nhân dân Việt Nam và Lào đã sát cánh bên nhau
chiến đấu kiên cường chống trả sự đánh phá vô cùng ác liệt của đế quốc Mỹ và
ngụy quyền tay sai để bảo vệ tuyến đường, kho tàng, vũ khí, lương thực, thực
phẩm và nhiều loại hàng hóa khác, trong đó có nhiều chiến dịch lớn như chiến
dịch Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng; đặc biệt là thắng lợi của chiến dịch


đường 9 - Nam Lào đánh bại cuộc hành quân lớn nhất của Mỹ - ngụy với âm
mưu cắt đứt hoàn toàn tuyến vận tải chiến lược quan trọng bậc nhất của ta từ
miền Bắc vào miền Nam, Lào và Cam puchia.


Nhân dân Lào đã phải chịu đựng biết bao hy sinh, mất mát do kẻ thù xâm
lược gây ra. Nhưng từ trong gian khổ, ác liệt, đã ngời sáng lên tình cảm thân
thương, quý mến của nhân dân Lào dành cho cán bộ, chiến sĩ Việt Nam, tô thắm
thêm truyền thống đoàn kết, thủy chung son sắt của hai dân tộc.


<i>Ra quân đi mở đường.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(44)</span><div class='page_container' data-page=44>

của hai dân tộc Lào, Việt Nam; là minh chứng hùng hồn của văn minh, nhân
nghĩa thắng xâm lược, bạo tàn.


Suốt 21 năm chống Mỹ, Đảng, Nhà nước, quân đội và nhân dân Lào ln
hết lịng giúp đỡ, ủng hộ nhân dân Việt Nam. Đáp lại, Đảng, Nhà nước, quân đội
và nhân dân Việt Nam cũng dốc hết sức vì sự nghiệp cách mạng Lào. Trên tinh
thần “giúp bạn là tự giúp mình”, quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt
Nam đã có mặt ở hầu hết mọi nơi trên chiến trường Lào, chấp nhận mọi gian khổ,
hy sinh, cùng nhân dân và quân đội Lào đấu tranh, đánh địch đến thắng lợi hoàn
toàn.


<b>3. Quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam tiếp tục phát triển trong</b>
<b>sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của hai dân tộc Việt Nam, Lào (từ</b>
<b>1976 đến nay)</b>


<i><b>Trên lĩnh vực chính trị, ngoại giao:</b></i>


Sau khi hai dân tộc kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống ngoại xâm,
vào ngày 18-7-1977, Hiệp ước hữu nghị và hợp tác giữa Cộng hòa xã hội chủ


nghĩa Việt Nam và Cộng hòa dân chủ Nhân dân Lào đã được ký kết, là sự kiện
mở đầu cho quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào trong giai đoạn cách mạng mới.
Đây là văn kiện mang tính chính trị, pháp lý cơ bản, bền vững lâu dài trên
nguyên tắc hồn tồn bình đẳng. Điển hình của tinh thần hợp tác, hữu nghị của
hai Đảng, hai Nhà nước, hai dân tộc là cùng thống nhất quan điểm trong việc giải
quyết vấn đề Campuchia, cùng đấu tranh bảo vệ sự trong sáng của Việt Nam trên
diễn đàn quốc tế và khu vực.


Hai Nhà nước sớm thoả thuận và ký kết Hiệp ước hoạch định biên giới
quốc gia Việt Nam - Lào và hoàn thành hoạch định, cắm mốc trên toàn tuyến
biên giới cùng với hoạt động của các tỉnh hai bên đường biên giới trên lĩnh vực
an ninh, quốc phòng, kinh tế, giao lưu văn hóa đã xây dựng nên một biên giới
hồ bình, hợp tác và phát triển Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam.


Hai Đảng, hai Nhà nước thường xuyên trao đổi ý kiến về vấn đề lý luận và
chỉ đạo thực tiễn sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và Lào, khơi
dậy nội lực và mở rộng quan hệ quốc tế, đem lại sự đổi mới toàn diện cho mỗi
nước.


<i><b>Về quốc phòng an ninh:</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(45)</span><div class='page_container' data-page=45>

Theo tinh thần các văn bản đã ký kết giữa hai Chính phủ, lực lượng vũ
trang và lực lượng an ninh Lào, Việt Nam phối hợp chặt chẽ thực hiện các nhiệm
vụ được giao trên mặt trận chống ngoại xâm, chống phỉ, dẹp bạo loạn, trừ diệt
bọn phản động vượt qua lãnh thổ Lào xâm nhập lãnh thổ Việt Nam, tiêu biểu là
chiến dịch truy quét, phá tan trung tâm phỉ tại Phu Bia (1977-1978), tiêu diệt
nhóm phản động Võ Đại Tơn và Hồng Cơ Minh (1987) khi chúng đang xuyên
qua đất Lào để vào Việt Nam.


Cùng với những hoạt động trên, hai bên còn phối hợp chặt chẽ trong đào


tạo, bồi dưỡng cán bộ; giúp đỡ nhau về hậu cần kỹ thuật; đặc biệt là việc tìm
kiếm hài cốt liệt sĩ quân tình nguyện Việt Nam hy sinh trên đất Lào.


Trong thời kỳ mới, hai Đảng, hai Nhà nước luôn xác định hợp tác trên lĩnh
vực quốc phòng, an ninh là một trong những điểm mấu chốt của mối quan hệ đặc
bịêt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam.


<i><b>Hợp tác phát triển kinh tế, văn hóa, đào tạo cán bộ:</b></i>


Lãnh đạo hai nước Việt Nam và Lào đều nhất trí coi trọng sự hợp tác kinh
tế, văn hóa và đào tạo cán bộ.


Trên lĩnh vực kinh tế, hai bên chấp hành nguyên tắc hợp tác là bình đẳng,
tơn trọng chủ quyền quốc gia, cùng có lợi và hết lịng giúp đỡ nhau; đồng thời,
căn cứ vào tình hình cụ thể của mỗi nước mà dành ưu tiên, ưu đãi cho nhau.


Phương thức hợp tác ngày càng được mở rộng và nâng cao về quy mô,
chất lượng và hiệu quả. Trên thực tế, sự hợp tác giữa hai nước diễn ra từ Trung
ương đến tỉnh, thành phố và các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, dịch
vụ...trên lĩnh vực kinh tế, tài chính, ngân hàng, cơng thương, nơng nghiệp...


Nội dung hợp tác kinh tế được chuyển dần theo cấp độ từ thấp lên cao: ban
đầu là viện trợ, cho vay tiến đến hợp tác sản xuất, liên doanh phù hợp công thức:
tài nguyên Lào, lao động kỹ thuật Việt Nam, vốn hợp tác hoặc vay của nước thứ
ba. Tiếp đó, từ năm 1996 trở đi, một cơng thức hợp tác mới được áp dụng, đó là
hợp tác hai bên cùng có lợi theo thơng lệ quốc tế, ưu tiên, ưu đãi cho nhau.


Điểm đặc sắc nổi bật trong quan hệ hợp tác kinh tế Lào - Việt Nam là tinh
thần giúp đỡ nhau mỗi khi nước bạn gặp khó khăn mà không thể tự giải quyết
được. Hành động Việt Nam giúp Lào chống lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mơ


năm 1999 là một mẫu hình tiêu biểu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(46)</span><div class='page_container' data-page=46>

Từ sau năm 1975, Việt Nam giúp bạn đào tạo cán bộ đạt trình độ đại học
và trên đại học. Theo đó, hàng năm có hơn 1.000 cán bộ, sinh viên Lào được bồi
dưỡng, học tập tại nhiều học viện, trường đại học Việt Nam. Về phía Việt Nam,
hàng năm có từ 15-20 lưu học sinh sang học tại đại học Quốc gia Lào.


<i><b> Hợp tác giữa các địa phương và ngoại giao nhân dân </b></i>


Đi đôi với mối quan hệ hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau giữa hai Đảng, hai Nhà
nước, các bộ, ngành Trung ương, còn có mối quan hệ kết nghĩa giữa tồn bộ các
tỉnh có chung đường biên giới cũng như các tỉnh khơng có chung biên giới giữa
hai nước với nhau. Các địa phương đã phối hợp chặt chẽ về trao đổi đoàn tham
quan, cùng giúp đỡ, chia sẻ kinh nghiệm cũng như cùng tháo gỡ những khó khăn
giữa hai nước. Các Hội hữu nghị Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam và cộng đồng
người Việt Nam tại Lào đã có nhiều đóng góp đáng kể trong vai trị làm cầu nối
quan trọng trong việc giữ gìn và phát triển quan hệ đoàn kết đặc biệt Việt Nam –
Lào, Lào – Việt Nam.


Quảng Trị có đường giới chung với Cộng hồ Dân chủ nhân dân Lào
206km, giáp với hai tỉnh bạn là Savẳnnakhệt và Xalavăn. Từ chỗ tương đồng về
tiếng nói, phong tục, tập quán và xuất phát từ nhu cầu bảo vệ nền độc lập đất
nước, phát triển kinh tế, văn hóa, từ xa xưa, nhân dân các dân tộc Việt - Lào ở hai
bên triền Đông - Tây dãy Trường Sơn đã có mối quan hệ giao hảo thân thiết, giúp
đỡ lẫn nhau khi khó khăn, đồng lịng đồng sức đánh đuổi ngoại xâm, bảo vệ vững
chắc biên cương của hai nước. Tiêu biểu nhất trong lịch sử đấu tranh giữ nước
của ba tỉnh trước năm 1930 là cuộc chiến đấu thắng lợi đánh quân xâm lược
Xiêm trong hai năm 1883, 1884, làm thất bại hoàn toàn mưu đồ xâm lấn vùng đất
Lào và Việt Nam của Nhà nước Xiêm từ đó về sau.



Từ khi có Đảng cộng sản Việt Nam (sau đổi thành Đảng cộng sản Đông
Dương) ra đời và lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, Tỉnh ủy Quảng Trị
được thành lập và nhận nhiệm vụ xây dựng tổ chức Đảng tại Savẳnnakhệt. Đây là
tiền đề quan trọng góp phần xây dựng và phát triển Đảng bộ Đảng cộng sản
Đông Dương Lào. Trong thời kỳ tiền khởi nghĩa, Quảng Trị đã giúp bạn huấn
luyện lực lượng vũ trang, chuẩn bị giành chính quyền.


</div>
<span class='text_page_counter'>(47)</span><div class='page_container' data-page=47>

và ngày càng phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng trong các chiến đấu, các chiến dịch
đánh địch giành thắng lợi lớn.


Một tiết mục văn nghệ do các du học sinh Lào tại TPHCM và Cần Thơ
biểu diễn chào mừng lễ kỷ niệm 50 năm quan hệ Việt-Lào


<i>Hội</i>


<i>chợ thương mại Việt – Lào 2009</i>


Lịch sử chiến tranh cách mạng của Quảng Trị và hai tỉnh bạn Lào ghi dấu
ấn sâu đậm về tình đồn kết hữu nghị, sự giúp đỡ lẫn nhau tận tình của Tỉnh ủy
và nhân dân ba tỉnh, đó là khi Quảng Trị gặp khó khăn thì đất bạn là nơi đứng
chân và ngược lại Quảng Trị là nơi bạn bảo toàn, xây dựng và phát triển lực
lượng khi bị kẻ thù truy đuổi, để từ đó, có những quyết sách đúng đắn lãnh đạo
nhân dân giành thắng lợi từng bước trong cuộc chiến đấu sống còn với kẻ thù.


</div>
<span class='text_page_counter'>(48)</span><div class='page_container' data-page=48>

nhưng sự kiện lớn nhất đã đi vào lịch sử dân tộc đó là sự cưu mang, đùm bọc,
giúp nhau chỗ đứng chân, xây dựng hậu cứ, đảm bảo huyết mạch giao thông trên
tuyến đường 559 - con đường vận tải chiến lược Bắc - Nam. Sự kiện đó đã đi vào
lịch sử dân tộc như một thiên anh hùng ca tuyệt đẹp, góp phần quan trọng làm
nên chiến thắng vang dội, kết thúc bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước.



Khi hai nước bước vào giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ năm 1975
đến nay, quan hệ đặc biệt hữu nghị càng được phát huy mạnh mẽ, toàn diện trên
tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phịng an ninh, góp
phần to lớn vào việc xây dựng và bảo vệ an ninh chính trị, tăng cường quốc
phịng, tạo mơi trường ổn định để phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của ba tỉnh.


<b>Chủ đề 6</b>



<b>MỘT SỐ BIỂU HIỆN SINH ĐỘNG CỦA MỐI QUAN HỆ </b>
<b>ĐOÀN KẾT, GẮN BÓ, THỦY CHUNG SON SẮT </b>


<b>CỦA HAI DÂN TỘC VIỆT NAM - LÀO DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA </b>
<b>HAI ĐẢNG, HAI NHÀ NƯỚC TRONG NHỮNG NĂM QUA</b>


<b></b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(49)</span><div class='page_container' data-page=49>

hai dân tộc vẫn sát cánh bên nhau với nghĩa tình “hạt muối cắn đơi, cọng rau bẻ
nửa”, sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp cách mạng chung và vì nền độc lập tự do của
mỗi nước. Trong giai đoạn hồ bình với nhiều điều kiện thuận lợi, hai dân tộc
cũng khơng ngừng vun đắp mối quan hệ đồn kết, thủy chung, son sắt để cùng
nhau tiến lên xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.


Bài viết này xin nêu một số biểu hiện sinh động của mối quan hệ hiếm có
này:


<b>1. Dưới sự lãnh đạo của hai Đảng, hai Nhà nước, quân dân các dân tộc</b>
<b>Việt Nam - Lào đồn kết bên nhau, chung sức, chung lịng đánh thắng giặc</b>
<b>Mỹ xâm lược </b>



Sau Hiệp định Giơnevơ, theo yêu cầu của Chính phủ Kháng chiến Lào,
Đảng và Nhà nước Việt Nam quyết định để lại một bộ phận chuyên gia tiếp tục
giúp đỡ cách mạng Lào. Tổng số chuyên gia gồm 964 đồng chí. Đây là lực lượng
rất quan trọng đối với cách mạng Lào sau ngày đình chiến.


Thực hiện đề án đấu tranh ở hai tỉnh Sầm Nưa và Phôngxalỳ (là căn cứ tập
kết của lực lượng cách mạng Lào), được sự chỉ đạo phối hợp của Ban cán sự
miền Tây, chuyên gia quân sự Việt Nam đã giúp đỡ bạn xây dựng hai tỉnh thành
các khu chiến đấu liên hồn, đáp ứng tình hình thực tế của từng địa bàn, khả năng
tổ chức, quản lý của cán bộ Lào, đồng thời đề phòng chiến sự lan rộng. Trong
trường hợp bị chia cắt, từng khu có thể đảm bảo độc lập tác chiến; đồng thời giúp
bạn triển khai các mặt công tác chuẩn bị chiến trường, củng cố cơ sở ở các địa
phương tạo địa bàn vững chắc, ngăn chặn địch tấn cơng. Nhờ đó, lực lượng
Pathết Lào không chỉ đẩy lùi các đợt tấn công lấn chiếm của quân đội Vương
quốc Lào, mà còn mở trận đánh lớn thu thắng lợi, diệt được nhiều địch và mở
rộng vùng giải phóng, làm nức lịng nhân dân hai tỉnh Sầm Nưa và Phơngxalỳ.


Sau khi thành lập Chính phủ liên hiệp Lào lần thứ nhất, Việt Nam đã nhận
đào tạo 330 cán bộ của Pa Thết Lào, nhằm chuẩn bị lực lượng cho phong trào
cách mạng cả nước. Bức thư của Ban chỉ đạo Đảng Nhân dân Lào gửi Ban chấp
hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã khẳng
định: “Trong kháng chiến cũng như trong đấu tranh thực hiện hịa bình, thống
nhất đất nước, cách mạng Lào luôn được sự giúp đỡ tận tình của cách mạng Việt
Nam, Đảng Lao động Việt Nam. Sỡ dĩ cách mạng Lào giành được thắng lợi to
lớn đó...cũng do sự đóng góp quan trọng của đồng chí và Trung ương Đảng Lao
động Việt Nam đã hết lòng giúp đỡ chúng tôi trong mỗi giai đoạn của cách
mạng”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(50)</span><div class='page_container' data-page=50>

bộ. Nhiều cán bộ và thường dân Lào ở các tỉnh biên giới chạy sang Việt Nam
lánh nạn. Để tạo điều kiện giúp cách mạng Lào, ngày 13-12-1958, Ban chấp hành


Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã ra Chỉ thị 120-CT/TW, nêu rõ: Hết
lòng giúp đỡ cho số cán bộ và thường dân Lào vì tránh khủng bố mà chạy sang
biên giới ta về mọi mặt tinh thần, vật chất theo khả năng của ta. Nhận thức rõ
nhiệm vụ quan trọng này, tại Quảng Trị, khi Tỉnh ủy Savẳnnakhệt phải sang đóng
ở A Vao (Hướng Hố), bạn được Tỉnh ủy Quảng Trị, nhân dân các dân tộc
Hướng Hoá bảo vệ, cung cấp lương thực, thực phẩm suốt trong thời gian lực
lượng Pathet Lào bị bọn phản động Phu Mi và Cà Tày (thân Mỹ) trở mặt phá bỏ
Hiệp định Giơnevơ, truy lùng, khủng bố. Quảng Trị đã trở thành căn cứ địa, hậu
phương vững chắc của tỉnh bạn. Ở Thái Nguyên, trong lúc tình hình kinh tế cịn
rất nhiều khó khăn, nhưng cán bộ, học sinh Lào ở đây vẫn được cung cấp đủ tiêu
chuẩn phụ cấp. Những việc làm tình nghĩa này càng làm cho quan hệ vừa là đồng
chí vừa là anh em giữa hai Đảng, hai dân tộc thêm keo sơn, gắn bó.


Về quân sự, Việt Nam không chỉ sát cánh bên bạn trong thời kỳ đầu củng
cố, phát triển lực lượng, xây dựng hậu cứ, cung cấp vũ khí, qn trang mà cịn
phối hợp với bộ đội PaThết Lào đánh địch giành thắng lợi oanh liệt. Từ ngày
18-8 đến 15-9-1959, một số đơn vị quân tình nguyện Việt Nam phối hợp với các đơn
vị PaThết Lào mở đợt hai hoạt động trong mùa mưa. Trong đợt hoạt động này,
quán triệt tinh thần chỉ đạo của Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam,
một số đơn vị quân tình nguyện Việt Nam (chủ yếu là lực lượng quân khu 4 tác
chiến ở các tỉnh Xiêng Khoảng, Liên huyện 90 và Khăm Muộn) đã vận dụng
nhiều hình thức tác chiến linh hoạt như phục kích, tập kích, bao vây, bắn tỉa, địch
vận, phá hoại cầu đường, đốt kho tàng địch, đánh cứ điểm bằng đặc công kết hợp
hoả lực...Đi đôi với tác chiến, các đơn vị tình nguyện Việt Nam đã tích cực giúp
Lào củng cố cơ sở, phát động nhân dân ủng hộ kháng chiến, tham gia các lực
lượng dân quân tự vệ chiến đấu bảo vệ vùng mới giải phóng. Các đơn vị tình
nguyện phối hợp chặt chẽ với lực lượng PaThết Lào và nhân dân địa phương
đánh 40 trận, giải phóng thêm 13 điểm. Sau đợt hoạt động này, các tiểu đoàn 1, 2,
4 PaThết Lào được lệnh rút ra hoạt động ở biên giới Việt - Lào, sau đó sang tập
trung ở huyện Yên Lập (Phú Thọ) để chấn chỉnh lực lượng. Theo yêu cầu của


Trung ương Neo Lào Hắc Xạt, Bộ Quốc phòng Việt Nam giúp xây dựng tiểu
đoàn 1 và 2 PaThết Lào thành hai tiểu đoàn chủ lực mạnh, quân số mỗi tiểu đoàn
từ 650 đến 700 chiến sĩ; đồng thời bổ sung vũ khí, trang bị và cử các tổ chuyên
gia giúp hai tiểu đồn về qn sự, chính trị và chun mơn kỹ thuật.


</div>
<span class='text_page_counter'>(51)</span><div class='page_container' data-page=51>

toàn quốc lần thứ III (1960), Việt Nam đã chi viện pháo binh cho PaThết Lào,
đồng thời tăng cường hoạt động uy hiếp Thà Khẹc, giúp bạn bảo vệ thủ đô Viêng
Chăn trước sự tấn công của địch. Cuối năm 1960, quân tình nguyện Việt Nam
phối hợp với bạn giải phóng Cánh đồng Chum, Xiêng Khoảng, nối liền với Sầm
Nưa, tạo căn cứ địa vững chắc để Chính phủ hợp pháp của Hồng thân Xuvănna
Phuma đặt trụ sở chính thức ở Khăng Khay (Xiêng Khoảng).


Trên cơ sở thoả thuận giữa hai Đảng, ngày 9-1-1961, Quân ủy Trung ương
và Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam xác định nhiệm vụ quốc tế của
chuyên gia và quân tình nguyện Việt Nam đối với cách mạng Lào trong 5 năm
1961-1965 là: Giúp đỡ các lực lượng vũ trang cách mạng Lào về chuyên gia quân
sự, đào tạo cán bộ; củng cố, xây dựng vùng giải phóng và phát triển lực lượng vũ
trang của bạn; khi bạn có u cầu, tổ chức bộ đội tình nguyện Việt Nam phối hợp
chiến đấu với bộ đội bạn.


Trung ương Đảng hai nước cũng xác định: Lực lượng PaThết Lào cần phối
hợp chặt chẽ với quân tình nguyện Việt Nam, kiên quyết đập tan các hoạt động
phiêu lưu quân sự của địch, giữ vững vùng giải phóng và các cơ quan đầu não
của Trung ương Đảng Lào trong mọi tình huống.


Căn cứ nhiệm vụ trên, Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam
quyết định biên chế thời chiến cho Sư đoàn 325, Lữ đoàn 341, Trung đoàn 224
thuộc Quân khu 4; Lữ đoàn 316, Lữ đoàn 335 và Trung đoàn 148 thuộc Quân
khu Tây Bắc, sẵn sàng chi viện cho chiến trường miền Nam và chiến trường Lào.



Trên tinh thần đó, các trận đánh phối hợp giữa hai bên ngày càng đạt hiệu
quả cao, thu thắng lợi giòn giã trên các chiến trường như cuộc tiến cơng giải
phóng đường 8, giải phóng huyện Xê Pơn (Savẳnnakhệt), đẩy lùi các đợt tấn
công của địch vào Xiêng Khoảng. Tiêu biểu là chiến dịch Nặm Thà năm 1962, do
Bộ tư lệnh chiến dịch Nặm Thà trực tiếp chỉ huy với sự tham gia của các tướng
lĩnh Việt Nam - Lào. Chiến dịch Nặm Thà đã làm xoay chuyển tình thế có lợi cho
cách mạng Lào, có ý nghĩa quan trọng về quân sự và chính trị. Liên qn Lào
-Việt khơng chỉ tiêu diệt được một bộ phận sinh lực tinh nhuệ của địch vừa mới
xây dựng, mà còn giáng đòn mạnh về chính trị, đánh vào âm mưu của Mỹ và
chính quyền tay sai Phumi Nôxavẳn, làm cho tinh thần đội quân đánh thuê thêm
hoang mang, dao động. Uy tín của Neo Lào Hắc Xạt, quân đội PaThết Lào được
nâng cao, khu giải phóng mở rộng thành căn cứ liên hồn đến tận biên giới Trung
Quốc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(52)</span><div class='page_container' data-page=52>

Xuvanuvông vẫn khẳng định: Người bạn cùng sống chết, chung một chiến hào
với ta chỉ có Việt Nam.


Năm 1963, tình hình cách mạng Lào gặp khó khăn do đế quốc Mỹ và
chính quyền tay sai lật lọng âm mưu xóa bỏ Hiệp định Giơnevơ. Trước yêu cầu
của bạn, Trung ương Đảng và Chính phủ Việt Nam lại cử chuyên gia và quân
tình nguyện sang giúp đỡ. Điều đáng trân trọng, biểu hiện tình cảm thủy chung
giữa quân và dân hai nước là đoàn chuyên gia Việt Nam phần lớn là các đồng chí
đã từng hoạt động, chiến đấu trên đất bạn thời gian trước.


Cuối năm 1964, Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào mở “cuộc vận
động thu phục phỉ” nhằm ổn định vùng giải phóng. Việt Nam đã giúp Lào các
sản phẩm thiết yếu như muối, vải, quần áo, thuốc men; đồng thời tại Lào, các đơn
vị tình nguyện và chuyên gia Việt Nam đã sát cánh cùng quân, dân Lào triển khai
có hiệu quả cuộc vận động trên. Nhiều ổ phỉ lâu đời bị giải tán, tạo sự ổn định
mọi mặt cho các vùng giải phóng.



Từ năm 1965, liên minh chiến đấu Việt - Lào sát cánh bên nhau đánh bại
chiến lược “chiến tranh cục bộ” và “Việt Nam hóa chiến tranh” ở miền Nam Việt
Nam và chiến lược “chiến tranh đặc biệt” tăng cường của đế quốc Mỹ tại Lào.


</div>
<span class='text_page_counter'>(53)</span><div class='page_container' data-page=53>

đồn đã vào rừng tìm kiếm, cứu được chị đưa về nơi sơ tán an toàn. Trong những
ngày ác liệt này, bộ đội Việt Nam đã phối hợp với các cơ sở Đảng, chính quyền
đưa hơn 16.000 dân và gia đình cán bộ sơ tán qua Mường Xéng, Kỳ Sơn (Nghệ
An). Nhân dân Nghệ An nhiệt tình đón tiếp, nhường áo xẻ cơm, cùng nhân dân
Lào xây dựng nhà cửa, bệnh xá, trường học, ổn định cuộc sống nơi sơ tán. Những
tấm gương sáng, quên mình của bộ đội tình nguyện, sự đón tiếp tận tình của nhân
dân Nghệ An trong những ngày gian khó này đã góp phần làm cho tình đồn kết
chiến đấu của qn dân Việt Nam - Lào càng thêm keo sơn, gắn bó.


Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào năm 1971 là minh chứng vô cùng sống
động về mối quan hệ Việt - Lào thắm thiết, ruột thịt. Thực hiện quyết tâm chiến
lược của Trung ương Đảng hai nước, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của các cấp ủy
Đảng, chính quyền cơ sở, đồng bào các bản, làng, mường Việt Nam và Lào trên
địa bàn dự kiến sẽ diễn ra chiến dịch đã tham gia hết sức hăng hái vào mọi công
việc chuẩn bị. Ngày ngày, trên khắp những nẻo đường hành quân, nhân dân
Quảng Trị cùng nhân dân các bộ tộc Lào không quản mưa rừng, thác lũ sát cánh
cùng các đơn vị bộ đội chủ lực, thanh niên xung phong bạt núi, mở đường, đào
đắp, vận chuyển hàng vạn mét khối đất đá, xây dựng cầu cống; truy bắt lực lượng
thám báo địch bảo vệ sự an tồn và bí mật cho chiến dịch; tích cực tham gia xây
dựng các trận địa bắn máy bay và vận chuyển các loại vũ khí, đạn dược, hàng hóa
vào các vị trí tập kết đúng kế hoạch. Xe trâu, xe bò, xe đạp thồ...là cả gia tài đối
với đồng bào nơi đây nhưng khi cách mạng cần, bà con sẵn sàng đóng góp để
phục vụ yêu cầu vận chuyển đạn được, quân trang, quân nhu...Những chàng trai,
cô gái Vân Kiều, Pa Cô và các bộ tộc Lào cùng trang lứa với sức trẻ và lòng nhiệt
huyết cách mạng đã đưa năng suất gùi thồ lên 90-100kg mỗi chuyến. Nhiều


người tuy sức khoẻ yếu hay vừa chữa lành vết thương vẫn xung phong đi phục vụ
chiến dịch; có em nhỏ mới 13-14 tuổi đã tình nguyện đóng góp sức mình vào
việc khn vác, chặt cây ngụy trang mặt đường, làm liên lạc... Đang làm nương
rẫy, dân bản thấy bộ đội hành quân liền tìm cách gây tiếng ồn để át tiếng động
của các đoàn quân, tránh sự phát hiện của thám báo địch. Thi thoảng, người dân
ra bờ suối vắng thấy những vết chân bộ đội in trên cỏ ướt đã bảo nhau lùa trâu,
bò ra để xáo trộn, xoá đi. Một số đồng bào bị địch bắt, chúng dụ dỗ, mua chuộc
hay tra tấn dã man, vẫn kiên quyết không khai báo, sắt son một lòng một dạ trung
thành với cách mạng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(54)</span><div class='page_container' data-page=54>

hướng về nơi bộ đội đang chờ. Nhiều nơi, đồng bào tự nguyện chỉ ăn củ mài và
rau rừng, dành cho các chiến sĩ những hạt gạo, lát sắn, củ khoai cuối cùng để “ăn
no mà đánh thắng giặc Mỹ”.


Từng đồn dân cơng là con em các dân tộc ngày đem gùi lương, tải đạn ra
chiến trường, rồi lại tham gia vận chuyển thương binh về tuyến sau. Nhiều thơn,
bản thành lập các đội đi tìm kiếm chơn cất cán bộ, chiến sĩ hy sinh. Bom đạn địch
chà xát, tàn phá nhà cửa, nương rẫy nhưng không thể nào làm phai nhạt tình đồn
kết chiến đấu giữa hai dân tộc, tình qn dân thắm thiết, thủy chung. Đó là nhân
tố làm nên chiến thắng đường 9 - Nam Lào vang dội của quân và dân hai nước.


Tinh thần đồn kết, tình cảm thủy chung, gắn bó keo sơn của cán bộ, đảng
viên, chiến sĩ Việt Nam với dân tộc Lào anh em đã được Tổng Bí thư Cayxỏn
Phơmvihản nêu rõ: Nhiều đồng chí Việt Nam đã hy sinh trên chiến trường Sầm
Nưa, Cánh đồng Chum...Nhiều cán bộ Việt Nam đã sang Lào hoạt động từ lúc
cách mạng mới bắt đầu cho đến khi tóc đã bạc, coi nhân dân Lào như nhân dân
của mình, coi sự nghiệp cách mạng Lào như sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Đối
với Việt Nam, sự hết lòng yêu quý, giúp đỡ của nhân dân các bộ tộc Lào luôn là
nguồn động viên, cổ vũ mạnh mẽ tinh thần chiến đấu của bộ đội tình nguyện và
các chuyên gia Việt Nam. Đặc biệt, nhân dân Lào đã cùng chia sẻ với nhân dân


Việt Nam trước bom đạn ác liệt của giặc Mỹ, tạo mọi điều kiện để bộ đội Việt
Nam mở đường Trường Sơn và mở các chiến dịch lớn, góp phần giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước.


<b>2. Đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh là biểu hiện vơ cùng sinh</b>
<b>động mối quan hệ đoàn kết, thủy chung, son sắt giữa hai dân tộc Việt Nam </b>
<b>-Lào, Lào - Việt Nam</b>


Tháng 9-1959, theo yêu cầu của Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Trung
ương Đảng Lao động Việt Nam quyết định thành lập đoàn 959 chuyên gia giúp
Lào ở mặt trận Hạ Lào. Cũng trong thời gian này, Bộ Quốc phòng quyết định
thành lập đoàn 559 với nhiệm vụ mở đường, vận chuyển vật chất, đưa đón cán
bộ, bộ đội từ miền Bắc vào miền Nam, đồng thời vận chuyển vào bảo đảm hậu
cần cho đoàn 959 chuyên gia ở Lào và vận chuyển vật chất giúp bạn Lào.


</div>
<span class='text_page_counter'>(55)</span><div class='page_container' data-page=55>

nhiều đợt hoạt động quân sự ở miền Trung và Hạ Lào, giải phóng một vùng rộng
lớn từ Căm Cớt, Lắc Xao đến Mường Phìn, Sê Pơn, Bản Đơng, nối đường 12 với
đường 9, nhanh chóng tạo thành một hành lang dài và rộng theo chiều Đơng
-Tây. Tồn bộ 6 mường của Lào ở Bắc và Nam đường số 9 được giải phóng.


Năm 1963, đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn tiếp tục đưa quân bao vây,
đồng thời đánh phá quyết liệt tuyến vận tải phía đơng Trường Sơn. Trước tình
hình đó, được sự lãnh đạo của hai Đảng, quân tình nguyện Việt Nam và bộ đội Pa
Thết Lào quyết định mở chiến dịch 128 giải phóng tồn bộ vùng cao nguyên
Trung Lào có biên giới chung với Việt Nam dài trên 700km. Thắng lợi của chiến
dịch 128 đã tạo điều kiện cho Việt Nam chuyển toàn bộ đường vận tải sang
hướng Tây trên đất Lào.


Trong quá trình này, bộ đội tình nguyện, đồn chun gia cố vấn Việt Nam
dưới sự chỉ đạo của Bộ Tư lệnh Trường Sơn đã thường xuyên phối hợp với quân


khu Trung - Hạ Lào, Đảng bộ và chính quyền 7 tỉnh có đường Hồ Chí Minh
xun qua tổ chức khảo sát địa hình, phối hợp mở đường và chiến đấu bảo vệ căn
cứ và tuyến đường chiến lược, tổ chức đánh địch tại chỗ, giải phóng đất đai, mở
rộng vùng giải phóng, tạo điều kiện để tuyến đường được mở rộng và phát triển.


Để có con đường chiến lược với hơn 20.000km, các chiến sĩ, lực lượng
thanh niên xung phong và nhân dân Việt Nam cũng như nhân dân Lào đã đổ bao
mồ hôi, xương máu, của cải và hàng ngàn người đã ngã xuống để xây dựng, bảo
vệ và vận chuyển hàng hóa, nhân lực phục vụ cuộc kháng chiến chống Mỹ của
hai nước Việt - Lào.


</div>
<span class='text_page_counter'>(56)</span><div class='page_container' data-page=56>

chuyển hàng hóa phục vụ chiến trường. Từ năm 1965, khi đế quốc Mỹ mở rộng
đánh phá, nhân dân 17 huyện thuộc 7 tỉnh của Lào trên mảnh đất Tây Trường
Sơn đã tự động dời nhà, bỏ nương rẫy đi vào rừng sâu sinh sống. Bộ đội và du
kích Lào phối hợp chặt chẽ với bộ đội Việt Nam đánh trả máy bay địch, ngăn
chặn các cuộc hành quân lấn chiếm, tập kích của chúng. Nhân dân Lào cịn đóng
góp hàng triệu ngày công cùng bộ đội và lực lượng thanh niên xung phong Việt
Nam làm mới, sửa chữa đường xá, vận chuyển lương thực, thương bệnh binh,
góp phần vào mọi hoạt động của tuyến đường Hồ Chí Minh.


Khơng thể kể hết những tình cảm quý báu của nhân dân các bộ tộc Lào
dành cho các chiến sĩ, cán bộ Việt Nam. Năm 1964, địch đánh phá ác liệt, thời
tiết phức tạp khiến việc vận chuyển hàng hóa và dẫn qn của đồn 559 trên
tuyến tây Trường Sơn gặp rất nhiều khó khăn. Có thời điểm đường bị tắc, khách
qua tuyến dồn ứ hàng ngàn người ở các trạm giao liên gần một tháng. Việc đảm
bảo lương thực, thực phẩm cho bộ đội trở thành vấn đề “nước sơi, lửa bỏng”.
Trước tình hình đó, chỉ huy đồn 559 cùng đồn chun gia 763 ở Hạ Lào trực
tiếp đề xuất với Tỉnh ủy Távên Oọc của Lào vận động nhân dân địa phương giúp
đỡ. Với tinh thần quốc tế cao cả, trong sáng, nhân dân tỉnh Távên Oọc, đặc biệt là
các huyện Cà Lươn, Xê Camản...nhanh chóng thu gom thóc, giã gạo phục vụ bộ


đội Việt Nam. Mặc dù là địa phương nghèo, nhân dân sống phân tán, nhưng chỉ
trong vòng nửa tháng, bạn đã huy động được hơn 30 tấn lương thực, góp phần
quan trọng giải quyết khó khăn cho đồn 559.


Nhờ sự phối hợp liên minh này mà hàng hố khơng còn bị ứ đọng trên
tuyến đường 9, vào chiến trường miền Nam và nước bạn thông suốt, kịp thời.
Tuy nhiên, sức người có hạn, việc vận chuyển hàng hố cịn phải dựa vào voi,
trâu, bị... Bà con dân tộc đơng - tây Trường Sơn rất quý voi, coi voi là thần, là
tượng trưng cho sự giàu có, danh giá. Làng nào có voi rất tự hào. Thế nhưng khi
cách mạng cần, nhân dân cả Việt - Lào đều sẵn sàng hiến voi, đưa voi ra trận
tuyến.


</div>
<span class='text_page_counter'>(57)</span><div class='page_container' data-page=57>

đến việc lấy một lưng gạo, hạt muối ở các kho lương thực, thực phẩm của các
binh trạm đặt giữa rừng trên đất bạn.


Trong những năm tháng khó khăn hay trong những trận đánh ác liệt, nhiều
bà mẹ, gia đình Lào trong khi cuộc sống còn rất thiếu thốn vẫn chắt chiu từng bát
gạo để nuôi dưỡng thương binh, vượt qua bom đạn của địch đưa rau, gạo, thuốc
men đến các binh trạm trên tuyến đường để trao tận tay cho các chiến sĩ Việt
Nam.


Đáp lại lòng quý mến và đùm bọc của nhân dân Lào trên dọc tuyến đường
Trường Sơn, các đơn vị bộ đội Việt Nam đã tích cực cùng với bộ đội PaThết Lào
chiến đấu bảo vệ vùng giải phóng, bảo vệ nhân dân các bộ tộc Lào, giúp đồng
bào tăng gia sản xuất, cứu đói cho dân khi gặp thiên tai, địch họa. Bộ đội Việt
Nam trên tuyến đường Hồ Chí Minh cịn giúp nhân dân Lào xây mới một số
tuyến đường liên bản, liên xã, liên huyện, góp phần cải thiện đời sống nhân dân,
phát triển kinh tế - xã hội vùng giải phóng. Chính vì vậy, tuy phải chịu đựng hy
sinh, gian khổ, nhưng nhân dân các bộ tộc Lào dọc tuyến đường vẫn hết lòng yêu
thương, ủng hộ quân đội cách mạng hai nước.



Nhờ có con đường chiến lược Hồ Chí Minh, tính chung trong vịng 16 năm
(1959-1975), tuyến giao thơng vận tải quân sự Trường Sơn đã vận chuyển được
1.349.000 tấn hàng hóa, vũ khí, trong đó giao cho các chiến trường và cách mạng
Lào, Campuchia hơn 583.000 tấn, 515 triệu m3<sub> xăng dầu. Riêng 4 tháng trong</sub>


cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975, tuyến vận tải 559 qua đường
Hồ Chí Minh đã chuyển vào miền Nam Việt Nam hơn 110.000 cán bộ, chiến sĩ,
230.000 tấn vật chất các loại, đưa sang Lào (1973-1975) trên 108.000 tấn hàng.


Đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh trở thành biểu tượng sáng ngời
của tình đồn kết chiến đấu, mối quan hệ thủy chung son sắt của hai dân tộc Việt
- Lào trong trường kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc.


<b>3. Quan hệ hữu nghị đoàn kết giữa hai dân tộc Việt Nam Lào, Lào </b>
<b>-Việt Nam càng phát triển sống động trong giai đoạn hồ bình, xây dựng đất</b>
<b>nước phồn vinh, bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(58)</span><div class='page_container' data-page=58>

truyền nhân những ngày lễ trọng đại của hai dân tộc làm cho toàn Đảng, toàn dân
và toàn quân nhận thức đầy đủ hơn về tầm quan trọng, nội dung mối quan hệ đặc
biệt Việt - Lào trong giai đoạn mới của cách mạng.


Đi đôi với quan hệ hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau giữa hai Đảng, hai Nhà nước,
các bộ, ngành Trung ương, giữa các tỉnh Việt Nam với 12 tỉnh và thành phố của
Lào cũng có nhiều hình thức hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau phong phú và hiệu quả.


Các tổ chức hội hữu nghị trên nhiều lĩnh vực với hàng nghìn hội viên từ
Trung ương đến cơ sở ra đời, nhiệm vụ chủ yếu là giới thiệu, thông tin cho các
tầng lớp nhân dân hai nước về lịch sử đất nước, con người, nền văn hóa, thành
tựu xây dựng và bảo vệ đất nước, làm cầu nối vận động và thúc đẩy các hoạt


động hữu nghị, hợp tác và giao lưu kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật một cách
có hiệu quả, thiết thực; tổ chức các đoàn hữu nghị, giao lưu, trao đổi thông tin
với các tổ chức xã hội - kinh tế - văn hóa của hai nước.


Đặc biệt mối quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa các tỉnh ngày càng thắt chặt
phát triển thành quan hệ kết nghĩa; khơng chỉ dừng lại ở 10 tỉnh có đường biên
giới chung mà còn mở rộng ra các tỉnh, thành phố khác như thủ đô Hà Nội với
Viêng Chăn...Tại các tỉnh có đường biên giới chung, quan hệ kết nghĩa phát triển
đến tận cơ sở, đó là kết nghĩa huyện với huyện, bản với bản trên cơ sở phát huy
và duy trì mối quan hệ đồn kết, hợp tác truyền thống láng giềng tốt đẹp, bảo
đảm an ninh xã hội vùng biên, giải quyết tốt những vấn đề nảy sinh, chủ động
phối hợp tìm kiếm hài cốt liệt sĩ quân tình nguyện Việt Nam trên đất Lào.


</div>
<span class='text_page_counter'>(59)</span><div class='page_container' data-page=59>

<i>Họp báo về cơng trình biên soạn lịch sử quan hệ đặc biệt Lào –</i>
<i>Việt Nam, Việt Nam – Lào (1930-2007) tại Thủ đô Viêng Chăn</i>


<i>Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng và Chủ tịch Quốc hội Lào Pany Yathotou tại lễ</i>
<i>khai mạc Hội nghị - Sơn La, ngày 23-4-2012.</i>


<b>Thành quả mười năm hợp tác toàn diện </b>


<b>Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam rất to lớn.</b>


<i><b>- Hợp tác trong lĩnh vực chính trị và đối ngoại</b></i>


Mối quan hệ hợp tác về chính trị trong giai đoạn này tập trung vào nỗ lực
của hai nước trong việc hiện thực hóa mục tiêu cùng lựa chọn: tiến lên con đường
xã hội chủ nghĩa mà chưa có tiền lệ lịch sử.


</div>
<span class='text_page_counter'>(60)</span><div class='page_container' data-page=60>

đồng chí Tổng Bí thư Cayxỏn Phơmvihản đã đọc đi đọc lại tác phẩm Sửa đổi lối
<i>làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh để vận dụng vào cơng tác xây dựng Đảng ở</i>
Lào. Đồng thời, đứng trước những diễn biến phức tạp của tình hình khu vực và


quốc tế, Lào còn trực tiếp phối hợp với Việt Nam trên diễn đàn quốc tế, chủ động
giúp Việt Nam tháo gỡ những vướng mắc trong quan hệ với các nước khác trong
khu vực…; trao đổi kinh nghiệm với Việt Nam về từng bước đổi mới cơ chế
quản lý trong nông nghiệp (trang trại), lưu thơng thương mại, v.v... Đồng chí
Cayxỏn Phômvihản thường xuyên nhấn mạnh quan điểm lập trường trước sau
như một ủng hộ Việt Nam của Lào: Lào vững mạnh, độc lập thì Việt Nam ổn
định, phồn vinh.


Về phía Việt Nam, sau ngày đất nước thống nhất, mặc dầu phải giải quyết
nhiều khó khăn do hậu quả chiến tranh, nhưng luôn nhận thức sâu sắc mối quan
hệ tương hỗ của cách mạng hai nước trong giai đoạn mới: “Lào có ổn định thì
Việt Nam mới ổn định và ngược lại”. Vì vậy, Việt Nam đã cố gắng đáp ứng các
yêu cầu chi viện và hợp tác với Lào một cách tồn diện, theo tinh thần vơ tư
“khơng tính thiệt hơn”.


Tại các cuộc hội đàm hàng năm giữa hai Bộ Chính trị, các cuộc gặp gỡ
trao đổi khi có việc đột xuất giữa các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước, giữa
các bộ, ban, ngành, đoàn thể Việt Nam đã góp phần giúp Lào kinh nghiệm về giải
quyết các khó khăn, giải tỏa kịp thời các vướng mắc xẩy ra, củng cố niềm tin của
Lào về thiện chí của Việt Nam. Và ngược lại, sự chia sẻ của Lào với Việt Nam
trên lĩnh vực an ninh chính trị, kinh nghiệm phát triển kinh tế - xã hội đã tạo niềm
tin và là sức mạnh vô giá, giúp Việt Nam bảo đảm được lợi ích trực tiếp về an
ninh và phát triển ở biên giới phía Tây của mình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(61)</span><div class='page_container' data-page=61>

Trong hợp tác đối ngoại, theo tinh thần của Hiệp ước hữu nghị và hợp tác,
Bộ trưởng Ngoại giao hai nước nhất trí phối hợp chặt chẽ về đường lối hoạt động
đối ngoại, phát huy hiệu quả công tác đối ngoại mỗi nước và sức mạnh của ba
nước Đơng Dương trên trường quốc tế, góp phần làm cho mơi trường an ninh
chính trị Đơng Nam Á đi dần vào ổn định, thể hiện thiện chí của các nước Đơng
Dương xây dựng khu vực hịa bình, ổn định, hợp tác và phát triển.



Trên đất nước Lào lúc này, tình hình kinh tế – xã hội đang dần đi vào ổn
định, độc lập chủ quyền, an ninh quốc gia, trật tự xã hội được giữ vững; chế độ
dân chủ nhân dân được bảo vệ. Tuy nhiên, Lào vẫn phải đối phó với chính sách
thù địch của lực lượng phản động ở Thái Lan khơng ngừng dùng sức ép chính trị,
kinh tế, quân sự đòi sửa đổi lại đường biên giới…


Trong bối cảnh đó, một sự kiện quan trọng đã diễn ra trong đời sống chính
trị hai nước. Đó là Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng Cộng sản Việt
Nam (tháng 3 năm 1982) và Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng
Nhân dân cách mạng Lào (tháng 4 năm 1982). Báo cáo chính trị của Ban chấp
hành Trung ương hai Đảng đều khẳng định sự tất yếu khách quan phải tăng
cường quan hệ đoàn kết đặc biệt, hữu nghị hợp tác toàn diện giữa hai Đảng, Nhà
nước và nhân dân hai nước trong giai đoạn cách mạng mới.


Trong hai ngày 22 và 23 tháng 2 năm 1983, Hội nghị cấp cao ba nước
Đông Dương diễn ra tại Thủ đô Viêng Chăn, tập trung thảo luận về tình hình ba
nước Đơng Dương, tình hình quốc tế và khu vực; đề ra những nguyên tắc,
phương hướng, biện pháp nhằm tăng cường đoàn kết và hợp tác toàn diện giữa ba
nước trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước của mỗi nước, tạo nhân tố
quan trọng đối với hịa bình và ổn định ở Đơng Nam Á và thế giới; vấn đề quân
tình nguyện Việt Nam ở Campuchia. Hội nghị đã nhất trí đề ra 4 nguyên tắc chỉ
<i>đạo mối quan hệ giữa ba nước, trong đó nhấn mạnh quan hệ giữa ba nước sẽ</i>
được giải quyết bằng thương lượng trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và
tồn vẹn lãnh thổ của nhau, khơng can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, với
tinh thần hiểu biết lẫn nhau, tơn trọng lợi ích chính đáng của mỗi nước và vì lợi
ích chung của ba dân tộc, trên tinh thần hữu nghị anh em, hoàn tồn tự nguyện,
bình đẳng cùng có lợi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(62)</span><div class='page_container' data-page=62>

chung cũng thể hiện nguyện vọng của nhân dân ba nước Đông Dương và


ASEAN cùng nhau giải quyết những vấn đề khu vực bằng đàm phán trên cơ sở
bình đẳng, tơn trọng chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ của nhau, khơng can thiệp
vào công việc nội bộ của nhau.


<i><b>- Hợp tác trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh</b></i>


Trên nền tảng quan hệ chặt chẽ về chính trị giữa hai nước, những năm
1976 – 1985, hợp tác quốc phòng, an ninh ngày càng đi vào chiều sâu theo tinh
thần đoàn kết liên minh chiến đấu, phù hợp với tình hình mới, góp phần tích cực
vào việc bảo đảm củng cố quốc phòng, an ninh, ổn định xây dựng của mỗi đất
nước.


Do tình hình phức tạp trong nước và khu vực, trước yêu cầu, nhiệm vụ bảo
vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ của Lào, tháng 12 năm 1976, Bộ Chính trị Trung ương
Đảng Nhân dân cách mạng Lào ra quyết nghị: tiếp tục đề nghị Việt Nam đưa lực
lượng quân đội sang hỗ trợ quân đội Lào nhằm ổn định tình hình, ngăn ngừa các
nguy cơ chống phá của các thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước.
Trung tuần tháng 9 năm 1977, Đoàn đại biểu quân sự cấp cao nước Cộng hịa
Dân chủ Nhân dân Lào do đồng chí Khăm Tày Xiphănđon, Ủy viên Bộ Chính trị
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Bí thư Quân ủy
Trung ương, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phịng, Chỉ huy tối cao Quân
đội giải phóng nhân dân Lào sang thăm và làm việc với Bộ Quốc phòng Việt
Nam, hai bên đã ký Hiệp ước phòng thủ ngày 22 tháng 9 năm 1977.


Ngày 28 tháng 6 năm 1978, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
ra Sắc lệnh thành lập Binh đoàn 678 trực thuộc Bộ Quốc phịng. Binh đồn 678
do Trung tướng Trần Văn Quang làm tư lệnh kiêm chính ủy, gồm ba sư đồn bộ
binh (324, 968, 337), một số phân đội binh chủng làm nhiệm vụ quốc tế ở Lào.
Binh đồn 678 có nhiệm vụ cùng Lào xây dựng nền kinh tế và nền quốc phịng
tồn dân vững mạnh trong cả nước Lào, tăng cường và bảo vệ khối liên minh


Việt – Lào, không ngừng củng cố và phát triển tình hữu nghị đặc biệt giữa hai
dân tộc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(63)</span><div class='page_container' data-page=63>

Tĩnh…), bảo đảm được an ninh trên các trục đường giao thông chiến lược như
các đường 7, 9, 13… Đặc biệt, sự kiện tháng 5 năm 1985, Quân khu 4 Việt Nam
đã sử dụng tiểu đồn 31 đặc cơng qn khu và một số đơn vị bộ binh cùng các
đơn vị vũ trang Lào phá tan sào huyệt phỉ lớn nhất ở Buôm Lọng, góp phần ổn
định tình hình an ninh của Lào.


Bên cạnh việc phối hợp phịng thủ có hiệu quả, vì lợi ích của cả hai nước,
Việt Nam và Lào còn đẩy mạnh hợp tác về đào tạo quân sự. Chỉ tính riêng trong
năm 1984, Bộ quốc phòng Việt Nam đã cùng Lào đào tạo được 407 cán bộ,
1.381 cán bộ và nhân viên kỹ thuật tại 28 trường; 32 chuyên gia thường trú ở cơ
quan Bộ Quốc phịng, trong đó có công tác quân sự địa phương, 350 chuyên gia
kỹ thuật về các xí nghiệp quốc phịng và các nơng trường... Quân khu 4 Việt
Nam đã hỗ trợ phía Lào thực hiện nhiệm vụ mở cửa ra hướng đơng. Từ đó, các
đơn vị kinh tế thuộc Quân đội nhân dân Lào đã có bước trưởng thành và phát
triển nhanh chóng. Cơng ty Phát triển miền núi Bộ Quốc phòng Lào từ chỗ gặp
nhiều khó khăn do thiếu phương tiện, kỹ thuật đã vươn lên làm chủ tình hình, đưa
Lắc Xao (Khăm Muộn) từ một vùng rừng núi hẻo lánh trở thành một trung tâm
có nhiều xưởng máy, góp phần ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân.
Ghi nhận những đóng góp to lớn của Quân đội nhân dân Việt Nam đối với cách
mạng Lào nói chung và Quân đội nhân dân Lào nói riêng, ngày 18 tháng 12 năm
1984, Chủ tịch nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào Xuphanuvông đã ký quyết
định tặng Huân chương Vàng quốc gia, phần thưởng cao quý của Đảng, Nhà
nước Lào cho Quân đội nhân dân Việt Nam.


Trên lĩnh vực hợp tác an ninh, thực hiện Hiệp ước hữu nghị và hợp tác Lào
- Việt Nam, Bộ Nội vụ Lào đã ký Hiệp định hợp tác toàn diện với Bộ Nội vụ
Việt Nam. Nội dung của Hiệp định cho phép lực lượng an ninh của hai nước, ở


cả Trung ương và các địa phương quan hệ hợp tác, trao đổi kinh nghiệm lẫn
nhau, trao đổi các đoàn đại biểu, các đoàn cán bộ lão thành...


</div>
<span class='text_page_counter'>(64)</span><div class='page_container' data-page=64>

lên được. Điều đó có nghĩa là Việt Nam và Lào phải cùng ổn định và phải cùng
vững mạnh, đó là một quy luật được chứng minh từ sự phát triển của quan hệ
đoàn kết đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam hơn 70 năm qua.


<i><b>- Hợp tác trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, khoa học – kỹ thuật</b></i>


Đây là giai đoạn Lào từng bước thử nghiệm cơ chế quản lý kinh tế mới ở
một số cơ sở quốc doanh, chuyển từ nền kinh tế tự nhiên và nửa tự nhiên sang
kinh tế sản xuất hàng hoá, khuyến khích sản xuất, lưu thơng, xây dựng kinh tế thị
trường có sự điều tiết của Nhà nước. Việt Nam cũng đang trong quá trình từng
bước nghiên cứu, khảo nghiệm để đổi mới cơ chế quản lý từ quan liêu bao cấp
sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa; thực hiện khốn trong nơng nghiệp;
giao quyền tự chủ cho doanh nghiệp cơng nghiệp... nhằm giải quyết những khó
khăn về kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, tiếp tục tìm con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với đặc điểm của dân tộc Việt Nam và xu thế chung
của thế giới.


Ngay từ năm 1983, khi tình hình chính trị, kinh tế - xã hội hai nước bước đầu ổn
định, công cuộc khôi phục kinh tế căn bản hoàn thành, hai nước chuyển sang
nhiệm vụ trọng tâm là phát triển sản xuất và kinh tế. Quan hệ hợp tác kinh tế, văn
hóa, khoa học kỹ thuật giữa hai nước dần thay đổi: từ viện trợ không hoàn lại và
cho vay là chủ yếu sang giảm dần viện trợ và cho vay, bước đầu đẩy mạnh hợp
tác sản xuất kinh doanh bình đẳng cùng có lợi. Thời gian này, Lào đề ra công
thức hợp tác: Tài nguyên Lào, lao động kỹ thuật Việt Nam, vốn hợp tác hoặc vay
<i>của nước thứ ba. Trong hợp tác đã chuyển dần từ hợp tác từng vụ việc theo yêu</i>
cầu của Đảng và Nhà nước Lào sang hợp tác theo chương trình, kế hoạch được
ký kết giữa hai Chính phủ. Đồng thời, hai bên giúp nhau phát huy khả năng và


tiềm năng, thế mạnh của mỗi nước để giải quyết những nhu cầu cấp bách về đời
sống và sản xuất. Đây là những định hướng phù hợp với điều kiện hai nước trong
những năm đầu chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế.


</div>
<span class='text_page_counter'>(65)</span><div class='page_container' data-page=65>

trợ Lào sử dụng các nguồn viện trợ chủ yếu từ các nước xã hội chủ nghĩa và các
tổ chức quốc tế. Từ năm 1976 đến 1985, các nước và các tổ chức này đã viện trợ
khơng hồn lại cho Lào 547,89 triệu rúp, 126,57 triệu USD và cho vay 594,583
triệu rúp.


Trong thời kỳ chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, quan hệ hợp tác toàn diện
giữa hai nước đã từng bước thay đổi cả nội dung và phương thức hợp tác cho phù
hợp với tình hình mới. Tuy nhiên, quan hệ hợp tác giai đoạn này cơ bản dựa trên
cơ sở tinh thần quốc tế vô sản, với phương thức chủ yếu là viện trợ và cho vay
theo cơ chế tập trung bao cấp, chưa tương xứng với yêu cầu của nhân dân hai
nước và tầm cao của quan hệ chính trị giữa hai Đảng và hai Nhà nước Việt Nam
và Lào.


<i>Trong lĩnh vực hợp tác văn hóa, Việt Nam và Lào đều nhận thức sâu sắc ý nghĩa</i>
đặc biệt quan trọng và thiết thân của công việc này đối với cả hai bên. Việc quan
trọng hàng đầu là hai nước hợp tác quảng bá cuộc sống mới bảo vệ và xây dựng
Tổ quốc cũng như truyền thống văn hóa tốt đẹp của mỗi nước. Hàng năm, hai
bên thường xuyên lập kế hoạch giao lưu văn hố nghệ thuật dưới các hình thức:
trao đổi đoàn biểu diễn, tổ chức sáng tác mỹ thuật, tìm hiểu về chủ đề đất nước
và con người, hợp tác xuất bản, in và phát hành sách báo, văn hố phẩm, phim
ảnh. Hai nước cịn giúp nhau cung cấp một số thiết bị chuyên dụng về in, điện
ảnh, sân khấu, phát thanh, truyền hình, đồng thời phối hợp tuyên truyền giáo dục
nhân dân hai nước về mối quan hệ đặc biệt Việt – Lào, Lào – Việt, cũng như phối
hợp tuyên truyền, tổ chức kỷ niệm những ngày lễ lớn, qua đó tăng cường hiểu
biết, gắn bó giữa nhân dân hai nước.



</div>
<span class='text_page_counter'>(66)</span><div class='page_container' data-page=66>

cấp III (đạt 100%). Số lượng học sinh Lào được đào tạo tại Việt Nam ở các loại
trường kể cả phổ thông, trung học chuyên nghiệp, đại học các ngành kinh tế,
chính trị, xã hội, quân sự, an ninh thời kỳ này rất đông, chiếm khoảng 50% số
người được gửi ra nước ngoài. Niên khóa 1983 – 1984 có 206 học sinh tốt nghiệp
cấp II, III (100%); 1985 – 1986 có gần 200 học sinh tốt nghiệp, trong đó 95% tốt
nghiệp cấp III và 70% đạt loại khá, giỏi. Kết quả này là sự nỗ lực cao độ của cả
hai phía, đã góp phần thanh tốn nạn mù chữ, nâng cao một bước trình độ dân trí,
hình thành đội ngũ cán bộ trí thức, đặt nền móng khoa học – kỹ thuật cho sự phát
triển của đất nước Lào. Trong 6 năm, kể từ khi hai nước ký Hiệp ước hữu nghị và
hợp tác, trung bình mỗi năm Việt Nam cử 900 chuyên gia thuộc các lĩnh vực
khác nhau sang hợp tác với Lào và đã đào tạo cho Lào 1/2 số cán bộ của Lào
được đào tạo ở nước ngoài. Từ năm 1976 đến năm 1985, Việt Nam cử 5.957
chuyên gia các lĩnh vực sang hợp tác với Lào.


Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý và cán bộ lý luận
chính trị của Đảng được coi là một nhiệm vụ chiến lược cơ bản thường xuyên của
Đảng, Nhà nước của cả hai nước. Đào tạo cán bộ chủ chốt cho Đảng và Nhà
nước Lào ngày càng trở thành một lĩnh vực hợp tác quan trọng giữa hai Đảng, hai
Nhà nước Việt Nam và Lào. Việt Nam cử nhiều chuyên gia đầu ngành, có kinh
nghiệm sang Lào xây dựng chương trình giảng dạy cho Trường Đảng cao cấp của
Đảng và Nhà nước Lào. Từ năm 1977 – 1989, Trường Nguyễn Ái Quốc X và
Trường Nguyễn Ái Quốc đặc biệt đã phối hợp cùng các cơ quan của hai nước đào
tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị và chun mơn cho khoảng 1.000 cán bộ trung,
cao cấp các ngành tuyên huấn, tổ chức, kiểm tra, phóng viên, giảng viên Trường
Đảng của Lào. Hợp tác giáo dục – đào tạo, phát triển nguồn nhân lực là một
trong những thành tựu đặc biệt, khơng có nơi nào trên thế giới có được, đó là sự
tin cậy lẫn nhau, cùng giúp nhau xây dựng, củng cố nhân tố bên trong hết sức cần
thiết cho công cuộc bảo và vệ xây dựng của mỗi nước.


<i><b>- Hợp tác giữa các địa phương và ngoại giao nhân dân </b></i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(67)</span><div class='page_container' data-page=67>

đồng người Việt Nam tại Lào đã có nhiều đóng góp đáng kể trong vai trị làm cầu
nối quan trọng trong việc giữ gìn và phát triển quan hệ đoàn kết đặc biệt Việt
Nam – Lào, Lào – Việt Nam. Uỷ ban Trung ương Mặt trận, Ban Chấp hành
Trung ương Hội hữu nghị của hai nước gồm đại diện của các cơ quan, ban ngành
ở Trung ương và đại diện các địa phương, phát triển chi hội hữu nghị đến tận cấp
huyện hoặc cơ sở.


Với những thành tựu to lớn đạt được sau chặng đường 10 năm (1976 –
1985), thế và lực của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào ngày càng được củng cố
vững chắc. Đây là lúc Việt Nam lần lượt rút hết chuyên gia thường trú, chuyển
sang chuyên gia vụ, việc ngắn hạn. Sự kiện này chứng minh cho sự trưởng thành
vượt bậc của Lào và hiệu quả của những năm đầu thực hiện Hiệp ước hữu nghị
và hợp tác Việt Nam – Lào. Sự trưởng thành về mọi mặt của Lào đã thể hiện sự
tin cậy lẫn nhau giữa Lào và Việt Nam và hiệu quả của mối quan hệ đặc biệt giữa
hai nước, không những giúp nhau bảo vệ được chủ quyền lãnh thổ mỗi nước
trong những năm đầu mới giải phóng mà cịn giữ vững được chế độ mới dưới sự
lãnh đạo của Đảng, từng bước duy trì ổn định đời sống nhân dân, tìm tịi con
đường xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ, không lệ thuộc nước ngồi. Đây
cũng chính là cơ sở vững chắc để quan hệ hữu nghị, đoàn kết đặc biệt Việt Nam
– Lào, Lào – Việt Nam không ngừng được củng cố và tăng cường trong giai đoạn
đổi mới tiếp theo.


<b>Chủ đề 7</b>



<b>NHỮNG KINH NGHIỆM QUÝ BÁU</b>


<b>VỀ VIỆC GÌN GIỮ, CỦNG CỐ, PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG HỮU</b>
<b>NGHỊ ĐẶC BIỆT VIỆT NAM – LÀO</b>



<b></b>


---Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào là tài sản chung vô giá của hai dân tộc, là
nhân tố bảo đảm thắng lợi cho sự nghiệp cách mạng của mỗi nước.


Để gìn giữ, củng cố và phát huy truyền thống hữu nghị đặc biệt Việt
Nam- Lào, Lào - Việt Nam chúng ta có thể rút ra một số kinh nghiệm sau đây cần
phải được phát huy:


<i><b>Một là: Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào được tạo dựng trên cơ sở xác</b></i>
<i><b>định đúng đắn những quan điểm lý luận về mối quan hệ dân tộc và quốc tế</b></i>
<i><b>trong thời đại mới nhằm thực hiện nhiệm vụ cách mạng do hai nước xác lập. </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(68)</span><div class='page_container' data-page=68>

<i>Dương. Quan hệ đó đã được kiểm nghiệm trong lịch sử, trải qua nhiều thử thách,</i>
hy sinh, gian khổ vì độc lập, tự do, hạnh phúc của hai dân tộc và nhân dân hai
nước, quan hệ Việt Nam – Lào đã trở thành quy luật sống còn và sức mạnh kỳ
diệu đưa tới nhiều thắng lợi vĩ đại của Việt Nam và Lào trong đấu tranh giải
phóng dân tộc, trong xây dựng và bảo vệ đất nước, cùng phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Nếu một trong hai nước xa rời Chủ nghĩa Mác - Lê Nin,
<i>chệch hướng con đường mà Đảng của mỗi nước đã chọn thì có nguy cơ phá vỡ</i>
<i>mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam. Do đó, tình cảm cách</i>
mạng thủy chung, trong sáng của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân
cách mạng Lào là một nhân tố trọng yếu tạo nên độ bền vững và phát triển của mối
quan hệ Việt Nam – Lào.


<i><b>Hai là: Cả hai dân tộc Việt Nam và Lào đều phải quán triệt và thực hiện</b></i>
<i><b>tốt quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh “ Giúp bạn là mình tự giúp mình”</b></i>


Bản chất của quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào được ni dưỡng, phát
triển bằng sức cảm hóa sâu sắc của quan điểm “Giúp bạn là mình tự giúp mình”


do Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ dẫn. Đây là câu nói cơ đọng, giàu ý nghĩa chính trị,
nhân văn, mở ra phương hướng xử lý hài hòa lợi ích của hai dân tộc; là vũ khí sắc
bén chống tư tưởng dân tộc hẹp hòi, ban ơn.


Chúng ta thấy rằng, trong tiến trình cách mạng của hai nước thời gian qua,
mỗi bước phát triển của cách mạng Lào tạo hậu thuẩn cho cách mạng Việt Nam
giành thắng lợi và ngược lại thắng lợi của cách mạng Việt Nam tạo điều kiện cho
cách mạng Lào phát triển.


Trong những năm 1930 - 1939, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông
Dương, các cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam và Lào đã ảnh hưởng lẫn
nhau, góp phần thúc đẩy sự phát triển phong trào cách mạng mỗi nước.


Giai đoạn 1939-1945 cả hai dân tộc Việt Nam- Lào, Lào- Việt Nam đồn
kết giúp nhau giành chính quyền. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945
ở Việt Nam đã đập tan bộ máy thống trị đầu não của phát xít Nhật và thực dân Pháp
ở Đơng Dương, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc khởi nghĩa giành chính quyền của
nhân dân Lào.


Tháng 4 - 1953, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hịa và Chính phủ
Kháng chiến Lào quyết định mở chiến dịch Thượng Lào. Quân đội Việt Nam
phối hợp với quân đội Lào Ítxalạ giải phóng tồn bộ tỉnh Sầm Nưa, một phần
Xiêng Khoảng và Phôngxalỳ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(69)</span><div class='page_container' data-page=69>

Chiến thắng của Liên quân Việt – Lào góp phần làm phá sản kế hoạch tập trung
quân của Nava, buộc địch phải phân tán lực lượng đối phó trên nhiều chiến
trường, tạo điều kiện củng cố, phát triển thế phối hợp chiến lược giữa hai nước
Việt Nam và Lào.


Ngày 13-3-1954, quân và dân Việt Nam mở đầu cuộc tiến cơng tập đồn


cứ điểm Điện Biên Phủ. Phối hợp với chiến trường chính Việt Nam, quân và dân
Lào liên tục đẩy mạnh các hoạt động quân sự từ Bắc xuống Nam Lào để kiềm
chế lực lượng địch, đồng thời ủng hộ mặt trận Điện Biên Phủ.


Ngày 7-5-1954 tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bị tiêu diệt hồn tồn.
Chiến cơng đó đã đánh bại cố gắng chiến tranh cao nhất của thực dân Pháp được
Mỹ viện trợ, giáng một địn quyết dịnh vào ý chí xâm lược của bọn thực dân, đế
quốc, góp phần thúc đẩy quá trình tan rã của chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi
tồn thế giới. Đó là thắng lợi to lớn của nhân dânViệt Nam và cũng là thắng lợi
của khối đoàn kết, liên minh chiến đấu giữa quân đội và nhân dân ba nước Việt
Nam, Lào, Campuchia, mà Việt Nam làm trụ cột trong sự nghiệp kháng chiến
chống kẻ thù chung.


Đầu năm 1961, đế quốc Mỹ và quân đội Sài Gòn đẩy mạnh việc đánh phá
hòng ngăn chặn việc vận chuyển của Đồn 559 trên tuyến Đơng Trường Sơn.
Được sự giúp đỡ tận tình của nhân dân các bộ tộc Lào, các đồn cơng tác qn sự
Việt Nam đã xây dựng được nhiều cơ sở cách mạng, phục vụ cho việc mở tuyến
đường mới dọc Tây Trường Sơn trên đất Lào.


Từ cuối năm 1963, Việt Nam cử chuyên gia quân sự sang làm nhiệm vụ
quốc tế ở Lào và đến giữa năm 1964, thành lập hệ thống chuyên gia quân sự Việt
Nam từ trên cơ quan Tổng tư lệnh Lào xuống đến Bộ tư lệnh các quân khu, tỉnh
đội và cấp tiểu đồn, có nhiệm vụ phối hợp với bạn để nghiên cứu kế hoạch tác
chiến, xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng và củng cố các vùng căn cứ ở Lào.
Đồng thời, các đơn vị quân tình nguyện Việt Nam phối hợp với bộ đội Pathết
Lào mở nhiều chiến dịch, chủ yếu ở khu vực đường 9 – Trung Lào, Cánh đồng
Chum – Xiêng Khoảng, đập tan các cuộc tấn công lấn chiếm của địch, bảo vệ
vững chắc vùng giải phóng Lào, tạo điều kiện thuận lợi cho quân và dân Việt
Nam vận chuyển trên đường Tây Trường Sơn để chi viện cho chiến trường miền
Nam Việt Nam và cách mạng hai nước Lào, Campuchia.



</div>
<span class='text_page_counter'>(70)</span><div class='page_container' data-page=70>

mạng Lào và hỗ trợ thiết thực cho cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam và
Campuchia.


Trước thắng lợi dồn dập, to lớn của nhân dân Việt Nam, Campuchia trong
tháng 4-1975, nhất là chiến thắng giải phóng hồn toàn miền Nam (30-4-1975)
của nhân dân Việt Nam, ngày 5-5-1975, Bộ Chính trị Trung ương Đảng nhân dân
cách mạng Lào tổ chức Hội nghị mở rộng, quyết định phát động toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân trong cả nước nổi dậy đoạt lấy chính quyền và giành thắng lợi
hồn tồn. Nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào ra đời (tháng 12 năm 1975) là
thắng lợi to lớn, triệt để của nhân dân các bộ tộc Lào, đồng thời cũng là thắng lợi
quan trọng của mối quan hệ đặc biệt, liên minh đoàn kết chiến đấu, thủy chung,
son sắt giữa hai dân tộc Việt Nam – Lào.


Mối quan hệ đó xuẩt phát từ yêu cầu khách quan của công cuộc đấu tranh
giải phóng mang bản chất quốc tế vơ sản, mang lại hiệu quả rõ rệt. Trong sự
nghiệp chung đó, Lào và Việt Nam đã trở thành những người bạn, những người
đồng chí, những người anh em máu thịt, chung một kẻ thù, chung một chiến hào
đánh thực dân Pháp, đánh đế quốc Mỹ. Đó là một mối quan hệ xưa nay hiếm
-một mối quan hệ láng giềng tự nhiên, có lịch sử gắn bó lâu dài, chung -một dãy
Trường Sơn, chung một dịng sơng Mê Kơng, chung một ý thức hệ... Hai Đảng,
hai nhà nước không những đã đoàn kết, giúp đỡ, tương trợ lẫn nhau chống kẻ thù
chung là Pháp và Mỹ mà còn giúp đỡ nhau có hiệu quả trong cơng cuộc đổi mới
và xây dựng đất nước. Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam trải qua
nhiều thử thách khắc nghiệt, đầy hy sinh gian khổ vì độc lập tự do, hạnh phúc của
hai dân tộc và nhân dân hai nước đã trở thành quy luật sống còn và sức mạnh kỳ
diệu đưa tới những thắng lợi vĩ đại của Việt Nam và Lào trong đấu tranh giành
chính quyền, kháng chiến chống thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ xâm lược; tiến
hành thành công sự nghiệp đổi mới đưa hai nước cùng phát triển theo con đường
xã hội chủ nghĩa.



Vì vậy, cần có một nhận thức thống nhất trong cán bộ và nhân dân hai
nước về tính chất đặc biệt này. Cả hai bên cần có tầm nhìn rộng hơn, tồn diện và
lâu dài hơn chứ khơng chỉ ở các lợi ích kinh tế thuần túy và ngắn hạn.


<i><b>Ba là: Đảng cộng sản Việt Nam và Đảng nhân dân cách mạng Lào</b></i>
<i><b>phải luôn coi trọng thực hiện nguyên tắc tôn trọng quyền độc lập, tự chủ,</b></i>
<i><b>bình đẳng và dân chủ của hai bên</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(71)</span><div class='page_container' data-page=71>

Lào phụ trách. Cách mạng Lào do đồng chí Lào lãnh đạo, Đường lối chủ trương
do Đảng Lào đề ra. Việt Nam góp ý kiến. Cũng có lúc Việt Nam thấy vấn đề
trước thì Việt Nam đề xuất ý kiến trước, nhưng quyền quyết định vẫn do Đảng
Lào”.


Ở phạm vi quan hệ giữa Đảng Lào với các Đảng anh em khác thì “ Đảng
Lào tự mình bàn bạc thương lượng với các Đảng anh em trong mọi vấn đề có
liên quan. Trong phạm vi nào đó theo yêu cầu của các Đảng anh em và với sự
thỏa thuận của Đảng Lào, Việt Nam có thể làm trung gian giúp đỡ”


Về quan hệ giữa hai nước, hai chính phủ, đồng chí Lê Duẩn cho rằng: “Tất
nhiên có những quan hệ khác hơn quan hệ hai Đảng. Những vấn đề lớn trong
quan hệ giữa hai chính phủ thì hai Đảng cũng cần có sự trao đổi ý kiến trước với
nhau”


Về phía Lào, giải thích rõ nguyên tắc độc lập, tự chủ và giá trị của nó,
trong bài phát biểu tại Hội nghị cán bộ toàn quốc Lào ngày 13 tháng 5 năm 1974,
Chủ tịch Cayxỏnphomvihản nói: “Sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta phải do
nhân dân ta tự làm lấy. Đảng ta là một Đảng lãnh đạo cách mạng thực sự, do đó
phải giữ vững nguyên tắc độc lập tự chủ thì mới chứng minh một cách đầy đủ
chủ nghĩa yêu nước nồng nàn kết hợp với tinh thần quốc tế vô sản trong sáng”.



Trên cơ sở nhận thức q trình tồn cầu hóa và sự hội nhập giữa các nước
trong khu vực Đơng Nam Á. Báo cáo Chính trị tại Đại hội lần thứ VIII Đảng
nhân dân cách mạng Lào ( tháng 3/2006) nêu rõ: “ Kiên định quan điểm chủ
động và thái độ tích cực trong hội nhập quốc tế và khu vực bằng việc phát huy
cao độ sức mạnh của dân tộc và tiềm năng của đất nước. Cộng hòa Dân chủ Nhân
dân Lào sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước nhằm đảm bảo lợi
ích chung và lợi ích riêng của mỗi bên”


Đại hội XI Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Thực hiện nhất quán
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hợp tác và phát triển.”


</div>
<span class='text_page_counter'>(72)</span><div class='page_container' data-page=72>

<i><b>Bốn là: Để việc gìn giữ, củng cố, phát huy truyền thống hữu nghị đặc</b></i>
<i><b>biệt Việt Nam – Lào ngày càng tốt đẹp, hai Đảng, hai Nhà Nước cần </b><b> thường</b></i>
<i><b>xun thơng báo cho nhau về tình hình mỗi Ðảng, mỗi nước</b></i>


Thường xuyên trao đổi về các phương hướng, biện pháp không ngừng
phát triển quan hệ hai Ðảng, hai nước, cũng như những vấn đề quốc tế và khu
vực cùng quan tâm.


Thường xuyên trao đổi một số biện pháp nhằm triển khai thực hiện có
hiệu quả các thỏa thuận cấp cao hai Đảng, hai nước


Chính phủ hai nước cần tích cực chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương triển
khai thực hiện Hiệp định hợp tác 5 năm 2011-2015 và Chiến lược hợp tác 10 năm
2011- 2020.


Tăng cường quan hệ hợp tác giúp đỡ lẫn nhau giữa các địa phương của hai
nước, nhất là các địa phương có chung biên giới



Sớm kiện toàn tổ chức bộ máy, đổi mới cơ chế và nâng cao hiệu quả hoạt
động của Ủy ban Liên Chính phủ và bộ phận thường trực Phân ban hợp tác Việt
Nam-Lào, Lào-Việt Nam.


Tiếp tục đi sâu trao đổi thông tin, kinh nghiệm, nhất là những vấn đề lý
luận và thực tiễn về xây dựng Đảng, về công nghiệp hóa, hiện đại hóa


Phối hợp đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục cho các tầng lớp nhân dân, nhất
là thế hệ trẻ về mối quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào trong giai đoạn mới, trong đó
đặc biệt quan tâm việc tun truyền, giáo dục dưới nhiều hình thức về Cơng trình
Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam.


Hai bên cần chủ động chuẩn bị kỹ, trao đổi thống nhất và phối hợp chặt
chẽ về nội dung, chương trình hoạt động của “Năm đồn kết hữu nghị 2012”
trong đó có việc Lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước thăm chính thức lẫn nhau
để cùng khai mạc và bế mạc “Năm đoàn kết hữu nghị 2012,”


Tổ chức khởi công hoặc khánh thành một số công trình trọng điểm tạo dấu
ấn về quan hệ đồn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện Việt-Lào.


</div>
<span class='text_page_counter'>(73)</span><div class='page_container' data-page=73>

sự phát triển phồn vinh của mỗi nước, vì hịa bình ổn định, hợp tác và phát triển ở
khu vực và trên thế giới.


<i>Các tài liệu tham khảo</i>


<i>1. Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào - Việt Nam 1930 – 2007;</i>
<i>NXB Chính trị quốc gia - sự thật, Hà Nội -2011</i>


<i>2. Nâng tầm quan hệ đoàn kết đặc biệt Việt Lào; QĐND - Chủ nhật,</i>
<i>07/08/2011</i>



<i>3. Chinhphu.vn) Hội nghị quan hệ hợp tác Quốc hội Việt Nam – Lào:</i>
<i>Đoàn kết – Hữu nghị được tổ chức tại Sơn La, một hoạt động lớn mở đầu cho</i>
<i>dịp kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao và 35 năm Hiệp ước Hữu nghị</i>
<i>và Hợp tác Việt - Lào. </i>


<i>4. Hồng Bình Qn ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng ban đối ngoại</i>
<i>Trung ương - thành viên chính thức của Đồn trả lời phỏng vấn nhóm phóng</i>
<i>viên báo chí cùng đi nhân chuyến thăm nước CHDCND Lào từ ngày 20 đến</i>
<i>22.6.2011</i>


<i>5. QĐND. Tình nghĩa anh em Việt - Lào keo sơn, bền chặt !Ghi chép của</i>
<i>phóng viên Báo Nhân Dân. Thứ tư, 25/04/2012 </i>


<i>6. QĐND. Khơng ngừng phát huy tình đoàn kết, hữu nghị đặc biệt Việt</i>
<i>Nam - Lào 22/4/2012</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(74)</span><div class='page_container' data-page=74>

<b>Chủ đề 8 </b>



<b>TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY </b>
<b>MỐI QUAN HỆ ĐẶC BIỆT VIỆT NAM – LÀO, LÀO - VIỆT NAM</b>
<b>TRONG LỊCH SỬ CỦA HAI DÂN TỘC VÀ TRÊN NHỮNG CHẶNG</b>


<b>ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN MỚI</b>
<b>--- </b>


<i>Trong lịch sử quan hệ quốc tế từ xưa tới nay, quan hệ Việt Nam - Lào,</i>
<i>Lào - Việt Nam là một điển hình, một tấm gương mẫu mực, hiếm có về sự gắn</i>
<i>kết, bền chặt, thủy chung, trong sáng và đầy hiệu quả giữa hai dân tộc đấu tranh</i>
<i>giành độc lập tự do và tiến bộ xã hội. Mối quan hệ đó được lãnh đạo hai Đảng</i>


<i>hai Nhà nước khẳng định là mối quan hệ đặc biệt . Điều này cắt nghĩa cho việc</i>
<i>giữ gìn và phát huy mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam trong</i>
<i>lịch sử và trên những chặng đường phát triển mới là vô cùng quan trọng.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(75)</span><div class='page_container' data-page=75>

Lãnh thổ Việt Nam trải dài theo chiều dọc của bán đảo, mặt hướng ra biển
đông với bờ biển dài 3400 km, tiếp giáp với Vịnh Bắc bộ, biển Đơng và Vịnh
Thái Lan, có nhiều cảng biển lớn, nhất là các các biển nước sâu ở Miền Trung.


Việt Nam và Lào là những nước thuộc loại “vừa” và “tương đối nhỏ” sống
bên cạnh nhau chiếm vị trí địa chiến lược quan trọng ở vùng Đông Nam Á do
nằm kề con đường giao thương hàng hải hàng đầu thế giới, nối liền Đông Bắc Á,
Nam Á qua Tây Thái Bình Dương và Ấn độ Dương. Về quốc phịng, bờ biển
Việt Nam ở phía Đơng tương đối dài nên việc bố phịng về mặt biển gặp khơng ít
trở ngại. Trong khi đó dựa vào địa hình hiểm trở, nhất là với dãy Trường Sơn
-một “lá chắn chiến tranh” hùng vĩ, -một lợi thế tự nhiên che chắn cho cả Việt Nam
và Lào, nên chẳng những hai nước có thể khắc phục được những điểm yếu “hở
sườn” ở phía đơng mà cịn phát huy được sự cần thiết dựa lưng vào nhau tạo ra
vô vàn cách đánh của chiến tranh du kích, chiến tranh nhân dân bảo vệ tổ quốc.
Nhân dân hai nước có thể lấy ít đánh nhiều, lấy yếu chống mạnh, giành thắng lợi
từng bước, tiến lên đánh bại mọi kẻ thù xâm lược. Về địa - quân sự, Cánh đồng
Chum- Xiêng Khoảng, hay cao nguyên BôlaVên của Lào và Tây Nguyên của
Việt Nam, vùng rừng núi Tây Bắc Việt Nam và Đông Bắc Lào....đều là những vị
trí có tầm chiến lược hàng đầu trên bán đảo Đông Dương. Nhiều nhà chiến lược
và quân sự cho rằng: Ai nắm được địa bàn chiến lược trên, người đó sẽ làm chủ
tồn bộ chiến trường Đơng Dương. Điều đó cắt nghĩa về tầm quan trọng phải
giũ gìn và phát huy mối quan hệ đặc biệt Việt Lào lên tầm cao mới


</div>
<span class='text_page_counter'>(76)</span><div class='page_container' data-page=76>

thể, toàn diện về mặt lý luận cho mối quan hệ giữa phong trào cách mạng Việt
nam và phong trào cách mạng Lào, đặt phong trào cách mạng Việt Nam và
phong trào cách mạng Lào với các tổ chức Đảng trong các xứ Bắc kỳ, Trung kỳ,


Nam Kỳ, Ai lao, Cao Miên dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Đông Dương.


Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam đã được khẳng định
trong lịch sử, in đậm những mốc son sáng chói về tình nghĩa ruột, thịt, thủy
chung trong sáng, nương tựa lẫn nhau, sống chết có nhau: Nhân dân Lào đã cùng
Việt Kiều tích cực đấu tranh chống chế độ thuộc địa, phối hợp và ủng hộ cách
mạng Việt Nam giai đoạn 1930 – 1939 và tiến hành cuộc vận động khởi nghĩa
vũ trang giành chính quyền giai đoạn 1939- 1945. Hợp tác giúp nhau chống thực
dân Pháp xâm lược; phối hợp đấu tranh thực hiện Hiệp định Giơ ne Vơ, chống
Chiến lược chiến tranh đặc biệt của Đế quốc Mỹ, thiết lập quan hệ ngoại giao
( 1954- 1962); phát triển liên minh chiến đấu, đánh thắng các chiến lược chiến
tranh của Đế quốc Mỹ, giành thắng lợi hoàn toàn ( 1973 -1975 ); Quan hệ đặc
biệt Việt Nam – Lào, Lào - Việt Nam trong giai đoạn khảo nghiệm, mở đường
đổi mới ( 1976 – 1986) Quan hệ đoàn kết đặc biệt, hợp tác toàn diện Việt Nam
-Lào, Lào - Việt Nam thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế ( 1986 – nay). Trong
tiến trình cách mạng đó, mỗi bước phát triển của cách mạng Lào tạo hậu thuẩn
cho cách mạng Việt Nam giành thắng lợi và ngược lại thắng lợi của cách mạng
Việt Nam tạo điều kiện cho cách mạng Lào phát triển. Mối quan hệ đó xuẩt phát
từ yêu cầu khách quan của cơng cuộc đấu tranh giải phóng mang bản chất quốc tế
vô sản, mang lại hiệu quả rõ rệt. Trong sự nghiệp chung đó, Lào và Việt Nam đã
trở thành những người bạn, những người đồng chí, những người anh em máu thịt,
chung một kẻ thù, chung một chiến hào đánh thực dân Pháp, đánh đế quốc
Mỹ. Đó là một mối quan hệ xưa nay hiếm - một mối quan hệ láng giềng tự nhiên,
có lịch sử gắn bó lâu dài, chung một dãy Trường Sơn, chung một dịng sơng Mê
Kơng, chung một ý thức hệ... Hai Đảng, hai Nhà nước khơng những đã đồn kết,
giúp đỡ, tương trợ lẫn nhau chống kẻ thù chung là Pháp và Mỹ mà cịn giúp đỡ
nhau có hiệu quả trong công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước. Quan hệ đặc
biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam trải qua nhiều thử thách khắc nghiệt, đầy hy
sinh gian khổ vì độc lập tự do, hạnh phúc của hai dân tộc và nhân dân hai nước
<i>đã trở thành quy luật sống còn và sức mạnh kỳ diệu đưa tới những thắng lợi vĩ</i>


đại của Việt Nam và Lào trong đấu tranh giành chính quyền, kháng chiến chống
thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ xâm lược; tiến hành thành công sự nghiệp đổi mới
đưa hai nước cùng phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(77)</span><div class='page_container' data-page=77>

Minh đã nêu rõ: “Việt - Lào hai nước chúng ta. Tình sâu như nước Hồng Hà, Cửu
Long”. Chủ tịch Cayxỏn phômvihản khẳng định: “ Trong lịch sử cách mạng thế
giới cũng đã có những tấm gương sáng chói về tinh thần quốc tế vô sản, nhưng
chưa ở đâu và chưa bao giờ có sự đồn kết, liên minh chiến đấu đặc biệt lâu dài
toàn diện như vậy”.


<i>1.Tượng đài anh hùng liệt sĩ quân tình nguyện Việt Nam tại Xiêng Khoảng</i>


<i>11 tình nguyện viên Việt Nam đạp xe vượt quãng đường gần 700km từ Hà Nội sang Viêng</i>
<i>Chăn (Lào) nhằm góp phần bảo vệ mơi trường, củng cố và phát triển tình đồn kết, hữu nghị</i>


<i>Việt- Lào.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(78)</span><div class='page_container' data-page=78>

nghiệm thực tiễn về công cuộc đổi mới và xây dựng Đảng; hồn thành và cơng
bố các sản phẩm của Cơng trình Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào; hợp
tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực được ưu tiên và mở rộng với nhiều hình
thức được thực hiện từ Trung ương tới các bộ, ngành, địa phương, tổ chức, doanh
nghiệp. Hai bên đã ký Đề án nâng cao chất lượng và hiệu quả hợp tác Việt Nam –
Lào trong lĩnh vực giáo dục và phát triển nguồn nhân lực, giai đoạn 2011 – 2020.
Những năm gần đây, hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư giữa hai nước tiếp tục
được tăng cường; Việt Nam là nước đứng thứ hai trong số các nước đầu tư vào
Lào với 5200 cán bộ lưu học sinh Lào đang học tập tại các cơ sở đào tạo của Việt
Nam và 500 lưu học sinh Việt Nam đang học tập tại Lào. Thương mại hai chiều
năm 2011 đạt 734 triệu USD, tăng 50% so với năm 2010. Hoạt động đầu tư của
các doanh nghiệp Việt Nam tại Lào với hơn 400 dự án, tổng vốn đầu tư trên 5 tỷ
U SD. Dự báo đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam sẽ tăng 7 tỷ USD vào năm


2015, kim ngạch 2 chiều đạt 2-3 tỷ USD vào năm 2015 và 5 tỷ USD vào năm
2020. Trong năm 2012, hàng loạt các cơng trình, dự án sẽ hoàn thành chào mừng
Năm đoàn kết hữu nghị Việt - Lào, như Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại
Lào, Đường 2E, Nhà máy thủy điện Xe KhamAn, Trường PTTH dân tộc nội trú
HuaPhan


Tại kỳ họp lần thứ 33 Ủy ban liên Chính phủ, hai bên đã ký thỏa thuận về
Chiến lược hợp tác giai đoạn 2011 – 2020; Hiệp định hợp tác Việt Nam – Lào
giai đoạn 2011 – 2015; Hiệp định hợp tác Việt Nam – Lào năm 2011. Bên cạnh
đó, Việt Nam và Lào thường xuyên trao đổi thông tin và phối hợp chặt chẽ trong
các vấn đề quốc tế và khu vực, hoạt động tại các tổ chức và các diễn đàn đa
phương. Sự ủng hộ mạnh mẽ và toàn diện của hai Đảng, hai nước dành cho nhau
trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước của mỗi nước là vô cùng quan
trọng và to lớn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(79)</span><div class='page_container' data-page=79>

dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân Dân Cách Mạng Lào, nhân dân Lào anh em sẽ
tiếp tục giành được nhiều thành tựu mới, to lớn hơn nữa trong công cuộc đổi mới,
thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, xây dựng thành công nước
Lào hịa bình, độc lập, dân chủ, thống nhất và thịnh vượng


Bước sang thế kỷ XXI, tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế diễn
<b>ra ngày càng mạnh mẽ, sâu sắc trong thế giới hiện đại trên tất cả các lĩnh vực,</b>
đặc biệt kinh tế, khoa học, cơng nghệ, thương mại...Đó là xu thế khách quan lơi
cuốn ngày càng nhiều nước tham gia, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực,
vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh. Tồn cầu hóa vừa có thời cơ cho sự hội nhập và
phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời cũng là những thách thức to lớn, nhiều khi
hoàn toàn mới mẽ đối với các nước đang cịn ở trong tình trạng chậm phát triển.
Thế giới đứng trước những vấn đề tồn cầu mà khơng một quốc gia riêng lẽ nào
có thể tự giải quyết nếu khơng có sự hợp tác đa phương. Mặt khác vị trí chiến
lược của Đông Nam Á ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương từ lâu đã trở thành


địa bàn tranh chấp ảnh hưởng và quyền lực giữa các nước lớn trên thế giới. Cùng
với sự phát triển như vũ bão của q trình tồn cầu hóa, khu vực hóa, Đơng Nam
Á ngày càng trở nên sống động, không chỉ bởi sự gia tăng hợp tác và liên kết nội
khối, mà còn trở thành nơi hội tụ của các sáng kiến mới thúc đẩy quan hệ hợp tác
ASEAN với các đối tác bên ngoài, đặc biệt là với các nước lớn và các nước đang
phát triển. Trước xu thế đó, các nhà lãnh đạo ASEAN càng nhận thức rõ hơn tính
bức thiết trong việc đẩy nhanh tiến trình hội nhập trong nội khối cũng như ngồi
khu vực. Chính vì vậy, Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đại hội IX
của Đảng NDCM Lào tiếp tục khẳng định đường lối, chính sách coi trọng và
khơng ngừng củng cố và tăng cường quan hệ hữu nghị truyền thống, đoàn kết đặc
biệt và sự hợp tác toàn diện Việt Nam – Lào, coi đó là di sản vơ giá của hai dân
<i>tộc và là quy luật phát triển, là một trong những nhân tố đảm bảo thắng lợi của</i>
<i>sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở mỗi nước. Việc đưa quan hệ Việt Nam </i>
-Lào lên tầm cao mới sẽ đáp ứng nguyện vọng chính đáng của nhân dân Việt Nam
và nhân dân Lào, đồng thời đóng góp tích cực cho hịa bình, ổn định, hợp tác và
phát triển ở khu vực và trên thế giới.


</div>
<span class='text_page_counter'>(80)</span><div class='page_container' data-page=80>

chung, trong sáng giữa hai Ðảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước và là bằng
chứng hai Đảng, hai nhà nước và hai dân tộc luôn ưu tiên và coi trọng, quan tâm
và chăm sóc để mối quan hệ Việt-Lào “mãi mãi xanh tươi, đời đời bền vững”


Tuyên bố chung về kết quả cuộc hội đàm giữa Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng và Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Choummaly Sayasone trong chuyến thăm
hữu nghị chính thức Việt Nam của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Choummaly
Sayasone đã khẳng định:


Đẩy mạnh hơn nữa quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào trên cơ sở
phát huy tinh thần độc lập, tự chủ và ý chí tự lực, tự cường, hợp tác bình đẳng và
cùng có lợi, kết hợp thỏa đáng tính chất đặc biệt của quan hệ Việt Nam - Lào với
thơng lệ quốc tế, vì sự phát triển phồn vinh của mỗi nước, vì hịa bình, ổn định,


hợp tác và phát triển ở Đông Nam Á và trên thế giới.


Lãnh đạo hai Đảng, hai Nhà nước thường xuyên trao đổi một số biện pháp
nhằm triển khai thực hiện có hiệu quả các thỏa thuận cấp cao hai Đảng, hai nước.
Trong đó đặc biệt chú ý việc Chính phủ hai nước cần tích cực chỉ đạo các Bộ,
Ngành,địa phương triển khai thực hiện Hiệp định hợp tác 5 năm 2011-2015 và
Chiến lược hợp tác 10 năm 2011- 2020;


Tăng cường quan hệ hợp tác giúp đỡ lẫn nhau giữa các địa phương của hai
nước, nhất là các địa phương có chung biên giới; sớm kiện tồn tổ chức bộ máy,
đổi mới cơ chế và nâng cao hiệu quả hoạt động của Ủy ban Liên Chính phủ và bộ
phận thường trực Phân ban hợp tác Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam.


Tiếp tục đi sâu trao đổi thông tin, kinh nghiệm, nhất là những vấn đề lý
luận và thực tiễn về xây dựng Đảng, về cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa; phối hợp
đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ về
mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào trong giai đoạn mới, trong đó đặc biệt quan
tâm việc tuyên truyền, giáo dục dưới nhiều hình thức về Cơng trình Lịch sử quan
hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam.


Chủ động chuẩn bị kỹ, trao đổi thống nhất và phối hợp chặt chẽ về nội
dung, chương trình hoạt động của “Năm đồn kết hữu nghị 2012” trong đó có
việc Lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước thăm chính thức lẫn nhau để cùng khai
mạc và bế mạc “Năm đoàn kết hữu nghị 2012,” tổ chức khởi công hoặc khánh
thành một số cơng trình trọng điểm tạo dấu ấn về quan hệ đoàn kết đặc biệt và
hợp tác toàn diện Việt-Lào


</div>
<span class='text_page_counter'>(81)</span><div class='page_container' data-page=81>

hai nước cũng làm hết sức mình để giữ gìn và vun đắp cho mối quan hệ đặc biệt
Việt Nam - Lào mãi mãi xanh tươi, đời đời bền vững, truyền mãi cho các thế hệ
mai sau; không ngừng phát triển quan hệ hai nước ngày càng đi vào chiều sâu,


hiệu quả và thiết thực, vì sự phát triển phồn vinh của mỗi nước, vì hịa bình ổn
định, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới.


Phối hợp tổ chức các hoạt động kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại
giao (1962-2012) và 35 năm ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác Việt Nam - Lào
(1977-2012). Phối hợp chặt chẽ để thực hiện thắng lợi thoả thuận chiến lược về
hợp tác kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học - kỹ thuật giữa hai nước giai đoạn
2011-2020, Hiệp định hợp tác giai đoạn 2011-2015 và Hiệp định hợp tác năm
2011; tập trung hợp tác xây dựng một số cơng trình kinh tế có vai trị kết nối nền
kinh tế hai nước và kết nối với khu vực và thế giới.


Tăng cường hợp tác trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh; hồn thành dự án
tăng dày và tơn tạo hệ thống mốc quốc giới vào năm 2014 và tiếp tục xây dựng
tuyến biên giới Việt Nam - Lào. Khẳng định mong muốn cùng các bên liên quan
giải quyết vấn đề biển Đơng bằng biện pháp hịa bình, phù hợp với luật pháp
quốc tế, Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 và Tuyên bố về
cách ứng xử của các bên ở biển Đơng (DOC), nhằm giữ gìn hịa bình, ổn định và
hợp tác ở khu vực. Hai Đảng ln duy trì, giữ vững và giúp đỡ lẫn nhau một
cách chí tình và vơ tư, trong sáng để cùng phát triển, đồng thời giữ vững các mục
tiêu cách mạng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở mỗi nước.


<i><b>Các tài liệu tham khảo</b></i>


<i>1. Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào - Việt Nam 1930 – 2007;</i>
<i>NXB Chính trị quốc gia - sự thật, Hà Nội -2011</i>


<i>2. Nâng tầm quan hệ đoàn kết đặc biệt Việt Lào; QĐND - Chủ nhật,</i>
<i>07/08/2011</i>


<i>3. Chinhphu.vn) Hội nghị quan hệ hợp tác Quốc hội Việt Nam – Lào:</i>


<i>Đoàn kết – Hữu nghị được tổ chức tại Sơn La, một hoạt động lớn mở đầu cho</i>
<i>dịp kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao và 35 năm Hiệp ước Hữu nghị</i>
<i>và Hợp tác Việt - Lào. </i>


<i>4. Hồng Bình Quân ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng ban đối ngoại</i>
<i>Trung ương - thành viên chính thức của Đồn trả lời phỏng vấn nhóm phóng</i>
<i>viên báo chí cùng đi nhân chuyến thăm nước CHDCND Lào từ ngày 20 đến</i>
<i>22.6.2011</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(82)</span><div class='page_container' data-page=82>

<i>6. QĐND. Khơng ngừng phát huy tình đoàn kết, hữu nghị đặc biệt Việt</i>
<i>Nam - Lào 22/4/2012</i>


<i>7. Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ</i>
<i>XI - Nhà xuất bản chính trị quốc gia - sự thật, Hà Nội - 2011</i>




<b>---Chủ đề 9</b>



<b>NHỮNG CẢM NGHĨ VỀ NỀN VĂN HOÁ,</b>
<b>VỀ ĐẤT NƯỚC VÀ CON NGƯỜI LÀO</b>


<b></b>
<b>---1. Đất nước và con người Lào</b>


Nước Lào có tổng diện tích 236.800 km2, có đường biên giới giáp 5 nước:
Phía bắc giáp Trung Quốc, phía tây bắc giáp My-an-ma, phía tây giáp Thái Lan,
phía nam giáp Căm-Pu-Chia và phía đơng giáp Việt Nam. Lào có 17 tỉnh và
thành phố trực thuộc trung ương, trong đó có 10 tỉnh chung đường biên giới với
Việt Nam với chiều dài 2067 km (Riêng đường biên giới chung với Quảng Trị là


206 km, gồm 2 tỉnh Savằnnkhet và Salavan).


Rừng núi chiếm 3/4 diện tích, có nhiều lâm sản, động vật và khống sản
q hiếm. Khí hậu được chia làm 2 mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10,
mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Có dịng Mê-cơng chảy từ bắc xuống
nam dài 1865 km. Có núi Phu-bia cao 2820m so với mặt nước biển, là đỉnh cao
nhất nước Lào. Có cố đơ Lng-pha-ra-băng là di sản văn hố thế giới, hàng năm
thu hút rất nhiều khách du lịch.


</div>
<span class='text_page_counter'>(83)</span><div class='page_container' data-page=83>

thành Lạn Xạng (Triệu Voi). Trong nhiều thập kỷ tiếp theo, Lào nhiều lần phải
chống các cuộc xâm lược của Miến Điện và Xiêm. Đến thế kỷ XVIII, Thái Lan
giành quyền kiểm sốt trên một số tiểu vương quốc cịn lại. Các lãnh thổ này nằm
trong phạm vi ảnh hưởng của Pháp trong thế kỷ XIX và bị sáp nhập vào Liên
bang Đông Dương năm 1893. Trong thế chiến thứ 2, Pháp bị Nhật thay chân ở
Đông Dương. Sau khi Nhật đầu hàng quân Đồng minh ngày 12 tháng 10 năm
1945, Lào tuyên bố độc lập. Đầu năm 1946, Pháp quay trở lại xâm lược Lào.
Năm 1949, quốc gia này nằm dưới sự lãnh đạo của Vua SisavangVong và mang
tên Vương quốc Lào. Tháng 7 năm 1954, Pháp ký hiệp định Giơnevơ cơng nhận
nền độc lập và tồn vẹn lãnh thổ của Lào.


Từ năm 1955 đến năm 1975, Vương quốc Lào lệ thuộc mạnh mẽ vào Hoa
Kỳ trong cuộc chiến chống Cộng sản tại Đơng Dương, tình hình đó đã lôi kéo
Lào vào cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai, là yếu tố dẫn đến nội chiến
Lào và xảy ra một vài cuộc đảo chính.


Thi hành Nghị Quyết Đại hội II của Đảng Cộng sản Đông Dương
(02/1951), ngày 22/3/1955, Đại hội thành lập Đảng Nhân Dân Lào khai mạc tại
một khu rừng thuộc tỉnh Hưa phen (Sầm Nưa). Đảng Nhân Dân Lào lấy Chủ
nghĩa Mác-Lênin làm kim chỉ nam cho hành động, xác định kẻ thù của cách
mạng Lào là đế quốc Mỹ, phái thực dân Pháp phá hoại hiệp định đình chiến và bè


lũ tay sai của chúng. Đảng đề ra nhiệm vụ chiến lược trong giai đoạn mới là:
<i>“đoàn kết, lãnh đạo toàn dân, phấn đấu hồn thành sự nghiệp giải phóng dân</i>
<i>tộc, thực hiện một nước Lào hịa bình, độc lập, dân chủ, thống nhất và thịnh</i>
<i>vượng”.</i>


Từ năm 1968, được sự giúp đỡ của quân tình nguyện Việt Nam đã hỗ trợ
các đơn vị tham chiến cùng quân Pathét chống lại sự xâm lược của đế quốc Mỹ.
Sức mạnh tổng hợp của cách mạng Lào trong khối liên minh đoàn kết chiến đấu
với các nước Đông Dương đã dồn đế quốc Mỹ và tay sai ở Lào vào thế bị động,
khốn quẩn chưa từng thấy. Mỹ thấy không thể thắng được Pathét Lào bằng sức
mạnh quân sự do đó phải chấp nhận phương sách “hịa hỗn” với các lực lượng
cách mạng Lào.


</div>
<span class='text_page_counter'>(84)</span><div class='page_container' data-page=84>

Năm 1975, dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, phong
trào cộng sản Pathét Lào đã lật đổ chính quyền hồng tộc. Ngày 29/11/1975, nhà
vua Lào phải tuyên bố thoái vị, chấm dứt chế độ quân chủ Lào. Ngày
02/12/1975, Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc Lào quyết định xóa bỏ chế độ
quân chủ, thành lập nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào. Đồng chí
Suphanuvong được cử giữ chức Chủ tịch Nước, đồng chí Cayxỏnphơmvihẳn
Tổng Bí Thư được cử làm Thủ tướng. Từ đó, ngày 02 tháng 12 được lấy làm
ngày Quốc khánh của nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào.


Sau hơn 30 năm ròng rã đấu tranh, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng,
cuộc cách mạng Dân tộc Dân chủ Nhân dân Lào đã kết thúc thắng lợi trọn vẹn.
Việc khai sinh nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào (02/12/1975) đã kết thúc
vẻ vang cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân các bộ tộc Lào kéo dài
suốt 197 năm kể từ khi phong kiến Xiêm đặt ách thống trị Lào vào năm 1778.
Đây là một thắng lợi oanh liệt nhất và vĩ đại nhất trong lịch sử đấu tranh dựng
nước và giữ nước hàng nghìn năm của nhân dân các bộ tộc Lào. Với thắng lợi
này, nhân dân các bộ tộc Lào bước vào kỷ nguyên độc lập, tự do, hòa bình và tiến


bộ.


Lào có 17 tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương, thủ đô là Viêng Chăn,
các thành phố lớn như: Luống Phả Bang (là kinh đô đầu tiên của Lào), Xả Vằn
Na Khệt, Pạc Xế… Dân số của Lào hiện nay có khoảng 7 triệu người, bao gồm
ba bộ tộc chính là Lào Lùm, Lào Thơng và Lào Sủng, ngồi ra cịn có khoảng
2-5% là người Việt, Người Hoa, người Thái cùng chung sống, tập trung ở các thành
phố.


<b>2. Nền văn hoá Lào: </b>


Nước Lào, trước đây còn gọi là Vương quốc Lạn Xạng, “Lạn” tiếng Lào là
triệu, “xạng” là voi. Lạn Xạng có nghĩa là “Triệu Voi”. Được mệnh danh là
“Miền đất Triệu voi”- Lào nằm ở nơi giao hội của hai nền văn minh vĩ đại và
hùng mạnh nhất châu Á là Ấn Độ và Trung Hoa, người dân Lào đã hấp thụ
những phong tục và tín ngưỡng của hai nền văn minh ấy để hình thành nên một
nền văn hóa đặc sắc của riêng mình hết sức độc đáo.


Nền văn hóa Lào là nền văn hóa Phật giáo. Đạo Phật đã ăn sâu vào tư
tưởng của người Lào, ảnh hưởng này được phản ánh trong ngôn ngữ và nghệ
thuật, tạo nên một dân tộc Lào rất riêng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(85)</span><div class='page_container' data-page=85>

nhỏ, Lào là nước có tỉ lệ chùa so với dân cao nhất thế giới, chùa chiền, đền tháp
là nơi gắn bó cả đời với người Lào, cũng là chất keo cộng đồng gắn kết các bộ
tộc Lào lại với nhau- chất keo văn hố Phật giáo. Chùa chiền với những mái ngói
uốn cong nhiều dáng vẻ còn là biểu hiện sự phát triển của nghệ thuật kiến trúc,
điêu khắc và thẩm mỹ của người Lào. Lễ hội gắn với chùa chiền, chùa chiền gắn
liền với làng bản, là nơi để mọi người gặp gỡ, vui chơi, ăn diện và múa hát. Lễ
hội cũng là biểu hiện của văn hoá tâm linh phật giáo từ, bi, hỉ, xả đã ăn sâu vào
máu thịt bao đời người dân các bộ tộc Lào, góp phần tạo nên bản sắc văn hoá Lào


trường tồn, lung linh mà quyến rũ.


Lào là đất nước của bốn mùa lễ hội. Cũng như các nước trong khu vực
Đông Nam Á, lễ hội tại đất nước Lào cũng chia làm 2 phần, phần lễ và phần hội.
Phần lễ là phần nghi thức do chính con người đặt ra để giao cảm với thần linh và
phần hội chủ yếu là vui chơi, giải trí. Mỗi năm có 4 lần tết: Tết Dương Lịch, Tết
Nguyên Đán (như ở một số nước Á Đông), Tết Lào (Bun PiMay vào tháng 4) và


Tết H'mong (tháng 12). Ngồi ra cịn các lễ hội: Bun PhaVet ( Phật hóa thân) vào
tháng 1 ; Bun VisakhaPuya (Phật Đản) vào tháng 4; Bun BangPhay (pháo thăng
thiên) vào tháng 5; Bun Khao PhanSa (mùa chay) vào tháng 7; Bun Khao
Padapdin (tưởng nhớ người đã mất) vào tháng 9; Bun Suanghua (đua thuyền) vào
tháng 10. Lễ hội ở Lào hay còn được gọi là Bun, nghĩa là phước, làm Bun nghĩa
là làm phước để được phước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(86)</span><div class='page_container' data-page=86>

đồng, màu xanh tươi mát của chồi non vụt nhú lên báo hiệu một mùa làm ruộng,
rẫy mới. Người dân té nước để cầu may, cầu bình yên cho cả năm, cầu cho mưa
thuận gió hồ, mùa màng tươi tốt. Trong những ngày này, mọi người thăm viếng
chúc tụng lẫn nhau, ăn uống vui chơi, múa hát cầu mong quốc thái dân an, nhà
nhà hạnh phúc, người người ấm no… Với người Lào, những phong tục trong lễ
hội Bunpimay mang ý nghĩa đem lại sự mát mẻ, phồn vinh cho vạn vật, ấm no
hạnh phúc cho cuộc sống, là dịp để nuôi dưỡng và hun đúc nghệ thuật dân tộc.


Âm nhạc của Lào ảnh hưởng lớn của các nhạc cụ dân tộc như khèn (một
dạng của ốngtre. Một dàn nhạc điển hình bao gồm người thổi khèn cùng với biểu
diễn múa bởi nghệ sĩ khác. Múa Lăm vông (Lam saravane) là thể loại phổ biến
nhất của âm nhạc Lào, những người Lào ở Thái Lan đã phát triển và phổ biến
rộng rãi trên thế giới gọi là <i>mor lam sing</i>.. Khi được mời cùng múa Lăm Vông
với người khác giới, hai người đi song song nhưng không va chạm vào người phụ
nữ.



Chăm pa (hoa đại) là một loài hoa biểu tượng của đất nước và con người
Lào. Mang đậm một bản sắc riêng biệt, hương sắc ngào ngạt của hoa chăm pa
phản ảnh rõ tính cách, tâm hồn của dân tộc Lào, với những con người có một vẻ
đẹp giản dị, chan hồ, gìn giữ và chất phác, thật thà. Ngoài cái đẹp bản sắc riêng
của dân tộc Lào, hoa chăm pa có 5 cánh hoa xoè ra thể hiện sự đoàn kết muốn
hợp tác vươn tới 5 nước láng giềng với thể ứng xử cởi mở, cân bằng, mềm mại,
hoà đồng bên ngoài, thống nhất ở bên trong. Ở Lào hoa chăm pa có nhiều loại và
mọc khắp nơi. Người dân Lào thường trồng hoa chăm pa để tơ điểm cho vẻ đẹp
thanh bình êm ả của đất nước và sống động hơn trong khơng khí hội hè. Đến với
đất nước Lào (Triệu Voi) là đến thăm đất nước hoa chăm pa xinh đẹp. Hạnh phúc
biết bao khi được các cơ gái chồng lên cổ vịng hoa chăm pa, buộc vào cổ tay
vòng chỉ cầu mong phúc lành, đam mê không muốn dứt trong những điệu múa
Lăm vơng dưới bóng cây chăm pa.


Văn hố Lào như một dòng chảy ngọt ngào đời này qua đời khác, hun đúc
nên tâm hồn, cốt cách, và văn hoá của người Lào. Qua thời gian năm tháng được
kết tinh ở những phong tục văn hoá đẹp đẽ như Tết Té nước để giải trừ mọi lo âu
phiền muộn; Buộc chỉ cổ tay chúc phúc người thân, chúc phúc khách quý, bạn
bè… đó là mỹ tục rất đẹp đẽ, độc đáo và hiếm có; và hồ cùng với tiếng chiêng,
tiếng khèn, điệu Lăm vông mềm mại uyển chuyển làm say đắm lịng người, như
mời gọi, như níu giữ bước chân du khách đã đặt chân đến đất nước Lào là không
muốn rời xa, là dẫu chỉ một lần mà lưu luyến mãi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(87)</span><div class='page_container' data-page=87>

người trên; trẻ em chắp tay chào người lớn, không bao giờ họ lớn tiếng cãi nhau.
Khi chào hoặc khi đáp từ kể cả thành tiếng hoặc không thành tiếng người ta
thường dùng các cử chỉ như: thông thường hai tay chắp lại với nhau giơ lên
ngang ngực, đầu hơi cúi xuống, nếu tỏ ý kính trọng đối với người lớn tuổi hoặc
cấp trên thì giơ ngang mặt.



Có cuộc sống n ả, thanh bình và thơ mộng, người Lào thật thà, chất
phác, hiền hoà, dễ mến, trọng danh dự. Tính cách ấy biểu hiện rõ trên ánh mắt,
nụ cười, cử chỉ và dáng điệu của mỗi con người. Trong gia đình họ chung sống
hồ thuận, và đặc biệt họ rất quý trọng tình bạn, quý trọng chữ tín. Chuyện vợ
chồng ly hơn cũng rất ít khi xảy ra, vì nó bắt nguồn từ những phong tục thuần
hậu truyền đời. Nếu như với người phụ nữ Việt Nam là “tam tịng tứ đức”, thì
người phụ nữ Lào là “hươn xảm nậm xi” (ba nhà bốn nước) được giáo dục từ hồi
còn tấm bé. Đây cũng là nét văn hoá, phong tục đặc sắc của người Lào.


Người Lào rất gần gũi và hầu như không gặp trở ngại gì lớn trong văn hóa
và giao tiếp. Sự hài hịa giữa lòng nhân ái và tinh thần cộng đồng là một nét đặc
sắc trong triết lý nhân sinh người Lào. Ngạn ngữ Lào có câu: “Nói hợp lịng thì
<i>xin ăn cho cũng chả tiếc, nói trái ý thì dẫu xin mua cũng chẳng bán” (Vầu thực</i>
<i>khọ, khỏ kin cò bò thi (bò khỉ thi), vầu bò thực khọ khỏ xừ cò bò khải). Người</i>
Việt còn lưu lại trong thư tịch cổ: “người Lào thuần hậu chất phác”, trong giao
dịch bn bán thì “họ vui lịng đổi chác”. Đó cũng là tình cảm bình dị, chân
thành mà người dân nước Việt giành cho người người dân láng giềng của mình.


Phong tục ăn mặc ở Lào, phụ nữ phải mặc “Phaa sin”, một kiểu váy dài có
các mảng hoa văn đặc trưng, mặc dù nhóm các bộ tộc thường có trang phục riêng
của họ. Đàn ơng thì mặc “phaa biang sash” vào những dịp lễ hội. Ngày nay phụ
nữ thường mặc trang phục kiểu phương Tây, nhưng “phaa sin” vẫn là trang phục
bắt buộc.


Đất nước Lào có nhiều cơng trình lịch sử văn hố, có thiên nhiên tươi đẹp,
có nhiều cảnh quan kỳ thú như Thạt Luổng (Viêng Chăn), cố đơ Lng
Phra-băng (di sản văn hố thế giới), chùa Vạtxixun (Luông pha Phra-băng), Núi phú Xỉ,
Cánh Đồng Chum huyền bí (Xiêng Khoảng), thác Khơn, thác Quang Xi, Hang
Thẳm tình.v.v.



Là một vùng đất có lịch sử lâu đời nhưng trải qua các cuộc chiến tranh với
người Miến Điện, Trung Hoa và đặc biệt với đế quốc Xiêm nên nhiều di tích lịch
sử, văn hóa, tơn giáo bị tàn phá. Nhiều di tích hiện nay đã được xây dựng lại
trong cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 còn nét cổ kính, uy nghi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(88)</span><div class='page_container' data-page=88>

dọc theo bờ sơng Mekong, có lẽ vì thế mà có một mơi trường sống rất dễ chịu,
thống đãng. Khi người Pháp cai trị, họ quy hoạch hệ thống đường, xây dựng các
biệt thự, cơng trình mang phong cách Pháp. Con đường lớn nhất xuyên giữa lòng
thành phố là Đại lộ Lan Xang (Lan Xang có nghĩa là Triệu voi) - được ví như Đại
lộ Champs Elysées ở Paris (Pháp).


Cuối Đại lộ Lan Xang là Patuxay Gate- biểu tượng chiến thắng của người
Lào được xây dựng vào năm 1962. Công trình này dùng để vinh danh những
chiến sĩ trong cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Lào. Patuxay Gate có
nhiều tên gọi khác: “đường băng thẳng đứng” hay “Champs Elysées của phương
Đông”... Patuxay Gate trước đây được biết đến là tượng đài Anousavary. Hình
thức bên ngồi Patuxay Gate có phần nào đó giống với khải hồn mơn ở Paris,
tuy nhiên, vẫn nở rộ nét đặc sắc của nhân dân Lào: những hình tượng trang trí
Kinari – nửa người phụ nữ và nửa chim, những phù điêu mô tả trường ca Rama
và các tháp mang đậm phong cách của người Lào. Từ trên cao, Thủ đô Viêng
Chăn hiện ra trước mắt du khách không gian bao la và trải rộng vươn ra mọi
hướng. Patuxay Gate lại kết hợp hài hòa trong không gian quảng trường rộng lớn.
Mỗi khi chiều về là lúc người dân Viêng Chăn cùng du khách lại tụ tập về đây
vui chơi thư giãn.


Tại Viêng Chăn, có rất nhiều chợ đường phố. Thức ăn của Lào rất đặc biệt
và ngon, thủ công mỹ nghệ truyền thống như: dệt-lụa, đồ trang sức và giỏ xách
phong phú. Ngoài ra có Cơng viên Phật lưu giữ bộ sưu tập bê tơng ngồi trời của
nghệ thuật điêu khắc Phật giáo và Hindu, Hồ Nam Ngeun, làng văn hóa
Vangxang...



Ở Viêng Chăn có nhiều ngơi chùa rất lớn và nổi tiếng như Wat Sisaket,
Ong Teu, That Luang... Chùa Wat Sisaket lưu giữ đến 6.840 tượng Phật lớn nhỏ
rất q hiếm và là ngơi chùa có nhiều tượng Phật cổ nhất Lào. Tượng ở đây được
làm chủ yếu bằng đồng, một số làm từ các vật liệu khác như gỗ quý, bạc hoặc mạ
vàng. Đối diện với chùa Wat Sisaket là chùa Prakeo, nét độc đáo ở đây là pho
tượng quý hiếm Phật Phra Bang (đúc tại Sri Lanka, bằng vàng) được vua Fa
Ngum mang từ Angkor về Viêng Chăn trong thế kỷ 14.


Điểm nổi bật nhất là chùa Heavy Buddha được xây dựng từ thế kỷ thứ I,
hiện là trường học của sư sãi, các nhà sư từ nhiều miền đất nước của Lào được
truyền dạy kinh Phật dưới sự hướng dẫn của các sư trụ trì thâm niên.


</div>
<span class='text_page_counter'>(89)</span><div class='page_container' data-page=89>

lược của người Thái ở thế kỷ XIX. Năm 1930, tháp được khôi phục lại theo kiến
trúc nguyên bản với độ cao 45m. Bức tượng ngay phía trước tháp là vua
Setthathilath, người đã cho xây dựng tháp đầu tiên. Ngày xưa, bốn mặt vòng
quanh That Luang được bao bọc bởi các ngôi chùa nhưng hiện tại chỉ còn tồn tại
chùa Luang Nua và Luang Tai. Hằng năm, ở đây, vào trung tuần tháng 11 diễn ra
lễ hội cấp quốc gia là Lễ hội That Luang. Tháp That Luang được coi là rất linh
thiêng nên có nhiều người đến đây cầu khấn các nguyện vọng.


<i>Luông Pra Băng hay Luông Pha Băng, nghĩa là Phật Vàng Lớn. Luông</i>
Pha-băng là Thủ đô của Vương triều Lan Xang thế kỷ thứ 14, thời kỳ hưng thịnh
của Lào dưới triều Vua Xê-tha-thi-lát, nhưng từ năm 1545 chiến tranh xảy ra liên
miên, Vua Xê-tha-thi-lát quyết định rời kinh đơ đến Viêng Chăn. Trước năm
1975, nó vẫn là thủ đơ hồng gia, trung tâm của Vương quốc Lào. Ngày nay, nó
là tỉnh lỵ của tỉnh Lng Pra Băng. Lng Pha Băng có 129 điểm du lịch, với
nhiều di tích lịch sử, tơn giáo, chùa và làng cổ kính với những kiến trúc và chạm
trổ độc đáo, có cố cung hoàng gia, thác nước Tát Khoang-xi, được ca ngợi như
"viên ngọc xanh giữa rừng nhiệt đới". Luông Pha-băng đã được UNESCO cơng


nhận là di tích lịch sử và văn hóa của thế giới năm 1995.


<b>Cánh đồng chum - một di tích khảo cổ học nằm ở tỉnh Xiêng Khoảng có</b>
<i><b>khoảng 2.000 cái chum lớn nhỏ ở 52 địa điểm nằm rải rác tại chân dãy núi</b></i>
<i><b>Trường Sơn. Kích thước của các chum đá dao động khoảng từ 0,5 đến 3m,</b></i>
<i><b>trọng lượng lên đến 6000 kg và có niên đại khoảng 1500 đến 2000 năm. </b></i>


<i><b>Các câu chuyện huyền thoại của người Lào cho rằng có những người</b></i>
<i><b>khổng lồ đã từng định cư ở khu vực này. Theo một truyền thuyết khác, một vị</b></i>
<i><b>vua cổ đại tên là Khun Cheung - đã tiến hành cuộc chiến chống lại kẻ thù</b></i>
<i><b>thành cơng. Ơng đã cho tạo lập cánh đồng chum để ủ lên men và chứa số</b></i>
<i><b>lượng lớn rượu gạo lao lao để ăn mừng chiến thắng. Cánh đồng chum mang</b></i>
<i><b>trong mình những bí ẩn của một nền văn hoá, một thế giới tâm linh mà cho</b></i>
<i><b>đến bây giờ vẫn chưa rõ về xuất xứ…</b></i>


Đất nước, con người và nền văn hoá Lào quả là đang mang trong mình
nguốn sức mạnh vơ biên, ẩn chứa biết bao điều kỳ diệu, đó chính là tiềm năng và
là nguồn nội lực to lớn. Tiềm năng và nguồn lực to lớn đó đang được Đảng, Nhà
nước và nhân dân các bộ tộc Lào trân trọng, giữ gìn, bồi đắp và phát huy trong
thời đại mới, thời đại hội nhập và phát triển.


</div>
<span class='text_page_counter'>(90)</span><div class='page_container' data-page=90>

<b>---Chủ đề 10</b>



<b>CẦN LÀM GÌ ĐỂ GÌN GIỮ, PHÁT HUY TÌNH CẢM HỮU NGHỊ</b>
<b>ĐẶC BIỆT VIỆT NAM- LÀO </b>


<b></b>


---Là hai nước láng giềng có nhiều nét tương đồng về văn hóa, Việt Nam và
Lào đã chung tay viết nên những trang sử hào hùng của hai dân tộc. Tình hữu


nghị, đồn kết giữa hai Đảng, hai nước Việt - Lào và sự gắn bó keo sơn giữa dân
tộc Việt Nam và nhân dân các bộ tộc Lào được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ
tịch Cayxỏn Phơmvi hản trực tiếp gây dựng nền móng, được các thế hệ lãnh đạo
kế tục của hai Đảng, hai nước, cùng nhân dân hai nước quý trọng, nâng niu và
dày công vun đắp.


Trải qua nhiều giai đoạn và biến cố của lịch sử, hai nước Việt Nam - Lào
cùng tựa lưng vào dải Trường Sơn hùng vĩ, sát cánh bên nhau, xây đắp quan hệ
đoàn kết đặc biệt Việt Nam - Lào cao đẹp, mẫu mực, thủy chung, hiếm có trong
lịch sử quan hệ quốc tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Việt - Lào hai nước
<i>chúng ta - Tình sâu hơn nước Hồng Hà, Cửu Long”. Chủ tịch Cayxỏn</i>
Phômvihản cũng từng nói: “Trong lịch sử cách mạng thế giới đã có nhiều tấm
gương sáng chói về tinh thần quốc tế vô sản, nhưng chưa ở đâu và chưa bao giờ
có sự đồn kết liên minh chiến đấu đặc biệt lâu dài và toàn diện như vậy”.


Sau khi Việt Nam hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước và nước Cộng
hòa Dân chủ Nhân dân Lào ra đời vào năm 1975, quan hệ Việt - Lào đã chuyển
sang giai đoạn mới. Đó là mối quan hệ hữu nghị, đồn kết đặc biệt và hợp tác
toàn diện giữa hai Đảng và hai Nhà nước mà bằng chứng sinh động là Hiệp ước
Hữu nghị và Hợp tác Việt Nam - Lào được ký ngày 18/7/1977.


Tình đồn kết đặc biệt giữa hai nước đã góp phần quan trọng vào việc
củng cố và tăng cường quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác toàn diện giữa
Việt Nam và Lào trong thời kỳ mới. Trong các chuyến thăm của lãnh đạo hai
nước, hai bên luôn khẳng định quan điểm nhất quán, tiếp tục coi trọng và dành
mọi ưu tiên cho việc củng cố và tăng cường quan hệ hữu nghị truyền thống, đoàn
kết đặc biệt, hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào, coi đây là tài sản vơ giá cần gìn
giữ và truyền lại cho muôn đời con cháu mai sau


</div>
<span class='text_page_counter'>(91)</span><div class='page_container' data-page=91>

Để tăng cường hợp tác toàn diện, đưa quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào,


Lào-Việt Nam lên tầm cao mới cần bổ sung và điều chỉnh cơ chế, chính sách, chương
trình và tổ chức chỉ đạo hợp tác cho phù hợp với thực tế và những đòi hỏi mới
của sự hợp tác toàn diện giữa hai nước. Đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập kinh
tế quốc tế và khu vực hiện nay và những năm tới, càng cần phải đẩy nhanh việc
điều chỉnh kịp thời, linh hoạt các nội dung đã thỏa thuận bằng các văn bản hợp
tác nhằm tạo điều kiện cho các tổ chức, đơn vị hợp tác thực hiện có hiệu quả
những mục tiêu chiến lược hợp tác đã đặt ra.


Trong quá trình tăng cường quan hệ hợp tác tồn diện, hai bên cần ln ln
tơn trọng đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ và chủ trương đa phương hóa, đa
dạng hóa các quan hệ đối ngoại của nhau.


Trong quan hệ hợp tác kinh tế sắp tới cần phải chú trọng tính thực chất, hiệu
quả và chất lượng. Có nghĩa là, các chương trình hợp tác, nhất là từ phía Việt
Nam (các dự án của Việt Nam đầu tư vào Lào) phải phù hợp với yêu cầu của
công cuộc xây dựng đất nước, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia của
Lào. Việt Nam cần ưu tiên các dự án hợp tác với Lào phù hợp với qui hoạch và
kế hoạch phát triển của Lào đã được vạch ra tại các kế hoạch 5 năm 2006-2010
và tầm nhìn đến 2020 của Lào. Đó là các dự án hợp tác về phát triển thủy điện
với Lào, dự án xây dựng đường giao thông ra biển; các dự án hợp tác trong lĩnh
vực giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực.


Việt Nam và Lào cần phải phát huy quan hệ hữu nghị truyền thống, tình
đồn kết đặc biệt trở thành động lực thúc đẩy ngày càng mạnh mẽ hợp tác toàn
diện, đặc biệt là hợp tác kinh tế phục vụ mục tiêu phát triển của mỗi nước, đưa
hợp tác toàn diện Việt Nam-Lào, Lào - Việt Nam trong thời gian tới ngang tầm
với quan hệ truyền thống đặc biệt giữa hai nước chúng ta.


Tính chất đặc biệt của quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam khác căn
bản với các quan hệ đối tác thơng thường ở chỗ nó là quan hệ hợp tác tồn diện


bao gồm cả chính trị, an ninh, kinh tế, văn hóa... và ưu tiên, ưu đãi cho nhau cao
hơn cả các quan hệ song phương khác. Cần có một nhận thức thống nhất của cán
bộ và nhân dân hai nước về tính chất đặc biệt này. Cả hai bên cần có tầm nhìn
rộng hơn, tồn diện và lâu dài hơn chứ không chỉ ở các lợi ích kinh tế thuần túy
và ngắn hạn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(92)</span><div class='page_container' data-page=92>

chiến lược hợp tác Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam giai đoạn 2011-2015 và tầm
nhìn đến 2020.


Định hướng cơ bản của chiến lược hợp tác Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam
giai đoạn 2011-2020 là: “Phát huy truyền thống quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào,
Lào - Việt Nam trở thành động lực tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ trong hợp tác
kinh tế, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội và hội nhập của
mỗi nước”. Trong đó, khơng ngừng nâng cao nhận thức và làm sâu sắc thêm
quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào - Việt Nam trong hợp tác kinh tế, văn hóa,
khoa học, kỹ thuật tạo sự chuyển biến mạnh mẽ thúc đẩy hợp tác kinh tế ngang
tầm với quan hệ truyền thống giữa hai nước. Thấm nhuần tư tưởng chỉ đạo: coi
trọng, phát triển và củng cố mối quan hệ hữu nghị truyền thống, đoàn kết đặc biệt
và sự hợp tác toàn diện giữa hai nước và coi đây là nhiệm vụ có tầm chiến lược
to lớn, thiết thực phục vụ lợi ích đảm bảo ổn định an ninh chính trị và phát triển
của mỗi nước. Coi hợp tác và nâng cao chất lượng giáo dục-đào tạo và phát triển
nguồn nhân lực là nhiệm vụ chiến lược lâu dài giữa hai nước nhằm hình thành
một thế hệ mới kế cận có đầy đủ năng lực và nhận thức một cách sâu sắc về mối
quan hệ hữu nghị truyền thống, tình đồn kết đặc biệt và hợp tác tồn diện giữa
hai nước, tạo lòng tin vững chắc, lâu dài lẫn nhau, góp phần tăng cường bền vững
mối quan hệ giữa hai Đảng và hai Nhà nước. Đặc biệt coi trọng đào tạo và bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ chính trị, nhất là đội ngũ cán bộ các cấp của các địa
phương Lào, cán bộ làm việc ở các dự án giữa hai nước; kết hợp hài hòa giữa đào
tạo và bồi dưỡng, giữa số lượng và chất lượng, giữa đào tạo chính qui các bậc
học với đào tạo nghề.



Thường xuyên phối hợp và cụ thể hóa quan điểm về quan hệ đặc biệt Việt
Nam - Lào, Lào - Việt Nam trên tinh thần các tuyên bố chung và thỏa thuận cấp
cao giữa lãnh đạo hai Đảng, hai Nhà nước vào các nội dung hợp tác kinh tế, văn
hóa, khoa học kỹ thuật giữa hai nước. Từng bước nâng cao chất lượng và hiệu
quả hợp tác trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi và tinh thần quan hệ đặc biệt
theo luật pháp của mỗi nước trên cơ sở những nội dung sau:


- Tiếp tục đầu tư và phát huy những tiềm năng, lợi thế của hai nước nhằm bổ
sung nguồn lực cho nhau, phù hợp với mục tiêu, kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội của mỗi nước theo từng giai đoạn, góp phần thực hiện mục tiêu cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa của Lào trong 10 năm tới, đưa nước Lào thoát khỏi nước kém
phát triển vào năm 2020.


</div>
<span class='text_page_counter'>(93)</span><div class='page_container' data-page=93>

với các cảng biển của Việt Nam để phục vụ đầu tư, thương mại và hội nhập giữa
hai nước trên nguyên tắc đầu tư đồng bộ và đồng thời giữa hai bên.


- Tăng cường và nâng cao vai trò hợp tác giúp đỡ lẫn nhau giữa các bộ,
ngành, tổ chức, địa phương và doanh nghiệp hai nước. Gắn phát triển kinh tế - xã
hội với quốc phịng, an ninh, đặc biệt là các địa phương có chung đường biên
giới nhằm phát triển các địa phương khu vực biên giới trở thành hậu phương
chiến lược vững chắc, ổn định, hịa bình, hữu nghị, hợp tác lâu dài, tạo sự gắn bó,
tin tưởng lẫn nhau lâu dài.


- Hai bên phối hợp chặt chẽ việc rà soát, bổ sung sửa đổi các văn bản thỏa
thuận, phối hợp xây dựng cơ chế, chính sách mới phù hợp với luật pháp và tình
hình thực tế mỗi nước, thể hiện mối quan hệ đặc biệt giữa hai nước và thông lệ
quốc tế, tạo sự chuyển biến trong hợp tác kinh tế cũng như hội nhập quốc tế và
khu vực của mỗi nước.



- Phối hợp chặt chẽ trong việc thực hiện các cam kết và có sự đồng thuận
trong các khn khổ hợp tác đa phương đối với những vấn đề có liên quan đến
hai nước.


Trên cơ sở những kết quả to lớn của sự hợp tác toàn diện Việt Nam-Lào,
Lào-Việt Nam những năm qua, lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai Nhà nước thống
nhất đặt ưu tiên cao nhất cùng phấn đấu nâng quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào,
Lào-Việt Nam lên tầm cao mới, theo phương châm chất lượng và hiệu quả, góp
phần giữ vững ổn định an ninh chính trị, tăng trưởng kinh tế bền vững, hội nhập
ngày càng sâu rộng và có vị thế xứng đáng trên trường quốc tế. Để đạt được mục
tiêu này, lãnh đạo cấp cao hai nước đã nhất trí trước hết tiếp tục củng cố, tăng
cường sự gắn bó, tin cậy và phối hợp chặt chẽ, thường xun trong những vấn đề
có tính chiến lược giữa hai Đảng, hai nước; duy trì các cuộc gặp cấp cao truyền
thống. Tăng cường tuyên truyền, giáo dục bằng nhiều hình thức phong phú, hiệu
quả và thiết thực về mối quan hệ hữu nghị truyền thống, tình đồn kết đặc biệt và
hợp tác toàn diện Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam cho toàn thể cán bộ, đảng viên
và nhân dân hai nước, đặc biệt là thế hệ thanh thiếu niên hôm nay và mai sau./.




<b>---Chủ đề 11</b>



<b>TẠI SAO HAI NƯỚC VIỆT NAM- LÀO</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(94)</span><div class='page_container' data-page=94>

---Hai nước Việt Nam - Lào có lịch sử gắn bó rất lâu đời với nhau trong suốt
chiều dài dựng nước và giữ nước của mỗi dân tộc. Trong chiều dài lịch sử ấy,
nhân dân hai nước đã “chung lưng đấu cật” để xây dựng mỗi nước phát triển. Là
hai nước láng giềng có nhiều nét tương đồng về văn hóa, Việt Nam và Lào đã
chung tay viết nên những trang sử hào hùng của hai dân tộc. Mối quan hệ hữu
nghị truyền thống lâu đời Việt Nam - Lào bắt nguồn từ tình cảm láng giềng thân


thiết, sự gắn bó keo sơn giữa dân tộc Việt Nam và nhân dân các bộ tộc Lào đã
trải qua muôn vàn thử thách, được nhiều thế hệ lãnh đạo hai Đảng và nhân dân
hai nước, đặc biệt là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và Chủ tịch Cayxỏn
Phơmvihản kính mến trực tiếp gây dựng nền móng, được các thế hệ lãnh đạo kế
tục của hai Đảng, hai nước, cùng nhân dân hai nước quý trọng, nâng niu và dày
công vun đắp, không ngừng phát triển và trở thành mối quan hệ đặc biệt, thủy
chung, trong sáng và là mẫu mực hiếm có trong quan hệ quốc tế hiện nay.


Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Hai dân tộc Việt và Lào sống bên nhau
<i>trên cùng một dải đất, cùng có chung một dãy núi Trường Sơn. Hai dân tộc</i>
<i>chúng ta đã nương tựa vào nhau, giúp đỡ lẫn nhau... Tình nghĩa láng giềng anh</i>
<i>em Việt - Lào thật là thắm thiết không bao giờ phai nhạt được”. Chủ tịch Cayxỏn</i>
Phơmvihản cũng nói: “Núi có thể mịn, sơng có thể cạn, song tình nghĩa Lào
<i>-Việt sẽ mãi mãi vững bền hơn núi, hơn sông”. Tư tưởng lớn của hai nhà lãnh đạo</i>
đã trở thành kim chỉ nam soi đường, chỉ lối, được Đảng, Chính phủ và nhân dân
hai nước thực hiện nhất quán trong suốt những năm tháng chiến đấu chống kẻ thù
chung, giành độc lập, thống nhất đất nước đến hịa bình, xây dựng, đổi mới, hội
nhập và phát triển.


Đặc biệt, trong nhiều giai đoạn lịch sử, hai dân tộc Việt Nam - Lào đều có
chung một kẻ thù xâm lược. Vị trí địa lý và lịch sử đấu tranh dựng nước, giữ
nước của mỗi dân tộc đã gắn kết hai nước trở nên gần gũi, thân thiện. Theo đó,
q trình chiến đấu của mỗi nước phải dựa vào nhau để chống kẻ thù chung, bảo
vệ dân tộc, bảo vệ đất nước. Vì vậy, quân và dân hai nước Việt Nam- Lào luôn
sát cánh bên nhau chống lại kẻ thù chung vì độc lập của mỗi nước, vì hạnh phúc
của nhân dân và mỗi dân tộc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(95)</span><div class='page_container' data-page=95>

qua, hai nước đã cùng nhau lập những chiến công hiển hách, giành độc lập dân
tộc cho cả hai dân tộc; Mọi thắng lợi của Cách mạng Lào đều gắn chặt với sự
giúp đỡ, ủng hộ mạnh mẽ, hy sinh to lớn của nhân dân Việt Nam anh em với tinh


thần đồng chí chung một chiến hào, “hạt gạo cắn đôi, cọng rau bẻ nửa” cùng
đồng cam cộng khổ, từng bước đi tới thắng lợi cuối cùng, chiến thắng đế quốc
xâm lược và phát triển đất nước theo con đường chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, mối
quan hệ đó trở thành di sản quý giá, thành quy luật tồn tại và phát triển của hai
nước và cũng là mối quan hệ thủy chung, trong sáng, đặc biệt và hiếm có trong
quan hệ quốc tế.


Sau ngày Việt Nam hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước và nước
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào ra đời vào năm 1975, quan hệ Việt - Lào đã
chuyển sang giai đoạn mới. Đó là mối quan hệ hữu nghị, đồn kết đặc biệt và hợp
tác toàn diện giữa hai Đảng và hai Nhà nước theo Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác
Việt Nam - Lào được ký ngày 18/7/1977. Hiệp ước đã tạo khung pháp lý thúc
đẩy quan hệ hợp tác toàn diện. Hàng loạt các văn bản, hiệp định hợp tác được ký
kết, tạo ra những bước chuyển to lớn về chất trong quan hệ đặc biệt giữa hai
Chính phủ trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, đối ngoại, an ninh, quốc
phòng, giáo dục, y tế, văn hóa,... Sự hợp tác chặt chẽ giữa hai Chính phủ đã tạo ra
mối liên kết gắn bó hữu cơ, bổ trợ lẫn nhau và tạo môi trường thuận lợi đối với
sự nghiệp phát triển của cả Việt Nam và Lào.


Bước vào thời kỳ đổi mới với mn vàn khó khăn, Chính phủ hai nước
phải đổi mới cả về nội dung, phương thức và cơ chế hợp tác để giữ vững và phát
huy hiệu quả quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện, đặc biệt Việt Nam - Lào.


Chiến lược hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam trong thời
gian tới (2011 - 2015 và tầm nhìn đến 2020) được xây dựng và thực hiện trong
bối cảnh quốc tế, khu vực và ở từng nước có những thuận lợi và khó khăn đan
xen cùng những chuyển biến rất mau lẹ, tác động trực tiếp đến quan hệ hợp tác
toàn diện giữa hai nước.


Bối cảnh quốc tế và khu vực có những thuận lợi và khó khăn, nhiều cơ hội


đang mở ra cho quan hệ hợp tác giữa hai nước, đồng thời cũng đang phải đối mặt
với những thách thức rất lớn. Các nước lớn và các nước phát triển tăng cường
hợp tác với ASEAN và các tiểu vùng Mê Công mở rộng (GMS) trong bối cảnh
tồn cầu hố và hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra với tốc độ nhanh và ngày càng
sâu sắc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(96)</span><div class='page_container' data-page=96>

Châu Á- Thái Bình dương,, các nước lớn và phát triển ngày càng quan tâm và
tăng cường mở rộng quan hệ, đặc biệt là hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư
vào khu vực này, góp phần tạo nên diện mạo mới cho khu vực. Đây là điều kiện
thuận lợi cho sự phát triển của mỗi nước GMS, trong đó có Việt Nam và Lào.


Tuy nhiên đây cũng sẽ là tâm điểm của sự tranh giành quyền lực và ảnh
hưởng của các nước lớn và các nền kinh tế phát triển, tác động tiêu cực đén
ASEAN và GMS, trong đó có Việt Nam và Lào. Mặt khác, vượt ra ngoài những
nội dung hội nhập kinh tế, các vấn đề về chính trị và an ninh nãy sinh trong sự
tương tácvề quan hệ lợi ích chiến lược giữa các nước lớn với nhau và những
tham vọng và các nước này đối với khu vực, rất có thể đẩy các nước trong khu
vực tới những bất ổn khó lường.


Mặt khác, hợp tác giữa các nước Tiểu vùng Mê Cơng mở rộng(GMS) diễn
ra mạnh mẽ và ngày càng có hiệu quả. Công cuộc đổi mới đất nước Việt Nam và
Lào với tốc độ phát triển ngày càng nhanh và bền vững, cùng những kết quả hợp
tác đạt được giữa Việt Nam và Lào địi hỏi phải tăng cường tồn diện trong giai
đoạn mới. Vì vậy, trong thời gian tới Việt Nam và Lào phải có sự phối hợp nhịp
nhàng, đổi mới quan hệ hợp tác toàn diện phù hợp với bối cảnh mới.


Việt Nam và Lào sống bên nhau tại hai triền Đông và Tây Trường Sơn hùng
vĩ, rất thuận lợi cho sự phát triển phong phú của động vật, thực vật lại được bổ
sung bởi nhiều hang động, rừng nguyên sinh kỳ thú, thuận lợi cho du lịch. Nơi
đây có nhiều sơng suối chảy dốc từ núi cao đổ xuống, tạo lợi thế cho khai thác


thủy điện.


Trường sơn còn là một tường thành vững chắc cho quân dân hai nước nương
tựa nhau chống giặc ngoại xâm.


Về kinh tế, hai nước có thể bổ sung cho nhau thế lợi về biển cả của Việt
Nam, đường bộ của Lào đi sâu vào lục địa châu Á, cùng các nguồn tài nguyên
phong phú do mỗi nước quản lý.


</div>
<span class='text_page_counter'>(97)</span><div class='page_container' data-page=97>

<i>Hội nghị quan hệ hợp tác Quốc hội Việt Nam – Lào diễn từ 22 – 26/4 tại tp Sơn La, </i>
<i>sự kiện quy mơ đầu tiên trong “Năm Đồn kết Hữu nghị Việt Nam –Lào 2012”</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(98)</span><div class='page_container' data-page=98>

Tình đồn kết đặc biệt giữa hai nước đã góp phần quan trọng vào việc
củng cố và tăng cường quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác toàn diện giữa
Việt Nam và Lào trong thời kỳ mới. Trong các chuyến thăm của lãnh đạo hai
nước, hai bên luôn khẳng định quan điểm nhất quán, tiếp tục coi trọng và dành
mọi ưu tiên cho việc củng cố và tăng cường quan hệ hữu nghị truyền thống, đoàn
kết đặc biệt, hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào, coi đây là tài sản vơ giá cần gìn
giữ và truyền lại cho mn đời con cháu mai sau, đòi hỏi hai nước Việt Nam- lào
phải yêu thương gắn bó chặt chẽ với nhau, giữ cho quan hệ đặc biệt Việt –Lào
muôn đời bền vững.


Trong quan hệ hữu nghị ở tầm quốc gia đó cùng với bề dày lịch sử, tỉnh
Quảng Trị và tỉnh Savannakhet; Salavan là những người bạn thủy chung son sắt
từ trong cuộc kháng chiến chống kẻ thù chung cho đến nay. Phát huy tình đồn
kết trong sáng, thuỷ chung giữa 2 dân tộc trong kháng chiến chống kẻ thù chung,
ngày nay Quảng Trị đã có mối quan hệ hợp tác với hai tỉnh Savannakhet và
Salavan trên nhiều lĩnh vực, đạt được những thành quả quan trọng, vun đắp cho
tình đồn kết hữu nghị Việt –Lào muôn ngày càng tốt đẹp và bền vững.



<b>Tóm lại: Sở dĩ hai dân tộc Việt-Lào phải u thương gắn bó chặt chẽ với</b>
nhau vì:


<i><b>- Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam là nhân tố cơ bản tạo nên</b></i>
<i><b>sức mạnh vô địch của hai dân tộc Việt Nam, Lào</b></i>


Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam nẩy sinh, phát triển
trong sự trùng hợp mục tiêu cách mạng và tình nghĩa của hai dân tộc láng giềng
ruột thịt là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; bình đẳng, hữu nghị,
giúp đỡ lẫn nhau. Điều đó đã trở thành động lực mạnh mẽ, là cội nguồn sáng tạo
và niềm tin tất thắng, biến sức mạnh tổng hợp của hai dân tộc trở thành vô địch
của sự nghiệp ,giải phóng và phát triển đất nước từ nơ lệ, bị chia cắt, nghèo nàn,
lạc hậu trở thành những dân tộc độc lập, tự do, thống nhất, có vị trí xứng đáng
trong khu vực và quốc tế.


<b>- Đứng ở vị trí chiến lược của vùng Đơng Nam Á, nơi đối đầu quyết liệt giữa</b>
<i><b>phong trào cách mạng giải phóng dân tộc, hồ bình và tiến bộ xã hội với các</b></i>
<i><b>thế lực xâm lược, khối đại đoàn kết Việt Nam - Lào, Lào - việt Nam trở thành</b></i>
<i><b>lực lượng vững mạnh, chặn đứng, làm thất bại những mưu đồ và hành động</b></i>
<i><b>của kẻ thù, góp phần quan trọng tạo dựng mơi trường hồ bình, hợp tác, hữu</b></i>
<i><b>nghị giữa các quốc gia Đông Nam Á.</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(99)</span><div class='page_container' data-page=99>

đã giành được độc lập, nhưng ngay sau đó, bị quân đội Pháp kéo tới xâm lược.
Chúng đã vấp phải cuộc kháng chiến liên minh của nhân dân Việt Nam và Lào.
Chiến tranh xâm lược kéo dài và hiện rõ sự thất bại của đế quốc Pháp. Đế quốc
Mỹ thay chân Pháp hòng áp đặt chủ nghĩa thực dân mới tại miền Nam Việt Nam
và Lào; thành lập liên minh quân sự chống phe xã hội chủ nghĩa và phong trào
giải phóng dân tộc.


Với sức mạnh đoàn kết dân tộc, đoàn kết Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam,


quân dân Việt Nam, Lào đã đánh bại các cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc
Pháp, Mỹ; đồng thời đập tan mưu đồ phá hoại của thế lực thù địch; góp phần tạo
lập mơi trường hồ bình, hợp tác, hữu nghị giữa các quốc gia Đông Nam Á.
<b>- Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam là một tấm gương mẫu</b>
<i><b>mực, thuỷ chung, trong sáng, vững bền, chưa từng có trong quan hệ giữa các</b></i>
<i><b>dân tộc đấu tranh vì độc lập, tự do, hồ bình và tiến bộ xã hội.</b></i>


Trong lịch sử thế giới từ xưa tới nay, đã xuất hiện nhiều hình thức liên
minh, đồng minh, hợp tác hoặc hình thành các cộng động quốc gia.


Nhưng xét về mọi phương diện, chỉ có mối quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt
Nam mang đầy đủ các yếu tố ưu việt về cách mạng và nhân văn dựa trên cơ sở lý
luận đúng đắn và nguyên tắc, phương pháp hợp lý về xây dựng phát triển mối
quan hệ quốc gia - quốc tế, được lãnh đạo hai Đảng, Nhà nước và nhân dân hai
nước đồng thuận và cùng chung sức thực hiện, mang lại những thành tựu to lớn
và tiến bộ vượt bậc về mọi mặt cho cả hai dân tộc. Tất cả hợp thành một tấm
<i>gương mẫu mực, thủy chung, trong sáng, bền vững, chưa từng có trong quan hệ</i>
giữa các dân tộc trên thế giới.


<b>Một lần nữa chúng ta khẳng định một điều rằng, giữ gìn và phát huy</b>
<b>mối quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam có ý nghĩa cực kỳ quan trọng.</b>
<b>Bởi lẽ, đó là mối quan hệ đặc biệt được hai Đảng, hai Nước và nhân dân hai</b>
<b>dân tộc thường xuyên trân trọng, vun đắp và gìn giữ qua các thời kỳ cách</b>
<b>mạng. Chúng ta tin tưởng dưới sự lãnh đạo sáng suốt của hai Đảng, nhân</b>


<b>dân hai</b> <b>Nước sẽ thực hiện</b>


<b>thắng lợi</b> <b>Nghị quyết Đại hội</b>


<b>Đảng cũng</b> <b>như kế hoạch phát</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(100)</span><div class='page_container' data-page=100>

<i> Hợp Hòa, tháng 8 năm 2012</i>


</div>

<!--links-->
<a href=' />

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×