Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

Cương lĩnh về vấn đề dân tộc từ đó liên hệ tới vấn đề dân tộc ở VN. Trách nhiệm của sv trong vấn đề xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (61.43 KB, 6 trang )

Câu 4: Cương lĩnh về vấn đề dân tộc từ đó liên hệ tới vấn đề dân tộc ở VN. Trách nhiệm của sv trong vấn
đề xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc
I.
Cơ sở lý luận
1. Cương lĩnh về vấn đề dân tộc
- Khái niệm dân tộc:
Khái niệm dân tộc thường được dùng với hai nghĩa:
Thứ nhất, dân tộc dùng để chỉ một cộng đồng người có mối liên hệ chặt chẽ và bền vững,
có sinh hoạt kinh tế chung, có ngơn ngữ chung của cộng đồng và trong sinh hoạt văn hóa
có những nét đặc thù so với những cộng đồng khác, xuất hiện sau cộng đồng bộ lạc, bộ
tộc. Theo nghĩa này thì dân tộc chính là một bộ phận của quốc gia – quốc gia nhiều dân
tộc.
- Vd: VN là một quốc gia nhiều dân tộc, có các dân tộc như dân tộc Kinh, H-mơng, Mường,
Thái, Mèo…
- Hai là, dân tộc chỉ cộng đồng người ổn định, bền vững hợp thành nhân dân một quốc gia,
có lãnh thổ chung, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung, có truyền thống văn hóa,
truyền thống đấu tranh chung trong quá trình dựng nước và giữ nước. Với nghĩa này, dân
tộc là toàn bộ nhân dân của quốc gia đó – quốc gia dân tộc.
Hai xu hướng phát triển của dân tộc:
-

-

Khi nghiên cứu vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản, Lênin đã phát
hiện ra hai xu hướng khách quan trong phong trào dân tộc.
-

Một là xu hướng phân lập, do sự thức tỉnh, trưởng thành của ý thức dân tộc mà các cộng đồng
dân cư muốn tách ra thành lập quốc gia dân tộc độc lập.
Hai là xu hướng liên hiệp giữa các dân tộc lại với nhau do có sự phát triển của lực lượng sản xuất
và khoa học công nghệ tiên tiến. Ngày nay, các dân tộc có xu hướng liên kết, hợp tác với nhau


trong quan hệ thị trường mở rộng dựa trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng và cùng có lợi.

Tuy nhiên, hai xu thế này là một thể thống nhất, mỗi nước đều có chủ quyền độc lập, quyền tự chủ, tự
quyết nhằm xây dựng quốc gia dân tộc mình phồn vinh, cơng bằng, văn minh bên cạnh sự hịa nhập cộng
đồng quốc tế. Hiện nay, vấn đề dân tộc, giai cấp đã trở thành một vấn đề vừa có tính quốc gia, vừa có
tính quốc tế, vừa có tính thời sự vừa có tính lâu dài.
2. Nội dung cương lĩnh
Dựa trên sự phân tích hai xu hướng khách quan của phong trào dân tộc và phong trào cách mạng thế
giới trong việc gỉai quyết vấn đề dân tộc, Lênin đã đưa ra Cương lĩnh Dân tộc với 3 vấn đề chính bao
gồm:
-

Một là các dân tộc hồn tồn bình đẳng: Quyền bình đẳng của các dân tộc là quyền thiêng liêng,
khơng phân biệt dân tộc đơng người hay ít người, lớn hay nhỏ, trình độ phát triển cao hay thấp,
khơng phân biệt chủng tộc, màu da và từng bước xóa bỏ sự chênh lệch về trình độ phát triển


giữa các dân tộc. Bình đẳng phải được thực hiện trên tất cả các mặt: kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội…. Trong một quốc gia có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng giữa các dân tộc phải được pháp
luật bảo vệ. Trên phạm vi giữa các quốc gia, đấu tranh cho quyền bình đẳng dân tộc trong giai
đoạn hiện nay phải gắn với cuộc đấu tranh chống phân biệt chủng tộc, chống sự áp bức, bóc lột
của các nước tư bản phát triển đối với các nước chậm phát triển về kinh tế.
- Hai là các dân tộc được quyền tự quyết: Là quyền làm chủ của mỗi dân tộc đối với vận mệnh của
dân tộc mình, quyền tự quyết định chế độ chính trị xã hội và con đường phát triển riêng khơng
bị lệ thuộc vào bên ngồi. Đây cũng là quyền thiêng liêng cơ bản của mỗi dân tộc, bao gồm:
quyền tự do độc lập về chính trị, quyền thành lập một quốc gia dân tộc độc lập vì lợi ích của các
dân tộc chứ khơng phải xuất phát từ mưu đồ lợi ích của một nhóm người nào đó. Và quyền tự
nguyện liên hiệp với các dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi để có đủ sức mạnh chống
nguy cơ xâm lược từ bên ngoài, giữ vững độc lập chủ quyền quốc gia dân tộc. Khi xem xét quyền
tự quyết của dân tộc, cần phải đứng trên lập trường giai cấp công nhân, kiên quyết đấu tranh

chống âm mưu thủ đoạn, lợi dụng chiêu bài dân tộc tự quyết để can thiệp vũ trang và áp bức
các dân tộc khác.
- Ba là liên hiệp cơng nhân giữa các dân tộc: đó là sự đồn kết của giai cấp cơng nhân các dân tộc
trên toàn thế giới để đấu tranh chống lại chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, nhằm hồn
thành sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân. Đó là tư tưởng cơ bản trong Cương lĩnh, nó phản
ánh bản chất quốc tế của phong trào công nhân, phong trào cơng nhân và phản ánh tính thống
nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp. Đây là cơ sở vững chắc để đoàn
kết nhân dân lao động trong các dân tộc để đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc vì độc lập dân
tộc và tiến bộ xã hội. Vì vậy , nội dung liên hiệp cơng nhân giữa các dân tộc đóng vai trị liên kết
cả ba nội dung của cương lĩnh thành một chỉnh thể.
Cả ba nội dung trên đều quan trọng, khi vận dụng cần sáng tạo không được xem nhẹ vấn đề nào. Thực
tiễn cách mạng trên thế giới trong thời gian qua đã chứng minh được tính đúng đắn, khoa học, cách
mạng của Cương lĩnh.
II.
Vận dụng
1. Đối với đất nước
Cơ hội của vấn đề dân tộc trong hội nhập và tồn cầu hóa

- Các quốc gia dân tộc có điều kiện “đối sánh”, để nhìn nhận và làm rõ vấn đề dân tộc trong bối cảnh tình
hình mới, có điều kiện để học hỏi cái hay, cái tinh hoa từ bên ngoài (quốc gia, khu vực, toàn cầu) và tránh
được những “xung đột” do vấn đề dân tộc gây ra; có điều kiện quảng bá và giới thiệu quan điểm của nhà
nước về vấn đề dân tộc và trong giải quyết vấn đề dân tộc. Hội nhập và toàn cầu hóa là điều kiện để phát
triển kinh tế - xã hội, con người ngang tầm thời đại và điều kiện để làm giàu và phát triển các dân tộc
theo hướng hiện đại, khắc phục những hủ tục để cải tạo phong tục, tập quán...


Thách thức đối với vấn đề dân tộc trong hội nhập và tồn cầu hóa

Nhận thức, suy nghĩ, tình cảm của người dân, thậm chí của cả cán bộ chịu tác động xấu từ bên ngồi
bằng rất nhiều hình thức khác nhau, vật chất, tinh thần, tâm linh, trực tiếp và gián tiếp..., đòi hỏi chúng

ta phải nắm bắt được những diễn biến tâm tư, tình cảm của họ. Từ những tác động đó, dần dần hình
thành tâm lý, nguy cơ phân hóa, cực đoan, chủ nghĩa dân tộc là những mầm mống nảy sinh gây mất
đoàn kết dân tộc. Thực tế đã có những sự việc nhỏ trong đời sống kinh tế - xã hội bị vướng mắc trong
quan hệ giữa các cá nhân, cộng đồng nhỏ đã bị đẩy lên thành vấn đề quan hệ dân tộc, chính trị hóa từ sự
việc quan hệ kinh tế - dân sự.

Đây là những ảnh hưởng, hệ quả của quá trình tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế tác động tiêu cực đến sự
phát triển của các dân tộc trên nhiều phương diện: kinh tế - văn hóa - xã hội và nhất là quan hệ chính trị.
Một mắt xích bị bất ổn sẽ kéo theo chuỗi bất ổn của quốc gia, dân tộc, ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh
toàn cầu. Vấn đề tồn cầu hóa và hội nhập đang đặt ra cho các quốc gia dân tộc phải nắm bắt và xử lý
được những vấn đề cơ bản, bao gồm:

- Quan hệ đa chiều bao gồm cả những tương tác tích cực và hạn chế giữa tộc người với tộc người trong
phạm vi quốc gia. Quan hệ đa chiều gồm cả những tiến bộ và hạn chế của tộc người với tộc người trên
phạm vi quốc tế. Từ những so sánh quan hệ này hình thành tâm lý so sánh về trình độ phát triển và mức
hưởng thụ kinh tế, văn hóa xã hội giữa các tộc người trong phạm vi quốc gia và quốc tế, các thế lực bên
ngồi lợi dụng vấn đề dân tộc, tơn giáo, nhân quyền gây mất ổn định chính trị.

- Quan hệ truyền thống và hiện đại đang trở thành vấn đề lớn mà các quốc gia dân tộc phải đối mặt và
bắt buộc phải giải quyết. Truyền thống tạo nên những sắc thái văn hóa và cũng là cơ sở gắn kết tính cộng
đồng trở nên mạnh mẽ hơn, đồn kết, giúp đỡ lẫn nhau và cùng chia sẻ lợi ích có được. Tâm lý quốc gia,
dân tộc cũng hình thành từ những giá trị truyền thống và yêu nước. Trong khi yếu tố hiện đại phần lớn là
những yếu tố ngoại lai, các giá trị văn minh và lối sống công nghiệp. Điểm mấu chốt là giải quyết mối
quan hệ đó như thế nào, giữ lại cái gì, tiếp nhận cái gì, hịa trộn thế nào là những câu hỏi khó.

- Sự đối diện giữa đời sống vật chất và các giá trị. Xã hội, tâm linh ngày càng trở nên phức tạp, đan xen và
xuất hiện ngày càng phổ biến trong đời sống xã hội. Tồn cầu hóa dẫn đến sự xâm nhập, du nhập các
dịng tư tưởng tơn giáo, tâm linh trên toàn thế giới dù rằng mức độ có khác nhau, nhưng rõ ràng yếu tố
này đang chi phối đời sống các cá nhân và cộng đồng mạnh mẽ dễ dẫn đến sự chệch dịng nếu khơng có
sự định hướng, kiểm soát phù hợp.



- Vấn đề bản sắc và đồng hóa tự nhiên hoặc có chủ định cũng là vấn đề lớn đặt ra. Bản sắc khẳng định giá
trị và sự tồn tại của một quốc gia dân tộc nhưng cũng không thể giữ bản sắc theo nghĩa tuyệt đối, khép
kín mà phải có yếu tố hịa nhập. Nhưng nếu khơng có sự độc lập, tự chủ thì sẽ dẫn đến sự đồng hóa, cả
theo nghĩa nhân chủng học, cả về văn hóa, theo con đường thơn tính tự nhiên hoặc đơi khi cả sự tự
nguyện.

- Vấn đề phát triển và phát triển bền vững là những yêu cầu mà mỗi quốc gia dân tộc phải lựa chọn con
đường đi, sách lược phù hợp nhằm giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa lợi ích trước mắt và lâu dài. Rõ
ràng, trong một tương lai xa phải bắt đầu cho phát triển bền vững ngay từ bây giờ nhưng với nhiều quốc
gia, điều đó là chưa thể vì nhu cầu đời sống thực tại.

- Vấn đề dân chủ, công bằng và phân tầng xã h ơi. Đó là hệ quả tất yếu của q trình phát triển hiện đại
gắn với q trình tồn cầu hóa, phân cơng lại lao động, phân chia lại các giá trị. Tồn cầu hóa đã di
chuyển chủ nghĩa tư bản ra tồn thế giới với sự bóc lột tinh vi đối với các quốc gia dân tộc khác. Dân chủ,
công bằng và phân tầng xã hội diễn ra mạnh mẽ ở các nước đang phát triển, giữa khối một số nước giàu
nhất với khối phần lớn các nước nghèo nhất trên thế giới, thúc đẩy quá trình này đi nhanh hơn so với
tiến trình lịch sử.
Những tác động tiêu cực và âm mưu của các thế lực thù địch đối với vấn đề dân tộc ở nước ta

Vấn đề dân tộc và tôn giáo từ rất sớm bị các thế lực xâm lược từ bên ngoài, các thế lực thực dân, đế
quốc xem như một “công cụ”, “phương tiện” tất yếu vừa có tính “mở đường”, vừa là “thường xuyên”
trong quá trình thực hiện các ý đồ xâm lược, chống phá cách mạng. Dân tộc và tôn giáo là hai vấn đề vừa
có tính lịch sử, vừa có tính thời sự hiện nay, đó cũng là các vấn đề nhạy cảm và phức tạp trong mọi thời
kỳ phát triển. Vấn đề dân tộc ở nước ta lại bị các thế lực thù địch lợi dụng để chống phá cách mạng, bởi
mấy lý do sau:

Một là, các dân tộc thiểu số là một bộ phận của quốc gia có đời sống cịn nhiều khó khăn so với mặt
bằng chung. Nguyên nhân kinh tế là yếu tố dễ đem ra để so sánh, kích động, dễ nhận biết để lồng vào đó

cách giải thích khác nhau nhằm tạo ra sự nghi kỵ, từ đó phá hoại khối đồn kết giữa các dân tộc, đa số
với thiểu số; thiểu số với thiểu số.

Hai là, măt bằng học vấn của đồng bào các dân tộc thiểu số không đồng đều, nhận thức còn những hạn
chế nên dễ bị các thế lực thù địch lợi dụng để xuyên tạc sự thật về các vấn đề phát triển và quan hệ dân
tộc.


Ba là, trình độ quản lý nhà nước về cơng tác dân tộc của hệ thống chính trị bên cạnh thành tựu vẫn còn
hạn chế, chưa sâu sát, chưa bền vững, xuất phát từ nhiều nguyên nhân, như nhận thức, cán bộ, cơ chế
quản lý, chính sách, xuất phát điểm của các dân tộc trong phát triển...

Bốn là, xuất phát từ quan điểm chiến lược (thuộc bản chất) của các thế lực thù địch khi đi xâm lược một
thuộc địa hay chiếm đoạt quốc gia khác trước khi chiếm tài nguyên là chinh phục “người dân bản địa,
bản xứ” thông qua con đường có tính mũi nhọn là “tơn giáo” và “dân tộc”. Lợi dụng đ ăc điểm quan h ê
tộc người trong điều kiện các quốc gia đa tộc người; áp dụng chính sách “chia để trị” để kích động phá
hoại khối đoàn kết dân tộc.
Những quan điểm và đường lối đúng đắn cần thực hiện
Giữ vững độc lập chủ quyền quốc gia - độc lập dân tộc trong thời kỳ đẩy mạnh tồn diện cơng cuộc đổi
mới đất nước. Xây dựng kinh tế độc lập, tự chủ, chủ động hội nhập quốc tế. chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế và khu vực, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an
ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Hội nhập quốc tế tranh thủ hịa bình, phát triển kinh tế và
cải thiện đời sống nhân dân.
Đổi mới và thống nhất nhận thức kịp thời xây dựng độc lập, tự chủ và chủ quyền quốc gia trong bối cảnh
mới. Độc lập và tự chủ có liên quan mật thiết nhưng khơng đồng nhất nhau và đều có những nội hàm
riêng trên thực tế. Độc lập là quyền và sự công nhận chủ quyền, là sự khẳng định tính đơn nhất nhưng
vẫn nằm trong thế đan xen, hợp tác trong các khối kinh tế, chính trị. Tự chủ là sự chủ động, tự quyết và
tự giải quyết các vấn đề thuộc về quốc gia độc lập, trên nguyên tắc không can thiệp. Vấn đề quan trọng
nhất là nâng cao tự chủ quốc gia.
Nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia, đồng thời giải quyết có hiệu quả mối quan hệ giữa giữ vững độc

lập, tự chủ và tích cực, chủ động hội nhập quốc tế. Độc lập, tự chủ phụ thuộc vào sức mạnh kinh tế,
quân sự của quốc gia. Sức mạnh đó bao gồm các cấu thành: Tiềm lực kinh tế, khoa học kỹ thuật, quốc
phòng và an ninh; các giá trị truyền thống và đương đại Việt Nam, bao gồm cả các hệ giá trị mới nhằm
thúc đẩy sự phát triển của đất nước; củng cố vị thế quốc gia trên trường quốc tế và khu vực, củng cố chủ
quyền quốc gia trên cả vùng biển và đất liền, củng cố và bảo vệ độc lập, dân tộc.
Kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa. Nhiệm vụ này cần được nhận thức đầy đủ trong bối cảnh mới khi mà bảo vệ Tổ quốc không
chỉ trên mặt trận sức mạnh vũ khí trực tiếp mà cả trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và bảo vệ mơi
trường. Và nó cần phải được chú trọng xử lý ngay trong hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội,
các đề án, quy hoạch, kế hoạch.
Trong nội bộ quốc gia và với các quốc gia khác, đó là việc giải quyết vấn đề dân tộc, chính sách dân tộc
trên cơ sở kiên trì phát huy truyền thống “độc lập dân tộc” gắn với “chủ nghĩa xã hội”, và “khơng có gì
q hơn độc lập tự do”.


Giải quyết vấn đề dân tộc ở nước ta là giải phóng con người thốt khỏi nghèo nàn, lạc hậu; thực hiện
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; thực hiện dân chủ, tự do cho các dân tộc;
phát huy truyền thống đoàn kết xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc
Thực hiện phát triển kinh tế - xã hội, từng bước cải thiện và nâng cao mọi mặt đời sống nhân dân, thu
hẹp dần khoảng cách phát triển giữa các vùng, các dân tộc là một mục tiêu lớn đặt ra cho công tác dân
tộc nói riêng và cơng tác quản lý quốc gia nói chung.
Xử lý hài hịa các nhu cầu và lợi ích, giữa yếu tố truyền thống và hiện đại, giữa kinh tế và văn hóa trong
sự biến đổi kinh tế - văn hóa.
Nhiều dân tộc ở nước ta hiện có mối liên hệ truyền thống với các cư dân vùng biên giới các quốc gia láng
giềng cũng như các quốc gia trong khu vực và cả một số quốc gia trên thế giới. Giải quyết và xử lý đúng
đắn quan hệ về vấn đề dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa liên quan đến các nước trong khu vực và thế
giới là một yêu cầu quan trọng. Phải kiên trì thực hiện đường lối chính trị rộng mở, đa phương hóa, đồn
kết thống nhất dân tộc. Mặt khác, phải kiên quyết đấu tranh với âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hịa bình”
của các thế lực thù địch hịng chống phá lợi ích dân tộc. Tùy từng sự việc, điều kiện hồn cảnh cụ thể mà
có những phân tích, xử lý đúng đắn, và địi hỏi cơng tác dân tộc phải nắm chắc tình hình, nhạy bén, làm

tham mưu tốt cho Đảng, Nhà nước trong cơng tác đối ngoại chính trị, đối ngoại nhân dân và xử lý tình
huống khi cần thiết.



×