Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

Vấn đề đạo đức cách mạng và pháp luật xã hội chủ nghĩa trong tư tưởng hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (457.43 KB, 122 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------YZ----------

NGUYỄN VĂN HIỀN

VẤN ĐỀ “ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG”
VÀ “PHÁP LUẬT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA”
TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2009


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------YZ----------

NGUYỄN VĂN HIỀN

VẤN ĐỀ “ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG”
VÀ “PHÁP LUẬT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA”
TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60.22.80

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC



Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. Trương Văn Chung

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2009


2

LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân.
Kết quả nghiên cứu là trung thực và chưa được ai công bố.
Người thực hiện

NGUYỄN VĂN HIỀN


1

MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU.................................................................................................. 03
NỘI DUNG .............................................................................................. 11
Chương 1: TIỀN ĐỀ VÀ NỘI DUNG CỦA TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP LUẬT ........................... 11
1.1. Tiền đề của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và pháp luật ........ 11
1.1.1. Tiền đề của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh ......................... 13
1.1.2. Sự hình thành tư tưởng pháp luật Hồ Chí Minh..................... 19

1.2. Nội dung cơ bản về đạo đức cách mạng và pháp luật
xã hội chủ nghóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh ................................ 28
1.2.1. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh ............................................ 28
1.2.2. Tư tưởng pháp luật Hồ Chí Minh .......................................... 47
Chương 2: QUAN HỆ GIỮA ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP LUẬT TRONG
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH – Ý NGHĨA VÀ SỰ VẬN DỤNG VÀO
QUẢN LÝ XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ............................... 60
2.1. Quan hệ giữa đạo đức và pháp luật trong tư tưởng Hồ Chí Minh. 60
2.1.1. Thống nhất giữa đạo đức cách mạng và pháp luật XHCN.... 60
2.1.2. Đạo đức là một trong những cơ sở của việc xây dựng và
thực thi pháp luật; pháp luật hàm chứa đạo đức, bảo tồn
và phát triển đạo đức ........................................................... 64
2.1.3. Giáo dục đạo đức phải đi đôi với kỷ luật .............................. 74


2

2.2. Ý nghóa và sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ
giữa đạo đức và pháp luật trong sự nghiệp cách mạng
xã hội chủ nghóa ở Việt Nam hiện nay ............................................. 82
2.2.1. Khái quát về thực trạng đời sống đạo đức và pháp luật
ở Việt Nam hiện nay............................................................ 82
2.2.2. Ý nghóa và sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
quan hệ giữa đạo đức và pháp luật trong sự nghiệp
cách mạng xã hội chủ nghóa ở Việt Nam hiện nay............... 93
KẾT LUẬN ............................................................................................ 110
TÀI LIỆU THAM KHAÛO...................................................................... 114


3


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đạo đức và pháp luật đều là những quy tắc ứng xử nhằm cùng mục
đích điều chỉnh, đánh giá hoạt động hành vi của con người trong mối quan
hệ với chính bản thân mình, với người khác, với tự nhiên và xã hội. Chống
lại cái ác, hướng đến cái thiện, kết hợp hài hòa giữa lợi ích của cá nhân và
xã hội để duy trì trật tự và sự tiến bộ của xã hội là nhiệm vụ thường xuyên
của đạo đức và pháp luật.
Tuy nhiên, giữa đạo đức và pháp luật cũng có sự khác nhau về lịch sử
ra đời, về phương thức biểu hiện, phạm vi hoạt động, tác dụng và hiệu quả…
Chính vì vậy, trong lịch sử phép trị nước nhất là ở phương Đông, các nhà
chính trị và tư tưởng đã từng tranh biện nhau về sử dụng đức trị và pháp trị:
có lúc nặng về đức trị, có khi nghiêng về pháp trị, có thời kết hợp cả đức trị
lẫn pháp trị.
Ở Việt Nam, suốt chiều dài lịch sử từ khi dựng nước, trải qua gần
nghìn năm đô hộ của phương Bắc, đến lúc giành được độc lập tự chủ, xây
dựng quốc gia phong kiến trong thời gian dài gần mười thế kỷ cũng đã từng
có những bậc minh quân đạt đến sự tinh tế và thuần nhuyễn trong thủ pháp
hợp hỗ giữa đạo đức và pháp luật. Tuy nhiên, giới hạn lịch sử của “đức” và
“pháp” ấy cũng chỉ tồn tại và phát huy trong chế độ quân chủ chuyên chế.
Đạo đức và pháp luật ấy cũng chỉ nhằm biện hộ và bảo tồn chế độ quân chủ
mà lợi ích trực tiếp là cho số ít tầng lớp trên của xã hội – giai cấp địa chủ,
quý tộc phong kiến, không đếm xỉa đến thân phận của số đông quần chúng
nhân dân nghèo khổ.


4

Cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở nước ta nhằm thoát khỏi ách đô

hộ của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ gắn liền với giải phóng giai cấp diễn
ra ở cuối thế kỷ XIX đến nửa sau thế kỷ XX thành công, đưa giai cấp công
nhân và quần chúng nhân dân lao động từ thân phận nô lệ, bị áp bức bóc lột
lên địa vị làm chủ xã hội, đưa lịch sử dân tộc sang một trang mới – quá độ
lên Chủ nghóa xã hội. Từ khi khởi xướng đến cách mạng thành công, xây
dựng chính quyền nhà nước độc lập, với cương vị là người lãnh đạo cuộc
cách mạng đó và tổ chức xây dựng thể chế chính trị để quản lý trật tự xã
hội, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã ấp ủ, tìm kiếm và hoàn thiện
những phương cách “trị nước” đúng đắn, hiệu quả. Trong đó, kế thừa và
thâu hóa sáng tạo hai nhân tố “đạo đức” và “pháp luật” là một giải pháp
quan trọng dưới chủ nghóa xã hội được thể hiện trong tư tưởng và hành động
cách mạng của Hồ Chí Minh.
Trong bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường hội nhập quốc tế,
định hướng lên chủ nghóa xã hội, Việt Nam đã và đang thu hái được nhiều
thành quả lớn. Tuy nhiên, mặt trái của kinh tế thị trường và hội nhập cũng
đã và đang từng ngày phát sinh nhiều tiêu cực và tệ nạn xã hội. Trong đó,
sự suy thoái về đạo đức và vi phạm pháp luật đang có chiều hướng gia tăng,
phức tạp và lây lan khá nhanh trong đời sống xã hội. Đặc biệt nguy hại là
tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán
bộ, đảng viên trong những năm đổi mới đã được các Đại hội và Hội nghị
Trung ương nhìn nhận một cách thẳng thắn, nghiêm túc. Sau 10 năm đổi
mới, năm 1996, trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII có
nhận định: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng bản


5

thân, phai nhạt lý tưởng, mất cảnh giác, giảm sút ý chí, kém ý thức tổ chức
kỷ luật, sa đọa về đạo đức và lối sống. Một số thoái hoá về chính trị, tuy rất
ít nhưng hoạt động của họ gây hậu quả hết sức xấu” [13, 137]. Đại hội IX

của Đảng 5 năm sau đó cho rằng mức độ của nó còn lớn hơn: “Tình trạng
tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng. Nạn tham nhũng
kéo dài trong bộ máy của hệ thống chính trị và trong nhiều tổ chức kinh tế
là một nguy cơ lớn đe doạ sự sống còn của chế độ ta. Tình trạng lãng phí,
quan liêu còn khá phổ biến” [14, 76]. Gần đây nhất, Đại hội X của Đảng đã
đánh giá: “Công tác xây dựng Đảng còn nhiều yếu kém, khuyết điểm, chưa
theo kịp với đòi hỏi của tình hình mới; nổi lên là sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên
diễn ra nghiêm trọng; tệ quan liêu tham nhũng, lãng phí chưa được ngăn
chặn, đẩy lùi, làm giảm lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân” [15,
274]. Trong tổ chức Đảng như vậy, còn xã hội thì “tình trạng suy thoái,
xuống cấp về đạo đức, lối sống, sự gia tăng tệ nạn xã hội và tội phạm đáng
lo ngại nhất là trong lớp trẻ,… một số tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn có
hiệu quả… , tệ ma tuý, mại dâm còn diễn biến phức tạp. Tội phạm có tổ
chức và tội phạm liên quan đến ma tuý có chiều hướng gia tăng” [15, 137174] … Chính thực trạng đó làm cho sự phát triển của xã hội Việt Nam luôn
phải đối mặt với thách thức, rủi ro cao, tiềm ẩn nhiều nhân tố bất ổn, chệch
choạc, thiếu bền vững trên con đường vươn lên sự tiến bộ xã hội. Nguyên
nhân của nó có nhiều nhưng quan trọng có lẽ là do vai trò, chức năng của
đạo đức và pháp luật chưa phát huy nhiều hiệu quả, còn lỏng lẻo, thiếu sự


6

thống nhất, đồng bộ và lâu dài. Chính vì vậy, nghiên cứu, làm sáng tỏ quan
niệm, cách dụng về đức và pháp trong tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ
mang những ý nghóa khoa học to lớn mà còn có giá trị định hướng cho sự
nghiệp xây dựng, quản lý đất nước ta hiện nay.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Hồ Chí Minh là lãnh tụ thiên tài của cách mạng Việt Nam, là anh

hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Cả cuộc đời, sự
nghiệp và đặc biệt là tư tưởng của Người trở thành tài sản tinh thần quý báu
của Đảng và dân tộc Việt Nam. Việc tìm hiểu, nghiên cứu, khai thác tài sản
đó trở thành nguồn cảm hứng của nhiều nhu cầu chính đáng từ việc bày tỏ
tình cảm đối với lãnh tụ kính yêu, đến học tập và rèn luyện theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh. Với tầm cao khoa học và sự thông tuệ trong tư tưởng
của Người, Đảng ta đã xác định lấy đó làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ
nam cho hành động cùng với chủ nghóa Mác - Lênin [12, 127] . Đó cũng là
lúc tư tưởng Hồ Chí Minh được quan tâm nghiên cứu rộng rãi trên toàn xã
hội một cách có hệ thống, toàn diện và chuyên sâu. Nhiều chương trình
khoa học và đề tài khoa học cấp nhà nước nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí
Minh trên nhiều lónh vực được triển khai thực hiện. Kết qủa, rất nhiều công
trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh được nghiệm thu, nhiều ấn phẩm
khoa học được công bố. Đặc biệt, nhà xuất bản Chính trị quốc gia đã cho
xuất bản bộ sách Hồ Chí Minh toàn tập (12 tập) và đóa CD-ROM về tư
tưởng Hồ Chí Minh, phác họa tương đối đầy đủ về cuộc đời, sự nghiệp,
trước tác và những hình ảnh sinh động về Người. Đến nay, giáo trình tư
tưởng Hồ Chí Minh của Hội đồng trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình


7

quốc gia các bộ môn Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Bộ giáo
dục và đào tạo đã được ban hành và sử dụng phổ biến trong các trường đại
học và cao đẳng ở nước ta.
Nghiên cứu về đạo đức và pháp luật trong tư tưởng Hồ Chí Minh
chưa thấy có một ấn phẩm chuyên biệt nào được ban hành. Tuy nhiên, từng
mảng “đạo đức”, “pháp luật” hay mối quan hệ giữa chúng và những vấn đề
có liên quan đã được nghiên cứu và đề cập rải rác trong một số tác phẩm.
Điển hình như tác phẩm “Đạo đức và pháp luật trong triết lý phát triển ở

Việt Nam” của 2 tác giả Vũ Khiêu – Thành Duy, do nhà xuất bản khoa học
xã hội Hà Nội ban hành năm 2000. Trong tác phẩm này, tác giả đã có phân
tích một cách sâu sắc một số vấn đề về “nguồn gốc và vai trò của đạo đức
và pháp luật trong sự phát triển xã hội”, về “đặc điểm của triết lý đạo đức
và pháp luật trong truyền thống văn hóa Việt Nam”, về “đạo đức và pháp
luật trong tư tưởng Hồ Chí Minh và trong thực tiễn xã hội ta từ cách mạng
tháng Tám năm 1945…”. Hoặc ở tác phẩm “Pháp quyền nhân nghóa Hồ Chí
Minh”, tác giả Vũ Đình Hòe cũng đã có những tìm tòi và nhận định thú vị
về sự thống nhất giữa đức trị và pháp trị trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Hoặc
ở tác phẩm “Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật”, tác
giả Nguyễn Xuân Tế cũng có đôi nét bàn đến sự thống nhất giữa đạo đức
và pháp luật trong tư tưởng Hồ Chí Minh…
Ngoài ra, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và pháp luật cũng như
mối quan hệ giữa chúng còn được đề cập ở một số tác phẩm khác và các
tạp chí khoa học lý luận như: tạp chí cộng sản, tạp chí triết học, tạp chí
khoa học xã hội, tạp chí lý luận chính trị… Đơn cử như ở chương VII: “tö


8

tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân”, giáo
trình tư tưởng Hồ Chí Minh của Hội đồng trung ương chỉ đạo biên soạn giáo
trình quốc gia các bộ môn Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh có khẳng định
Hồ Chí Minh là một nhà chính trị lão luyện đã thâu hóa và vận dụng nhuần
nhuyễn, sáng tạo mối quan hệ đức trị và pháp trị [27, 282-283]. Hoặc một
số bài viết như “Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa pháp
luật và đạo đức” của Võ Công Khôi trên Tạp chí khoa học xã hội số 9.2005,
bài viết “Tư tưởng Hồ Chí Minh kết hợp đạo đức và pháp luật trong quản lý
xã hội” của Hoàng Văn Tuệ trên Tạp chí cộng sản số 8.2007… đều ít nhiều
đề cập đến tư tưởng Hồ Chí Minh về thống nhất giữa đạo đức và pháp luật.

Nhìn chung, ở các tác phẩm và bài viết đó được tiếp cận và khai thác
trên những chiều cạnh khác nhau, phần nào làm lộ diện nội dung và phương
pháp kết hợp giữa đức với pháp trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Tuy nhiên,
gộp tất thảy những nghiên cứu đã đạt được vẫn chưa tương xứng với tầm
vóc của tư tưởng Hồ Chí Minh trên lónh vực này. Chính vì vậy, việc nghiên
cứu cần được bổ sung và phát triển. Chúng tôi xin được tiếp tục thực hiện
công việc ấy ở luận văn cao học “Vấn đề đạo đức cách mạng và pháp luật
xã hội chủ nghóa trong tư tưởng Hồ Chí Minh” trên cơ sở khai thác, kế
thừa sáng tạo những thành tựu đã nghiên cứu được của những người đi
trước.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ những tiền đề hình thành tư
tưởng đạo đức và pháp luật Hồ Chí Minh, những nội dung cơ bản tư tưởng
đạo đức và pháp luật Hồ Chí Minh cũng như mối quan hệ giữa đạo đức và


9

pháp luật trong tư tưởng của Người. Qua đó, tìm thấy ý nghóa và sự vận
dụng tư tưởng đạo đức kết hợp pháp luật của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp
xây dựng chủ nghóa xã hội ở nước ta hiện nay.
Để đạt được mục đích trên, luận văn phải thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Trình bày khái quát những tiền đề của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức và pháp luật;
- Trình bày và phân tích những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức cách mạng, pháp luật xã hội chủ nghóa và mối quan hệ
giữa chúng;
- Phân tích ý nghóa và sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ
giữa đạo đức và pháp luật trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghóa ở
nước ta hiện nay.

4. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Để hoàn thiện luận văn này, tác giả dựa trên phương pháp luận của
chủ nghóa duy vật biện chứng và chủ nghóa duy vật lịch sử kết hợp với các
phương pháp khác như: so sánh – đối chiếu, phân tích – tổng hợp, logic –
lịch sử…
5. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu
sắc và nhiều lónh vực như: chính trị, văn hóa, xã hội, ngoại giao… Trong
phạm vi của luận văn cao học này, người thực hiện chú trọng làm sáng tỏ tư
tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, về pháp luật và về mối quan hệ giữa đạo
đức và pháp luật trong quá trình thực hiện cuộc cách mạng xây dựng chủ
nghóa xã hội ở Việt Nam.


10

6. Ý nghóa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần làm sáng tỏ những tư tưởng triết học độc đáo của
Hồ Chí Minh. Qua đó, tôn vinh những đóng góp vó đại của thiên tài Hồ Chí
Minh đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Ngoài ra, luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc học
tập và nghiên cứu tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn được kết cấu thành hai chương.


11

NỘI DUNG

Chương 1
TIỀN ĐỀ VÀ NỘI DUNG CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP LUẬT

1.1. TIỀN ĐỀ CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP LUẬT

Mọi ý thức tư tưởng ra đời đều không tách rời với tồn tại xã hội, nó
luôn là sản phẩm tất yếu của những cơ sở kinh tế – xã hội nhất định. Thực
tiễn xã hội, nhất là thực tiễn cách mạng luôn nảy sinh những yêu cầu khách
quan cần phải được soi sáng bằng lý luận khoa học. Tư tưởng Hồ Chí Minh
ra đời cũng không ngoài quy luật văn minh chung đó của nhân loại. Nói
cách khác, tư tưởng Hồ Chí Minh ra đời như là sản phẩm tất yếu của cách
mạng Việt Nam, là sự giải đáp những nhu cầu bức thiết của cách mạng Việt
Nam đặt ra.
Cuối thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp xâm lược và đặt ách đô hộ ở
nước ta đã làm cho xã hội Việt Nam có những chuyển biến sâu sắc về kinh
tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Việt Nam từ một xã hội phong kiến thuần tuý
đã biến thành một xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Sự du nhập của phương
thức sản xuất tư bản chủ nghóa và những cuộc khai thác nhằm cướp đoạt tài
nguyên, bóc lột nhân công rẻ mạt kết hợp với việc vẫn duy trì phương thức
bóc lột bằng sưu cao thuế nặng của phong kiến đã làm cho xã hội Việt Nam
có sự phân hoá giai cấp sâu sắc. Theo đó, nhiều mâu thuẫn xã hội hình
thành và đan xen nhau song mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu vẫn là mâu thuaãn


12

giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và bè lũ tay sai. Giải
quyết mâu thuẫn này, nhân dân ta đã tiếp nối nhau đứng lên đánh đuổi thực
dân Pháp xâm lược, mưu cầu giải phóng đất nước giành lại độc lập cho dân

tộc. Tuy nhiên, các phong trào yêu nước chống Pháp cuối thế kỷ XIX, đầu
thế kỷ XX đều bị thất bại do đường lối chính trị không khoa học, còn mang
tính cải lương, ảo tưởng. Những sự thất bại đó đã đặt cách mạng Việt Nam
vào tình thế khủng hoảng và bế tắt về đường lối. Nhu cầu lớn nhất của lịch
sử đặt ra là tìm lấy con đường đi đúng cho cuộc cách mạng cứu nước, giải
phóng dân tộc. Chính lúc đó, chàng thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành
xuất hiện và thực hành hoài bão: “muốn đi ra ngoài, xem nước Pháp và các
nước khác… họ làm như thế nào … sẽ về giúp đồng bào chúng ta” [59, 13].
Sau khi tìm thấy đường lối cho cách mạng, Người trực tiếp lãnh đạo thành
công cuộc cách mạng đó, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ lịch sử giao phó.
Khác với trong nước, bối cảnh thế giới cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX, diễn ra những biến động lịch sử lớn. Các nước tư bản phương Tây phát
triển sang giai đoạn đế quốc chủ nghóa và hầu như đã phân chia xong thị
trường thế giới. Những mâu thuẫn lớn của thời đại ngày càng gay gắt và
tích tụ lại thành thời kỳ bão táp cách mạng. Cách mạng tháng Mười Nga vó
đại thành công là sự mở đầu cho thời kỳ bão táp cách mạng đó và làm sứ
mệnh vạch ra con đường đúng đắn cho phong trào cách mạng toàn thế giới,
trong đó có cách mạng Việt Nam.
Trên lộ trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã đi đến tận nơi
diễn ra dòng thác cách mạng tiến bộ, trực tiếp tham gia phong trào đấu
tranh chung của nhân loại chống chủ nghóa thực dân mà cụ thể là đế quốc


13

Pháp. Cùng với sự ảnh hưởng to lớn của cách mạng tháng Mười Nga và
nhất là khi bắt gặp chủ nghóa Lênin đã giúp cho Nguyễn Ái Quốc tìm thấy
ánh sáng và đường lối cách mạng đúng đắn giải phóng dân tộc Việt Nam.
Như vậy, hoàn cảnh lịch sử của đất nước, của thời đại với những hoạt
động thực tiễn cách mạng của bản thân là nguồn gốc đầu tiên cho sự hình

thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngoài ra, tư tưởng Hồ Chí Minh
còn bắt nguồn từ các tiền đề chính như: truyền thống tốt đẹp của dân tộc,
những tinh hoa tư tưởng của phương Đông lẫn phương Tây mà đỉnh cao
trong sự phát triển của tư tưởng nhân loại là chủ nghóa Mác – Lênin.
1.1.1. Tiền đề của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
Đạo đức Hồ Chí Minh là biểu trưng cho một trình độ đạo đức mới
trong văn hoá Việt Nam. Trong tư tưởng đạo đức của mình, Hồ Chí Minh
đã phát triển các giá trị đạo đức dân tộc, tiếp biến tinh hoa đạo đức nhân
loại từ cổ đến kim, xác lập nhiều chuẩn mực đạo đức mới trong văn hoá
Việt Nam. Do vậy, cội nguồn đạo đức Hồ Chí Minh được cấu thành từ
nhiều yếu tố. Chính điều đó đã làm nên sắc thái mới cho các giá trị đạo đức
của thời đại mang tên Người – thời đại Hồ Chí Minh.
Hành trang mà Hồ Chí Minh mang theo trên con đường tìm đến chủ
nghóa Mác – Lênin đó chính là những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp
của dân tộc Việt Nam, mà nội dung cốt lõi của nó là truyền thống yêu nước,
đạo lý nhân nghóa…
Chủ nghóa yêu nước Việt Nam được hun đúc nên bởi quá trình đấu
tranh dựng nước và giữ nước của nhân dân ta, dân tộc ta. Chính tinh thần
yêu nước và lòng nhân ái là đặc trưng bản chất đạo đức mang đậm bản sắc


14

dân tộc Việt Nam. Tinh thần yêu nước đã trở thành đạo lý, triết lý sống,
niềm tự hào và là một nhân tố đứng đầu trong bảng giá trị tinh thần của con
người Việt Nam. Hồ Chí Minh đã đúc kết: “Dân ta có một lòng nồng nàn
yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi
Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng
vô cùng mạnh mẽ, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm
tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước… Chúng ta có quyền tự hào vì những

trang sử vẻ vang thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi,
Quang Trung v.v…” [47, 171-172]. Có thể nói, chủ nghóa yêu nước từ chỗ
gắn kết mỗi người con đất Việt với vận mệnh của Tổ quốc đã nhân lên
thành một sức mạnh to lớn cho bản thân, giúp họ vượt qua mọi khó khăn
nguy hiểm, mọi thử thách gian nan. Hồ Chí Minh - một người con đất Việt
nên hẳn nhiên cũng không gì khác là chính lòng yêu nước trở thành nội
động lực thôi thúc Người ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân và sẵn sàng
chịu đựng mọi gian lao khổ ải nhằm giành bằng được độc lập cho dân tộc,
thống nhất cho Tổ quốc, tự do, hạnh phúc cho đồng bào mình. Sau này,
trong bài viết “Con đường dẫn tôi đến chủ nghóa Lênin” cho tạp chí Các vấn
đề phương Đông (Liên Xô) nhân kỷ niệm lần thứ 90 ngày sinh Lênin, Người
bộc bạch: “Lúc đầu, chính chủ nghóa yêu nước, chứ không phải là chủ nghóa
cộng sản đã đưa tôi đi theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba” [51, 128].
Không chỉ là động lực mà lòng yêu nước còn là thứ tình cảm thiêng liêng
cao quý chi phối mọi suy nghó, hành động trong suốt cuộc đời Hồ Chí Minh.
Lòng yêu thương con người, yêu thương nhân dân bao la đó được Người
khái quát lên thành một triết lý nhân sinh sâu sắc : “Nghó cho cùng, mọi


15

vấn đề … là vấn đề ở đời và làm người. Ở đời và làm người phải thương
nước, thương dân, thương nhân loại bị đau khổ áp bức” [41, 174]. Từ
phương châm, lẽ sống đó nên không chỉ kế thừa mà trong tư tưởng đạo đức
của mình, Người luôn ra sức kêu gọi bảo tồn, phát huy truyền thống dân
tộc. Hồ Chí Minh viết: “Nhân dân ta có truyền thống tốt đẹp là lao động
cần cù, sinh hoạt giản dị, lại có tinh thần yêu nước nồng nàn. Chúng ta cần
phát huy truyền thống và tinh thần ấy” [49, 349].
Song hành với nền tảng đạo đức truyền thống thì những giá trị văn
hoá đạo đức phương Đông mà nổi bật là Nho giáo du nhập Việt Nam được

dân tộc hoá cũng là bộ phận quan trọng cấu thành nên tư tưởng, nhân cách
đạo đức Hồ Chí Minh. Trước khi tiếp thu chủ nghóa Mác – Lênin để trở
thành người chiến sỹ cộng sản, Hồ Chí Minh đã khẳng định về nguồn gốc
xuất thân của mình: “Tôi sinh ra trong một gia đình nhà Nho An Nam.
Những gia đình như thế ở nước tôi không phải làm việc gì. Thanh niên
trong những gia đình ấy thường học Khổng giáo… Khổng giáo không phải là
một tôn giáo mà là một thứ khoa học về kinh nghiệm đạo đức và phép ứng
xử” [42, 477] . Có thể nói, triết lý đạo đức Khổng – Mạnh và Hán học được
tiếp nhận từ thû ấu thơ đã ăn sâu vào tâm trí, có ảnh hưởng rất quan trọng
trong cuộc đời, sự nghiệp và tư tưởng Hồ Chí Minh. Rất nhiều mệnh đề,
khái niệm của Nho giáo đã được Người kế thừa và vận dụng trong những
bài nói, bài viết nhằm diễn đạt tư tưởng của mình.
Tuy nhiên, đạo đức Nho giáo vốn tồn tại đan xen giữa tiến bộ và hạn
chế nên Hồ Chí Minh sử dụng nó một cách có chọn lọc, cải biên và phát
triển. Người nói về đạo Khổng: “Tuy Khổng Tử là phong kiến và tuy trong


16

học thuyết của Khổng Tử có nhiều điều không đúng, song những điều hay
trong đó thì chúng ta nên học” [47, 46]. Những yếu tố duy tâm “thiên
mệnh”, tư tưởng đẳng cấp hà khắc lạc hậu, những giáo điều “tam tòng tứ
đức”, “tam cương”, “ngũ thường”, “nam tôn nữ ti”, coi khinh lao động chân
tay, coi thường thực nghiệm và doanh lợi … được Hồ Chí Minh cực lực phê
phán, bác bỏ. Ngược lại, những yếu tố tích cực của Nho giáo được Người
triệt để khai thác phục vụ cho xây dựng nền đạo đức mới. Đó là triết lý
hành động, tư tưởng nhập thế, hành đạo cứu đời, ước vọng về một xã hội
hoà mục, một thế giới đại đồng. Trong triết lý nhân sinh của Nho giáo, rất
nhiều chuẩn mực đạo đức giúp con người tu thân dưỡng tính như: trung,
hiếu, nhân, nghóa, cần, kiệm, liêm, chính… đã được Hồ Chí Minh vận dụng

sáng tạo vào việc giáo dục đạo đức cho cán bộ cách mạng và mọi tầng lớp
nhân dân.
Ở phương Đông, ngoài Nho giáo, Hồ Chí Minh còn tiếp thu có chọn
lọc những tư tưởng vị tha, bác ái, chống phân biệt đẳng cấp của Phật giáo;
tư tưởng kiêm ái – yêu thương tất thảy mọi người của Mặc Tử; tư tưởng hoà
quyện cuộc sống vào tự nhiên, không màng danh lợi của Lão giáo; tư tưởng
của Tôn Trung Sơn trong học thuyết tam dân; tư tưởng yêu nước mang nặng
màu sắc ôn hoà (bất bạo động) của Nêru, Găngđi…
Bên cạnh phương Đông, nhiều trào lưu tư tưởng tiến bộ phương Tây
cũng đã được tiếp biến có chọn lọc trong sự hình thành và phát triển tư
tưởng Hồ Chí Minh. Khẩu hiệu “tự do – bình đẳng – bác ái” của đại cách
mạng tư sản Pháp và những thành tựu khoa học của văn minh phương Tây ít
nhiều đã được chàng thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành tiếp xúc qua


17

một số tài liệu sách báo khi còn ở trong nước. Sau đó, những năm bôn ba
nước ngoài và dừng chân lại ở Pháp, Hồ Chí Minh đã nghiên cứu trực tiếp
chủ nghóa nhân văn, tư tưởng tự do, dân chủ trong các tác phẩm của thời kỳ
Phục hưng, của các văn hào Khai sáng nổi tiếng như Vônte, Rútxô,
Môngtétxkiơ… Tuy nhiên, khi đã tham gia bằng chính hoạt động thực tiễn
của mình, Hồ Chí Minh nhận thấy các mỹ từ Tự do, Bình đẳng, Bác ái chỉ là
sáo rỗng, bịp bợm trong thực tế xã hội phương Tây đầy rẫy những bất công
và phi nghóa. Dân chủ và đạo đức nhân văn tư sản dù là một bước tiến của
lịch sử nhưng cũng rất hạn chế và chưa thể thoả mãn cho nhu cầu tìm kiếm
để làm hành trang trong sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh.
Trong tinh hoá văn hoá phương Tây mà điển hình là chủ nghóa Mác –
Lênin mới là nguồn gốc lý luận quyết định nhất bước phát triển mới về chất
trong tư tưởng Hồ Chí Minh [24, 61]. Đến với chủ nghóa Mác – Lênin chính

là bước ngoặt cơ bản trong quá trình tìm đường cứu nước cũng như quá trình
phát triển của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh: chủ nghóa yêu nước đã gắn
liền với chủ nghóa xã hội, giác ngộ dân tộc đã phát triển và kết hợp với giác
ngộ giai cấp, cách mạng giải phóng dân tộc gắn liền với cách mạng vô sản.
Trên phương diện đạo đức, điểm cốt yếu của đạo đức nhân văn cộng sản
mà chủ nghóa Mác – Lênin đưa lại là tính hiện thực trực tiếp giải phóng con
người chứ không phải là sự cảm nhận thương xót, và do vậy nên đó là đỉnh
cao của hệ thống luân lý và đạo đức nhân loại. Vì vậy, tuy không phải là
cội nguồn mở đầu nhưng những tư tưởng đạo đức của chủ nghóa Mác –
Lênin có giá trị định hướng cho sự phát triển của tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh theo mục tiêu xã hội chủ nghóa và được xem là hạt nhân của tư tưởng


18

đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh. Ở phương diện khác, cái mà Người còn
học được nhiều nhất ở Chủ nghóa Mác – Lênin đó chính là phương pháp
biện chứng. Nhờ phương pháp biện chứng mà Hồ Chí Minh xử lý một cách
đúng đắn, nhuần nhuyễn vấn đề kế thừa, dung hợp giữa đạo đức dân tộc và
tinh hoa nhân loại, giữa truyền thống và hiện đại cũng như giữa đạo đức và
pháp luật trong quản lý xã hội. PGS. TS. Thành Duy – người có nhiều công
trình nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh đã viết: “Phép biện chứng đã
tránh cho Hồ Chí Minh có cái nhìn siêu hình và phiến diện mà nhiều người
mắc phải. Điều này khiến cho tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh thể hiện mối
quan hệ đúng đắn giữa dân tộc và giai cấp, Tổ quốc và nhân loại, cá nhân
và xã hội, truyền thống và hiện tại, hôm nay và mai sau” [8, 48]. Đồng thời
phép biện chứng của chủ nghóa Mác – Lênin không chỉ giúp Hồ Chí Minh
tránh được những giáo điều trong nhận thức và hành vi đạo đức mà còn
phát triển và sáng tạo những giá trị tư tưởng đạo đức mới tạo cho mình một
hệ tư tưởng đạo đức cách mạng phù hợp với điều kiện cách mạng Việt Nam

[9, 59-60]. Với Hồ Chí Minh, chủ nghóa Mác – Lênin thực sự là “cẩm nang
thần kỳ”, là kim chỉ nam dẫn đường cách mạng chúng ta đi đến thắng lợi
cuối cùng, đi tới chủ nghóa xã hội và chủ nghóa cộng sản.
Tóm lại, trên phương diện lý luận, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là
sự thâu hoá, hội tụ những giá trị đạo đức truyền thống và tinh hoa đạo đức
nhân loại. Điều đó được phản ánh qua một câu nói rất nổi tiếng của Người.
Người nói: “ Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo
đức cá nhân. Tôn giáo Giêsu có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả. Chủ
nghóa Mác có ưu điểm của nó là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ


19

nghóa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó thích hợp với điều
kiện nước ta. Khổng Tử, Giêsu, Các Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có những ưu
điểm đó sao? Họ đều muốn mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu cầu
hạnh phúc cho xã hội. Nếu hôm nay họ còn sống trên cõi đời này, nếu họ ở
một chỗ, tôi tin rằng họ sống chung rất tốt đẹp như những người bạn thân
thiết. Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy” [58, 191].
1.1.2. Sự hình thành tư tưởng pháp luật Hồ Chí Minh
Giữa pháp luật và nhà nước luôn có mối quan hệ thống nhất nhau.
Chúng đều là những bộ phận của kiến trúc thượng tầng, có chung nguồn
gốc ra đời, đó là sản phẩm của quá trình phát triển kinh tế – xã hội, do
phương thức sản xuất của xã hội quyết định. Trong mối quan hệ đó, nhà
nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, có quyền ban hành
pháp luật và đảm bảo cho pháp luật được thực hiện, nhưng quyền lực đó chỉ
có thể thực hiện và có hiệu lực trên cơ sở pháp luật. Còn pháp luật là hệ
thống những quy tắc xử sự do nhà nước ban hành và luôn phản ánh quan
điểm, đường lối chính trị của lực lượng nắm quyền lực nhà nước, bảo đảm
cho quyền lực đó được thực hiện trong xã hội. Nói cách khác, pháp luật là

công cụ sắc bén để thực hiện quyền lực nhà nước, duy trì địa vị và bảo vệ
lợi ích của giai cấp thống trị. Tuy do nhà nước ban hành nhưng khi đã được
công bố thì pháp luật trở thành một hiện tượng có sức mạnh công khai bắt
buộc đối với mọi chủ thể, trong đó có cả nhà nước. Nhà nước nói chung và
mỗi cơ quan của nó nói riêng đều phải tôn trọng và chấp hành nghiêm
chỉnh pháp luật. Với những ý nghóa đó, pháp luật và nhà nước không thể
tách rời nhau, nhà nước không thể tồn tại và phát huy quyền lực nếu thiếu


20

pháp luật; ngược lại, pháp luật chỉ có thể phát sinh, tồn tại và có hiệu lực
khi dựa trên cơ sở sức mạnh của quyền lực nhà nước. Về mối quan hệ này,
Lênin nói: “Ý chí, nếu nó là ý chí của nhà nước thì phải được biểu hiện
dưới hình thức một đạo luật do chính quyền đặt ra; nếu không thế thì hai
tiếng “ý chí” chỉ là một sự rung động không khí do những âm thanh rỗng
tuếch gây nên” [33, 429]. Chính vì vậy, nghiên cứu vấn đề pháp luật phải
đặt trong mối quan hệ qua lại với nhà nước. Tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp
luật gắn liền với quá trình Người ra đi tìm đường cứu nước, khảo cứu, phân
tích và lựa chọn một kiểu nhà nước và pháp luật tiến bộ phù hợp với cách
mạng Việt Nam. Thành quả để lại đó chính nhà nước và pháp luật kiểu mới
xã hội chủ nghóa ở Việt Nam được sáng lập nên bởi công lao to lớn của Hồ
Chí Minh.
Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề pháp luật ít được đề
cập hơn đạo đức nên có ý kiến cho rằng Hồ Chí Minh thiên về đức trị. Điều
đó hoàn toàn không đúng. Sự thật, tuy xem trọng vai trò của đạo đức nhưng
Hồ Chí Minh không hề hạ thấp vai trò của pháp luật. Tư tưởng về nhà nước
pháp quyền, nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật ở Người đã hình thành
rất sớm. Trước khi tiếp nhận chủ nghóa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh cùng
đồng bào đã phải chứng kiến và kinh qua cuộc sống cơ cực, vô nhân đạo,

phản dân chủ, phi luật pháp của nhà nước thực dân phong kiến gây nên. Hồ
Chí Minh viết: “Ở Đông Dương có hai thứ công lý. Một thứ cho người Pháp,
một thứ cho người bản xứ. Người Pháp thì được xử như ở Pháp. Người An
Nam thì không có hội đồng bồi thẩm, cũng không có luật sư người An Nam.
Thường người ta xử án và tuyên án theo giấy tờ, vắng mặt người bị cáo.


21

Nếu có vụ kiện cáo giữa người An Nam với người Pháp thì lúc nào người
Pháp cũng có lý cả, mặc dù tên này ăn cướp hay giết người” [42, t420]. Ở
bài “Mấy vấn đề dân bản xứ” đăng trên báo L’Humnanité – cơ quan ngôn
luận chính thức của Đảng cộng sản Pháp ngày 2 – 8 – 1919, Nguyễn Ái
Quốc có phân tích thêm: “Về hành chính và pháp lý: cả một vực thẳm cách
biệt người Âu với người bản xứ. Người Âu hưởng mọi tự do và ngự trị như
người chủ tuyệt đối; còn người bản xứ thì bị bịt mõm và bị buộc dây đi, chỉ
có quyền phải phục tùng, không được kêu ca; vì nếu anh ta dám phản đối
thì anh ta liền bị tuyên bố là kẻ phản nghịch hoặc là một tên cách mạng, và
bị đối xử đúng với tội trạng ấy. Càng khốn khổ hơn cho người bản xứ nào
xuất ngoại để thoát khỏi cái chế độ dịu hiền ấy: gia quyến anh ta bị hành
hạ; bản thân anh ta, nếu bị bắt thì bị tù khổ sai hoặc bị đẩy lên máy chém.
Thậm chí để đi lại trong nước, từ địa phương này đến địa phương khác theo
luật, người bản xứ phải mang theo giấy tờ. Còn công lý, đối với người bản
xứ, nó tồn tại như thế này đây: Người Âu nào đã giết chết, tàn sát hoặc
cưỡng dâm người bản xứ, thì trong trường hợp vụ án không thể được ỉm
hoàn toàn, anh ta chắc mẩm rằng mình được toà án tha bổng, mình ra toà
chẳng qua là chuyện hình thức” [42, 7]. Từ chỗ thấu hiểu được nhà nước
thực dân phong kiến với bộ mặt phi nhân tính, dân chủ hạn chế, chỉ là công
cụ áp bức nô dịch con người, nên Nguyễn Ái Quốc đã kịch liệt lên án, phê
phán và đi đến cần thiết thực hiện vấn đề lật đổ nhà nước đó với cái gọi là

“công lý” vô nhân đạo, phản tiến bộ mà nó sản sinh ra. Theo Người, chế độ
cai trị bằng sắc luật do các viên toàn quyền tuỳ tiện ban hành rất “vô chính
phủ và vô đạo đức”, “trái hẳn với nhân đạo và chính nghóa” [44, 555] làm


22

cho xứ thuộc địa trở thành cùng khổ, dốt nát và nghiện ngập phải được thay
thế “chế độ đạo luật”. Chính vì vậy, ngay từ năm 1919, thay mặt nhóm
người Việt Nam yêu nước ở Pháp, Nguyễn Ái Quốc gửi bản “Yêu sách của
nhân dân An Nam” gồm có tám điều đến Hội nghị Vécxây – Hội nghị của
các nước đế quốc đồng minh chiến thắng trong chiến tranh thế giới lần thứ
nhất, đòi thực dân Pháp những quyền tự do, dân chủ và bình đẳng tối thiểu
cho nhân dân Việt Nam. Trong bản yêu sách tám điều thì đã có bốn điều
trực tiếp liên quan đến vấn đề pháp quyền. Đó là:
“1. Tổng ân xá cho tất cả những người bản xứ bị án tù chính trị;
2. Cải cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách cho người bản xứ
được quyền hưởng những đảm bảo về mặt pháp luật như người Âu châu;
xoá bỏ hoàn toàn các toà án đặc biệt dùng làm công cụ để khủng bố và áp
bức bộ phận trung thực nhất trong nhân dân An Nam;
… 7. Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật;
8. Đoàn đại biểu thường trực của người bản xứ, do người bản xứ bầu
ra, tại Nghị viện Pháp để giúp cho Nghị viện biết được những nguyện vọng
của người bản xứ” [42, 435-436].
Các nội dung của bản yêu sách sau đó được Người viết thành diễn ca
với tiêu đề “Việt Nam yêu cầu ca” để dễ nhớ, dễ phổ biến và tuyên truyền.
Trong đó, có những câu:
“… Một xin tha kẻ đồng bào,
Vì chưng chính trị mắc vào tù giam.
Hai xin phép luật sửa sang,

Người Tây người Việt hai phương cùng đồng.


×