Tải bản đầy đủ (.pdf) (132 trang)

Tìm hiểu di tích chùa trần đăng (diên phúc tự) xã hoa sơn huyện ứng hòa hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.85 MB, 132 trang )

Khúa lun tt nghip

1

Trờng Đại học Văn hoá H Nội
Khoa bảo tng
*********



Nguyễn VĂN CHIếN

TìM HIểU DI TíCH ChùA TRầN ĐĂNG
(DIÊN PhúC Tự)
XÃ HOA SƠN - HUYệN ứNG hòa - h nội


Khoá luận tốt nghiệp
Ngnh bảo tng học

NGI HNG DN: PGS.TS ĐẶNG VĂN BÀI
 
Hμ Néi – 2011
Nguyễn Văn Chiến

Lớp: Bảo tàng 27A


Khóa luận tốt nghiệp

2



MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
1.Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 4
2. Mục đích nghiên cứu ................................................................................. 6
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 6
4. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 6
5. Bố cục của khóa luận ................................................................................. 7
Chương 1: CHÙA TRẦN ĐĂNG TRONG DIỄN TRÌNH LỊCH SỬ ........ 8
1.1. Tổng quan về làng Trần Đăng ................................................................ 8
1.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên .................................................... 8
1.1.2. Lịch sử làng Trần Đăng .................................................................. 10
1.1.3. Dân cư và truyền thống Cách mạng ............................................... 11
1.1.4. Đời sống kinh tế ............................................................................. 16
1.1.5. Đời sống văn hóa – xã hội .............................................................. 16
1.2 Lịch sử hình thành di tích ...................................................................... 24
1.2.1 Niên đại xây dựng di tích ................................................................ 24
1.2.2. Q trình trùng tu di tích ................................................................ 27
Chương 2: GIÁ TRỊ KIẾN TRÚC, NGHỆ THUẬT CỦA CHÙA TRẦN
ĐĂNG (DIÊN PHÚC TỰ) ............................................................................ 30
2.1 Giá trị kiến trúc ...................................................................................... 30
2.1.1 Không gian cảnh quan ..................................................................... 30
2.1.2 Bố cục mặt băng tổng thể ................................................................ 35
2.1.3 Kết cấu kiến trúc ............................................................................. 36
2.1.4 Trang trí trên kiến trúc .................................................................... 47
2.2 Giá trị nghệ thuật điêu khắc tượng thờ và các di vật trong di tích ........ 50
2.2.1 Nghệ thuật điêu khắc tượng thờ ...................................................... 50
2.2.2 Các di vật tiêu biểu .......................................................................... 70
Nguyễn Văn Chiến


Lớp: Bảo tàng 27A


Khóa luận tốt nghiệp

3

Chương 3: BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH CHÙA TRẦN
ĐĂNG ............................................................................................................. 79
3.1 Thực trạng di tích ................................................................................... 81
3.2 Bảo tồn di tích chùa Trần Đăng ............................................................. 90
3.2.1. Cơ sở pháp lý.................................................................................. 90
3.2.2 Các giải pháp kỹ thuật bảo tồn. ....................................................... 93
3.3 Tôn tạo di tích ........................................................................................ 99
3.4 Giải pháp phát huy di tích chùa Trần Đăng ......................................... 102
KẾT LUẬN .................................................................................................. 108
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 110
PHỤ LỤC

Nguyễn Văn Chiến

Lớp: Bảo tàng 27A


Khóa luận tốt nghiệp

4
PHẦN MỞ ĐẦU

1.Lý do chọn đề tài

Trong q trình sống, lao động ơng cha ta đã sáng tạo ra biết bao điều
kỳ diệu. Theo dòng chảy của thời gian, những điều kỳ diệu ấy như những hạt
phù sa lắng đọng, tích tụ hình thành nên một nền Văn hóa Đại Việt ngàn đời.
Di tích lịch sử Văn hóa là nơi bảo lưu những giá trị truyền thống của quá khứ,
là tấm gương phản chiếu lịch sử dân tộc. Mặc dù vậy dưới sự tác động của
thiên nhiên, của xã hội và sự phá hoại của chính con người những giá trị vốn
có của di tích ngày càng bị suy giảm, mất mát, ảnh hưởng trực tiếp đến đời
sống văn hóa của nhân dân và nền văn hóa của dân tộc.
Kiến trúc cổ là một bộ phận quan trọng cấu thành kho tàng Di sản văn
hóa, các cơng trình kiến trúc cổ có khả năng biểu đạt cái chung nhất về các
mặt khoa học kỹ thuật và văn hóa nghệ thuật của từng thời đại. Khi xây dựng
các cơng trình kiến trúc, con người ln có khát vọng biểu hiện cụ thể và
trong sáng những tư tưởng thời đại trong cơng trình xây dựng thơng qua hình
tượng nghệ thuật và những phương pháp đặc thù của tri thức dân gian. Vì thế
mỗi cơng trình kiến trúc xưa khơng chỉ chứa đựng những giá trị về mặt kiến
trúc và nghệ thuật mà cịn có thể là chiếc chìa khóa giúp người đời sau đọc
được thơng điệp văn hóa và các tư tưởng thẩm mỹ của thời trước.
Kiến trúc cổ Việt Nam phong phú và đa dạng về loại hình, trong đó
ngơi chùa sản phẩm của văn hóa Phật giáo là một loại hình tiêu biểu. Phật
giáo du nhập vào Việt Nam từ những thế kỷ đầu công nguyên. Đến thời LýTrần thì phát triển mạnh mẽ và biểu hiện sức sống lâu bền trong đời sống tâm
linh của người dân. Dấu ấn của sự phát triển đó chính là một hệ thống chùa,
tháp được xây dựng rất nhiều trong khoảng thời gian này. Tuy vậy, cho đến
nay chúng ta tìm được rất ít các dấu tích chùa, tháp của thời Lý- Trần so với

Nguyễn Văn Chiến

Lớp: Bảo tàng 27A


Khóa luận tốt nghiệp


5

các thời kỳ sau. Đặc biệt là những di tích kết cấu gỗ. Trải theo năm tháng, các
loại vật liệu này bị hư hại rất nhiều. Bởi vậy, tìm được những di vật và những
dấu vết kiến trúc của thời Lý- Trần là rất đáng quý đó sẽ là những bằng chứng
giúp cho việc nghiên cứu các giá trị văn hóa Phật giáo và sự phát triển của
đạo Phật trong dòng chảy chung của lịch sử dân tộc.
Đến với bất cứ làng quê nào của người Việt nhất là đồng bằng Bắc Bộ,
chúng ta đều dễ dàng nhận ra bộ mặt văn hóa vật thể của nó là những kiến
trúc Phật giáo và tín ngưỡng khác. Hịa mình trong khung cảnh làng quê là
hình ảnh của Tam quan, Gác chng, Ngọn tháp. Đó là chỗ dựa tâm linh của
dân làng. Hình ảnh ngơi chùa đã trở nên thân quen với mọi người dân đất
Việt. Đó là di sản kiến trúc cổ Việt Nam, là tiềm năng cũng như đặc trưng của
mỗi vùng quê đất nước. Đồng thời ngơi chùa cũng chính là nơi để các nhà sư
tu hành, giáo độ chúng sinh, nơi ẩn chứa nuôi dưỡng tâm hồn bản sắc dân tộc
Việt Nam qua các thời đại.
Chùa Trần Đăng (tên chữ là Diên Phúc Tự) là một trong những di tích
cổ nằm ở thơn Trần Đăng một vùng quê giàu truyền thống văn hóa của xã
Hoa Sơn- huyện Ứng Hòa- Hà Nội. Qua khảo sát thực tế dấu vết kiến trúc và
di vật trong di tích cho biết ngơi chùa có niên đại khá sớm từ thời Lý- Trần.
Trải qua hơn nửa thế kỷ chiến tranh và biến động xã hội nhưng làng Trần
Đăng vẫn bảo tồn được những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể. Giá trị vật
thể được thể hiện cụ thể thông qua không gian kiến trúc, cảnh quan và một số
hiện vật cùng với giá trị tâm linh có ý nghĩa biểu đạt sâu sắc (như ngày giỗ tổ,
ngày sắc, vọng, lễ hội của làng…). Ngồi ra chùa cịn lưu giữ các di vật có giá
trị tiêu biểu như: Nhang án đá, rồng bậc thềm thời Trần, chuông thời Cảnh
Hưng…Bên cạnh đó là những giá trị văn hóa phi vật thể với những nét đặc
sắc riêng, thông qua những hoạt động văn hóa của cộng đồng cư dân làng
Trần Đăng. Chính vì vậy, ngơi chùa đã được Bộ Văn hóa- Thơng tin xếp hạng


Nguyễn Văn Chiến

Lớp: Bảo tàng 27A


Khóa luận tốt nghiệp

6

di tích lịch sử năm 1987. Bởi vậy việc nghiên cứu tồn diện di tích hiện nay
dưới góc độ Bảo tồn bảo tàng sẽ góp phần lưu giữ bảo tồn và phát huy các giá
trị văn hóa vật thể và phi vật thể trong điều kiện hiện nay. Vì lý do trên nên
em chọn đề tài “ Tìm hiểu di tích chùa Trần Đăng (Diên Phúc Tự) - xã Hoa
Sơn- Huyện Ứng Hịa- Hà Nội” làm khóa luận tốt nghiệp Đại học của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Khóa luận có mục đích tìm hiểu lịch sử, sự ra đời và quá trình tồn tại
của chùa Trần Đăng, nghiên cứu các mặt giá trị văn hóa và nghệ thuật của
chùa Trần Đăng qua kiến trúc và di vật cụ thể. Qua tìm hiểu thực trạng của di
tích, vận dụng những kiến thức lý luận đã học, bước đầu đề xuất một số giải
pháp nhằm bảo tồn và phát huy giá trị của di tích trong giai đoạn hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Làng Trần Đăng là một làng có nhiều các cơng trình tơn giáo, tín
ngưỡng trong đó gồm các di tích như: Chùa thượng (Đăng Khoa Tự), Chùa
trung (Diên Phúc Tự), Chùa hạ (Hoàng Đệ Tự), Đình làng, Miếu, Qn. Các
di tích tồn tại ở các địa điểm trong làng, Đình và Chùa Trần Đăng nằm trong
một khu đất ở giữa làng. Trong phạm vi nghiên cứu bài khóa luận tập trung
nghiên cứu tồn diện chùa Trần Đăng (Diên Phúc Tự) trong đó trọng tâm
nghiên cứu về kiến trúc, hệ thống tượng thờ cùng các di vật tiêu biểu trong di
tích và khơng gian văn hóa làng Trần Đăng.

4. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử làm phương
pháp luận để xem xét di tích theo quy luật tất yếu khách quan.
Phương pháp nghiên cứu liên nghành: Bảo tàng học, bảo tồn di tích, mĩ
thuật học, sử học, xã hội học…Trong đó sử dụng chủ yếu phương pháp khảo
sát tại thực địa để quan sát, miêu tả, đo vẽ, chụp ảnh, phỏng vấn, thu thập
nguồn tài liệu hiện có ở di tích.
Nguyễn Văn Chiến

Lớp: Bảo tàng 27A


Khóa luận tốt nghiệp

7

5. Bố cục của khóa luận
Khóa luận ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu
tham khảo gồm ba chương
Chương 1: Chùa Trần Đăng trong diễn trình lịch sử
Chương này giới thiệu khái quát về vùng đất nơi di tích tồn tại đồng
thời tập trung nghiên cứu tư liệu xác định niên đại khởi dựng và q trình tồn
tại của di tích.
Chương 2: Giá trị kiến trúc, nghệ thuật của chùa Trần Đăng
Đây là chương chính của khóa luận tập trung nghiên cứu giá trị kiến
trúc, nghệ thuật, hệ thống tượng thờ, các di vật tiêu biểu và các hoạt động tín
ngưỡng cùng với các giá trị văn hóa phi vật thể gắn liền với ngôi chùa.
Chương 3: Bảo tồn và phát huy giá trị của di tích chùa Trần Đăng
Chương ba tập trung phân tích thực trạng của di tích, qua đó đề xuất
một số các giải pháp nhằm tôn tạo và phát huy giá trị của di tích chùa Trần

Đăng.
Sau quá trình học tập và nghiên cứu, trên cơ sở vận dụng những kiến
thức đã học về chuyên ngành Bảo tồn – bảo tàng, bài khóa luận được hồn
thành với sự nỗ lực cố gắng của bản thân cùng với sự hướng dẫn trực tiếp của
thầy giáo Đặng Văn Bài. Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến PGS-TS
Đặng Văn Bài – người đã hướng dẫn em trong suốt thời gian thực hiện đề tài.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn và bày tỏ lòng biết ơn chân thành của mình
đến các thầy cơ giáo trong khoa Bảo tàng-Trường Đại học Văn hóa Hà Nội,
UBND xã Hoa Sơn, đại đức Thích Đàm Thiện- trụ trì tại chùa Trần Đăng đã
giúp đỡ và cung cấp tư liệu cho em trong quá trình khảo sát thực địa tại di tích
Là cơng trình nghiên cứu đầu tiên, bài khóa luận khơng tránh khỏi
những thiếu sót. Bởi vậy em rất mong nhận được sự góp ý của các nhà nghiên
cứu, thầy cơ và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Nguyễn Văn Chiến

Lớp: Bảo tàng 27A


Khóa luận tốt nghiệp

8

Chương 1
CHÙA TRẦN ĐĂNG TRONG DIỄN TRÌNH LỊCH SỬ
1.1. Tổng quan về làng Trần Đăng
1.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
* Về địa giới hành chính:
Thơn Trần Đăng- Xã Hoa Sơn nằm ở phía bắc huyện Ứng Hịa- Hà
Nội, phía bắc giáp với thơn Viên Nội, Viên An, phía nam giáp Trường Thịnh

và Đồng Tiến, phía đơng giáp với xã Cao Dương, Hồng Dương (huyện Thanh
Oai) và Quảng Phú Cầu, phía tây giáp Cao Thành và Sơn Công.
Vào thời thực dân Pháp đô hộ nước ta, các thôn của xã Hoa Sơn được
tổ chức theo cấu trúc hành chính “nhất xã nhị thơn”. Theo tài liệu “Tên làng
xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX” của Viện Hán nôm, thôn Trần Đăng thuộc xã
Cao Lãm, tổng Bạch Sam, huyện Sơn Minh.
Sau cách mạng tháng tám, cấu trúc hành chính của chế độ thực dân
phong kiến bị giải thể, thay vào đó là hệ thống cấu trúc hành chính mới, tại
mỗi thơn hình thành nên một bộ máy chính quyền lâm thời. Năm 1946, để
chuẩn bị kháng chiến chống thực dân Pháp, xã Hoa Lư được thành lập gồm 3
thôn Trần Đăng, Họa Đống, Đống Vũ. Đến tháng 12/1948, xã Hoa Lư sát
nhập với 2 xã Sơn Lãng và Hoa Trường Thịnh thành xã Hoa Sơn, gồm 9 thôn:
Trần Đăng, Sơn Lãng Thượng, Sơn Lãng Hạ, Họa Đống, Đống Vũ, Hoa
Đường, Thanh Sam, Yên Trường, Trung Thịnh. Đến năm 1956 xã Hoa Sơn
tách thành 2: xã Hoa Sơn gồm Trần Đăng, Miêng Thượng và Miêng Hạ; xã
Hoa Lư gồm 6 thôn: Họa Đống, Đống Vũ, Hoa Đường, Thanh Sam, Yên
Trường, Trung Thịnh (về sau đổi thành xã Trường Thịnh). Lúc này thôn Trần
Đăng thuộc xã Hoa Sơn- huyện Ứng Hòa- Hà Tây.

Nguyễn Văn Chiến

Lớp: Bảo tàng 27A


Khóa luận tốt nghiệp

9

Đến năm 2008 để mở rộng thành phố Nhà nước đã sát nhập tỉnh Hà
Tây vào thành phố Hà Nội. Từ đó thơn Trần Đăng thuộc xã Hoa Sơn- Ứng

Hòa- Hà Nội đến nay.
* Về điều kiện tự nhiên:
Trần Đăng là một trong những thôn tương đối lớn của huyện Ứng Hịa,
có diện tích tự nhiên là 343 ha, trong đó đất canh tác là 235 ha. Theo số liệu
thống kê năm 2005, dân số tồn thơn là 3251 khẩu.
Trần Đăng nằm ở vị trí khá thuận lợi về giao thông, cả đường thủy và
đường bộ. Chạy qua trung tâm thôn là đường 73b nối Ba Thá với tỉnh lộ 22,
từ đây có thể lên Hà Nội, xuống Hà Nam, hoặc nối qua đường 73A và 75 ra
quốc lộ 1A giao lưu khắp nơi. Sông Đáy cách địa phận thơn 1km về phía tây,
vừa mang phù sa bồi đắp cho đồng đất Hoa Sơn, vừa là mạch máu giao thông
đường thủy quan trọng.
Đất chủ yếu là đất phù sa bằng phẳng, được nhân dân thâm canh cây
lúa hai vụ đạt năng xuất cao, và ngồi ra cịn là đất tốt để trồng những cây hoa
màu mùa vụ như ngô, đậu, khoai…
* Về thủy văn:
Chảy qua làng Trần Đăng có sơng Đáy và một số hệ thống các kênh,
mương đào dẫn nước phù sa tưới cho đồng ruộng. Dịng sơng Đáy khơng rộng
nhưng có lưu lượng nước chảy mạnh cung cấp nước cho các cánh đồng. Dịng
sơng này có vai chủ đạo và chi phối đời sống nơng nghiệp địa phương.
Khí hậu nơi đây nằm trong vùng Đồng bằng Bắc Bộ nên mang đặc
trưng khí hậu vùng rõ rệt, với đặc điểm là khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, mùa
hè nóng ẩm mưa nhiều, mùa đơng lạnh và khơ, độ ẩm khơng khí trung bình là
81%, mùa mưa kéo dài từ tháng 4 đến tháng 9 với lượng mưa trung bình hàng
năm là 1245mm.

Nguyễn Văn Chiến

Lớp: Bảo tàng 27A



Khóa luận tốt nghiệp

10

Với những điều kiện đất đai và thủy văn thuận lợi như vậy cùng bề dày
kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp nên từ xưa đời sống dân cư làng Trần
Đăng tương đối khá giả. Vì thế mà làng đã xây dựng được những cơng trình
cơng cộng rất bề thế như chùa Trần Đăng, đình Trần Đăng, miếu…
1.1.2. Lịch sử làng Trần Đăng
Nằm trong vùng Đồng bằng châu thổ sông Hồng, địa vực Hoa Sơn
được bồi đắp từ lâu đời, cách ngày nay hàng vạn năm. Sau các quá trình kiến
tạo địa lý, cốt đất ở xã Hoa Sơn được nâng cao dần lên. So với nhiều xã khác
trong huyện Ứng Hịa, Hoa Sơn là xã có cốt đất tương đối cao, đồng thời lại
nằm trên đường thiên di của người Việt cổ từ miền núi Hịa Bình xuống
thượng lưu sông Hồng vùng phù sa màu mỡ, nên nhanh chóng được tổ tiên
người Việt chọn làm điểm dừng chân tụ cư, lập ấp.
Nghiên cứu theo giác độ cổ địa danh học, cho thấy các thôn ở xã Hoa
Sơn và một số vùng phụ cận đều là những địa danh rất cổ. Những vùng đất
lâu đời bao giờ địa danh cũng có 2 yếu tố: tên gọi và tên chữ. Tên gọi có thể
biến mất theo thời gian, hoặc các thế hệ sau thường quên ý nghĩa của nó.
Nhưng nếu tồn tại trong dân gian thì được nhân dân sử dụng phổ biến, để chỉ
một dấu ấn văn hóa- lịch sử nào đó của từng vùng đất. “Kẻ Đăng”, “Kẻ
Miêng”, “ Kẻ Sốm” chính là những địa danh do tổ tiên của nhân dân Hoa Sơn
ngày xưa đạt ra, phản ánh tính chất cổ của vùng đất Hoa Sơn nói chung và
thơn Trần Đăng nói riêng. Tên chữ chính là tên các làng được ghi vào văn bản
nhà nước và còn tồn tại ngày nay. Theo nhà nghiên cứu Hồng Xn Phương
thì những địa danh gắn liền với từ “Kẻ” hoặc “Cổ” ở đồng bằng bắc bộ
được dùng trong giai đoạn sớm của công cuộc khai phá đồng bằng1. Như
vậy, có thể nói rằng, cách ngày nay trên 2000 năm, vùng đất Hoa Sơn đã có
con người đến khai phá, sinh sống lập ấp.

1

Hồng Xn Phương: Đi tìm nguồn gốc các chữ Cổ, Kẻ, Cả, Cái trong địa danh. Tạp chí Ngơn ngữ và Đời sống, tháng 3/1996.

Nguyễn Văn Chiến

Lớp: Bảo tàng 27A


Khóa luận tốt nghiệp

11

Tuy nhiên, việc có con người đến sinh sống, ngay lúc đầu chưa phải đã
hình thành làng, mà chỉ mới là những trại ấp. Làng hình thành phải qua một
quá trình lâu dài hàng trăm năm, gắn liền với công cuộc khẩn hoang, mở rộng
đồng ruộng và địa bàn cư trú. Từ các trại ấp ban đầu, do sự gia tăng dân số tự
nhiên và cơ học, nhu cầu về diện tích đất đai canh tác và cư trú ngày càng
tăng, giới hạn của các trại ấp khơng cịn đáp ứng được u cầu của con người,
vì thế nảy sinh nhu cầu lập làng. Trong quá trình lao động sản xuất, các thành
viên trong cộng đồng phải gắn bó, phối hợp nhau rất chặt chẽ, xây dựng nên
một cộng đồng làng xã cổ truyền của người Việt.
Từ các cơng trình văn hóa cũng như các tư liệu thành văn ít ỏi cịn lưu
giữ được cho thấy, làng Trần Đăng được hình thành muộn nhất là từ thời Lý
trở về trước. Điều này được khẳng định dựa trên cơ sở sau: làng Trần Đăng
có một ngơi chùa được xây dựng vào cuối thời Lý, đầu thời Trần, là cơng
trình kiến trúc khá đồ sộ vào thời điểm đó, để xây dựng cơng trình có quy mơ
như vậy địi hỏi cư dân ở đây phải có một trình độ kinh tế- kỷ thuật tương đối
phát triển, số lượng dân cư cũng phải đông đúc. Rõ ràng, với dân số và sức
phát triển kinh tế như vậy thì các tụ điểm dân cư đã vượt ra khỏi khuôn khổ

của các trại ấp và đã hình thành làng.
1.1.3. Dân cư và truyền thống Cách mạng
1.1.3.1. Thành phần dân cư
Các tài liệu cổ còn lưu trên địa bàn làng Trần Đăng cho thấy làng đã có
lịch sử hình thành lâu đời. Từ xưa thì vùng này đã có cư dân quần tụ đơng
đúc. Hiện nay trong làng có 13 dịng họ, tất cả những dịng họ này đều có nhà
thờ họ. Do chủ trương mở rộng đất ở và phân bố lại làng trong xã nên người
của một số dịng họ khơng cùng thuộc làng Trần Đăng như trước. Song người
dân cùng các dịng họ ở thơn khác trong xã vẫn sống bên nhau trong một cộng

Nguyễn Văn Chiến

Lớp: Bảo tàng 27A


Khóa luận tốt nghiệp

12

đồng ổn định mang đậm quan hệ tình làng nghĩa xóm sâu sắc, thể hiện truyền
thống mà tổ tiên xưa đã truyền lại.
Một nét đẹp nhân văn trong phép ứng xử của người dân Trần Đăng là
chủ yếu dựa theo Tâm và Tình, coi nhẹ lý. Điều này có ngun nhân của nó,
một là, các gia đình trong làng thường tọa lạc cụm vào nhau, mặt giáp mặt với
nhau hàng ngày, chuyện nhà này nhà kia cũng tỏ; hai là, các gia đình rất quen
thuộc nhau, hiểu cả tổ tiên, ơng bà, nội ngoại…của nhau, vì hai yếu tố này
cộng với yêu cầu chống thiên tai, địch họa, nên nhân dân xử sự với nhau chủ
yếu dựa trên tình cảm, coi nhẹ giao kèo pháp luật. Điều này có mặt nhân văn,
song cũng có hạn chế khi phải sống và hoạt động trong môi trường nhà nước
pháp quyền.

Qua sự hình thành làng xóm đơng đúc, trù phú từ một cộng đồng nhỏ
của làng Trần Đăng (lúc lập làng) phần nào cho chúng ta thấy được sự cần cù,
siêng năng trong lao động sản xuất của người dân địa phương.
Thời phong kiến, làng đã có cơ cấu tổ chức chặt chẽ. Dân cư trong làng
chia thành 5 hạng: Chức sắc là những người đỗ đạt hoặc có phẩm hàm, chức
dịch là những người đang làm việc công trong làng, lão hạng là những cụ cao
niên thuộc các giáp, đinh là trai đinh trong các giáp và ti ấu là trẻ con các
giáp. Nhờ có tinh thần đồn kết, đùm bọc lẫn nhau mà làng Trần Đăng ngày
càng thịnh vượng. Minh chứng cho điều đó là sự xuất hiện của những cơng
trình lớn nhất vùng và cịn tồn tại đến ngày nay như: đình, chùa, miếu...
Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, làng Trần Đăng vẫn được giữ
nguyên cách thức tổ chức bộ máy làng xã, chỉ thay vào đó là hệ thống chức
dịch làm tay sai cho chúng để vơ vét, bóc lột nhân dân lao động. Chính sách
khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đã làm cho cơ cấu giai cấp nước ta có
sự biến đổi và làng Trần Đăng cũng khơng nằm ngồi quy luật biến đổi đó
của xã hội. Làng Trần Đăng tồn tại ba tầng lớp dân cư là địa chủ phong kiến,

Nguyễn Văn Chiến

Lớp: Bảo tàng 27A


Khóa luận tốt nghiệp

13

nơng dân và thợ thủ cơng. Trong đó thì địa chủ phong kiến là những kẻ làm
tay sai cho thực dân Pháp, trực tiếp bóc lột những người nông dân và thợ thủ
công làm giàu cho bản thân. Đa số những người dân lao động trong làng rơi
vào hoàn cảnh cùng quẫn do sưu thuế nặng.

1.1.3.2. Truyền thống cách mạng
Mang tâm hồn và tình cảm của người Việt, từ xưa dân làng Trần Đăng
đã có truyền thống yêu nước, đoàn kết chống giặc ngoại xâm. Khi thực dân
Pháp xâm lược nước ta, triều đình nhà Nguyễn hèn nhát đã đầu hàng quân
giặc. Song cùng với tinh thần yêu nước nhân dân nhiều vùng miền của Tổ
quốc không chịu khuất phục quân thù, dân làng Trần Đăng cũng đứng lên
khởi nghĩa chống thực dân Pháp. Bước sang những năm 20 của thế kỷ XX,
khi Chủ nghĩa Mác – Lênin được Nguyễn Ái Quốc và những người yêu nước
truyền bá về Việt Nam, nhiều người con ưu tú của làng Trần Đăng đã giác
ngộ ngay sau khi được tiếp xúc với tư tưởng đó, họ gia nhập vào tổ chức cách
mạng. Cuối năm 1944 đầu năm 1945, khi sự áp bức bóc lột của Pháp – Nhật
đã lên tới đỉnh điểm, dân làng Trần Đăng dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng
địa phương đã hịa chung khơng khí đấu tranh vũ trang tuyên truyền của
người dân các vùng miền trên cả nước. Trước Cách mạng tháng Tám cùng với
nhân dân tỉnh Hà Tây, nhân dân làng Trần Đăng tiến hành xây dựng lực lượng
Việt Minh do đồng chí Lê Mỹ Cát là hạt nhân chủ chốt. Hoạt động của Việt
Minh và tự vệ cứu quốc có ảnh hưởng rất mạnh đến tư tưởng nhân dân. Nắm
lấy cơ hội này anh em trong “Đội tập võ Trần Đăng” tích cực mở rộng tuyên
truyền trong nhân dân ý thức đấu tranh cách mạng, kêu gọi nhân dân đứng lên
đấu tranh. Cách mạng tháng Tám bùng nổ, nhân dân nơi đây cùng cả nước
đứng lên giành chính quyền từ tay phát xít Nhật.
Khi kháng chiến chống Pháp bùng nổ (1946 – 1954), thực hiện chỉ thị
“Kháng chiến kiến quốc” của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, dân làng
Nguyễn Văn Chiến

Lớp: Bảo tàng 27A


Khóa luận tốt nghiệp


14

Trần Đăng đã thi hành chính sách chiến đấu ngay trong lòng của quân địch.
Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, làng Trần Đăng chính
là nơi quân địch và tay sai lùng sục nhiều để bắt bộ đội, vơ vét của cải, và lôi
kéo nhân dân theo đạo và xây dựng bốt đồn địch ngay tại đầu làng nơi giáp
với làng Miêng Thượng(cơng giáo tồn tịng). Trần Đăng chính là một trong
những nơi có nhiều tổ chức phong trào cách mạng ra đời đấu tranh tại phía
bắc Ứng Hịa và là nơi ni giấu nhiều cán bộ chủ chốt tuyên truyền cách
mạng cho quê hương và các xã lân cận của huyện Thanh Oai, Mỹ Đức.
Trải qua những năm thắng đấu tranh chống càn quét của quân địch
đóng tại nơi đây nhân dân đã chịu nhiều cực khổ vô cùng, nhưng với tinh thần
độc lập tự do là trên hết nhân dân Trần Đăng nói riêng và nhân dân xã Hoa
Sơn nói chung đã khơng chịu khuất phục trước những thủ đoạn hèn nhát,
thâm độc của quân địch và bọn tay sai của chúng, mà đã quyết tâm sống
chung với địch, đấu tranh chống địch, hình thành cơ sở cách mạng trong quần
chúng nhân dân.
Trên mặt trận chiến trường chính thực dân Pháp đang bị suy yếu, thực
dân Pháp vẫn lồng lên như một con thú khát máu, tiếp tục gây tội ác với nhân
dân Hoa Sơn. Ngày 23-3-1954, một đại đội địch từ bốt Vác và Thanh Ấm
(huyện Thanh Oai) vào càn quét khủng bố tại Miêng Hạ và Trần Đăng. Chúng
khủng bố, tra tấn dân thường, nhiều người dân đã bị chúng bắt và tra tấn dã
man. Lực lượng du kích đã nhanh chóng triển khai phương án tác chiến đánh
địch để bảo vệ nhân dân.
Sau nhiều nỗ lực cố gắng với những hy sinh to lớn, ngày 7-5-1954,
quân ta đã giành thắng lợi tại Điện Biên Phủ, đánh tan tập đoàn cứ điểm mạnh
nhất của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ. Nhân dân Hoa Sơn đã tích cực đẩy
mạnh binh vận trong các phiên chợ, chỗ đông người đã làm cho quân địch
đóng tại đây hoang mang lo sợ.


Nguyễn Văn Chiến

Lớp: Bảo tàng 27A


Khóa luận tốt nghiệp

15

Quân địch đóng ở đây ngày càng co cụm lại để tránh khỏi bị tiêu diệt
sau thất bại ở Điện Biên Phủ. Song chúng lại dùng hỏa lực, phi pháo, máy bay
oanh tạc dữ dội để ngăn chặn các đường tiến quân của bộ đội và du kích ta.
Ngày 1-6-1954, địch cho máy bay ném bom dữ dội xung quanh bốt Miêng
Thượng, tàn phá các làng Miêng Hạ, Tử Dương, Trần Đăng nhằm tiêu diệt
lực lượng kháng chiến.
Bọn địch ở bốt Miêng Thượng vẫn rất ngoan cố, nhiều lần chúng cầu cứu
binh lính các bốt khác vào Trần Đăng và Miêng Hạ tiếp tục tàn sát nhân dân.
Trên đà thắng lợi chung, chủ trương của cấp trên là không để cho bọn
địch tiếp tục gây tội ác với nhân dân, cuối tháng 6-1954, lực lượng du kích
Hoa Sơn điều động phối hợp cùng bộ đội địa phương tỉnh tiến hành tiêu diệt
bọn địch ở bốt Miêng Thượng, do đồng chí Ngơ Thảo- bộ đội địa phương tỉnh
chỉ huy.
Hịa bình lập lại ở miền Bắc nước ta, dưới sự lãnh đạo của Chính quyền
địa phương, nhân dân làng Trần Đăng đã từng bước ổn định kinh tế, văn hóa,
xã hội, tiến hành cải cách ruộng đất, cải tạo công thương nghiệp, cùng nhân
dân miền Bắc tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội đồng thời đóng góp cơng
sức và của cải cho cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ thống nhất đất nước
(1954 - 1975). Từ làng Trần Đăng, lớp lớp những thế hệ người con ưu tú lên
đường nhập ngũ tham gia vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và Đế
quốc Mỹ. Hàng trăm người con của làng đã ngã xuống, hiến dâng trọn tuổi

thanh xuân của mình vì sự nghiệp thống nhất đất nước, độc lập dân tộc.
Những người may mắn trở về luôn mang trong mình phẩm chất của người
lính cụ Hồ. Họ ln là những người gương mẫu đi đầu ở địa phương trong các
phong trào và các cuộc vận động do Đảng và Nhà nước đề ra.
Từ năm 1975 đến nay, Đảng bộ xã Hoa Sơn đã lãnh đạo nhân dân từng
bước chuyển đổi cơ cấu kinh tế làm cho diện mạo của làng Trần Đăng trước

Nguyễn Văn Chiến

Lớp: Bảo tàng 27A


Khóa luận tốt nghiệp

16

kia có sự thay đổi lớn trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, kinh tế phát
triển nhanh chóng, đời sống của người dân ngày càng ấm no, hạnh phúc.
1.1.4. Đời sống kinh tế
1.1.4.1. Nông nghiệp
Từ khi lập làng, người dân làng Trần Đăng chủ yếu sống dựa vào nghề
nông. Cho đến nay, về cơ bản nơi đây vẫn là vùng thuần nông, kinh tế nơng
nghiệp vẫn giữ vai trị chủ đạo. Trong những năm qua, thực hiện chủ trương
của huyện Ứng Hòa là phát triển nông nghiệp theo hướng thâm canh bền
vững, phá bỏ thế độc canh cây lúa để khai thác được hết những điều kiện
thuận lợi của địa hình, khí hậu mà thiên nhiên đã ưu ái dành cho nơi đây và
phấn đấu xây dựng mơ hình cánh đồng đạt 40 triệu/ha. Hơn nữa, người dân
trong vùng còn biết tận dụng đặc điểm cấu tạo của từng vùng đất mà triển
khai canh tác khác nhau: vùng đất cao thì thâm canh lúa hai vụ kết hợp với
xen canh hoa màu, những chỗ trũng lại được cải tạo để thả cá, cải tạo thành

những trang trại trồng cây ăn quả như: nhãn, vải, chuối, cam... Nhờ sự chỉ
đạo, sự hỗ trợ kịp thời của chính quyền địa phương cùng với sự sáng tạo, cần
cù, chăm chỉ của người dân trong lao động sản xuất mà làng Trần Đăng
những năm qua luôn đạt kết quả cao trong cả chăn nuôi và trồng trọt. Sản
lượng lương thực bình quân ở đây đạt xấp xỉ 550kg/ người/ năm.
1.1.5. Đời sống văn hóa – xã hội
1.1.5.1. Đời sống tơn giáo, tín ngưỡng
* Tín ngưỡng
Tín ngưỡng ra đời từ rất sớm từ buổi sơ khai của loài người. Do nhận
thức cịn hạn chế con người khơng giải thích được các hiện tượng tự nhiên
như: mây, mưa, sấm chớp, quy luật sinh, diệt…, họ cho rằng có một thế lực
siêu nhiên lẩn quất ở đâu đó trong khơng gian bao la và cả ở xung quanh họ

Nguyễn Văn Chiến

Lớp: Bảo tàng 27A


Khóa luận tốt nghiệp

17

đang chi phối, họ cho rằng vạn vật đều có linh hồn. Tín ngưỡng nảy sinh xuất
phát từ lịng sùng kính và nỗi sợ hãi của con người. Cũng như nhiều vùng quê
khác ở Bắc Bộ, làng Trần Đăng cịn bảo lưu khá nhiều tín ngưỡng.
- Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên (tục thờ cúng tổ tiên) là sự bày tỏ lòng biết
ơn của con cháu đối với tổ tiên, ông bà, cha mẹ - những người đã khuất. Để
tưởng nhớ công ơn của đấng sinh thành dưỡng dục, họ là những thế hệ đi
trước đã truyền lại vốn kinh nghiệm quý báu về lao động sản xuất, vốn tri

thức. Thờ cúng tổ tiên khơng phải chỉ có riêng ở người Việt mà nó trở thành
phổ biến với các dân tộc trên thế giới. Nhưng đối với người Việt tín ngưỡng
này có một vị trí vơ cùng quan trọng, người Việt dù theo hay khơng theo một
tơn giáo nào thì trong gia đình người Việt bàn thờ tổ tiên vẫn được ưu tiên đặt
ở vị trí trang trọng nhất. Họ tin rằng người chết là chỉ mất đi phần xác còn
phần hồn thì vẫn cịn tồn tại và thường hiện về với con cháu. Cũng như bao
gia đình người Việt, trong mỗi gia đình người dân làng Trần Đăng dù giàu
hay nghèo đều có bàn thờ tổ tiên được đặt ở vị trí trang trọng nhất trong nhà,
thường thì đó là gian giữa, họ tin rằng tổ tiên ln ngự trên đó để phù hộ cho
con cháu. Tất cả những đồ ăn ngon nhất, tinh khiết nhất, đẹp mắt nhất như
quả đầu mùa, cơm gạo mới đều được đặt lên bàn thờ tổ tiên, sau đó con cháu
mới được ăn. Hàng năm, vào các ngày giỗ chạp, ngày Tết, ngày sóc vọng, con
cháu đều thắp hương thỉnh cầu tổ tiên, ông bà cha mẹ về chứng giám cho lòng
thành của họ.
Làng Trần Đăng có 13 dịng họ, mỗi dịng họ do một vị tổ khai mở nên,
để tưởng nhớ cơng ơn đó con cháu họ đã xây dựng nên các Từ đường. Những
dịng họ lớn có Từ đường riêng sử dụng làm nơi thờ cụ tổ khai sáng ra dòng
họ, những dòng họ nhỏ thì thường thờ cúng tại gia tư của người Tộc trưởng.
Ngày giỗ tổ là dịp để con cháu trong dịng họ qy quần trong khơng khí

Nguyễn Văn Chiến

Lớp: Bảo tàng 27A


Khóa luận tốt nghiệp

18

thiêng liêng để cùng nhớ về người đã có cơng lập nên dịng họ và sinh thành

nên ơng bà cha mẹ mình. Đây cịn là dịp để các thành viên trong dòng tộc gặp
gỡ trao đổi làm tăng thêm tình đồn kết giữa các thành viên trong họ. Tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên là truyền thống tốt đẹp của dân tộc, nó giáo dục các
thế hệ ghi nhớ đạo lý uống nước nhớ nguồn, ghi nhớ công ơn của những đức
sinh thành. Tục thờ cúng tổ tiên đã trở thành một tín ngưỡng ăn sâu vào tâm
thức của người dân làng Trần Đăng nói riêng và của cộng đồng dân tộc Việt
Nam nói chung.
- Tín ngưỡng Thành hồng
Đây là tín ngưỡng có từ lâu đời và phổ biến, giữ vai trò quan trọng
trong đời sống tâm linh của người Việt. Mỗi cộng đồng làng xã người Việt
đều thờ một vị thần bản mệnh, vị thần đó có công lao phù trợ hoặc thường
xuyên gây tai họa cho làng. Thành hoàng của người Việt là một vị được dân
thờ cúng từ trước, về sau mới được nhà vua sắc phong cho tước vương với
chức danh thành hoàng. Thành hồng được người dân đưa vào thờ trong đình
làng đây là cơng trình quan trọng nhất và trở thành trung tâm lớn nhất của
cộng đồng làng xã. Gắn với tín ngưỡng thành hoàng là hội làng, đây là sinh
hoạt văn hóa có tính chất cộng đồng lớn nhất và quan trọng nhất của làng xã
người Việt. Tín ngưỡng thành hồng của người Việt nói chung và ở làng Trần
Đăng nói riêng nội dung đã khác xa so với tục thờ thành hồng ở Trung Quốc.
Nó khơng theo bất kỳ cơng thức hay mơ típ chung nào mà được sàng lọc
thơng qua lăng kính thế giới quan của dân làng và chịu sự chi phối trực tiếp
của tinh thần dân tộc. Ở làng Trần Đăng thành hoàng làng là Cao Lỗ người đã
có cơng chế ra nỏ thần giúp An Dương Vương đánh giặc Triệu Đà phương
Bắc. Để tưởng nhớ công lao của người với dân với nước và mong cầu thần
phù hộ cho dân làng bình an, mưa thuận gió hịa, mùa màng bội thu, nhân dân
đã dựng đình làm nơi thờ ngài. Hàng năm dân làng tổ chức mở hội kỷ niệm

Nguyễn Văn Chiến

Lớp: Bảo tàng 27A



Khóa luận tốt nghiệp

19

thần vào ngày 6- 1 âm lịch. Sự thành kính của dân làng đối với thần được thể
hiện thơng qua diện mạo của ngơi đình cổ kính và sự long trọng trong việc tổ
chức các nghi thức nghi lễ cúng tế.
* Tôn giáo
- Phật giáo
Đạo Phật ảnh hưởng rất sâu đậm trong đời sống văn hóa của người dân
làng Trần Đăng. Phật giáo xâm nhập vào trong đời sống cộng đồng người dân
làng Trần Đăng từ rất sớm và nhanh chóng được người dân tiếp nhận. Theo
sách “Thiền Uyển Tập Anh” (Anh tú vườn thiền) có chép Thiền phái Vô
Ngôn Thông sang Việt Nam đến chùa Kiến Sơ huyện Tiên Du (Bắc Ninh)
năm 820 đến thế hệ thứ 8 ở Hà Tây có thiền sư Ngộ Ấn (1020-1088) trụ trì ở
chùa Long An, Ninh Sơn, phủ Ứng Thiên (nay thuộc khu vực núi Tử Trầm
(Chương Mỹ), khu vực này cách địa phận làng Trần Đăng 7km về phía tây
bắc. Như vậy đến khoảng đầu thời Lý thì đạo Phật đã thịnh vượng ở nơi đây.
Chùa Diên Phúc có thể được khởi dựng vào thời điểm này. Hiện nay ở làng
Trần Đăng có ba ngơi chùa lớn đó là chùa Diên Phúc Tự, Đăng Khoa Tự,
Hoàng Đệ Tự. Đặc biệt chùa Diên Phúc Tự đã thành trung tâm Phật giáo lớn
của làng và khu vực các làng lân cận. Chính điều đó đã tạo nên lối sống, lối
ứng xử mang đậm tinh thần Phật giáo.
- Nho giáo
Văn hóa Nho giáo đã ảnh hưởng sâu rộng vào đời sống văn hóa cộng
đồng làng Trần Đăng từ rất lâu đời. Nho giáo không chỉ được biểu hiện ngay
trong nếp sinh hoạt, ứng xử của gia đình giữa các thành viên trong cộng đồng
mà còn được thể hiện ngay trong tục thờ cúng ở nơi đây. Xưa kia, làng Trần

Đăng có một văn chỉ làm nơi thờ cúng những người làng đã từng học hành đỗ
đạt để nêu gương cho con cháu phấn đấu học hành làm rạng rỡ gia đình, dòng
họ, quê hương. Trước kia mỗi lần nhân dân tổ chức lễ hội tại đình thì các bài
Nguyễn Văn Chiến

Lớp: Bảo tàng 27A


Khóa luận tốt nghiệp

20

văn tế đều được các nhà Nho của làng viết tại văn chỉ. Đến khoảng những
năm 60 của thế kỷ trước kiến trúc Văn chỉ bị phá do chủ trương chung, trên
nền văn chỉ ấy người ta xây dựng trường học của xã.
1.1.5.2.Phong tục tập quán
* Lễ hội truyền thống
Thôn Trần Đăng là một vùng quê mang tính chất thuần nơng nghiệp, ở
đó là nơi ẩn chứa nhiều phong tục tập quán liên quan đến cư dân lúa nước, là
một vùng quê mang nhiều giá trị văn hóa hiện nay tại thơn vẫn cịn lưu giữ
được nhiều các cơng trình văn hóa tín ngưỡng mang đậm tính chất của dân
làng, ở đó là những di tích gắn liền với đời sống tơn giáo tín ngưỡng của nhân
dân. Làng Trần Đăng được khẳng định là một trong những làng được hình
thành từ lâu đời, các di tích được hình thành một phần đã phản ánh được tình
hình kinh tế xã hội, văn hóa của nhân dân Trần Đăng.
Từ hàng ngàn năm về trước, nhân dân Trần Đăng đã tổ chức ra các
hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian. Trong đó đáng chú ý là các lễ hội
truyền thống. Hội làng Trần Đăng ngoài các nghi lễ rước Thành Hồng làng
cịn có nhiều cuộc thi, như đấu vật, chơi cờ người, đánh đu và nhiều các trò
chơi dân gian khác. Đến với lễ hội, một mặt người dân cầu mong Thần,

Thánh phù hộ cho chân cứng đá mền, cầu mong cuộc sống bình n, thiên
nhiên hợp lịng người. Mặt khác, đây là dịp nghỉ ngơi, vui chơi giải trí sau
nhiều ngày tháng lao động vất vả. Lễ hội cịn là dịp để tưởng nhớ cơng lao
của những người đã có cơng với dân làng, với nước. Đình làng Trần Đăng thờ
Cao Lỗ Đại Vương, một danh tướng vào thời Thục An Dương Vương (257208 trước cơng ngun), có công chế tạo nỏ thần, đẩy lùi quân xâm lược
Triệu Đà. Việc tơn thờ những người có cơng trong sự nghiệp đấu tranh dựng
nước và giữ nước đã góp phần quan trọng giáo dục ý thức nét đẹp truyền
thống của nhân dân Trần Đăng.

Nguyễn Văn Chiến

Lớp: Bảo tàng 27A


Khóa luận tốt nghiệp

21

Một nét đẹp văn hóa của làng Trần Đăng có từ hàng trăm năm nay là
tục kết giao hảo giữa làng Trần Đăng với làng Áng Phao (xã Cao Dươnghuyện Thanh Oai). Theo như các cụ trong hai làng kể, lệ tục giao hảo đã được
duy trì từ rất lâu cứ đời trước lại truyền lại cho đời sau, và cho đến ngày hơm
nay mối tình giao hảo giữa 2 làng vẫn giữ được những nét đẹp văn hóa truyền
thống. Tục kết trạ giữa 2 thơn có những quy định mà nhân dân 2 thơn duy trì
thực hiện từ trước đến nay đó là hai nhân dân tôn trọng nhau thân thiết và
thường xưng tên nhau là “Anh Cả” Trần Đăng và “Anh Cả Áng Phao” và tự
gọi mình là “Em”, hàng năm bất kể như thế nào thì nhân dân 2 thơn đều tổ
chức những nghi lễ chung với nhau, nghi thức này đã được duy trì từ ngày xa
xưa. Các cụ cao liên kể lại rằng anh cả Trần Đăng và anh cả Áng Phao thân
thiết coi nhau như ruột thịt, luôn luôn chia sẻ đùm bọc lẫn nhau, hàng năm 2
thôn đều tổ chức lễ hội thực hiện những nghi lễ chung với nhau, cứ thường lệ

3 năm mở hội to một lần, còn lại hàng năm thì tổ chức hội thường liên. Hội
được tổ chức vào 2 dịp là ngày mồng 6 tháng giêng âm lịch tổ chức tại thôn
anh cả Trần Đăng, khi đó dân em Áng Phao tổ chức rước hội từ làng Áng
Phao rước lễ vào anh cả Trần Đăng tế thần, còn ngày 11 tháng 3 âm lịch lễ
hội Áng Phao được tổ chức khi đó dân em Trần Đăng lại mở hội rước ra anh
cả Áng Phao tế thần. Bất kể ra sao hễ năm nào mà 2 thơn khơng thực hiện
nghi thức này thì ở cả hai thơn đều có những chuyện khác thường khơng hay
xảy ra, do vậy trong những năm kháng chiến khó khăn, nhà nước phong kiến
hạn chế tự do tín ngưỡng thì những nghi thức giữa hai thơn đều được tiến
hành bí mật, có những lúc các cụ của hai thơn phải đi bí mật vào đêm hơm để
tránh quan lại địa phương rước lễ vào anh cả để tế thần. Những nghi thức này
là một trong những nét đẹp văn hóa của nhân dân nhằm gắn kết tinh thần giữa
2 thôn lại với nhau, đùm bọc giúp đỡ nhau trong những lúc gặp khó khăn
hoạn nạn, ngồi ra cịn là nơi giao lưu văn hóa – xã hội thường xuyên của
nhân dân hai thôn.
Nguyễn Văn Chiến

Lớp: Bảo tàng 27A


Khóa luận tốt nghiệp

22

Một nét đẹp trong giao kết thân thiết giữa hai thôn Trần Đăng và Áng
Phao là hầu hết nhân dân hai thôn coi nhau thân thiết như anh em trong nhà,
hầu như từ xưa đến nay nhân dân giữa hai thôn không được lấy vợ gả chồng
cho nhau, đây cũng là một trong những nét đẹp bắt nguồn từ ngày xưa khi mà
chế độ Nho Giáo có những quy định khắt khe nhằm tránh tình trạng Loạn
Luân. Và do vậy khi hai làng Trần Đăng và Áng Phao kết nghĩa anh em thân

thiết coi nhau như anh em một nhà thì vấn đề đó cũng đã được nêu cao.
1.1.5.3. Các di tích lịch sử- văn hóa
Ở làng Trần Đăng hiện nay đang tồn tại 5 di tích thuộc loại hình hình di
tích kiến trúc-nghệ thuật đều là các cơng trình tín ngưỡng tơn giáo, ra đời trên
cơ sở nhu cầu tín ngưỡng tơn giáo của nhân dân nơi đây.
* Chùa Thượng (Đăng Khoa Tự)
Di tích nằm ở đầu làng Trần Đăng nên được gọi là chùa thượng, đây là
một cơng trình kiến trúc hình chữ đinh gồm 5 gian 2 chái tường hồi bít đốc
tay ngai. Gồm nhiều các đơn nguyên kiến trúc như tam quan, tiền đường,
thượng điện, và nhà tổ. Chùa Đăng Khoa cùng với di tích Diên Phúc Tự là nơi
tu hành của các nhà sư và phật tử. Hiện nay ở vườn tháp trong di tích có 9
ngọn tháp là nơi chơn di hài của các nhà sư đã trụ trì tại 3 di tích chùa thượng,
chùa trung, chùa hạ.
Đăng Khoa Tự mang hai ý nghĩa; một là, mang ý nghĩa chùa của làng
Đăng. Hai là với ý nghĩa cầu mong sự đỗ đạt, thành đạt trong con đường công
danh, sự nghiệp.
Chùa hiện nay khơng có sự trụ trì trực tiếp của nhà sư mà đã được nhân
dân cử các cụ bà ra trơng nom cai quản, hàng ngày đèn nhang hương khói. Chùa
Đăng Khoa Tự đã trở thành nơi sinh hoạt của nhân dân khơng chỉ trong địa
phương mà cịn có nhiều các phật tử ở các nơi về lễ Phật và cầu mong, cứ vào
ngày sóc, vọng nhà chùa lại đón tiếp nhân dân đến vãn cảnh chùa và lễ Phật.
Nguyễn Văn Chiến

Lớp: Bảo tàng 27A


Khóa luận tốt nghiệp

23


Đăng Khoa Tự cùng với Diên Phúc Tự gắn bó với nhau, mỗi khi làng
tổ chức một sự kiện nào thì nhân dân tập trung ở chùa Diên Phúc làm cỗ, sắm
sửa hoa quả…dâng từ chùa trung lên chùa thượng. Mọi sinh hoạt tôn giáo ở
hai di tích bao giờ cũng được thực hiện như nhau.
* Chùa Hạ ( Hồng Đệ Tự)
Di tích nằm ở cuối làng, Hoàng Đệ Tự mang ý nghĩa là nơi cầu con cái
của mọi gia đình. Hàng ngày di tích mở cửa đón nhân dân đến vãn cảnh chùa
và lễ Phật. Cũng như chùa Thượng và chùa Trung, chùa hạ cũng được các cụ
già trong địa phương trông nom, hương đăng hàng ngày. Mọi sinh hoạt tôn
giáo ở chùa đều như trên chùa Thượng, chùa Hạ.
* Đình Trần Đăng
Đình thờ danh tướng Cao Lỗ triều Thục An Dương Vương, người vị
công thần cứu nước đã có cơng lao giúp vua chống giặc Triệu Đà xâm lược
nước ta. Ơng cịn có tài xây dựng thành Cổ Loa – cơng trình kiến trúc qn
sự. Đặc biệt, ông đã chế tạo được nỏ thần, bắn một phát có nhiều tên đã làm
cho giặc nhiều phen khiếp vía kinh hồng.
Đình là cơng trình kiến trúc điêu khắc có quy mơ tơ lớn, mang đậm
phong cách truyền thống dân tộc với mái đao cong vút, hệ thống cửa bao xung
quanh, sàn đình theo các cấp. Mái đình cịn lưu giữ được nhiều mảng trang trí,
điêu khắc có giá trị. Hiện nay di tích cịn bảo lưu được nhiều di vật có giá trị của
các giai đoạn lịch sử khác nhau. Đình đã được Bộ Văn hóa- Thơng tin cơng nhận
là di tích kiến trúc nghệ thuật ngày 26 tháng 10 năm 1987.
* Miếu
Là một cơng trình di tích kiến trúc nghệ thuật. Miếu là nơi thờ thành
hồng làng là Cao Lỗ Đại Vương, từ ngày xưa miếu là nơi thờ sắc phong, sắc
áo, bài vị của ngài, hàng năm làng mở hội thì dân làng phụng nghênh hồi
đình, rước ngài từ miếu về đình trong những ngày làng mở hội, xong hội lại

Nguyễn Văn Chiến


Lớp: Bảo tàng 27A


Khóa luận tốt nghiệp

24

rước ngài về miếu, nhưng do miếu nằm ở cuối làng xa nhân dân trong những
năm trước xảy ra hiện tượng mất cắp tại di tích vì vậy dân làng đã xin phép
ngài rước sắc phong, sắc áo, bài vị…ngài thờ ở đình. Hiện nay tại miếu chỉ
còn những di vật là đồ thờ tự được thờ tại đây, hàng ngày vẫn được thủ từ đèn
nhang hương khói.
Miếu là di tích quan trọng trong cộng đồng dân cư, kiến trúc có quy mơ
lớn, với những đơn ngun kiến trúc đồ sộ, được trang trí hoa văn tứ linh, tứ
quý với lối chạm lộng, chạm kênh bong rất có giá trị về kiến trúc nghệ thuật.
1.2 Lịch sử hình thành di tích
1.2.1 Niên đại xây dựng di tích
Việc xác định niên đại cho một di tích là một việc vô cùng cần thiết bởi
đây là điều kiện đầu tiên, đặt nền tảng cho những đoán định khoa học có liên
quan đến di tích. Nó góp phần quan trọng trong cơng tác bảo tồn các giá trị
của di tích. Việc xác định niên đại một di tích có thể được tiến hành bằng
nhiều cách như qua các tư liệu lịch sử, qua nghiên cứu văn bia, khai quật khảo
cổ học hoặc khảo sát kiến trúc và các di vật thuộc di tích ấy...
Chùa Trần Đăng tọa lạc tại thơn Trần Đăng - xã Hoa Sơn - huyện Ứng
Hòa, thành phố Hà Nội. Làng Trần Đăng là một ngôi làng cổ kính là nơi lưu
giữ nhiều các cơng trình văn hóa của làng q Việt Nam như đình, đền, miếu,
chùa. Đặc biệt trong làng hiện có 3 ngơi chùa gọi là chùa thượng, chùa trung,
chùa hạ. Ngơi chùa chính trung tâm của tín ngưỡng, tơn giáo của làng là chùa
trung hay được gọi với tên thường gọi là chùa Trần Đăng. Chùa Trần Đăng có
tên chữ là Diên Phúc tự. Đây là ngơi chùa cổ kính hiện cịn lưu giữ được

nhiều giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể. Vậy để đi tìm nguồn gốc lịch sử
khởi dựng ngôi chùa này từ khi nào? Là một vấn đề cần thiết trong q trình
nghiên cứu về di tích. Hiện khơng cịn một tài liệu thành văn đáng tin cậy nào

Nguyễn Văn Chiến

Lớp: Bảo tàng 27A


Khóa luận tốt nghiệp

25

ghi cụ thể về niên đại xây dựng chùa Trần Đăng. Và tại di tích hiện nay cũng
khơng cịn lưu được những tấm văn bia hay những tư liệu hán nơm nào nói về
việc dựng chùa, do vậy việc căn cứ vào các tư liệu thành văn để xác định niên
đại khởi dựng chùa Diên Phúc tự vẫn chưa có lời giải đáp.
Tuy nhiên qua việc khảo sát tại di tích và các di vật có liên quan thuộc
di tích đã thu thập được nhiều cứ liệu mang những thơng tin phần nào có thể
cho ta biết được niên đại xây dựng của ngôi chùa.
Cứ liệu thứ nhất:
Khảo sát phần nền móng tịa Thượng Điện so với tòa Thêu Hương và
tòa Tiền Đường ta dễ dàng nhận thấy nền Thượng Điện cao hơn hẳn so với
tòa Tiền Đường và Thêu Hương với độ cao 90 cm. Mặt nền cơng trình hiện
nay có diện tích gần như vng với kích thước 5,8m x 7,8m. Qua cơng trình
thực tế so với dấu vết nền móng cũ của Thượng Điện thì hiện nay cơng trình
có quy mơ bị thu hẹp hơn so với trước, điều đó được chứng minh bởi dấu vết
nền móng cũ vẫn cịn với diện tích đo được là 9,8m x 11m, được bó bằng
gạch đá ong. Hiện nay nền móng cũ đã bị chìm sâu dưới bụi cỏ và đất cát bao
phủ lên. Với kiểu kiến trúc này thường thấy trong xây dựng các ngôi chùa

thời Trần. “Một đặc điểm chung dễ nhận thấy là nền chùa bao giờ cũng được
tơn cao hơn mặt đất bình thường khoảng từ 70cm đến xấp xỉ 1m20. Mặt nền
hình chữ nhật (gần như vuông) cạnh khoảng từ 9m tới 12m. Thơng thường
nền được bó vỉa bằng đá khối hoặc gạch”2. Qua đặc điểm kiến trúc thời Trần
trong khu vực của chùa Trần Đăng thì có chùa Bối Khê (Xã Tam Hưnghuyện Thanh Oai) hiện nay còn dấu vết thời Trần nhiều như nền móng
Thượng điện được bó vỉa bằng gạch với chiều cao nền 90cm, diện tích nền
móng là 11mx9m. Như vậy thông qua kiến trúc đặc trưng về nền móng của di

2

Trần Lâm Biền: Diễn biến kiến trúc truyền thống Việt vùng châu thổ sông Hông, trang 77

Nguyễn Văn Chiến

Lớp: Bảo tàng 27A


×