TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
LUẬN VĂN
TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
TÌM HIỂU CÁC HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TRONG NÔNG
THÔN XÃ ĐA TỐN – HUYỆN GIA LÂM – HÀ NỘI
Tên sinh viên : Nguyễn Hữu Hoàng
Chuyên ngành đào tạo : Kinh tế nông nghiệp
Lớp : KTB – K49
Niên khoá : 2004 – 2008
Giảng viên hướng dẫn : Th.S Nguyễn Văn Mác
HÀ NỘI – 2008
1
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan toàn bộ nội dụng của luận văn tốt nhgiepej đại học của
tôi là do tôi tự nghên cứu, tìm hiểu thực tế của địa phương cùng với việc tham
khảo các bài viết trến sách, báo , tạp chí, các website, các luận văn thạc sỹ và
luận văn tốt nghiệp của trường Đại học nông nghiệp I, Hà Nội.
Tôi xin cam đoan các số liệu được sử dụng trong luận văn tốt nghiệp đại
học của tôi là đúng sự thạt và chưa được sử dụng cho một công trình nghiên cứu
nào khác.
Hà nội ngày 23 tháng 5 năm 2008
Sinh viên
Nguyễn Hữu Hoàng
2
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Trong chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam, nông nghiệp là nền
móng cho sự phát triển kinh tế nói chung. Hiện nay và trong nhiều năm tới, vấn
đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn vẫn có tầm chiến lược đặc biệt quan trọng.
Thực hiện chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp và
dịch vụ, giảm dần tỷ trọng của ngành nông nghiệp, chúng ta đang từng bước xây
dựng một ngành nông nghiệp được cơ giới hoàn toàn. Đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn hướng tới xây dựng một nền nông
nghiệp hàng hóa lớn, đa dạng, phát triển nhanh và bền vững, có năng suất, chất
lượng và khả năng cạnh tranh cao, gắn phát triển kinh tế với xây dựng nông thôn
mới, giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng
miền, góp phần giữ vững ổn định chính trị – xã hội là một trong những nhiệm vụ
quan trọng hiện nay. Điều kiện tiên quyết cho phát triển nông nghiệp, nông thôn
là phải có thị trường tài chính nông thôn phát triển, trong đó hoạt động tín dụng
đóng vai trò hết sức quan trọng.
Trong hoạt động sản xuất nông nghiệp, tín dụng là nguồn quan trọng cung
cấp những cơ hội để có được những khả năng kinh doanh tốt hơn cũng như tạo ra
những ưu thế cho doanh nghiệp tương lai. Trong hầu hết các cơ sở kinh doanh
nông nghiệp, để tăng kết quả kinh doanh, người ta thường mở rộng quy mô kinh
doanh và thực hiện giảm chi phí sản xuất. Tín dụng có thể coi là một yếu tố để
tạo ra quy mô kinh doanh phù hợp. Doanh nghiệp có thể tăng năng lực kinh
doanh cũng như duy trì mức kinh doanh cao thông qua việc tăng các yếu tố đầu
vào cho sản xuất nhờ nguồn vốn tín dụng. Chẳng hạn như mua máy móc, thiết
bị, nguyên vật liệu để mở rộng sản xuất kinh doanh từ khoản tiền đi vay các tổ
3
chức tín dụng. Ta biết rằng hoạt động kinh doanh nông nghiệp có tính chất thời
vụ rõ rệt, do đó nhu cầu về chi tiêu và thu nhập nông nghiệp tạo ra thường không
trùng khớp về thời gian. Và sử dụng tín dụng có thể làm giảm bớt những căng
thẳng về vốn và chênh lệch thu chi giữa các thời điểm trong năm. Mặt khác sản
xuất nông nghiệp gặp rất nhiều rủi ro về thời tiết, bệnh dịch, giá cả…gây ra
nhiều bất lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Và tín dụng là yếu tố góp phần
ngăn ngừa và giảm thiểu những bất lợi đó.
Đa Tốn là một xã thuần nông, ngoài thời gian mùa vụ, các hộ nông dân Đa
Tốn đều tranh thủ lúc nông nhàn để làm thêm một số nghề phụ cho thu nhập
thấp. Mấy năm gần đây, khi kinh tế phát triển, một số hộ với quyết tâm làm giàu
đã chuyển sang sản xuất hàng hóa với quy mô lớn, nhưng lại gặp khó khăn về
vốn và khâu tiêu thụ. Nhưng nhờ có sự phát triển của thị trường tài chính trong
nông thôn, với nhiều tổ chức tín dụng khác nhau đang hoạt động trong xã, cả tổ
chức tín dụng chính thống và không chính thống. Các tổ chức tín dụng trong xã
Đa Tốn đã góp phần giải quyết được một phần nào đó nhu cầu về vốn sản xuất
cho hộ sản xuất, giải quyết được công ăn việc làm, hạn chế được tình trạng cho
vay nặng lãi, hạn chế tệ nạn xã hội. Vốn cho vay đã tạo thêm nhiều ngành nghề
mới, góp phần chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp nông thôn theo hướng sản xuất
hàng hóa, công nghiệp, dịch vụ. Hoạt động tín dụng nông thôn trong xã Đa Tốn
mấy năm gầy đây đã phát triển một cách nhanh chóng và mạnh mẽ. Số lượt hộ
vay vốn phục vụ sản xuất kinh doanh, mở rộng quy mô sản xuất, tăng dần qua
các năm. Mức vốn vay của các hộ trong xã cũng như là số tiền gửi của các hộ
dân vào các tổ chức tín dụng ngày một lớn. Hoạt động tín dụng trong xã đã diễn
ra một cách sôi nổi với sự kết hợp hoạt động của hai tổ chức tín dụng chính
thống và không chính thống. Các hộ nông dân xã Đa Tốn sử dụng nguồn vốn
4
ngày một hiệu quả hơn, qua đó nhiều hộ nông dân đã vươn lên làm giàu tạo diện
mạo mới cho quê hương của mình.
Một vấn đề đặt ra trong nông thôn là làm thế nào để huy động được nguồn
vốn nhàn rỗi trong dân? Vai trò, vị trí và mức độ tham gia của các tổ chức tín
dụng chính thống và không chính thống vào sự phát triển kinh tế của người dân?
Làm thế nào để các tổ chức tín dụng đáp ứng được nhu cầu cần thiết về vốn của
nông dân để phát triển kinh tế nông nghiệp?
Từ đó chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Tìm hiểu các hoạt động tín
dụng trong nông thôn ở xã Đa Tốn – huyện Gia Lâm – Hà Nội”
5
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu chung
Tìm hiểu các hoạt động tín dụng ở xã Đa Tốn huyện Gia Lâm – Hà Nội, từ
đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng trên địa bàn xã.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn vấn đề tín dụng nông thôn.
- Phân tích thực trạng hoạt động tín dụng trên địa bàn xã Đa Tốn – huyện
Gia Lâm- Hà Nội.
- Đưa ra các giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng trên địa
bàn xã.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
- Nguồn vốn vay và cho vay của các tổ chức tín dụng.
- Các hộ nông dân ở xã Đa Tốn – huyện Gia Lâm – Hà Nội.
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Thời gian: + Đề tài được nghiên cứu từ ngày: 18/1/2008 đến 30/4/2008.
+ Số liệu được thu thập trong 3 năm 2005-2007.
- Không gian: Đề tài được nghiên cứu trên địa bàn xã Đa Tốn – huyện Gia
Lâm – Hà Nội.
- Nội dung: Nghiên cứu các hoạt động huy động vốn và cho vay vốn trên
địa bàn xã. Tác động của việc vay vốn đến các hộ đi điều tra.
6
PHẦN II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CÁC HOẠT
ĐỘNG TÍN DỤNG TRONG NÔNG THÔN
2.1. Một số vấn đề chung về tín dụng
2.1.1. Khái niệm và bản chất của tín dụng
2.1.1.1. Khái niệm
Tín dụng là một phạm trù kinh tế rất đa dạng, thể hiện quan hệ giữa người
đi vay và người cho vay. Người đi vay nhận của người cho vay một khoản vốn
nào đó và sau một khoảng thời gian sử dụng nhất định, người đi vay phải trả lại
món tiền gốc và kèm theo một khoản gọi là lợi tức tín dụng cho người cho vay.
Nhìn chung vấn đề tín dụng được hiểu theo nhiều quan điểm khác nhau,
mỗi quan điểm đều thể hiện được những điểm cơ bản về tín dụng. Tuy nhiên có
hai quan điểm sau đây được coi là tiêu biểu nhất.
Tín dụng là quan hệ vay mượn lẫn nhau theo nguyên tắc có hoàn trả. Quan
hệ vay mượn này ra đời và ngày càng mở rộng theo sự phát triển của nền sản
xuất hàng hóa.
Đây là một quan niệm hết sức khái quát nên phạm vi nghiên cứu của nó
rất rộng trong mọi lĩnh vực của hoạt động kinh tế. Tuy nhiên những quan hệ vay
mượn lẫn nhau theo nguyên tắc có hoàn trả đều là tín dụng. Như vậy theo hình
thức đó chưa phản ánh được một cách chính xác về quan niệm này.
Theo quan điểm thứ hai thì tín dụng được biểu hiện là tổng số tiền được
gửi vào tổ chức tín dụng là quyền kiểm soát số tiền đó đã bị chuyển đổi cho đối
tượng khác có quyền kiểm soát số tiền gửi. Một tổ chức tín dụng có hai bộ phận
rõ rệt: Một bên là người vay, một bên là người cho vay. Nó cũng gồm cả giá của
sự chuyển số tiền đó, chính là lãi suất giữa người cho vay và người vay. Người
cho vay trong kinh doanh tín dụng là một cá nhân hay tổ chức, người vay trong
7
tín dụng cũng có thể là cá nhân hoặc doanh nghiệp có nhu cầu về tiền tệ để phát
triển sản xuất hay tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp hoặc đầu tư cho tương lai.
Nhìn chung quan niệm này đã phản ánh một cách cụ thể về quan hệ tín
dụng, thông qua các đối tượng tín dụng, các tổ chức tín dụng giúp cho nhận thức
về tín dụng rõ ràng hơn. Giúp người đi vay và người cho vay được rõ ràng hơn
trong quan hệ tín dụng, do vậy quan hệ này được sử dụng phổ biến trong các lĩnh
vực kinh tế khi có nhu cầu vay mượn tín dụng
2.1.1.2. Bản chất của tín dụng
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, tín dụng đã ra đời và tồn tại
cùng với sự ra đời của nền sản xuất hàng hoá. Do đó, tín dụng là một phạm trù
kinh tế vừa là phạm trù lịch sử. Từ khi ra đời, tín dụng đã gắn liền với phương
thức sản xuất nhất định. Bản chất của tín dụng phản ánh phản hồi của quan hệ
sản xuất và do bản thân của quan hệ sản xuất quyết định.
Thật vậy, các phương thức sản xuất trước CNTB, tín dụng thể hiện quan
hệ bóc lột tàn bạo, phi kinh tế của tầng lớp cho vay nặng lãi đối với những người
sản xuất nhỏ. Trong phương thức sản xuất TBCN tín dụng phản ánh và thực hiện
sự bóc lột của giai cấp tư sản đối với giai cấp công nhân và các tầng lớp lao động
khác. Trong xã hội mới được thể hiện cụ thể trong các mỗi quan hệ tín dụng
trong nền kinh tế XHCN.
Sở dĩ tín dụng phản ánh bản chất của quan hệ sản xuất và do bản chất của
quan hệ sản xuất quyết định là do tín dụng biểu diễn quan hệ về mặt kinh tế giữa
những người thiếu vốn và những người chủ vốn trong xã hội. Hai tầng lớp này
cũng là những đại diện trong những quan hệ sản xuất. Mỗi quan hệ giữa họ phụ
thuộc vào quan hệ sản xuất của xã hội đó và phản ánh quan hệ sản xuất giữa các
đối tượng có quan hệ với nhau trong các lĩnh vực hoạt động kinh tế trong xã hội.
8
Do đó bản chất của tín dụng là rất quan trọng nó phản ánh rõ nét mọi góc độ
trong quan hệ sản xuất trong xã hội hiện nay.
2.1.2. Các hình thức tín dụng
Tín dụng được chia làm nhiều hình thức theo các tiêu thức nhất định như:
thời gian, đối tượng cho vay, mục đích và hình thức biểu hiện của vốn, chủ thể
các hoạt động tín dụng.
a. Theo thời hạn cho vay
- Tín dụng ngắn hạn: Là những khoản tín dụng có thời hạn trong vòng 1
năm như tín dụng theo tháng, theo vụ (3 – 9 tháng)…
Tín dụng ngắn hạn dùng để bổ sung vốn lưu động, chi phí sản xuất; thời
hạn cho vay theo chu kỳ sản xuất, lưu thông, dịch vụ…
- Tín dụng trung hạn (1 – 3 năm): thường là những khoản vay để nuôi đại
gia súc, trồng cây lưu gốc, đổi mới công nghệ sản xuất, áp dụng tiến bộ khoa học
kỹ thuật vào sản xuất…
- Tín dụng dài hạn: Là loại tín dụng có thời hạn trên 3 năm. Tín dụng dài
hạn trong nông nghiệp là để trồng và chăm sóc cây dài ngày, cây lâm nghiệp,
chăn nuôi gia súc cơ bản, mua sắm tàu thuyền, máy móc thiết bị sản xuất, chế
biến nông – lâm – thuỷ hải sản, mở rộng cho cơ sở sản xuất…
b. Theo đặc điểm của vốn
- Tín dụng vốn lưu động: là những khoản vay để mua các yếu tố “đầu vào”
cho sản xuất, trang trải chi phí sản xuất, đổi mới công nghệ sản xuất, áp dụng
tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, nuôi đại gia súc…
- Tín dụng vốn cố định: là những khoản vay để mua máy móc, thiết bị,
trồng cây lâu năm, nuôi gia súc cơ bản… Đây là những khoản vay nhằm tạo ra
tài sản cố định trong các cơ sở kinh doanh nông nghiệp.
9
Đây là cách phân loại dễ hiểu nhất vì mỗi khoản vay đều cho một loại mục đích
sử dụng. Có tác dụng phân tích lợi nhuận của những loại tín dụng hoặc từng món
nợ cũng như cung cấp các thông tin khác trong đánh giá tài chính.
c. Theo mục đích sử dụng vốn vay
- Tín dụng sản xuất, lưu thông hàng hoá: đây là những khoản vay để phục
vụ cho sản xuất nông nghiệp, sản xuất công nghiệp hay trong lưu thông hàng hoá
như buôn bán dịch vụ và thương mại.
- Tín dụng tiêu dùng: là những khoản vay dùng để xây dựng nhà cửa mua
sắm…
Qua mục đích sử dụng vốn có thể đánh giá được hiệu quả của từng loại tín dụng.
d. Theo hình thức biểu hiện vốn vay
- Tín dụng bằng tiền: là những khoản vay bằng tiền.
- Tín dụng bằng hiện vật: là những khoản vay bằng hiện vật như vật tư
phục vụ sản xuất nông nghiệp, cho bảo vệ thực vật…
Phân loại theo hình thức này đa dạng hơn, thuận tiện hơn theo từng mục
đích sử dụng vốn vay, phù hợp hơn với hộ nông dân.
e. Theo chủ thể quan hệ tín dụng
- Tín dụng thương mại: là quan hệ tín dụng giữa các nhà doanh nghiệp
dưới hình thức mua bán chịu hàng hoá.
- Tín dụng ngân hàng: là quan hệ tín dụng giữa Nhà nước với các tổ chức
tín dụng khác với các nhà doanh nghiệp và cá nhân.
- Tín dụng Nhà nước: là quan hệ tín dụng giữa Nhà nước với các tầng lớp
dân cư hoặc với các tổ chức kinh tế – xã hội.
- Tín dụng tư nhân, cá nhân: là quan hệ tín dụng giữa cá nhân và tư nhân
cho vay nặng lãi hoặc giữa cá nhân với nhau.
10
- Tín dụng thuê mua: là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp với các tổ
chức tín dụng thuê mua, được áp dụng với các khoản đầu tư vào tài sản cố định.
g. Theo phương diện tổ chức
- Tín dụng chính thống: là hình thức huy động vốn và cho vay vốn thông
qua các tổ chức tài chính tín dụng chính thống có đăng ký hoạt động công khai
theo pháp luật, hoặc chịu sự quản lý và giám sát của chính quyền nhà nước các
cấp. Các tổ chức tín dụng chính thống bao gồm hệ thống ngân hàng, kho bạc
Nhà nước, hệ thống quỹ tín dụng nhân dân, các công ty tài chính, các tổ chức
đoàn thể xã hội, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ trong và ngoài
nước, các chương trình, các dự án được thực hiện bằng nguồn vốn tín dụng của
chính phủ và các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như: Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF),
Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển Châu á (ADB)…
- Tín dụng không chính thống: là tổ chức tín dụng cho các tổ chức, các cá
nhân nằm ngoài các tổ chức chính thống. Hiện nay có nhiều quan điểm khác
nhau xung quanh vấn đề này. Các nhà kinh tế Đức cho rằng tín dụng không
chính thống là: “Việc huy động các nguồn không thuộc ngân hàng giám sát như
bạn bè, họ hàng, hụi họ , việc cung ứng vốn phi chính thống không chịu sự quản
lý của Nhà nước nhưng vẫn theo nguyên tắc nhất định”. Hầu hết các nghiên cứu
về tín dụng không chính thống rất phổ biến ở các nước Châu á. Các nhà kinh tế
Inđônêxia cho rằng tín dụng không chính thống là hình thức tín dụng chưa được
thể chế hoá. ở Việt Nam có tác giả cho rằng tín dụng không chính thống là hình
thức tín dụng hoạt động ngoài khuôn khổ luật định. Tuy nhiên, hình thức tín
dụng này có ý nghĩa to lớn trong việc cung ứng bổ sung vốn đầu tư cho nền kinh
tế, nhất là ở trong nông hộ khi thị trường vốn chính thống chưa đủ mạnh. Hình
11
thức này bao gồm việc cho vay nặng lãi, chơi hụi họ, vay mượn bạn bè, người
thân…
2.1.3. Các chức năng của tín dụng
Tín dụng có chức năng quan trọng đối với hoạt động kinh tế thể hiện ở 3
chức năng chính:
- Tập trung và phân phối lại vốn (chủ yếu là vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi
theo nguyên tắc có hoàn trả).
Đây là chức năng quan trọng nhất của tín dụng, với chức năng này tín
dụng sẽ tập trung hay huy động đại bộ phận vốn nhàn rỗi trong xã hội để phân
phối lại với hình thức cho vay để giúp phát triển kinh tế nâng cao đời sống nhân
dân. Thông qua hình thức này tín dụng đưa đại bộ phận vốn vừa giải phóng khỏi
quá trình luân chuyển vốn và tạm thời nhàn rỗi nơi này tham gia vào quá trình
luân chuyển vốn ở nơi khác, đảm bảo quá trình tái sản xuất được tiến hành liên
tục và trên cơ sở đó tăng nhanh quá trình, tăng nhanh tốc độ luân chuyển xã hội.
- Tiết kiệm chi phí phát hành tiền:
Việc sử dụng các nguồn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi tham gia ngay vào quá
trình chu chuyển xã hội sẽ làm giảm bớt khối lượng tiền mặt trong lưu thông và
do đó giảm được các chi phí phát hành tiền.
Hoạt động tín dụng diễn ra nhằm chuyển tiền nhàn rỗi từ nơi chủ vốn đến
nơi thiếu vốn. Vì vậy nó làm giảm đi cho nhà nước khoản chi phí phát hành tiền
để đảm bảo cung ứng cho nhu cầu thiếu vốn trên.
- Kiểm soát các hoạt động kinh tế:
Chức năng này chủ yếu được thể hiện trong hình thức tín dụng ngân hàng.
Thông qua các hoạt động của mình, tín dụng ngân hàng theo dõi các hoạt động
của từng đơn vị, các ngành trong nền kinh tế, từ đó có kế hoạch thực hiện các
12
vấn đề kinh tế, có kế hoạch cụ thể đối với những vấn đề đầu tư cung cấp vốn cho
quá trình sản xuất. Đồng thời thông qua những chính sách, chế độ, thể lệ, những
nguyên tắc và điều kiện cũng như các biện pháp nghiệp vụ để đôn đốc hướng
dẫn các ngành kinh tế hoạt động đúng hướng và có hiệu quả trong sản xuất kinh
doanh, hướng các hoạt động kinh tế của các tổ chức, các đơn vị đi đúng mục
đích phát triển kinh tế xã hội. Với chức năng kiểm soát các hoạt động kinh tế, tín
dụng ngân hàng vừa thực hiện việc kiểm soát với từng đơn vị và tổ chức kinh tế,
vừa thực hiện chức năng kiểm soát đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Và qua
đó thúc đẩy sử dụng vốn hợp lý và đúng mục đích, tiết kiệm, tạo điều kiện để
khắc phục tình trạng mất cân đối của nền kinh tế.
Tín dụng với 3 chức năng chính này thực sự là một công cụ quan trọng
trong việc phân phối vốn và quản lý các hoạt động kinh tế, nhất là kinh tế nông
thôn trong giai đoạn hiện nay.
2.1.4. Vai trò của tín dụng trong nông nghiệp và nông thôn
- Tăng hiệu quả kinh doanh: tín dụng có thể coi là nguồn thay thế các điều
kiện sản xuất. Chẳng hạn: dùng vốn tín dụng để mua máy móc thay cho lao động
thủ công nhằm tiết kiệm chi phí và thời gian lao động. Tín dụng cũng có thể cải
thiện điều kiện đầu tư cho sản xuất như mua được giống tốt hơn, mua được phân
bón, thức ăn gia súc có chất lượng hơn… nhờ đó góp phần tăng hiệu quả kinh
doanh.
- Góp phần thực hiện điều chỉnh kinh doanh: kỹ thuật mới thay đổi và các
điều kiện thị trường thay đổi đòi hỏi các cơ sở kinh doanh nông nghiệp phải có
những điều chỉnh trong kinh doanh. Giống mới, công nghệ mới, quy trình canh
tác mới, nguồn năng lượng mới… Luôn là các yếu tố để tăng hiệu quả, nhưng lại
là yếu tố cần đầu tư thêm nhiều vốn. Yêu cầu thị trường về sản phẩm cũng buộc
13
các doanh nghiệp phải đáp ứng cho phù hợp. Tín dụng là nguồn quan trọng cho
các chương trình điều chỉnh kinh doanh của các doanh nghiệp.
- Giải quyết các biến động trong kinh doanh: Hoạt động kinh doanh nông
nghiệp có tính chất thời vụ rõ rệt, do đó nhu cầu về chi tiêu và thu nhập nông
nghiệp tạo ra thường không trùng khớp về thời gian. Sử dụng tín dụng có thể làm
giảm bớt những căng thẳng về vốn và chênh lệch về thu chi giữa các thời điểm
trong năm.
- Hạn chế những bât lợi trong kinh doanh nông nghiệp, thời tiết, bệnh
dịch, giá cả… luôn gây ra những bất lợi ảnh hưởng tới kinh doanh. Tín dụng
được coi là yếu tố góp phần ngăn ngừa những điều kiện bất lợi trong kinh doanh,
chống lại những rủi ro có thể xảy ra: giảm xút thu nhập, thiểu khả năng thanh
toán, thiếu dự trữ sản xuất…
Tín dụng còn có thể có nhiều vai trò khác tuỳ mức độ sử dụng tín dụng
của từng doanh nghiệp, từng hộ nông dân. Điều đó phụ thuộc vào khả năng quản
lý và những điều kiện kinh doanh cụ thể của các cơ sở sản xuất.
2.2. Lãi suất tín dụng
2.2.1. Nguồn gốc lợi tức tín dụng
Vào thời kỳ tan rã của chế độ công xã nguyên thủy, khi chế độ tư hữu ra
đời thì trong nội bộ công xã đã phân hoá thành kẻ giàu người nghèo. Khi đó, việc
điều hoà các sản phẩm thừa từ tầng lớp này sang tầng lớp khác chủ yếu bằng
hình thức cho nhau vay mượn. Lúc đầu việc cho vay chỉ mang tính chất tương
trợ giúp đỡ lẫn nhau của những người trong cùng một công xã, về sau những
người giàu có vốn tiền tệ nhàn rỗi chưa có nhu cầu tiêu dùng hay đầu tư thì họ
vẫn có thể cho vay và sử dụng vốn này tuy nhiên họ vẫn có quyền sở hữu số vốn
này. Trong đó người đi vay phải chấp nhận một khoản thoả thuận nào đó với
14
người vay đặt ra thì họ mới được vay vốn, người đi vay được sử dụng số vốn này
trong thời gian thoả thuận, tuy nhiên họ không có quyền sở hữu số vốn trên. Như
vậy trong quan hệ tín dụng, quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn tách rời nhau,
do đó để đảm bảo an toàn nguồn vốn của mình, những người chủ vốn phải ràng
buộc người vay bằng những cơ chế tín dụng chặt chẽ. Người đi vay sử dụng vốn
vào mục đích sản xuất của mình, lợi nhuận được tạo ra trong quá trình sản xuất
được phân chia rõ ràng theo tỷ lệ thoả thuận giữa người đi vay và người cho vay
tương ứng với số vốn mà người cho vay đã bỏ ra và người đi vay sử dụng. Phần
lợi nhuận mà người cho vay được hưởng chính là lợi tức.
2.2.2. Khái niệm, chức năng, vai trò lãi suất tín dụng
Lãi suất có ảnh hưởng rất lớn đến từng cá nhân, đơn vị sản xuất hay doanh
nghiệp vì lãi suất ở các mức khác nhau đều dẫn đến những quyết định khác nhau
của mỗi cá nhân, đơn vị sản xuất hay doanh nghiệp.
Trong các hoạt động kinh tế, tiền lãi là chênh lệch giữa vốn tích luỹ trong
một giai đoạn, thời gian nào đó so với số vốn đầu tư ban đầu.
Tiền lãi = Tổng số tiền tích luỹ – Số tiền ban đầu
Lãi suất tín dụng là tỷ lệ % giữa số tiền mà người đi vay phải trả cho
người cho vay (lợi tức) trên tổng số tiền vay sau một thời gian nhất định sử dụng
số tiền đó. Lãi suất tín dụng có thể tính theo tháng hoặc năm.
Tiền lãi trong một giai đoạn thời gian
Lãi suất (%) = x 100
Số tiền ban đầu
Sau một thời gian hoạt động sản xuất nào đó (có thể là một chu kỳ theo
quý hoặc năm). Số tiền lãi thu được so với số tiền ban đầu bỏ ra gọi là lãi suất.
Số tiền lãi càng lớn thì lãi suất càng cao và ngược lại.
15
Lãi suất tín dụng có thể được quy định cho tháng cho quý hoặc năm tuỳ
theo tính chất của nguồn vốn tín dụng.
Trong các hoạt động sản xuất kinh doanh của các tổ chức đơn vị doanh
nghiệp quy định và phân ra làm 2 loại là lãi đơn và lãi kép.
+ Lãi đơn: là số tiền lãi đạt được chỉ tính theo số tiền ban đầu không tính
thêm tiền lãi tích luỹ phát sinh từ tiền lãi các giai đoạn trước thì nó gọi là lãi đơn.
Lãi đơn được biểu thị bằng công thức:
M = S x I x n
Trong đó:
M : Là tiền lãi tính theo lãi suất đơn
S : Là số lượng tiền đầu tư ban đầu
I : Là lãi suất
n : Giai đoạn tính lãi
Trong các hoạt động kinh tế của các tổ chức doanh nghiệp lãi đơn thường
được áp dụng cho các khoản vay đơn hoặc vay ngắn hạn.
+ Lãi kép: Khi tính tiền lãi ở các giai đoạn trước gộp chung vào số tiền
ban đầu để tính lãi cho giai đoạn tiếp theo thì đó là lãi kép.
Công thức tính lãi kép:
S = s x (1+ i)
n
Trong đó:
S : Là số tiền tính theo n kỳ cho vay
s : Là lượng tiền ban đầu
i : Là lãi suất
n : Giai đoạn tính lãi
16
Đối với các hoạt động kinh tế thì lãi kép được áp dụng đối với tín dụng
trung và dài hạn. Lãi kép đòi hỏi việc tính toán tiền lãi phức tạp hơn nhiều so với
lãi đơn.
Nhìn chung trong các hoạt động của các tổ chức doanh nghiệp thì lãi suất là
một vấn đề chủ yếu mà tất cả các ngành kinh doanh đều quan tâm. Nó ảnh hưởng
mạnh mẽ đến nhịp độ chung trong sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Chính vì
vậy mà lãi suất có chức năng và vai trò quan trọng.
Trong nền kinh tế, lãi suất có chức năng phân phối. Đối với chức năng này
thì lãi suất giúp cho nền kinh tế phân bổ các khoản tiết kiệm hay nguồn vốn nhàn
rỗi vào những cách đầu tư và sủ dụng vào các mục đích khác nhau. Đối với
người tiết kiệm thì lãi suất là tiền thưởng cho việc hạn chế tiêu dùng và chờ đợi
tiêu dùng hay đầu tư vào sản xuất trong tương lai. Mức lãi suất tiết kiệm càng
cao thì càng khuyến khích được nhiều thành viên có vốn dự trữ gửi vào tiết
kiệm. Còn đối với người đi vay vốn để đầu tư vào sản xuất thì lãi suất là cái giá
phải trả cho số tiền vay để đầu tư vào sản xuất hay tiêu dùng nên mức lãi suất
càng cao thì việc đầu tư hay tiêu dùng càng ít. Chính vì vậy chức năng này của
lãi suất đảm bảo tốt cho việc huy động vốn và vay vốn diễn ra một cách bình
thường thuận lợi đối với sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế.
Bên cạnh đó, lãi suất còn có chức năng kiểm soát trong chính sách tiền tệ
của chính phủ. Lãi suất có vai trò trung tâm, nó được sử dụng như một công cụ
rất quan trọng để tác động lên toàn bộ nền kinh tế, kiểm soát được lượng cung
cầu tiền tệ không bị thất thoát hay làm mất giá đồng tiền.
Do vậy, nếu lãi suất càng cao thì lượng tiền cung ứng ra càng ít, nhu cầu
đảm bảo vốn để sản xuất kinh doanh chỉ đạt được một phần nhỏ trên toàn bộ nền
kinh tế. Và ngược lại nếu lãi suất thấp thì lượng tiền cung ứng ra được nhiều hơn
17
giải quyết tốt được vấn đề đầu tư các ngành nghề sản xuất trong toàn bộ nền kinh
tế. Đảm bảo tốt được vấn đề vốn cho người dân lao động.
Đối với toàn bộ nền kinh tế thì lãi suất còn có vai trò hết sức quan trọng
vì:
- Lãi suất là một phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ giữa cung và cầu
tiền tệ, đồng thời lãi suất còn phản ánh thực trạng kinh tế của một nước phát
triển hay đang phát triển hoặc suy thoái. Và thông qua sự biến động của lãi suất
người ta có thể dự đoán được vấn đề kinh tế của một nươc.
- Lãi suất là một trong những biến số được theo dõi chặt chẽ nhất trong
nền kinh tế vì nó tác động trực tiếp đến đời sống hàng ngày của mỗi người cũng
như sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế.
- Lãi suất tác động đến quyết định của từng cá nhân như chi tiêu hay để
dành tiết kiệm.
- Lãi suất cũng tác động đến những quyết định của các doanh nghiệp hoặc
gia đình như dùng vốn để đầu tư vào nhà máy mới, mua thêm tư liệu sản xuất
hay gửi tiết kiệm vào ngân hàng. Mỗi mức lãi suất đều có tác động mạnh mẽ,
trực tiếp đến tiết kiệm, đầu tư sản xuất, giá cả, tỷ giá hối đoái, lạm phát.
Như vậy lãi suất rất quan trọng nó quyết định đến sự tăng phát triển kinh
tế của đất nước trong giai đoạn hiện nay.
2.3. Hoạt động tín dụng trong nông thôn
2.3.1. Khái niệm
Hoạt động tín dụng trong nông thôn là bao gồm tất cả các hoạt động tín
dụng trên địa bàn nông thôn, rất phong phú và đa dạng. Bao gồm các hoạt động
như huy động vốn và cho vay vốn của các tổ chức tín dụng chính thống, hoạt
18
động cho vay của các tổ chức tư nhân,chơi hụi, chơi họ, mua bán chịu, bán non
sản phẩm…
2.3.2. Các hoạt động tín dụng trong nông thôn
2.3.2.1. Huy động vốn tín dụng
Đây là hoạt động của các tổ chức tín dụng chính thống như NHNN &
PTNT, hệ thống QTDND… Các tổ chức này huy động vốn nhàn rỗi trong dân
với mục đích kinh doanh lấy lãi cùng với phương châm “đi vay để cho vay”.
Hoạt động này đem lại lợi ích qua giá trị thời gian của số tiền gửi (lãi suất), bên
nhận được hưởng lợi ích qua chênh lệch lãi suất đầu vào và đầu ra.
2.3.2.2. Cho vay vốn tín dụng
Đây là hoạt động của tổ chức tín dụng (chính thống và không chính
thống). Các tổ chức này đưa ra vốn đến tay những người cần vốn và được trả
công bằng lãi suất tiền vay (đối với các tổ chức chính thống là lãi suất đầu ra),
Những người cần vốn thì có vốn để sản xuất, sinh lợi nhiều hơn là rất nhiều so
với giá mà họ phải trả khi vay tiền từ các tổ chức tín dụng (lãi suất tiền vay). Lãi
suất vay của các tổ chức tín dụng không chính thống thường cao hơn các tổ chức
tín dụng chính thống rất nhiều nhưng thủ tục cho vay đơn giản nên cả hình thức
cho vay này vẫn song song tồn tại và bổ sung cho nhau.
2.4. Những chủ trương, chính sách của nhà nước ta đối với công tác tín
dụng trong nông thôn trong những năm gần đây
Trong vùng nông thôn Việt Nam, hộ nông dân chủ yếu làm nông nghiệp.
Vì vậy, muốn phát triển kinh tế đất nước thì phải tập trung vào phát triển kinh tế
nông nghiệp nông thôn. Ngoài những chủ trương chính sách tác động trực tiếp
đến sản xuất nông nghiệp, Nhà nước ta còn ban hành các chính sách thông qua
hệ thống NHNN & PTNT nhằm tạo điều kiện phát triển sản xuất nông nghiệp
19
bằng quan hệ tín dụng với người sản xuất. Những năm qua, Nhà nước ta đã đề ra
những chủ trương, chính sách về việc cho các hộ nông dân vay vốn để phát triển
sản xuất.
Hoạt động ngân hàng của hệ thống ngân hàng Việt Nam chịu sự hướng
dẫn của văn bản có tính pháp luật cao nhất là Luật ngân hàng Nhà nước Việt
Nam ( NHNN Việt Nam) số 01/1997 – QĐ 10 và luật các tổ chức tín dụng số
02/1997 về quy trình tổ chức hoạt động của các tổ chức sao cho có hiệu quả, đảm
bảo tốt trong quá trình hoạt động. QĐ 10 đã ban hành ngày 12/12/1997, Luật
ngân hàng nhà nước Việt Nam gồm 7 chương, 63 điều gồm các vấn đề về tổ
chức và hoạt động của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), tài chính hạch toán và báo
cáo của Ngân hàng Nhà nước, thanh tra, kiểm soát của NHNN nói chung là toàn
bộ vấn đề tổ chức hoạt động của ngân hàng, trong đó mọi cơ chế hoạt động của
ngân hàng được quy định một cách cụ thể đúng theo quy định đã được ban hành
và đây là văn bản có tính pháp lý cao, là cơ sở chuẩn mực nhất để hệ thống ngân
hàng hoạt động theo. Từ đây tạo điều kiện cho sự phát triển một hệ thống ngân
hàng ngày càng mạnh mẽ và hoạt động trong mọi lĩnh vực.
Từ khi Luật NHNN Việt Nam ra đời, hàng loạt các văn bản hướng dẫn
thực hiện cũng được ban hành, đó là Quyết định số 67/1997/QĐ - TTg của thủ
tướng chính phủ ngày 30/3/1999 về một số chính sách tín dụng ngân hàng phục
vụ cho phát triển nông nghịêp nông thôn. Quyết định này nhằm quy định về
nguồn vốn cho phát triển nông nghiệp nông thôn, những mức vốn hợp lý đáp
ứng được đủ mọi ngành nghề sản xuất. Bên cạnh đó hình thức huy động nguồn
vốn quy định về cơ chế tín dụng cho nông nghiệp nông thôn, cơ chế này đã có
nhiều thay đổi phù hợp hơn với hoạt động tín dụng của ngân hàng và khách
hàng.
20
Qua tình hình thực tế thì Quyết định số 67 sau khi vào thực hiện được một
thời gian đã làm cho tín dụng trong nông thôn tăng lên đáng kể, số hộ nông dân
vay vốn để phát triển sản xuất tăng lên. Ngoài ra, Quyết định số 148/1999/QĐ-
TTg của Thủ tướng Chính phủ ký ngày 7/7/1999 cho phép thay đổi giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất bằng xác nhận của chính quyền địa phương về việc đang
sử dụng đất trong sản xuất kinh doanh tại địa phương đối với trường hợp có nhu
cầu vay vốn đến 10 triệu đồng nhưng chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất thế chấp với ngân hàng để vay vốn phát triển sản xuất.
Nghị quyết liên tịch số 2308/NQLT- 1999 giữa Trung ương Hội nông dân
Việt Nam và Ngân hàng NN & PTNT ngày 9/10/1999 về tổ chức thực hiện chính
sách tín dụng ngân hàng phục vụ cho phát triển nông nghiệp nông thôn. Qua đây
hội nông dân các cấp kết hợp với Ngân hàng NN & PTNT các cấp để cho các hộ
nông dân vay vốn phát triển sản xuất, với quy định các hộ nông dân vay dưới 10
triệu đồng phải được sự bảo lãnh của Hội nông dân tại cơ sở đó và với điều kiện
người đứng tên vay là thành viên của hội thì không cần thế chấp tài sản với ngân
hàng và Hội nông dân sẽ đứng ra gánh một phần trách nhiệm cùng với Ngân
hàng NN & PTNT trong việc đầu tư và phát triển sản xuất, phát triển nông
nghiệp nông thôn trong giai đoạn hiện nay.
Quyết định số 718/2001/QĐ - NHNN ngày 29/5/2001 của Thống đốc ngân
hàng về việc thực hiện cơ chế cho vay theo lãi thoả thuận giữa tổ chức tín dụng
và khách hàng bằng ngoại tệ. Quyết định số 1627/2001/QĐ - NHNN ngày
31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về việc thực hiện cơ
chế lãi suất cho vay thoả thuận bằng đồng Việt Nam của tổ chức tín dụng đối với
khách hàng. Cùng với các quy chế, cơ chế đã đổi mới trước đó, văn bản trên đã
tạo khung pháp lý mới thuận lợi hơn cho hoạt động tín dụng nói chung và tín
21
dụng nông thôn nói riêng làm cho hoạt động mang tính thị trường hơn. Nhờ vậy,
quyền tự do kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật, tự quyết và chịu trách nhiệm
của ngân hàng và của khách hàng cũng như quan hệ giữa ngân hàng và khách
hàng được cải thiện đáng kể. Thông qua hoạt động, hệ thống ngân hàng đã cố
gắng huy động vốn và đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư, góp phần tích cực vào phát
triển kinh tế nông thôn với nhiều thành quả quan trọng. Dư nợ cho vay khu vực
này luôn chiếm khoảng 30% tổng dư nợ cho vay kinh tế. Vốn tín dụng ngân
hàng đã được sử dụng hiệu quả, góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy nông
nghiệp nông thôn phát triển đảm bảo an ninh lương thực, từng bước tăng kim
ngạch xuất khẩu, góp phần tăng trưởng kinh tế ổn định.
Ngày 28/6/2002 có Quyết định số 687/2002/QĐ - NHNN của Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước về việc công bố lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam.
Ngày 4/7/2002 có Quyết định số 700/2002/QĐ - NHNN của Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước về việc gửi tiền dự trữ bắt buộc bằng đồng Việt Nam đối
với các tổ chức tín dụng tham gia thanh toán điện tử ngân hàng.
Ngày 17/7/2002 có Quyết định số 742/2002/QĐ - NHNN của Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước về việc ban hành quyết định uỷ thác và nhận uỷ thác cho
vay vốn của tổ chức tín dụng.
Ngày 3/7/2002 có Thông tư số 4/2002/TT – NHNN của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam: hướng dẫn việc thực hiện giảm lãi suất cho vay của Ngân hàng
Thương mại Nhà nước đối với thương nhân khu vực II, III miền núi, hải đảo và
vùng đồng bào dân tộc theo Quyết định số 2/2002/NĐ- CP ngày 3/1/2002 của
Chính phủ.
Ngày 29/7/2002 có Quyết định số 798/2002/QĐ - NHNN của Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước: về việc giảm 30% lãi suất cho vay của Ngân hàng thương
22
mại Nhà nước đối với khách hàng vay thuộc phạm vi chương trình các xã đặc
biệt khó khăn ở các tỉnh Gia Lai, Kon Tum, Lâm Đồng, Đắc Lắc.
Ngày 2/8/2002 có Thông tư số 65/2002/TT – BTC của Bộ tài chính:
hướng dẫn cấp chênh lệch lãi suất cho các ngành thương mại nhà nước khi thực
hiện nhiệm vụ cho thương nhân vay dự trữ, bán lẻ các mặt hàng thiết yếu và mua
nông, lâm sản tại khu vực II, III miền núi hải đảo và vùng đồng bào dân tộc.
Ngày 4/10/2002 có nghị định số 78/2002/NĐ - CP của Chính phủ về tín
dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác.
Những chính sách trên đã tạo một bản lề cho các tổ chức tín dụng hoạt
động, đồng thời mở rộng được quy mô tín dụng nông thôn, giúp phát triển kinh
tế nông thôn.
2.5. Tình hình tín dụng trong nông nghiệp nông thôn ở một số nước trên thế
giới và Việt Nam
2.5.1. Tình hình tín dụng trong nông nghiệp nông thôn ở một số nước
2.5.1.1. Tín dụng nông nghiệp nông thôn ở Nhật Bản
Ngay sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, Chính phủ Nhật Bản đã khuyến
khích mạnh mẽ phát triển nông nghiệp bằng việc thành lập Ngân hàng cầm đồ
thế nợ bất động sản (Ngân hàng Hypoche) và những Ngân hàng công – nông
nghiệp ở địa phương. Đến nay, những tổ chức này đã được thay thế bằng các tổ
hợp tài chính nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản (AFFFC). Các tổ hợp này đã
cung cấp tiền vay cho nông nghiệp với một số lượng lớn, lãi suất thấp và dài hạn
để đầu tư cho việc hình thành vốn cố định trong hộ nông dân và các trang trại
nông nghiệp. Các AFFFC cung cấp tiền vay chủ yếu thông qua các HTX nông
23
nghiệp. Có tới 60% số dư nợ của tổ hợp này là qua ngân hàng HTX trung tâm
nông nghiệp, lâm nghiệp.
Từ đầu năm 1960, Chính phủ Nhật Bản đã có chương trình cho vay nông
nghiệp (GPALs) để tăng đầu tư cơ bản cho nông nghiệp. Nguồn vốn của những
chương trình này là từ Nhà nước và tư nhân thông qua các HTX nông nghiệp. Số
lượng GPALs ngày càng tăng qua các năm, số lượng tiền vay cũng ngày tăng
lên, từ 156 tỷ yên năm 1965 lên đến 693 tỷ yên năm 1984. Trong tổng số tiền
vay này, hơn 80% dùng cho tăng đất đai, hiện đại hoá hoạt động trang trại và cơ
giới hoá nông nghiệp. Chương trình cho vay nông nghiệp của Chính phủ Nhật
Bản hiện nay được cho là khá hoàn hảo.
2.5.1.2. Tín dụng nông nghiệp và nông thôn ở Thái Lan
Tín dụng nông nghiệp Thái Lan gồm 3 loại:
- Tín dụng ngắn hạn (thời gian từ 6 – 12 tháng) cung cấp tín dụng cho
những chi phí hoạt động nông nghiệp trong một vụ.
- Tín dụng trung hạn (thời gian cho vay từ trên 1 năm đến 5 năm) cung cấp
cho việc mua trang thiết bị sản xuất.
- Tín dụng dài hạn (thời gian vay từ 5 năm đến 30 năm) cung cấp cho việc
đầu tư những tài sản lớn của trang trại.
Hầu hết những tổ chức chính thống ở Thái Lan cung cấp tín dụng ngắn
hạn và trung hạn, chỉ có một số tổ chức tín dụng chính thống đã được đăng ký
với Nhà nước thì mới cung cấp tín dụng dài hạn.
Tổ chức tín dụng chính thống lớn nhất chuyên cung cấp tín dụng cho nông
nghiệp và nông dân Thái Lan là BAAC. Ngân hàng này được thành lập từ cuối
năm 1966, dến nay đã có 657 chi nhánh và 850 văn phòng trải rộng khắp khu
vực nông thôn. BAAC là ngân hàng của chính phủ Thái Lan, 99,7% nguồn vốn
24
của BAAC là từ Bộ Tài chính. Hiện nay ngân hàng này cung cấp tín dụng cho
nông dân với lãi suất là 13%/năm bằng hai cách: thông qua HTX tín dụng nông
nghiệp trực tiếp cho những nông dân cá thể không phải là thành viên của HTX
tín dụng.
Tổ chức tín dụng chính thống thứ hai cung cấp một phần tín dụng cho nông
nghiệp là hệ thống các ngân hàng thương mại. Trong hệ thống này bao gồm:
Ngân hàng Băng-Cốc, ngân hàng Ayudhya, ngân hàng nông dân Thái Lan. Nhìn
chung cách thức cho nông dân vay vốn của các ngân hàng này là: cho vay có tài
sản thế chấp đối với nông dân cá thể và cho vay không thế chấp (tín chấp) đối
với nhóm hộ nông dân.
Ngân hàng Nhà nước Thái Lan là một ngân hàng quốc gia. Ngân hàng này
có vai trò quan trọng trong việc cung cấp tín dụng cho khu vực nông nghiệp. Tín
dụng nông nghiệp từ nguồn này chủ yếu là từ lãi suất thấp nhằm hỗ trợ cho sản
xuất nông nghiệp.
Nông dân Thái Lan vay vốn từ các tổ chức tín dụng trên bằng nhiều cách
khác nhau. Những nông dân giàu có, có tài sản thế chấp có thể vay trực tiếp tại
các tổ chức tín dụng chính thống họ muốn. Những nông dân nghèo, không có tài
sản thế chấp có thể vay vốn của các tổ chức tín dụng chính thống một cách gián
tiếp bằng cách tham gia các HTX, các hiệp hội các nhóm hộ nông dân.
2.5.2. Tín dụng nông nghiệp và nông thôn ở Việt Nam
Việt Nam là một nước nông nghiệp. Nông thôn Việt Nam tập trung
khoảng 70% dân số, trên 50% lao động nhưng đời sống của đa số nông dân còn
khó khăn, cơ sở hạ tầng kém phát triển. Đảng và Nhà nước đã ban hành hàng
loạt chính sách nhằm hỗ trợ cho sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn.
Trong đó chính sách đầu tư tín dụng nhằm cung cấp vốn, hỗ trợ vốn cho nông
25