Tải bản đầy đủ (.pdf) (128 trang)

Tìm hiểu di tích chùa đồng bụt(thôn đồng bụt, xã ngọc liệp, huyện quốc oai, tp hà nội)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4 MB, 128 trang )

1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI

KHOA DI SẢN VĂN HĨA

NGUYỄN THỊ CẢI

TÌM HIỂU DI TÍCH CHÙA ĐỒNG BỤT
(XÃ NGỌC LIỆP, HUYỆN QUỐC OAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
NGÀNH BẢO TÀNG HỌC
Mã số: 52 32 03 05

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ MINH LÝ

HÀ NỘI - 2014


2
MỤC LỤC
Trang
MỤC LỤC

1

LỜI CẢM ƠN

3

MỞ ĐẦU



4

Chương 1. CHÙA ĐỒNG BỤT TRONG DIỄN TRÌNH LỊCH SỬ

9

1.1. Tổng quan về xã Ngọc Liệp

9

1.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên

9

1.1.2. Lịch sử thay đổi địa giới và tên gọi của xã Ngọc Liệp

11

1.1.3. Đặc điểm cư dân

13

1.1.4. Đặc điểm kinh tế

14

1.1.5. Đặc điểm về lịch sử văn hóa

18


1.2. Lịch sử hình thành và quá trình tồn tại của chùa Đồng Bụt

24

1.2.1. Lịch sử hình thành và tồn tại của di tích chùa Đồng Bụt

24

1.2.2. Chùa Đồng Bụt trong hệ thống các di tích thờ thánh Từ

26

Đạo Hạnh ở Thành phố Hà Nội
1.3. Lễ hội chùa Đồng Bụt

31

1.3.1. Thời gian và lịch lễ hội

31

1.3.2. Cơng việc chuẩn bị

32

1.3.3. Diễn trình lễ hội

34


Chương 2. GIÁ TRỊ KIẾN TRÚC, NGHỆ THUẬT CHÙA

37

ĐỒNG BỤT
2.1. Giá trị kiến trúc

37

2.1.1. Không gian cảnh quan

37

2.1.2. Bố cục mặt bằng tổng thể

39

2.1.3. Kết cấu kiến trúc

40

2.2. Giá trị nghệ thuật

45


3
2.2.1. Trang trí trên kiến trúc

45


2.2.2. Các di vật tiêu biểu

48

2.3. Nghệ thuật điêu khắc tượng thờ

53

2.3.1. Tượng thờ ở Thượng điện

53

2.3.2. Tượng thờ ở Tiền đường

67

2.3.3. Tượng thờ ở Cung Thánh

71

2.3.4. Tượng ở nhà Mẫu

72

2.3.5. Tượng ở nhà Tổ

73

2.3.6. Tượng thờ ở các đơn nguyên khác


73

Chương 3. BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH CHÙA

75

ĐỒNG BỤT TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
3.1. Thực trạng di tích và di vật

75

3.1.1. Thực trạng di tích

75

3.1.2. Thực trạng di vật

76

3.2. Một số giải pháp nhằm bảo tồn di tích chùa Đồng Bụt

78

3.2.1. Cơ sở pháp lý cho việc bảo tồn

78

3.2.2. Các nguyên tắc bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích


80

3.2.3. Giải pháp bảo tồn

81

3.3. Vấn đề tơn tạo di tích

89

3.4. Giải pháp phát huy

90

3.5. Vai trị của ngơi chùa Đồng Bụt trong đời sống của cộng đồng

94

cư dân nơi đây
KẾT LUẬN

96

TÀI LIỆU THAM KHẢO

98

PHỤ LỤC

101



4
LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành Khóa luận tốt nghiệp đại học, ngành bảo tàng học với đề
tài: “TÌM HIỂU GIÁ TRỊ CHÙA ĐỒNG BỤT (thôn Đồng Bụt, xã Ngọc
Liệp, huyện Quốc Oai, Tp Hà Nội)”, ngoài vốn kiến thức hiểu biết trên thực
tế cũng như sự cố gắng của bản thân, em còn nhận được sự giúp đỡ chỉ bảo
tận tình của giảng viên hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Minh Lý, cùng
các thầy cô trong khoa Di sản Văn hóa.
Trong q trình khảo sát thực tế, em cũng nhận được sự giúp đỡ của
cán bộ chuyên trách của Phịng Văn hóa - Thơng tin huyện Quốc Oai, tiểu
Ban quản lý di tích thơn và sư thầy trụ trì tại chùa Đồng Bụt đã tạo mọi điêu
kiện thuận lợi, cung cấp tài liệu để em có thể hồn thành bài nghiên cứu khoa
học này.
Qua bài khóa luận này, em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới
cô Nguyễn Thị Minh Lý cùng các thầy cô trong khoa Di sản Văn hóa và các
cơ quan ban ngành nơi di tích tồn tại đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong thời
gian qua.
Mặc dù bản thân em đã hết sức cố gắng để hồn thành tốt bài khóa luận
này nhưng do trình độ lý luận và cơ sở thực tiễn của em cịn hạn chế, nên kính
mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các nhà nghiên cứu, thầy cơ và các
bạn để em có thể hồn thiện kiến thức hơn trong thời gian tới.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 31 tháng 05 năm 2014
Tác giả khóa luận

Sinh viên Nguyễn Thị Cải



5
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trên chặng đường phát triển của lịch sử dân tộc, các thế hệ đi trước đã
để lại cho đời sau một kho tàng di sản văn hóa phong phú, đa dạng trong đó
có hệ thống di tích lịch sử văn hóa.
Di tích lịch sử văn hóa khơng chỉ là các địa điểm, các cơng trình mà
cịn bao gồm cả các đồ vật, di vật có liên quan đến các nhân vật, sự kiện lịch
sử, các hoạt động văn hóa xã hội thuộc về cá nhân hay cộng đồng cư dân trên
một địa bàn cụ thể. Chúng là nơi kết tinh, lưu giữ các giá trị lịch sử, huyền
thoại của mảnh đất và con người nơi nó sinh ra và tồn tại. Cố GS Trần Văn
Giàu đã nói rằng: “Theo quy luật của thời gian, quá khứ sẽ được chắt lọc và
kết tinh thành những giá trị vĩnh cửu”. Do vậy, di tích lịch sử văn hóa là nơi
tơn vinh những giá trị văn hóa của quá khứ được các thế hệ cha ông xây dựng,
gìn giữ và trao truyền cho các thế hệ sau, là tấm gương phản chiếu lịch sử dân
tộc. Theo dòng chảy thời gian, các di tích lịch sử văn hóa ngày càng kết tinh
được những giá trị đặc sắc trở thành kho tàng di sản văn hóa đặc biệt q giá
của mỗi dân tộc.
Trong số các di tích lịch sử văn hóa, di tích kiến trúc nghệ thuật chiếm
một số lượng đáng kể, đặc biệt là kiến trúc chùa - Một loại hình di tích khơng
thể thiếu trong đời sống tâm linh của người Việt.
Tuy nhiên hiện nay do nhiều nguyên nhân khác nhau nên một bộ phận
không nhỏ các di tích đang ngày càng xuống cấp, hư hỏng gây ảnh hưởng trực
tiếp đến bản sắc văn hóa dân tộc. Do đó, việc tìm hiểu nghiên cứu để đưa ra
các giải pháp bảo tồn phát huy giá trị của di tích ln là vấn đề cấp thiết đặt ra.
Trên vùng đất xứ Đồi xưa, chùa Đồng Bụt (có tên chữ là Thiền Sư tự)
là một di tích kiến trúc nghệ thuật quan trong của xã Ngọc Liệp, huyện Quốc
Oai và của thành phố Hà Nội. Đây là ngôi chùa cổ có niên đại sớm của địa
phương, là một cơng trình kiến trúc Phật giáo được xây dựng từ thời Trần.



6
Chùa hiện còn lưu giữ được kiểu dáng kiến trúc cổ mang phong cách nghệ
thuật độc đáo. Với trí sáng tạo phong phú, các nghệ nhân dân gian đă tạo nên ngôi
chùa này mà cho đến ngày nay vẫn là niềm tự hào của mỗi người dân làng Đồng
Bụt.
Hiện nay do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan nên việc đi sâu
nghiên cứu chùa Đồng Bụt một cách cụ thể, chi tiết và hệ thống vẫn chưa được
quan tâm sâu sắc. Xuất phát từ sự say mê tìm hiểu các di tích lịch sử văn hóa,
di sản văn hóa của địa phương và mong muốn được tìm hiểu tồn diện và đầy
đủ hơn về ngôi chùa này, nên em quyết định chọn đề tài “Tìm hiểu di tích
chùa Đồng Bụt (thôn Đồng Bụt, xã Ngọc Liệp, huyện Quốc Oai, Tp.Hà
Nội)” làm khoá luận tốt nghiệp Đại học, ngành Bảo tàng học, khóa học 2010 2014 tại Trường Đại học Văn hóa Hà Nội.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Ngơi chùa là một hình ảnh quen thuộc trong bức tranh về làng quê Việt
Nam xưa và nay, nó có ảnh hưởng không nhỏ trong đời sống tâm linh của con
người. Bởi vậy, ngơi chùa Việt nói chung và chùa Đồng Bụt nói riêng từ lâu
đã là đối tượng được một số nhà nghiên cứu quan tâm dưới nhiều góc độ khác
nhau, cụ thể như sau:
Cuốn “Di tích Hà Tây” [24,tr.459-461] do Sở Văn hóa - Thơng tin Hà
Tây (cũ) chủ biên, đây là cơng trình nghiên cứu khá cơng phu, có tính hệ
thống về những di tích tiêu biểu của tỉnh Hà Tây (cũ). Cuốn sách đã viết về hệ
thống di tích huyện Quốc Oai từ trang 448 đến trang 489, trong đó cuốn sách
có dành 03 trang (từ trang 459 đến trang 461) để giới thiệu khái quát về di
tích chùa Đồng Bụt về các mặt: Niên đại, nhân vật phụng thờ, đặc điểm kiến
trúc, những nét tiêu biểu về lễ hội. Xác định rằng, đây là một ngôi chùa có
nhiều dấu hiệu quan tâm của các nhà nghiên cứu lịch sử văn hóa.
Cuốn “Lý lịch khoa học di tích chùa Đồng Bụt” [23,tr.1-10] do Sở Văn
hóa - Thơng tin Hà Tây (cũ) thực hiện. Đây là tài liệu có tính khoa học, bước
đầu đánh giá trị của di tích chùa Đồng Bụt về: đường đến di tích, lịch sử hình



7
thành, nguồn gốc và tên gọi, giá trị kiến trúc, tư liệu Hán Nôm, các di vật cổ
vật, … để phục vụ cho cơng tác xếp hạng di tích và bảo tồn. Tuy nhiên, đây là
nguồn tư liệu quý, có giá trị khoa học làm tiền đề cho những công trình
nghiên cứu sâu và tồn diện hơn.
Cuốn “Lễ hội Việt Nam” [31,tr.574-577], tác giả Lê Trung Vũ - Lê
Hồng Lý đồng chủ biên, khi viết về các lễ hội của Hà Tây (cũ) có ghi chép về
lễ hội chùa Đồng Bụt từ trang 574 đến trang 577 với các thông tin như: Tên di
tích, nhân vật phụng, ngày tổ chức lễ hội, lễ rước, trò chơi trò diễn…
Cuốn “Lịch sử cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Ngọc Liệp” [12,
tr.7-11] xuất bản năm 2013, trong phần giới thiệu truyền thống văn hố, có
nói đến chùa Đồng Bụt một trong những cơng trình kiến trúc tiêu biểu và
danh thắng nổi tiếng của địa phương.
Nhìn chung, những tập hợp và phân tích bước đầu cho thấy cho đến
nay chùa Đồng Bụt đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu ở những khía
cạnh khác nhau. Do đó, việc nghiên cứu sâu rộng về các giá trị của di tích là
vấn đề đặt ra hiện nay. Trên cơ sở những nghiên cứu đã có của các tác giả đi
trước, tác giả khóa luận sẽ tham khảo và coi đó là ý kiến gợi mở quý báu để
tiếp tục triển khai nghiên cứu trong đề tài khóa luận của mình.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Khóa luận tập trung nghiên cứu giá trị di tích
chùa Đồng Bụt (thôn Đồng Bụt, xã Ngọc Liệp, huyện Quốc Oai, Tp Hà Nội).
3.2. Phạm vi nghiên cứu
3.2.1. Phạm vi không gian nghiên cứu: Nghiên cứu khơng gian văn
hóa của thơn Đồng Bụt, xã Ngọc Liệp, huyện Quốc Oai, Tp Hà Nội - nơi tồn
tại của ngôi chùa.
3.2.2. Phạm vi thời gian nghiên cứu: Nghiên cứu giá trị hiện tồn của
di tích chùa Đồng Bụt và các thơng tin giá trị của di tích được lưu giữ trong

quá khứ.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu


8
4.1. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu về giá trị kiến trúc - nghệ thuật, di vật tiêu biểu và lễ hội của di
tích chùa Đồng Bụt (thơn Đồng Bụt, xã Ngọc Liệp, huyện Quốc Oai, Tp Hà Nội).
Trên cơ sở các giá tị đó, đề xuất các giải pháp phát huy giá trị của ngôi chùa
đối với cuộc sống văn hóa của nhân dân trong vùng.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tập hợp và phân tích những cơng trình, tài liệu nghiên cứu đi trước
của các tác giả.
- Nghiên cứu tổng quan về vùng đất, con người xã Ngọc Liệp từ đó làm
cơ sở nghiên cứu di tích chùa Đồng Bụt.
- Căn cứ vào các tài liệu biên chép để xác định niên đại xây dựng và
những lần trùng tu, sửa chữa của ngôi chùa.
- Nghiên cứu giá trị kiến trúc - nghệ thuật, di vật, cổ vật, lễ hội của di
tích chùa Đồng Bụt.
- Nghiên cứu thực trạng di tích và di vật. Trên cơ sở đó đưa ra giải pháp
bảo tồn và phát huy giá trị di tích chùa Đồng Bụt trong giai đoạn hiện nay.
- Đánh giá vai trị của di tích trong đời sống văn hóa cộng đồng cư dân
nơi di tích tồn tại.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Dựa trên quan điểm lịch sử cụ thể và biện chứng
của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh để nghiên cứu đối
tượng của khóa luận - đó là giá trị của ngơi chùa.
- Phương pháp nghiên cứu liên nghành văn hóa: Lịch sử, bảo tàng học,
dân tộc học, mỹ thuật học, văn hóa dân gian, xã hội học...
- Ngồi ra cịn sử dụng một số phương pháp: thống kê, so sánh, phân

tích, tổng hợp…
- Phương pháp khảo sát điền dã tại di tích và sử dụng các kỹ năng: quan
sát, mơ tả, đo, vẽ, chụp ảnh, phỏng vấn trao đổi thông tin...
6. Đóng góp của khóa luận


9
Trên cơ sở kế thừa những thành quả của người đi trước, kết hợp với việc
nghiên cứu, khảo sát tại di tích, khóa luận bước đầu có những đóng góp như sau:
- Là một cơng trình nghiên cứu tồn diện và hệ thống về chùa Đồng Bụt,
bước đầu nghiên cứu giá trị kiến trúc và điêu khắc của di tích chùa Đồng Bụt.
- Đề xuất một số giải pháp để bảo tồn và phát huy giá trị của di tích.
- Khóa luận sẽ trở thành tài liệu tham khảo có ích đối với cán bộ văn hóa cơ
sở, đây là một trong những danh thắng của huyện Quốc Oai, Thành phố Hà Nội.
7. Bố cục của khóa luận
- Ngồi phần Mở đầu (05 trang), Kết luận (02 trang), Danh mục tài liệu
tham khảo (03 trang), Phụ lục (27 trang), khóa luận được chia thành 03 chương:
Chương 1: Chùa Đồng Bụt trong diễn trình lịch sử (28 trang)
Chương 2: Giá trị kiến trúc - nghệ thuật và lễ hội chùa Đồng Bụt (38 trang)
Chương 3: Bảo tồn và phát huy giá trị di tích chùa Đồng Bụt trong giai
đoạn hiện nay (21 trang)


10
Chương 1
CHÙA ĐỒNG BỤT TRONG DIỄN TRÌNH LỊCH SỬ
1.1. TỔNG QUAN VỀ XÃ NGỌC LIỆP
1.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
1.1.1.1. Vị trí địa lý
Ngọc Liệp là vùng đất có lịch sử lâu đời, giàu truyền thống cách mạng

và có nhiều đóng góp từ thời dựng nước và giữ nước. Ngọc Liệp là một trong
21 xã, thị trấn của huyện Quốc Oai, Thành phố Hà Nội. Trung tâm xã cách
trung tâm huyện Quốc Oai 4,5km về phía Tây Bắc, cách trung tâm Thủ đô Hà
Nội 25km về phía Tây. Xã có vị trí địa lý khá tốt, thuận lợi cho việc giao lưu
với các vùng lân cận: Phía Đơng giáp xã Ngọc Mỹ; Phía Tây giáp xã Đồng
Trúc (huyện Thạch Thất); Phía Nam giáp xã Liệp Tuyết, xã Tuyết Nghĩa;
Phía Bắc giáp xã Cần Kiệm và xã Bình Phú (Thạch Thất). Ngọc Liệp là xã
giáp ranh giữa vùng đồng bằng và vùng bán sơn địa của huyện Quốc Oai,
nằm giữa ba phịng tuyến bảo vệ Thủ đơ (đường 2A, phịng tuyến sơng Tích,
phịng tuyến sơng Đáy). Do vậy, xã có vị trí quan trọng về chính trị và quân
sự. Nếu Quốc Oai là hàng rào phía Tây của Thủ đơ Hà Nội thì Ngọc Liệp là
hàng rào phía Tây trực tiếp của huyện.
1.1.1.2. Điều kiện tự nhiên
* Về địa hình:
Bị chia cắt bởi sơng Tích nên địa hình của Ngọc Liệp từ xưa đã chia
thành hai vùng tự nhiên rõ rệt: Phía Tây là vùng nửa đồi núi với những gị
đống mấp mơ, đất đai cằn cỗi, quanh năm "đồng khơ cỏ cháy", bên những đồi
gị cũng là những cánh đồng chiêm trũng. Với địa hình như trên, người dân
Ngọc Liệp luôn phải sống trong cảnh ngập nước, khó khăn "sống ngâm da,
chết ngâm xương".
* Về diện tích:
Tổng diện tích đất tự nhiên của Ngọc Liệp là 611,39 ha, trong đó, đất
sản xuất nơng ngiệp 306,6 ha (đất trồng lúa 301,49 ha, đất nuôi trồng thủy sản


11
5,11 ha); đất phi nông nghiệp 291,54 ha (đất ở nông thôn 46,57 ha, đất chuyên
dùng 200,96 ha, đất tôn giáo 0,58 ha, đất nghĩa địa 2,92 ha, đất ao hồ 40,51
ha); đất chưa sử dụng 13,25 ha. Thành phần đất chủ yếu là đất nâu vàng trên
phù sa cổ. Xã Ngọc Liệp có diện tích đất khá rộng so với các xã lân cận. Vì

vậy, sản xuất nơng nghiệp ln được Đảng ủy, chính quyền quan tâm, đầu tư
phát triển.
* Về khí hậu:
Khí hậu Ngọc Liệp có tính chất nhiệt đới gió mùa, có 4 mùa: Xuân ấm, Hạ - nóng, Thu - mát, Đơng - lạnh rất rõ rệt. Nhiệt độ cao nhất 30 - 40oC
(vào tháng 6 - 7), thấp nhất 8 - 10oC (vào tháng 1 - 2). Lượng mưa trung bình
năm là 1.500 - 1.700 mm. Tuy nhiên từ năm 2000, do ảnh hưởng của biến đổi
khí hậu, trong đó rõ nhất là hiện tượng trái đất nóng lên, tình hình khí hậu
nước ta và đồng bằng Bắc Bộ có nhiều thay đổi bất thường, khơng tn theo
quy luật gây nhiều thiệt hại, khó khăn cho sản xuất và đời sống của nhân dân
trong xã. Có thể nói đặc trưng về thời tiết và khí hậu đã ảnh hưởng trực tiếp
đến đời sống sản xuất và sinh hoạt văn hóa của cộng đồng cư dân nông
nghiệp nơi đây.
* Về nguồn nước:
Nguốn nước ở Ngọc Liệp phong phú và dồi dào với hệ thống sông,
đầm, ao, kênh, mương và nguồn nước ngầm. Trong đó, lưu lượng nước của
dịng sơng Tích là nguồn cung cấp nước lớn có ý nghĩa quan trọng cho sản
xuất nơng nghiệp. Sơng Tích bắt nguồn từ huyện Ba Vì, chảy qua thơn Ngọc
Bài, đi sát ven làng, rồi lượn vòng rộng ở đoạn Liệp Mai, rồi xi đến Thơng
Đạt. Sơng tích vừa cung cấp nguồn nước tưới cho sản xuất nông nghiệp, vừa
là đường giao thông thủy quan trọng cho Ngọc Liệp và nhiều xã khác trong
vùng. Vào mùa nước lớn có thể vận chuyển bằng thuyền thúng và đò ngang.
Tuy nhiên, sơng Tích cũng gây ra nhiều khó khăn đối với sản xuất và đi lại
của nhân dân trong xã. Hàng năm, vào mùa nước lớn, những cơn lũ xuôi, lũ
ngang, lũ lùi của nước sơng Tích lên cao gây úng lụt đồng ruộng hai bên bờ


12
sông và ngập úng vào trong làng, việc đi lại qua sơng càng khó khăn do bờ xa,
sóng lớn. Trước đây, hầu như năm nào trong xã cũng có người chết đuối tại
đoạn sơng này.

Nằm giữa ba phịng tuyến bảo vệ Thủ đơ, Ngọc Liệp có nhiều thuận lợi
nhất định về giao thơng. Xã có trục đường Đại Lộ Thăng Long chạy qua với
tổng chiều dài 4,2km và hệ thống đê tả Tích dài 1,5km đã được bê tơng hóa.
Đường liên xã Ngọc Liệp - Liệp Tuyết và đường trục xã dài 5,262km, trục
đường thơn và đường ngõ xóm dài 10,980km. Những thuận lợi về giao thơng đã
góp phần thúc đẩy giao thương, kinh tế - xã hội quê hương ngày càng phát triển.
1.1.2. Lịch sử thay đổi địa giới và tên gọi của xã Ngọc Liệp
Ngọc Liệp là vùng đất cổ, có lịch sử hình thành và phát triển hàng
nghìn năm. Qua thời gian, xã có nhiều thay đổi về tên gọi và đơn vị hành
chính; cùng với đó là những thay đổi, phát triển về kinh tế - xã hội. Theo các
ngọc phả, thần phả và tộc phả, xã Ngọc Liệp là nơi sớm có cư dân sinh sống,
nằm trong địa bàn cư trú của người Việt cổ.
Theo truyền thuyết và thần phả thôn Ngọc Bài, thời Hùng Vương thứ
18, Duệ vương Nguyễn Tuấn (Tản Viên) dẫn quân đi đánh giặc, qua đất Mão
Sơn bên bờ sơng Tích (nay là gị Miễu, thơn Ngọc Bài), qn tướng nghỉ lại
qua đêm, được nhân dân giúp đỡ và thổ thần báo mộng tiếp binh ứng khí
thắng trận. Khi thắng trận trở về, ông đã sắc phong và cho làng lập đền thơ
ông. Đến thời Lý - Trần, địa bàn Ngọc Liệp đã hình thành được hai trại (Cổ
Sư trại và Liệp Hạ trại), bốn trang (Cổ Sư trang, Ngọc Bài trang, Ngọc Phúc
trang và Đồng Bụt trang thuộc Liệp Hạ trại). Những tên gọi đó đến bây giờ
vẫn cịn giữ nguyên hoặc làm tên gốc cho các thôn trong xã. Từ thế kỷ X đến
thế kỷ XIX, Ngọc Liệp lần lượt trực thuộc các đơn vị hành chính khác nhau.
Từ năm 1428 - 1466, Ngọc Liệp trực thuộc huyện Ninh Sơn - Quốc Oai
Thượng. Từ năm 1466 - 1467, trực thuộc huyện Ninh Sơn - Quốc Oai Thừa
Tuyên. Từ năm 1467 - 1533, thuộc huyện Ninh Sơn - Phủ Quốc Oai. Từ năm
1533 - 1788, trực thuộc huyện Yên Sơn - Phủ Quốc Oai. Từ năm 1802 - 1888,


13
Ngọc Liệp trực thuộc tổng Lạp Thượng (gồm 3 xã: Lạp Thượng, Phục Lạp và

Lạp Hạ). Đầu thế kỷ XIX, dưới triều vua Gia Long (1802 - 1820), đổi Thừa
tuyên thành Trấn và chia Ngọc Liệp làm ba xã: Liệp Mai, Ngọc Bài và Phục
Liệp (gồm Ngọc Phúc và Đồng Bụt).
Do phân chia lại địa giới hành chính và đổi tên các tổng, sang đầu thế
kỷ XX (từ năm 1908 đến năm 1938), Ngọc Liệp trực thuộc tổng Lạp Mai
(gồm 4 xã: Lạp Mai, Lạp Tuyết, Ngọc Bài và Phục Lạp), huyện Yên Sơn, phủ
Quốc Oai. Từ năm 1941 - 1945, tổng Lạp Mai chuyển thành tổng Liệp Mai
gồm 4 xã: Liệp Mai xã (làng Sưa); Ngọc Bài xã; Phục Liệp xã gồm hai thôn
Ngọc Phúc và Đồng Bụt, (Ngọc Phúc trước kia có tên gọi là Đồng Khanh,
Đồng Bụt có tên gọi trước kia là Đồng Phật) và Liệp Tuyết xã gồm 6 thôn:
Đại Phu, Vĩnh Phúc, Thông Đạt, Đông Sơn, Bái Nội, Bái Ngoại.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa được thành lập. Đầu năm 1946, Chính phủ ra Nghị định bỏ cấp
tổng, đơn vị xã trước đây trở thành thôn, từ 4 đến 7 thôn (tức xã cũ) hợp lại
thành một xã mới, do đó, 3 xã cũ Liệp Mai, Ngọc Bài và Phục Liệp sát nhập
thành xã Ngọc Liệp. Ngày 21 tháng 4 năm 1965, Quốc Oai trở thành một
trong các huyện của tỉnh Hà Tây. Từ đó, Ngọc Liệp là một đơn vị hành chính
thuộc huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây. Năm 1976, Quốc hội khóa VI, kỳ họp
thứ 4 quyết định sát nhập hai tỉnh Hà Tây và Hịa Bình thành tỉnh Hà Sơn
Bình, Ngọc Liệp là một xã thuộc tỉnh Hà Sơn Bình. Ngày 12 tháng 8 năm
1991, Quốc hội khóa VIII, kỳ họp thứ 9 quyết định chia tỉnh Hà Sơn Bình
thành hai tỉnh Hà Tây và Hịa Bình, chuyển trả Quốc Oai về Hà Tây. Từ đó,
Ngọc Liệp là đơn vị hành chính thuộc huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây. Ngày 29
tháng 5 năm 2008, tại kỳ họp thứ 3 quốc hội khóa VII thông qua nghị quyết
số 15/2008/QH12 về việc điều chỉnh địa giới hành chính thành phố Hà Nội và
một số tỉnh liên quan, trong đó, tồn bộ tỉnh Hà Tây hợp nhất vào Hà Nội. Từ
ngày 1 tháng 8 năm 2008, theo Nghị quyết số 15/2008/QH12, Ngọc Liệp là
một xã thuộc huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội. Đến nay, xã ổn định về địa
giới hành chính với bốn làng Đồng Bụt, Liệp Mai, Ngọc Phúc, Ngọc Bài.



14
Riêng đối với làng Đồng Bụt, theo các cụ cao niên trong làng, trước
đây làng được chia thành 02 xóm: Xóm Trong và xóm Trại. Qua thời gian
hiện nay, làng được chia thành 04 xóm: Xóm Trong, xóm Trại, xóm Sậy, xóm
Chín Xào. Chùa Đồng Bụt hiện thuộc địa giới xóm Trong. Theo khu vực địa
hình, trước đây làng được chia thành 04 giáp: Đoài nhất, Thượng nhất, Đồng
nhất, Cường nhất. Sau đó, làng chia thành 08 giáp: Đồi nhất, Đồi nhì,
Thượng nhất, Thượng nhì, Đồng nhất, Đồng nhì, Cường nhất, Cường nhì.
Có thể nói, những thay đổi về đơn vị hành chính của xã Ngọc Liệp
trong suốt chiều dài lịch sử đất nước khá đa dạng, bao gồm sự thay đổi về quy
mơ, địa bàn và tên gọi. Đó là nét đặc thù không chỉ riêng ở xã Ngọc Liệp mà
còn ở nhiều địa phương khác thuộc huyện Quốc Oai. Ngọc Liệp là mảnh đất
giàu truyền thống yêu nước, điều kiện tự nhiên thuận lợi cho sự phát triển nền
nông nghiệp, đa dạng về cây trồng và vật nuôi, cùng với đó nhân dân Ngọc
Liệp từ bao đời nay đã tạo lập cho mảnh đất này một nền văn hóa phong phú,
đa dạng, giàu lịng nhân ái trong tình làng nghĩa xóm, mang đậm bản sắc
riêng. Ngày nay, Đảng Bộ, chính quyền và nhân dân xã Ngọc Liệp ln nỗ
lực phấn đấu xây dựng quê hương giàu đẹp, trở thành lá cờ đầu trong cơng
cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa với mục tiêu: "Dân giàu, nước mạnh,
cơng bằng, dân chủ, văn minh".
1.1.3. Đặc điểm cư dân
Ngọc Liệp có diện tích đất khá rộng so với các xã lân cận, lại có nguồn
lao động dồi dào, người dân cần cù chịu khó, đồn kết, có tinh thần tự giác, tự
vận động trong lao động sản xuất. Trước Cách mạng tháng Tám, xã có trên
2.000 người; đến năm 1985 có 4.782 nhân khẩu; năm 2007 có gần 8.000 nhân
khẩu; theo số liệu thống kê báo cáo dân số xã năm 2010 là 8.150 người.
Trong đó, số người trong độ tuổi lao động là 4.368 người.
Trong làng Đồng Bụt, theo các cụ cao niên trong làng cho biết trước
đây làng có 12 dịng họ, hiện nay dân cư Đồng Bụt có khoảng 20 dịng họ,

trong đó lớn nhất là họ Đỗ, chiếm hơn một nửa dân số trong làng; họ Đinh, họ


15
Nguyễn Dỗn… Các dịng họ sống đan xen với nhau, có mối quan hệ hịa
thuận gắn bó với nhau.
Trong giai đoạn đổi mới hiện nay, đặc biệt là từ sau năm 2008 tỉnh Hà
Tây được sát nhập vào thành phố Hà Nội, nền kinh tế nới đây đã có bước phát
triển rõ rệt: Hàng loạt các nhà máy, xí nghiệp được xây dựng; tốc độ đơ thi hóa
diễn ra mạnh mẽ. Bước phát triển này đã có ảnh hưởng lớn đến tình hình cư
dân nơi đây. Một bộ phận dân cư nơi khác đã về đây sinh cơ lập nghiệp làm
dân số trong vùng tăng lên, thành phần cư dân trong làng, xã đa dạng và phức
tạp hơn khơng cịn thuần nông như trước. Tất cả những yếu tố này đã ảnh
hưởng trực tiếp đến nếp sống sinh hoạt, mỗi quan hệ của cộng đồng làng xã.
Các hoạt động văn hóa thơng tin và thể thao được đầu tư nhằm phục vụ
chính trị, đáp ứng nhu cầu tinh thần, nâng cao dân trí cho người dân, xây
dựng nếp sống văn minh gia đình văn hóa tại địa phương. Hệ thống đài truyền
thanh ở các thôn được lắp đặt đồng bộ, có thời lượng và thời gian phát sóng
hợp lý. Chuyên mục phát sóng chính của đài chủ yếu phổ biến chủ trương,
chính sách của Đảng, Nhà nước và những chuyên đề về việc chỉ đạo thực hiện
các nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Công tác an ninh trật tự - an ninh quốc phòng được đặc biệt chú trọng.
Đảng bộ Ngọc Liệp lấy cơng an làm lực lượng nịng cốt để giữ gìn an ninh
trật tự ở địa phương. Trong những năm qua lực lượng an ninh xã luôn sẵn
sàng có mặt giải quyết những vụ việc xảy ra.
Nguồn lao động dồi dào, vị trí địa lý quan trọng, tiềm năng đất đai và
giao thông thuận lợi là những yếu tố quan trọng để Ngọc Liệp đẩy mạnh phát
triển kinh tế, ổn định đời sống xã hội, hòa nhập và đóng góp vào cơng cuộc
đổi mới đất nước.
1.1.4. Đặc điểm kinh tế

1.1.4.1. Kinh tế nông nghiệp
Từ bao đời nay, Ngọc Liệp vốn là cái "rốn" nước, tuyệt đại bộ phận chỉ
cấy được một vụ lúa chiêm, có năm cấy cũng khơng được thu hoạch. Cũng vì


16
cảnh ngập lụt thường xuyên mà đường làng, ngõ xóm nơi đây quanh năm bùn
lầy, nước đọng "6 tháng đi chân, 6 tháng phải đi bằng tay (đi thuyền)". Người
dân Ngọc Liệp phải sống trong cảnh nghèo đói mỗi mùa nước dâng ngập xóm
làng, đồng ruộng. Từ xa xưa, nơi đây có câu phương ngơn:
"Ai đưa em đến chốn này
Bên kia Đồng Phật, bên này Đồng Khanh".
Và:
"Quê em đồng trắng nước trong
Thóc gạo thì ít, rêu phong thì nhiều".
Hai câu phương ngôn trên đã phần nào cho thấy những nét khó khăn
trong cuộc sống, lao động sản xuất, sự chia cắt của các thôn xã trong mùa nước
lớn. Song cũng chính những khó khăn đó mà từ xưa nhân dân Ngọc Liệp đã có
ý thức cố kết cộng đồng, quyết tâm vượt khó, giúp đỡ nhau trong sản xuất đời
sống, đoàn kết trong đấu tranh chống thiên nhiên và giặc ngoại xâm.
Nằm trong vùng chiêm trũng, trước đây, các gia đình ở Ngọc Liệp đều
có thuyền thúng, từ cụ già đến trẻ em đều biết chèo lái giỏi. Đây không chỉ là
phương tiện, điều kiện để sinh sống, phòng chống lụt bão mà còn phục vụ đắc
lực cho chiến đấu. Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, để phục
vụ cho một trận đánh, huyện ủy Quốc Oai đã giao cho Ngọc Liệp huy động
gấp 200 chiếc thuyền nan và người chở thuyền, chỉ trong vòng 20 phút sau,
nhân dân đã huy động đầy đủ.
Sau cách mạng tháng Tám đến năm 1971, ruộng đất của Ngọc Liệp
phần lớn chỉ sản xuất một vụ lúa chiêm. Từ năm 1971 đến nay, bằng sự cần
cù chịu khó, người dân nơi đây đã xây dựng quy hoạch cơng trình thủy lợi

khá vững chắc, phần lớn chủ động được tưới, tiêu, sản xuất được cải thiện,
đời sống nhân dân từng bước được ổn định.
Quyết tâm thực hiện nghị quyết của Đảng bộ xã và phấn đấu hoàn
thành mục tiêu của Trung ương Đảng và Tỉnh ủy, nhân dân Ngọc Liệp tập
trung phát triển kinh tế, lấy nông nghiệp là trọng tâm trong nền kinh tế, vì vậy


17
Đảng bộ có nhiều chương trình nhằm ổn định và phát triển nông nghiệp. Cơ
cấu mùa vụ, cơ cấu cây trồng vật nuôi được chuyển đổi hợp lý, áp dụng khoa
học kỹ thuật đồng bộ nhằm giảm sức lao động cho nông dân, nâng cao hiệu
quả sản xuất, hợp tác xã được củng cố và kiện tồn đóng vai trị chủ đạo đối
với các dự án phát triển nông nghiệp tại địa phương. Hợp tác xã từng bước
khắc phục khó khăn về tổ chức, quản lý và điều hành, thực hiện nghiêm chỉnh
Luật hợp tác xã. Ngoài ra, chủ động kế hoạch gieo cấy từng vụ đảm bảo đúng
thời vụ, cơ cấu cây trồng hợp lý, chủ động phòng chống thiên tai, đầu tư nâng
cấp, tu sửa cầu cống, nạo vét kênh mương, giao thông nội đồng với hàng trăm
triệu đồng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp.
Nhằm đảm bảo nguồn lương thực phục vụ cho nhân dân trong toàn xã
và nâng cao giá trị sản phẩm trên cùng một diện tích canh tác, xã Ngọc Liệp
đã có nhiều biện pháp hiệu quả cho mục tiêu trên. Năm 2006, diện tích cấy
lúa hai vụ của tồn xã là 577,4 ha, tuy nhiên cơn bão số 6 đã làm 10,8 ha bị
ngập úng hồn tồn, năng xuất bình qn đạt 52,3 ha/tạ, sản lượng cả năm đạt
3,002 tấn thóc. Do diễn biến xấu về thời tiết và sâu bệnh phát sinh, đến năm
2009, tổng diện tích cấy lúa của tồn xã cịn 561,6 ha, năng xuất bình qn
đạt 49,3 tạ/ha, sản lượng cả năm đạt 2,773.2 tấn.
Mặc dù diện tích trồng hoa màu giảm song giá trị đạt được ngày càng
cao, từ đó làm tăng giá trị thu nhập từ trồng trọt nói chung. Năm 2006, diện
tích hoa màu tồn xã là 16,9 ha với giá trị đạt 800 triệu đồng; năm 2009, diện
tích là 16,2 ha giá trị đạt khoảng 1,364 tỷ đồng. Tổng giá trị thu nhập từ cây

trồng năm 2006 đạt 10,2 tỉ đồng, bình quân đạt 30,3 triệu đồng/ha canh tác,
bình quân lương thực là 375 kg/người/năm; năm 2009 là 15,855 triệu đồng,
bình quân đạt 54,9 triệu đồng/ha canh tác, bình quân lương thực đạt
345kg/người/năm.
Năm 2011, các hợp tác xã đã xây dựng kế hoạch sản xuất cây trồng với
tổng diện tích 594,67 ha (vụ xuân là 302,3 ha, vụ mùa 291,37 ha). Những
giống lúa mới cho năng xuất cao, chất lượng tốt như: khang dân, BC 15, lúa


18
thơm…được đưa vào gieo cấy đại trà. Các biện pháp trong gieo cấy như: che
phủ ni lông cho mạ để phòng giá rét, cấy đúng thời vụ, nước tưới và cách
chăm sóc, phịng trừ sâu bệnh được đảm bảo. Nhờ có sự chỉ đạo sát sao của
Đảng ủy và chính quyền nên mặc dù gặp nhiều khó khăn về thời tiết, sâu bệnh
song năng xuất lúa, hoa màu vụ xuân tăng cao (tổng sản lượng lúa đạt 1.672,9
tấn, năng xuất đạt 5,66 tấn/ha), hoa màu chủ yếu là lạc và dưa chuột đạt giá trị
470 triệu đồng, vụ mùa do mưa lớn gây úng lụt nhiều nhưng năng xuất và sản
lượng vẫn cao hơn so với năm 2010. Các loại cây hoa màu khác như: ngô,
rau…cung cấp một lượng lớn ương thực và cây hoa màu cho thủ đơ, góp phần
nâng cao đời sống người dân.
Chăn ni gặp nhiều khó khăn do dịch bệnh, giá thức ăn tăng cao song
luôn được địa phương quan tâm phát triển, chủ yếu ở mơ hình chăn ni nhỏ.
Năm 2009, tổng đàn trâu bị của xã là 354 con, đàn lợn có 3.120 con, đàn gia
cầm có 25.433 con, diện tích ni thả cá là 30 ha, sản lượng thủy cầm đạt gần
98 tấn; tổng thu nhập giá trị chăn nuôi đạt 11 tỷ đồng.
1.1.4.2. Kinh tế tiểu thủ công nghiệp
Tiểu thủ công nghiệp được chú trọng tạo công ăn việc làm cho hàng
trăm lao động và tăng thu nhập cho người dân. Theo nghị quyết của Đại hội
Đảng bộ về phát triển ngành nghề truyền thống và tiểu thủ công nghiệp ở địa
phương, xã mở thêm lớp học đào tạo, hướng dẫn ngành nghề cho nhiều người

dân trong xã.
Ngoài làm ruộng, nhân dân Ngọc Liệp cịn biết đan lờ, đan đó để đánh
cá và cũng có nhiều người biết làm nghề xây, nghề mộc, đan lát, làm hàng
mã… Ở Ngọc Liệp có rất nhiều đá ong nằm bên hai bờ sơng Tích. Bằng sức
khỏe, chỉ với một cái thó và bàn tay khéo léo, tinh mắt, mỗi năm, những người
thợ đào đá ong đã khai thác lộ thiên tại chỗ được hàng chục vạn viên đá ong.
Người dân Ngọc Liệp còn nổi tiếng với nghề ngõa (theo từ điển tiếng việt là
nghề lợp ngói các mái đình, chùa), họ khơng chỉ biết xây nhà, xây tường đá
ong bằng vơi vữa mà cịn biết xây bằng vữa bùn nhưng mạch rất nhỏ và thẳng;


19
thợ ngõa ở Đồng Bụt còn nổi tiếng với đắp nghê, uốn rồng, trổ phượng. Tài
nghệ của thợ Ngõa Đồng Bụt đến nay vẫn còn lưu dấu ấn ở các cột trụ, các nóc
đình, chùa quanh vùng. Tồn xã có khoảng 700 hộ làm nghề phụ, tăng thêm
thu nhập từ 400,000 đồng/tháng/hộ trở lên. Tính đến năm 2009, tổng giá trị thu
nhập từ tiểu thủ công nghiệp và ngành nghề là 10,7 tỷ đồng.
1.1.4.3. Kinh tế thương nghiệp
Bên cạnh nền kinh tế nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dân cư trong
xã cịn làm ăn bn bán nhưng với quy mơ nhỏ, các sản phẩm chủ yếu là mặt
hàng nông phẩm phục vụ cho sinh hoạt hàng ngày của nhân dân địa phương.
Trong những năm gần đây, đã có một số doanh nghiệp loại vừa đóng
trên địa bàn góp phần cung cấp việc làm cho các lao động địa phương. Cơ cấu
lao động địa phương có sự biến đổi đáng kể, một bộ phận nơng dân trở thành
cơng nhân có việc làm và thu nhập ổn định.
Sau thời kỳ đổi mới, với những thay đổi đa dạng làm cho đời sống của
người dân nơi đây nâng cao hơn nhiều, việc xóa đói giảm nghèo có nhiều
thành quả rõ rệt. Cho tới thời điểm này, tình hình kinh tế xã hội ở Ngọc Liệp
ổn định trên tất cả các lĩnh vực, đời sống nhân dân ngày càng được đẩy mạnh
và nâng cao. Q trình đơ thị hóa diễn ra nhanh chóng và mạnh mẽ đã làm

cho diện mạo của xã Ngọc Liệp có những thay đổi lớn lao.
1.1.5. Đặc điểm về lịch sử văn hóa
1.1.5.1. Phong tục tập quán
Phong tuc tập quán ở xã Ngọc Liệp nói chúng, làng Đồng Bụt nói riêng
có những nét đặc trưng riêng.
* Việc tang lễ: Việc tổ chức tang lễ cho người quá cố đã trở thành một
phong tục đối với người dân nơi đây. Khi gia đình ai đó trong thơn xã có
người mất gia đình chủ tang báo cho người lãnh đạo trong thơn xã trước hết là
trưởng thôn được biết. Việc quá cố được bà con họ hàng và trong làng ngồi
xóm giúp đỡ cho đến khi mồ yên mả đẹp. Nhưng người thân trong gia đình
người quá cố mặc quần áo tang bằng vải xô trắng, đội khăn tang màu trắng,


20
vàng, đỏ… theo thứ bậc và tùy theo quan hệ của người đó với người quá cố
như thế nào. Xưa kia, những nhà giàu phúng viếng người quá cố từ 3 đến 5
ngày rồi mới đem chơn, cịn những nhà nghèo thì đưa người đã khuất ra đồng
rất nhanh. Hiện nay, khác với nhiều địa phương, lễ phúng viếng nơi đây chỉ
diễn ra trong 24 giờ là tiến hành đưa tang, có thể đưa vào buổi sáng hay chiều
tùy từng gia đình. Người chết bị tai nạn nơi khác khơng mang về làng mà đem
đặt ở nhà chờ nằm ở ven đồng rồi đem chôn. Lễ đưa tang được diễn ra với sự
chia buồn của chính quyền thơn, xã, bà con họ hàng thân thích và hàng xóm.
Mai táng xong thì ai về nhà nấy chỉ những người họ gần với người quá cố, đội
kèn trống mới quay trở về nhà đám ăn uống, đó cũng là điều mà gia đình người
q cố muốn thể hiện lịng cảm ơn chân thành về sự giúp đỡ của mọi người.
* Việc cưới xin: Trước đây, lễ cưới của người dân nơi đây cũng khá phức
tạp với nhiều tục lệ như con gái trong làng ai đi lấy chống xa thì nộp cheo cho
làng hai chiếc mâm thau, con trai lấy vợ nơi khác thì khơng phải nộp gì cho
làng. Lễ cưới gồm: lễ gia tiên, lễ tổ nội, tổ ngoại. Lễ cưới thường được thách
đúng năm triệu. Ngày cưới được tổ chức tưng bừng với sự chia vui của họ hàng,

bà con lối xóm và bạn bè của đơi bạn trẻ. Cỗ cưới khơng mở q rộng và khơng
lãng phí.
* Việc sinh trẻ con: có luật chờ ba ngày: sinh trẻ con ra mọi người chỉ
được đến chơi ba ngày sau khi sinh, một tháng có cúng đầy tháng nhưng đầy
một năm khơng tổ chức ăn uống.
1.1.5.2. Di tích lịch sử văn hóa
Ngọc Liệp là một làng Việt cổ có từ xa xưa, cùng với việc tụ cư lập
làng, hệ thống tôn giáo cũng sớm được hình thành, nhiều cơng trình kiến trúc
được xây dựng để đáp ứng nhu cầu tôn giáo, tín ngưỡng của cộng đồng cư
dân làng xã. Đồng thời, nơi đây bảo lưu những giá trị văn hóa truyền thống
của dân tộc. Từ ngàn xưa, hình ảnh cây đa, giếng nước, sân đình vốn đã quen
thuộc và khơng thể thiếu trong các làng Việt cổ ở đồng bằng Bắc Bộ. Ở mỗi
làng trong xã Ngọc Liệp đều có khu di tích cổ: đình, chùa, qn, miếu… gắn


21
liền với những truyền thuyết dân gian nổi tiếng, mang ý nghĩa tâm linh và
đậm đà bản sắc. Có thể kể đến một số di tích tiêu biểu như:
* Đình Ngọc Bài
Đình được xây dựng lâu đời, theo truyền thuyết lưu truyền trong thôn
và căn cứ vào nội dung thông tin cuốn thần phả được lưu giữ tại đình làng cho
biết như sau: Đình được xây dựng từ thời Hùng Vương thứ 18. Đình Ngọc
Bài thờ tam vị thành hồng: Đệ Nhất, Đệ Nhị, Đệ Tam. Các hạng mục kiến
trúc của đình gồm: Hậu cung, Đại bái, Tả mạc, Hữu mạc, Nghi môn. Trong
kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, đình Ngọc Bài đã là nơi diễn ra nhiều
sự kiện tiêu biểu như: Năm 1947, một số cơ quan và đồng bào thủ đơ đã về
đình sơ tán, trong đó có viện Quân y Giải phẫu do bác sĩ Hữu làm Viện
trưởng Năm 1949, giặc Pháp chiếm đóng, phá bỏ đình làng. Năm 1952, đình
được xây dựng lại như hiện nay. Năm 1953 -1954, đình Ngọc Bài đón tiếp
trạm giải phẫu tiền phương về ở lại để phục vụ kháng chiến. Trong kháng

chiến chống Mỹ và sau khi đất nước thống nhất, đình được dùng làm thư viện,
kho thuốc sâu, trường mẫu giáo… Đình Ngọc Bài như một minh chứng cho
truyền thông yêu nước chống giặc ngoại xâm của nhân dân thơn Ngọc Bài nói
riêng, xã Ngọc Liệp nói chung.
* Đình - quán Liệp Mai
Theo truyền thuyết lưu lại trong thôn và căn cứ vào nội dung cuốn thần
phả được lưu giữ tại đình làng cho biết, Quán Liệp Mai được xây dựng từ thời
Hùng Vương, thờ Đức Thánh Tản Viên và tam vị Đại vương âm phù.
Quán Liệp Mai được xây dựng trên một quả đồi rộng, xưa là khu rừng
lim, quán Liệp Mai như hòa vào thiên nhiên tạo thêm vẻ kỳ bí, linh thiêng.
Quán được xây dựng nhìn về hướng Nam với bố cục mặt bằng kiểu chữ Nhất.
Quán gồm ba gian thờ Đức Thánh Tản Viên và thân mẫu Đinh Thị Đen - mẹ
của Đức Thánh Tản Viên. Quán Liệp Mai là một trong số ít những di tích cịn
giữ được khơng gian cảnh quan ở huyện Quốc Oai.
Đình Liệp Mai nằm trên một thế đất cao ráo ở trung tâm thơn Liệp Mai.
Đình được xây dựng nhìn về hướng Tây, bố cục chữ Đinh với các hạng mục


22
cơng trình chính gồm: Đại bái và Hậu cung, phía trước có sân và cổng đình.
Gian Đại bái thờ Đức Thánh Tản Viên, gian bên phải là nơi thờ ba vị Thành
hồng làng. Đình Liệp Mai mang những nét đặc sắc về kiến trúc nghệ thuật
điêu khắc cuối thế kỷ XVII, điều này được thể hiện ở toàn bộ khung gỗ của
Đại bái và các đề tài trang trí như lưỡng long chầu nguyệt, ngũ long, độc long,
tứ linh… mang giá trị văn hóa cao.
* Chùa Liệp Mai: Căn cứ vào bốn tảng đá kê dưới chân cột chạm hoa
sen thời Lê Sơ (thế kỷ XV) ở gian trong của Thượng điện cho biết thông tin:
Đây là một ngôi chùa cổ có kiểu một gian chính với 2 dĩ nhỏ - kiểu kiến trúc
thường gặp ở các ngơi chùa có niên đại thời Mạc. Hiện nay, ngôi chùa ngoảnh
hướng Nam, có bố cục kiểu chữ Đinh với các hạng mục kiến trúc gồm: Tiền

đường và Thượng điện. Chùa thờ Phật theo phái Đại Thừa với nhiều lớp
tượng pháp khác nhau. Bên cạnh đó, chùa Liệp Mai cịn lưu giữ được khá
nhiều di vật quý giá với nhiều chất liệu khác nhau… Chùa Liệp Mai đã góp
phần đáng kể vào việc bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống của cộng
đồng cư dân địa phương.
Với những giá trị to lớn về mặt lịch sử, văn hóa, mỹ thuật cụm di tích
đình - chùa - qn Liệp Mai được Sở Văn hóa và Thơng tin tỉnh Hà Tây (cũ)
nay là Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch Thành phố Hà Nội xếp hạng và cấp
bằng công nhận là di tích lịch sử cấp tỉnh năm 2003.
* Chùa Đồng Bụt
Cách đây gần 200 năm, Phan Huy Chú viết trong cuốn "Lịch triều hiến
chương loại chí" như sau: "Quốc Oai đúng là nơi vui vẻ ở phía Tây. Khu vực
này có hình thế núi sơng, có khí thế hùng hậu". Nhiều di tích nổi bật của địa
phương được nhà nước cấp bằng cơng nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp
Quốc gia. Đặc biệt, vùng đất Ngọc Liệp có di tích chùa Đồng Bụt mang đậm
dấu ấn Phật giáo thời Lý, thế kỷ XI. Ngôi chùa được xây dựng từ thời Trần,
thế kỷ XIV. Đến nay, tuy đã trải qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo nhưng ngôi
chùa vẫn giữ được những nét kiến trúc cổ xưa.


23
Trong quần thể di tích gồm: chùa chính, nhà tổ, nhà mẫu, nhà khách…
đều quay về phía Tây Nam và nhìn thẳng ra khu vườn Nở, ngơi chùa chính
được xây dựng theo lối kiến trúc hình chữ "Cơng". Đây là một ngôi chùa
"Tiền Phật hậu Thánh", cùng với việc thờ phật ở bên ngồi, trong hậu cung
cịn thờ Đức Thánh Từ Đạo Hạnh và thân phụ thân mẫu của Đức Thánh.
Trong chùa cịn lưu giữ được nhiều di vật có giá trị cao. Bên cạnh đó, trong
thời gian kháng chiến chống Pháp, Mỹ, chùa Đồng Bụt còn là nới diễn ra
những cuộc họp bí mật, nơi ni giấu chiến sĩ cách mạng. Về ngôi chùa này,
tác giả xin phép được trình bày nội dung chi tiết tại chương II của khóa luận.

* Đình - chùa Ngọc Phúc
+ Đình Ngọc Phúc: Ngơi đình này nằm trên vùng đất cổ ven dịng sơng
Tích, thờ ba vị thành hồng cùng thời đại với Phù Đổng Thiên Vương (tức
Thánh Gióng). Ngơi đình là một cơng trình kiến trúc nghệ thuật có giá trị
trong đó lưu giữ nhiều hiện vật cổ có niên đại lâu đời. Đình Ngọc Phúc từng
là hầm bì mật ni giấu cán bộ và là nơi diễn ra nhiều cuộc mít tinh, tiễn con
em của quê hương đi tòng quân đánh giặc. Do vậy, đình Ngọc Phúc được Bộ
Văn hóa và Thơng tin cơng nhận xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc
gia năm 1997.
+ Chùa Ngọc Phúc: Ngơi chùa này được xây dựng lâu đời, trong chùa
có hệ thống tượng phật từ thế kỷ XVI - XVII. Cùng với chùa Đồng Bụt, chùa
Ngọc Phúc là một ngôi chùa "Tiền Phật Hậu Thánh". Chùa thờ Phật và thờ
thiền sư Từ Đạo Hạnh. Trong chùa lưu giữ được nhiều pho tượng quý hiếm…
đây là những hiện vật ghi lại dấu ấn lịch sử lâu đời của nền văn hóa xưa ở
Ngọc Liệp. Chùa được Bộ Văn hóa và Thơng tin cơng nhận là di tích lịch sử
văn hóa cấp Quốc gia năm 1997.
Ngoài ra, trên địa bàn xã Ngọc Liệp hiện cịn rất nhiều các cơng trình
tơn giáo khác có ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt văn hóa của nhân dân
trong vùng. Trải qua những thăng trầm, biến cố của lịch sử, nhưng các cơng
trình tơn giáo trong huyện Quốc Oai nói chung, xã Ngọc Liệp nói riêng vẫn


24
cơ bản giữ được kiểu dáng và phong cách kiến trúc dân gian truyền thống.
Bên trong các di tích cịn lưu giữ được nhiều di vật quý với nhiều chất liệu
khác nhau như: gỗ, giấy, đồng, đá… Qua nghiên cứu những di vật này ta có
thể hiểu thêm được lịch sử văn hóa của làng/xã nơi đây.
1.1.5.3. Lễ hội và các ngày lễ khác
Mảnh đất Hà Tây nói chung, xã Ngọc Liệp huyện Quốc oai nói riêng có
rất nhiều lễ hội mang đặc trưng của lễ hội truyền thống đồng bằng Bắc Bộ

Việt Nam, mỗi làng, mỗi vùng đều có lễ hội riêng. Mỗi lễ hội như một bảo
tàng văn hoá sống động thể hiện rõ những nét đặc trưng văn hoá dân tộc. Du
khách sẽ bắt gặp những nghi lễ tôn thờ các vị thần linh của cư dân nơng
nghiệp để cầu cho mưa thuận gió hồ, mùa màng bội thu hay để tôn vinh,
tưởng nhớ những vị anh hùng, những người có cơng lao với đất nước, với
làng xã được tôn làm phúc thần bảo hộ. Lễ hội cũng là dịp để du khách tham
dự vào những trò chơi dân gian như đấu vật, đánh cờ người, thổi cơm thi, kéo
co, hội thả diều, hội chọi gà… hay xem các loại hình nghệ thuật dân gian
truyền thống như hát dô, hát chèo tầu, múa rối nước, múa rôi cạn …
Trên địa bàn Ngọc Liệp có nhiều lễ hội đặc sắc như:
Lễ hội đình làng Ngọc Bài, đình làng Ngọc Phúc.
Lễ hội đình làng Liệp Mai thường tổ chức trong 2 ngày 15 và 16 tháng
Giêng hàng năm.
Lễ hội chùa Đồng Bụt tổ chức ngày 10 tháng Ba âm lịch. Lễ hội này sẽ
được trình bày tại mục 1.2.3.3 trong chương I của khóa luận.
Các ngơi chùa ở Ngọc Liệp đều có những ngày lễ chính đó là ngày
mồng 8 tháng 4 lễ Phật đản, Rằm tháng bảy xóa tội vong nhân được tổ chức
long trọng hơn cả. Vào ngày này, đông đảo các tầng lớp nhân dân trong xã
quy tụ về đây hành hương viếng chùa, lễ Phật.
Ngoài ra, vào ngày mồng 1 và ngày Rằm (lịch trăng) hàng tháng là
ngày chay tịnh để các vị sư tăng kiểm sốt hành vi của mình, gọi là ngày Bồ
tát và ngày Sám hối, cộng đồng cư dân về chùa để tham dự lễ Sám hối, cầu


25
nguyện, bỏ ác làm lành và sửa đổi thân tâm. Vào những ngày này, các cụ cao
tuổi trong làng luân phiên cúng lễ lên chùa. Người dân trong thôn/xã cũng
biện lễ oản, thành tâm cúng Phật với lòng từ bi, nhân ái, hướng thiện.
1.1.5.4. Truyền thống học hành thi cử
Ngọc Liệp là vùng đất hình thành khá lâu đời cho nên việc học hành thi

cử cũng đã ăn sâu bám rễ vào tư tưởng của người dân. Ngày nay tiếp thu
truyền thống văn hoá quý báu ấy, nhân dân Ngọc Liệp vẫn tiếp thu học hỏi
những tinh hoa văn hoá truyền thống của cha ông.
Thực hiện Nghị quyết số 13 - NQ/TU của tỉnh ủy về tăng cường lãnh
đạo công tác khoa học và công nghệ, Đảng bộ chú trọng đầu tư xây dựng
trường lớp mới và cơ sở vật chất cho các cấp học. Thầy và trị nhà trường
ln phấn đấu dạy và học thật tốt, đạt được nhiều thành tích trong thời gian
qua. Hàng năm, có 65% trở lên đạt học sinh khá giỏi, tỉ lệ lên lớp đạt 98%,tỷ
lệ tốt nghiệp lên cấp II đạt 100%. Năm 2008, trường Tiểu học Ngọc Liệp
được ủy ban nhân dân huyện quyết định công nhận đạt danh hiệu đơn vị văn
hóa. Năm 2009 trường được Sở Giáo dục và đào tạo Thành phố Hà Nội về
kiểm tra đánh già trường chuẩn quốc gia. Được sự hướng dẫn của thầy cô
trong trường, các em học sinh luôn ý thức được trách nhiệm học tập cho
tương lai của bản thân, vì vậy nhà trường đã đạt được thành tích cao trong
nhiều năm qua. Tỉ lệ học sinh khá giỏi đạt 55%, tỉ lệ học sinh lên lớp đạt
98.5%, học sinh tốt nghiệp đạt 100%. Với sự nỗ lực của thầy, trò nhà trường
năm 2007, trường được công nhận đạt chuẩn quốc gia. Số lượng học sinh thi
đỗ vào các trường đại học ngày một tăng: năm 2006 có 9 em; năm 2007 có 16
em; năm 2008 có 18 em; năm 2009 có 29 em. Những kết quả đó phần nào thể
hiện tinh thần hiếu học của con em xã Ngọc Liệp.
1.2. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ QUÁ TRÌNH TỒN TẠI CỦA CHÙA
ĐỒNG BỤT
1.2.1. Lịch sử hình thành và tồn tại của di tích chùa Đồng Bụt
1.2.1.1. Lịch sử hình thành


×