Tải bản đầy đủ (.pdf) (130 trang)

Tìm hiểu di tích chùa đại bi (thị trấn nam giang, huyện nam trực, tỉnh nam định)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.91 MB, 130 trang )

                                                                                       1 
 

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI
KHOA DI SẢN VĂN HĨA

PHAN TRỌNG BẰNG

TÌM HIỂU DI TÍCH CHÙA ĐẠI BI
(THỊ TRẤN NAM GIANG, HUYỆN NAM TRỰC,
TỈNH NAM ĐỊNH)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
NGÀNH BẢO TÀNG HỌC
Mã số: 52320205

Người hướng dẫn: PGS.TS NGUYỄN VĂN TIẾN

HÀ NỘI - 2012


                                                                                       2 
 

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài. ......................................................................................... 1
2. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 3
4. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 3


5. Bố cục của khóa luận .................................................................................... 3
Chương 1: CHÙA ĐẠI BI TRONG DIỄN TRÌNH LỊCH SỬ ................... 5
1.1 Tổng quan về thôn Giáp Ba. ....................................................................... 5
1.1.1 Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên. ................................................ 5
1.1.2 Dân cư và truyền thống Cách mạng.............................................. 7
1.1.3 Đời sống kinh tế. ......................................................................... 10
1.1.4 Đời sống văn hóa xã hội. ............................................................ 13
1.2 Lịch sử hình thành di tích.......................................................................... 18
1.2.1 Niên đại xây dựng di tích ............................................................. 18
1.2.2 Q trình trùng tu di tích.............................................................. 20
1.3 Sự kiên nhân vật liên quan đến di tích ...................................................... 22
Chương 2: GIÁ TRỊ KIẾN TRÚC, NGHỆ THUẬT VÀ LỄ HỘI CHÙA
ĐẠI BI ........................................................................................................... 26
2.1 Giá trị kiến trúc ........................................................................................ 26
2.1.1 Không gian cảnh quan ................................................................. 26
2.1.2 Bố cục mặt bằng tổng thể............................................................. 31
2.1.3 Các đơn nguyên kiến trúc ............................................................ 32
2.1.4 Trang trí trên kiến trúc. ................................................................ 48
2.2 Giá trị nghệ thuật ..................................................................................... 57


                                                                                       3 
 

2.2.1 Nghệ thuật điêu khắc tượng thờ. .................................................. 57
2.2.2 Các di vật tiêu biểu ...................................................................... 77
2.3 Lễ hội chùa Đại Bi. .................................................................................. 85
Chương 3: BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ CHÙA ĐẠI BI..................89
3.1 Thực trạng di tích ..................................................................................... 89
3.2 Bảo tồn di tích chùa Đại Bi ...................................................................... 93

3.2.1 Cơ sở pháp lý ............................................................................... 93
3.2.2 Các giải pháp kỹ thuật bảo tồn..................................................... 95
3.3 Tơn tạo di tích .......................................................................................... 99
3.4 Giải pháp phát huy giá trị di tích chùa Đại Bi ....................................... 101
Kết luận ........................................................................................................ 106
Tài liệu tham khảo. ..................................................................................... 109
Phụ lục


                                                                                       4 
 

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Cùng với quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước, cha ơng ta đã xây dựng
nên một nền văn hóa Việt ngàn đời với những tinh hoa được tích tụ và lắng đọng
qua từng thế hệ. Di tích lịch sử - văn hóa là những trang sử sống có sức thuyết
phục với mọi người con đất Việt vì ở đó có lưu giữ những dấu ấn của lịch sử,
mang hơi thở của thời đại lưu truyền lại cho những thế hệ mai sau. Những di tích
lịch sử - văn hóa ấy được coi như một “Bảo tàng sống” về tri thức, điêu khắc,
nghệ thuật trang trí và những giá trị văn hóa phi vật thể. Việc gìn giữ những di
tích này khơng chỉ đơn thuần là gìn giữ những thành quả vật chất của người xưa
mà hơn hết đó cịn là sự kế thừa, phát huy và sáng tạo ra những giá trị văn hóa
mới, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại.
Kiến trúc cổ là một bộ phận quan trọng cấu thành kho tàng Di sản văn hóa
dân tộc, các cơng trình kiến trúc cổ có khả năng biểu đạt những nét chung nhất
về các mặt khoa học kĩ thuật và văn hóa nghệ thuật của từng thời đại. Khi xây
dựng các cơng trình kiến trúc, con người ln có khát vọng biểu hiện cụ thể và
chân thực những tư tưởng của thời đại trong cơng trình xây dựng thơng qua hình

tượng nghệ thuật và những phương pháp đặc thù của tri thức dân gian. Chính vì
vậy, các cơng trình kiến trúc khơng chỉ chứa đựng những giá trị về mặt kiến trúc
và nghệ thuật mà nó cịn là một bức thơng điệp về văn hóa, tư tưởng của người
xưa truyền lại cho các thế hệ sau.
Kiến trúc cổ Việt Nam phong phú và đa dạng về loại hình, trong đó ngơi
chùa là sản phẩm của văn hóa Phật giáo là một loại hình tiêu biểu. Phật giáo du
nhập vào nước ta khoảng đầu Công nguyên. Cũng từ đây, các ngôi chùa đã dần
được dựng lên trong những khoảng thời gian khác nhau và trên những không


                                                                                       5 
 

gian khác nhau. Về sau, cùng với sự phát triển của Phật giáo, các ngôi chùa đã
mở rộng phạm vi ảnh hưởng của mình tới tận làng xã chứ khơng chỉ bó hẹp với
khơng gian của những ngơi chùa gắn liền với tầng lớp quý tộc, quan lại. Người
Việt xưa có câu “Đất vua chùa làng”, điều này cho thấy rằng ở nước ta cũng như
ở một số nước phương Đơng khác, trong thời kỳ trung đại, tồn bộ đất đai trong
nước đều thuộc quyền sở hữu của nhà vua nhưng ngơi chùa thì lại thuộc về cộng
đồng làng xã. Ngơi chùa đơi khi cịn được biết đến như là một sợi dây để cấu kết
cộng đồng, củng cố tinh thần đồn kết, gắn bó của cư dân địa phương. Được xây
dựng trong nhiều thời kì khác nhau cùng với đó là kiểu cách kiến trúc, trang trí,
tượng thờ... mang những giá trị độc đáo, chùa Việt Nam thực sự trở thành một
bảo tàng kiến trúc, hội họa và điêu khắc cổ Việt Nam.
Chùa Đại Bi (Đại Bi tự) là một trong những di tích cổ có quy mơ tương đối
lớn nằm tại thôn Giáp Ba thị trấn Nam Giang, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.
Đây là ngơi chùa cịn lưu giữ được nhiều nét kiến trúc độc đáo cho dù đã trải qua
sự tàn phá của chiến tranh cũng như những biến động của lịch sử. Hiện nay, ngôi
chùa còn bảo tồn được những giá trị vật thể và phi vật thể hết sức quý báu. Giá
trị vật thể được biểu hiện cụ thể thông qua không gian kiến trúc, cảnh quan và

một số di vật (tượng thờ…) cùng các giá trị tâm linh có ý nghĩa biểu đạt sâu sắc
(ngày giỗ tổ, ngày sóc vọng...). Ngồi ra chùa còn lưu giữ được nhiều di vật quý
báu khác như: Chuông đồng thời Nguyễn, nhang án thời Hậu Lê, hệ thống các
bia đá thời Nguyễn...Bên cạnh đó là những giá trị văn hóa phi vật thể với những
nét đặc sắc riêng thơng qua những hoạt động văn hóa của cộng đồng cư dân thơn
Giáp Ba. Chính vì vậy, ngơi chùa đã được Bộ Văn hóa - Thơng tin (nay là Bộ
Văn hóa Thể thao và Du lịch) xếp hạng di tích lịch sử văn hóa ngày 29 tháng 10
năm 1964. Do đó, việc nghiên cứu tồn diện dưới góc độ bảo tồn bảo tàng sẽ
góp phần lưu giữ, bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa vật thể và phi
vật thể trong điều kiện hiện nay. Vì lý do trên nên tôi quyết định chọn đề tài


                                                                                       6 
 

“Tìm hiểu di tích chùa Đại Bi, thị trấn Nam Giang, huyện Nam Trực, tỉnh
Nam Định” làm khóa luận tốt nghiệp Đại học của mình.

2. Mục đích nghiên cứu
Khóa luận tập trung tìm hiểu về lịch sử, sự ra đời và quá trình tồn tại của
chùa Đại Bi, nghiên cứu các mặt giá trị văn hóa và nghệ thuật của chùa Đại Bi
qua kiến trúc và di vật cụ thể. Qua tìm hiểu thực trạng của di tích, vận dụng
những kiến thức lý luận đã học, bước đầu đề xuất một số giải pháp nằm bảo tồn
và phát huy giá trị của di tích trong giai đoạn hiện nay.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Khóa luận tập trung nghiên cứu di tích chùa Đại Bi
tại thôn Giáp Ba, thị trấn Nam Giang, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định. Trong
đó trọng tâm nghiên cứu về kiến trúc, hệ thống tượng thờ cùng các di vật tiêu
biểu trong di tích.

- Phạm vi khơng gian nhiên cứu: Khóa luận chủ yếu nghiên cứu chùa Đại
Bi, mở rộng hơn là khơng gian văn hóa thơn Giáp Ba, thị trấn Nam Giang, huyện
Nam Trực, tỉnh Nam Định.

4. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành: Bảo tàng học, Bảo tồn di tích,
Mĩ thuật học, Sử học, Xã hội học...Trong đó sử dụng chủ yếu phương pháp khảo
sát tại thực địa để quan sát, miêu tả, đo vẽ, chụp ảnh, phỏng vấn, thu thập nguồn
tài liệu hiện vật có trong di tích

5. Bố cục của khóa luận
Khóa luận ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham
khảo gồm có ba chương:


                                                                                       7 
 

Chương 1: Chùa Đại Bi trong diễn trình lịch sử
Chương này giới thiệu khái quát về vùng đất nơi di tích tồn tại đồng thời tập
trung nghiên cứu tư liệu xác định niên đại khởi dựng và quá trình tồn tại của di tích.
Chương 2: Giá trị kiến trúc, nghệ thuật và lễ hội chùa Đại Bi
Đây là chương chính của bài khóa luận, tập trung nghiên cứu giá trị kiến trúc,
nghệ thuật, hệ thống tượng thờ, các di vật tiêu biểu, các hoạt động tín ngưỡng
cùng với các giá trị văn hóa phi vật thể gắn liền với ngơi chùa.
Chương 3: Bảo tồn và phát huy giá trị chùa Đại Bi
Chương này tập trung phân tích thực trạng của di tích, qua đó đề xuất một số
giải pháp nhằm tơn tạo và phát huy giá trị của di tích chùa Đại Bi.
Sau quá trình học tập và nghiên cứu, trên cơ sở vận dụng những kiến thức đã
học về chuyên ngành Bảo tồn - Bảo tàng, bài khóa luận được hoàn thành với sự

cố gắng lỗ lực của bản thân cùng với sự hướng dẫn tận tình của thầy
Nguyễn Văn Tiến. Qua đây, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến
PGS.TS Nguyễn Văn Tiến - người hướng dẫn tôi trong suốt thời gian thực
hiện đề tài.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành của mình đến các thầy cơ giáo trong
khoa Di sản Văn hóa - Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, UBND thị trấn Nam
Giang, Đại đức Thích Bản Thức - trụ trì chùa Đại Bi đã giúp đỡ và cung cấp tư
liệu cho tôi trong q trình khảo sát thực địa tại di tích.
Là cơng trình nghiên cứu đầu tiên, bài khóa luận khơng tránh khỏi những thiếu
sót. Bởi vậy, tơi mong nhận được sự góp ý của các nhà nghiên cứu, thầy cơ và các bạn.
Tôi xin chân thành cảm ơn !


                                                                                       8 
 

Chương 1
CHÙA ĐẠI BI TRONG DIỄN TRÌNH LỊCH SỬ
1.1 Tổng quan về thơn Giáp Ba
1.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
* Về địa giới hành chính
Dọc theo tỉnh lộ 490 về phía Nam, cách thành phố Nam Định khoảng 10km
là tới trung tâm của thị trấn Nam Giang, đây là khu vực dân cư quần tụ đông đúc
với một quần thể văn hóa chợ - chùa lâu đời. Thị trấn Nam Giang có diện tích
gần 7km2. Phía Tây giáp sông Đào (ngăn cách với huyện Vụ Bản), phía Đơng
giáp xã Nam Hùng, phía Nam giáp xã Nam Dương, phía Bắc giáp 2 xã Nam An
và Nam Cường. Tồn thị trấn có 7 thơn: thơn Nhất, thơn Nhì, thôn Ba, thôn Tư,
thôn Đồng Côi, thôn Kinh Lũng và thơn Vân Tràng (riêng thơn Nhất, thơn Nhì,
thơn Ba, thơn Tư cịn có tên gọi đầy đủ là Giáp Nhất, Giáp Nhì, Giáp Ba và Giáp
Tư). Thơn Giáp Ba nằm ở trung tâm của thị trấn Nam Giang, phía Bắc giáp thơn

Vân Tràng, phía Nam giáp xã Nam Dương, phía Đơng giáp thơn Nhì và phía Tây
giáp thơn Tư. Đây cũng chính là khu vực tổ chức chợ Viềng của huyện Nam
Trực vào ngày mùng 8 tháng Giêng âm lịch hàng năm.
Dựa vào những tư liệu Hán Nôm được ghi trên các bia đá, thần phả, các bức
hoành phi câu đối tại đình, chùa, đền, miếu... hiện cịn lưu giữ tại địa phương cho
biết mảnh đất Nam Giang xưa nằm liền kề với mảnh đất Thiên Bản (Vụ Bản
ngày nay) và đã có từ thời Hùng Vương. Vùng đất này thời Bắc thuộc là huyện
Tây Chân, thời Trần thuộc phủ Thiên Trường, thời Hậu Lê là huyện Tây Chân
thuộc trấn Sơn Nam Hạ sau được đổi làm huyện Nam Chân do kiêng húy của
Tây Vương Trịnh Tạc.


                                                                                       9 
 

Thời Nguyễn, năm Minh Mệnh thứ 14 (1833), Nam Chân được chia thành
hai huyện Nam Chân và Chân Ninh, sau đổi thành Nam Trực và Trực Ninh.
Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 vùng đất này gồm 4 xã: Vân Tràng,
Đồng Cơi, Kinh Lũng, Trực Chính (Trực Chính có 4 thơn: Giáp Nhất, Giáp Nhì,
Giáp Ba, Giáp Tư) thuộc tổng Thị Liêu huyện Nam Trực. Sau khi cách mạng
tháng Tám thành công các xã trên hợp nhất thành một xã lấy tên là xã Quang
Trung thuộc huyện Nam Trực.
Năm 1952 tỉnh Nam Định có chủ trương đổi tên tất cả các xã trong tỉnh, lấy
tên đầu của huyện đặt cho tên đầu của xã, nên xã Quang Trung được đổi sang tên
mới là xã Nam Giang.
Tháng 6 năm 1956 xã Nam Giang được chia ra làm hai xã: Xã Nam Giang
gồm thơn Nhất, thơn Nhì, thơn Ba; xã Nam Đào gồm thôn Kinh Lũng, thôn
Đồng Côi, thôn Vân Tràng và thôn Tư.
Tháng 11 năm 1968 thành lập tỉnh Nam Hà, hai huyện Nam Trực và Trực
Ninh được hợp nhất thành huyện Nam Ninh do đó hai xã Nam Giang và Nam Đào

lại được hợp nhất lấy tên cũ là Nam Giang trực thuộc huyện Nam Ninh tỉnh Nam Hà.
Ngày 26 tháng 2 năm 1997, thực hiện nghị quyết 19/NĐ - CP của chính phủ,
huyện Nam Ninh tách ra làm hai huyện là Nam Trực và Trực Ninh, xã Nam
Giang được tách về huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.
Ngày 14 tháng 11 năm 2003, tỉnh Nam Định chính thức có quyết định công
nhận Nam Giang là thị trấn trực thuộc huyện Nam Trực.
* Về điều kiện tự nhiên
Thôn Giáp Ba là một trong những thôn lớn của thị trấn Nam Giang có diện
tích tự nhiên là 461 ha, trong đó diện tích đất canh tác là 315 ha. Theo số liệu
thống kê năm 2007, dân số tồn thơn là 4724 người.
Thơn Giáp Ba nằm ở vị trí khá thuận lợi về giao thơng, cả đường thủy và
đường bộ. Phía Tây thơn, qua một đoạn giáp với thôn Tư là đường tỉnh lộ 494


                                                                                       10 
 

chạy từ thành phố Nam Định qua huyện Nam Trực, dọc huyện Nghĩa Hưng tới
tận bờ biển Đơng. Phía trước thôn là con đường Vàng bắt đầu từ bờ sông Đào
cách thơn 1,5km nối vng góc với với tỉnh lộ 494 chạy qua nhiều xã của huyện
Nam Trực và kết thúc tại điểm giao cắt với đường quốc lộ 21. Thôn Giáp Ba
nằm gần ngã tư đoạn giao cắt giữa tỉnh lộ 494 và đường Vàng nên rất thuận lợi
trong việc thơng thương, giao lưu kinh tế - văn hóa với các xã xung quanh và mở
rộng hơn là với cả tỉnh.
Nằm gần thơn Giáp Ba về phía Tây là dịng sơng Đào (cịn gọi là sơng Nam Định)
là một trong hai tuyến đường thủy quan trọng của tỉnh Nam Định. Sông Đào là một
phân lưu của sông Hồng và chi lưu của sơng Đáy. Nó đưa một phần nước từ sông
Hồng đổ vào sông Đáy và chảy ra biển Đơng với tổng chiều dài là 33km. Dịng sơng
này chảy uốn lượn qua nhiều huyện trước khi đổ ra biển, hàng năm nó mang theo
một lượng phù sa lớn bồi đắp cho vùng đất hai bên bờ tạo nên những mảnh đất màu

mỡ cây trái quanh năm tươi tốt. Bên cạnh việc lấy nước cho các cơng trình thủy lợi
phục vụ phát triển nơng nghiệp thì đây cịn là con đường giao thông quan trọng thúc
đẩy việc giao lưu kinh tế giữa nhiều huyện trong tỉnh Nam Định trong đó có khu vực
thị trấn Nam Giang của huyện Nam Trực.
1.1.2 Dân cư và truyền thống Cách mạng
1.1.2.1 Thành phần dân cư
Nam Trực là vùng đất cổ vốn đã được hình thành từ rất lâu đời. Đất đai màu
mỡ, khí hậu ơn hịa vì thế mà từ xa xưa con người đã đến đây định cư, khai
hoang lập làng, lập xóm. Trong q trình này đã có nhiều người đến khai hoang,
định cư ở khu vực thôn Giáp Ba hiện nay, lúc đầu dân cư còn thưa thớt, cây cối
còn rậm rạp hoang sơ, về sau cùng với quá trình phát triển dân cư dần trở nên
đông đúc người ta đã lập thành thôn Cẩm Nang (thôn Giáp Ba hiện nay). Những
người đầu tiên đến đây khai hoang, mở đất lập ra thôn Giáp Ba được tôn làm ông
tổ của nhiều dịng họ trong thơn. Hiện nay tồn thơn có 21 dòng họ, tuy nhiên


                                                                                       11 
 

dịng họ nào cũng xây dựng được ngơi Từ đường riêng cho dịng họ mình. Con
cháu các dịng họ cùng chung sống hịa bình, tạo thành một cộng đồng dân cư ổn
định, thể hiện quan hệ tình làng nghĩa xóm sâu sắc, đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau
vượt qua những khó khăn của cuộc sống.
Ngày xưa, trong bối cảnh của xã hội các làng Việt ở Bắc Bộ trước Cách
mạng Tháng Tám đã có sự phân chia cư dân thành các hạng dựa trên phẩm hàm,
bằng cấp, chức tước...thì điều này ở thôn Giáp Ba cũng diễn ra một cách rõ nét.
Dân cư trong làng được chia ra làm 5 hạng: “Chức sắc” là những người đỗ đạt
hoặc có phẩm hàm, “chức dịch” là những người làm việc công trong làng, “lão
hạng” là những cụ cao niên trong giáp, “đinh” là trai tráng trong giáp, “ti ấu” là
trẻ con. Một bộ phận lớn nam đinh khơng có phẩm hàm, bằng cấp hay chức tước

gì thì cịn được gọi là “bạch đinh” sẽ khơng được tham dự vào các sinh hoạt
chính trị - xã hội quan trọng của thôn.
Sau khi thực dân Pháp tiến hành xâm lược và thiết lập ách đô hộ lên đất nước
ta, chúng vẫn giữ nguyên cơ cấu tổ chức, lệ tục truyền thống của các làng xã
phong kiến để tiện bề cai trị nhân dân. Thông qua hệ thống các thiết chế tổ chức
cùng các lệ tục, chính quyền phong kiến tay sai rằng buộc người dân trong
những nghĩa vụ nặng nề với Nhà nước. Đời sống nhân dân gặp phải vơ vàn
những khó khăn, khổ cực do chịu sự áp bức, bóc lột của chính quyền thực dân,
phong kiến. Cuộc sống của người dân thôn Giáp Ba cũng khơng tránh khỏi tình
cảnh chung này mà hệ quả tất yếu của nó là dẫn đến sự phân hóa tầng lớp ngay
trong thơn. Lúc này thơn Giáp Ba tồn tại ba tầng lớp dân cư là địa chủ phong
kiến, nông dân và thợ thủ công. Trừ một bộ phận làm tay sai cho chính quyền
thực dân phong kiến còn lại đa số là người dân lao động bị rơi vào hoàn cảnh
cùng quẫn do nạn sưu cao thuế nặng.
Nhưng dù trong hoàn cảnh nào đi nữa, nhờ có tinh thần đồn kết, đùm bọc,
giúp đỡ lẫn nhau của người dân mà thôn Giáp Ba đã ngày càng phát triển, từ đó


                                                                                       12 
 

mọi người cùng chung tay xây dựng nên những công trình kiến trúc chung to lớn
thuộc vào loại nhất vùng cho đến nay vẫn còn tồn tại. Trong thời kỳ kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, người dân thơn Giáp Ba đã anh
dũng, đồn kết cùng nhau đứng lên bảo vệ sự bình yên của xóm làng.
1.1.2.2 Truyền thống cách mạng
Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, triều đình nhà Nguyễn hèn nhát đã đầu
hàng quân giặc. Song với tinh thần yêu nước, người dân thôn Giáp Ba đã đứng
lên cùng với nhân dân nhiều vùng miền trong cả nước quyết tâm chống Pháp.
Đến đầu thế kỉ XX, chủ nghĩa Mác - Lênin đã được Nguyễn Ái Quốc và những

người yêu nước truyền bá khắp Việt Nam, nhiều người con ưu tú của thôn Giáp Ba
đã được giác ngộ lý tưởng, tình nguyện tham gia vào các tổ chức cộng sản. Cuối
năm 1944 đầu năm 1945, hịa cùng khơng khí đấu tranh vũ trang đang diễn ra sôi
nổi trong cả nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phương, người dân thôn
Giáp Ba cùng với nhiều thơn xóm khác đã đứng lên đấu tranh giành chính quyền.
Cách mạng tháng Tám bùng nổ, nhân dân nơi đây đã cùng với nhân dân cả
nước đứng lên giành chính quyền từ tay phát xít Nhật. Trưa ngày 29 tháng 8 năm
1945 tại chùa Đại Bi và một số địa điểm khác diễn ra cuộc mít tinh mừng thắng
lợi và bầu Ủy ban cách mạng lâm thời xã. Hàng ngàn quần chúng đủ các lứa tuổi
trong xã đã đến tham dự.
Kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ (1945 - 1954), thực hiện chỉ thị
“kháng chiến kiến quốc” của Ban chấp hành Trung ương Đảng. Người dân thơn
Giáp Ba đã hăng hái chiến đấu ngay trong lịng địch cho dù quân địch cùng bè lũ
tay sai đã tăng cường những hành động khủng bố dã man, lùng sục để truy bắt
những cán bộ cách mạng, lập bốt, lơi kéo nhân dân về phía chúng. Nam Giang là
một trong những nơi có phong trào Cách mạng diễn ra mạnh mẽ, đây cũng là nơi
nuôi giấu nhiều cán bộ chủ chốt tuyên truyền cách mạng cho quê hương. Tại
thôn Giáp Ba, nhiều gia đình là cơ sở cách mạng, ln ln có hầm bí mật để


                                                                                       13 
 

ni giấu cán bộ, vui lịng san sẻ bữa ăn hàng ngày mà khơng một chút lo sợ,
tính tốn thiệt hơn. Tiêu biểu như gia đình cơ Ba, gia đình cụ Bùi Văn Mùi...
Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, với tinh thần “thóc khơng thiếu
một cân, qn khơng thiếu một người”, nghe theo tiếng gọi của Đảng, những
người con ưu tú của địa phương đã lên đường tòng quân giết giặc. Bước chân
của những người con thôn Giáp Ba đã có mặt trên nhiều chiến trường của ba
nước Đơng Dương. Nhiều đồng chí đã lập được những chiến cơng xuất sắc,

nhưng cũng có những người đã ngã xuống, hiến trọn tuổi xuân của mình cho sự
nghiệp thống nhất đất nước. Đảng bộ và nhân dân địa phương trong đó có người
dân thơn Giáp Ba đã phát huy cao độ truyền thống yêu nước, tinh thần lao động
hăng say đảm bảo phục vụ kháng chiến và xây dựng quê hương giàu đẹp.
Từ năm 1975 cho đến nay, Đảng bộ Nam Giang đã lãnh đạo nhân dân địa
phương khắc phục những khó khăn của cuộc sống, từng bước tiến hành chuyển
đổi cơ cấu kinh tế làm cho diện mạo địa phương, trong đó có thơn Giáp Ba ngày càng
đổi mới. Những thay đổi lớn đã diễn ra trên trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội, kinh tế phát triển nhanh chóng, đời sống người dân ngày càng ấm no, hạnh phúc.
1.1.3 Đời sống kinh tế
* Nông nghiệp
Nam Giang là mảnh đất tương đối màu mỡ thuận lợi cho việc phát triển
nông nghiệp. Thực hiện sự chỉ đạo của các cấp chính quyền và Đảng bộ địa
phương, trong những năm qua người dân thị trấn nói chung và người dân thơn
Giáp Ba nói riêng đã đẩy mạnh việc sản xuất nông nghiệp theo hướng thâm canh
bền vững, phá bỏ việc độc canh cây lúa để khai thác tối đa những lợi thế mà tự
nhiên đã ban tặng cho vùng đất này. Bên cạnh việc canh tác nông nghiệp trồng
cây lúa nước thì người dân cịn tận dụng một diện tích lớn đất pha cát trên những
cánh đồng của thôn để phát triển các loại hoa màu khác như: đỗ lạc, đỗ tương,
các loại rau củ quả... đặc biệt là việc trồng cây cà chua nhót và dưa chuột bao tử


                                                                                       14 
 

để làm nguyên liệu chế biến cho nhà máy sản xuất hoa quả đóng hộp Nam Định
đã mang lại giá trị kinh tế cao hơn rất nhiều so với việc độc canh cây lúa theo lối
truyền thống. Trong những năm qua, nhờ có sự chỉ đạo và hỗ trợ kịp thời của các
cấp chính quyền cùng với sự cần cù, chịu khó và lịng hay say lao động của
người dân, thôn Giáp Ba đã đạt được những kết quả đáng khích lệ trong việc

phát triển trồng trọt và chăn ni theo hướng đổi mới. Sản lượng lương thực bình
quân đạt 510kg/người/năm.
* Thủ công nghiệp
Thị trấn Nam Giang hiện nay đã có sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, chất
lượng cuộc sống của nhân dân ngày càng được nâng cao. Có được điều này một
phần là nhờ những chính sách phát triển kinh tế đúng đắn, hợp lý của các cấp
lãnh đạo Đảng và chính quyền. Tận dụng những thế mạnh vốn có của địa
phương để thúc đẩy việc giao lưu, bn bán trao đổi hàng hóa, tập trung đầu tư
phát triển các nghề thủ công truyền thống vốn là thế mạnh của địa phương mà
nổi bật là nghề rèn và cơ khí vốn đã nổi tiếng trong cả nước. Cái nơi của nghề
rèn và cơ khí trên mảnh đất Nam Giang là thôn Vân Tràng. Tục truyền rằng,
nghề rèn đã có mặt ở đây từ khoảng 700 năm về trước. Khi nhà Trần xây dựng
hành cung Thiên Trường, những người thợ tài giỏi ở Thăng Long, Hà Đông, Sơn
Tây, Thanh Hóa...đã tập trung về đây để xây dựng vùng đất được coi như là kinh
đô thứ hai của nhà Trần. Những nhóm thợ này cùng gia đình của họ đã định cư
lập nên nhiều làng nghề trên mảnh đất Thiên Trường xưa và nay là Nam Định. Ở
Vân Tràng người ta vẫn truyền tụng nhau về sáu vị thánh tổ đã đến đây truyền
cho nhân dân biết nghề rèn để làm ra những công cụ phục vụ cho đời sống, lao
động sản xuất. Tưởng nhớ tới công lao to lớn của các bậc tiền nhân, người dân
nơi đây đã lập đền thờ và tôn các vị là “Lục tổ thánh sư”, hàng năm hương khói
phụng thờ. Nghề rèn ở đây phát triển mạnh mẽ, lan rộng sang nhiều thôn xóm
của thị trấn Nam Giang trong đó có thơn Giáp Ba. Một bộ phận dân cư trong


                                                                                       15 
 

thơn đã chuyển sang làm nghề rèn và cơ khí, tạo ra nhiều loại mặt hàng phong
phú về chủng loại và mẫu mã, đáp ứng nhu cầu của thị trường. Việc phát triển
nghề rèn và cơ khí đã đem lại nguồn thu nhập cao và ổn định cho người dân thơn

Giáp Ba, bên cạnh đó nó cịn giải quyết cơng ăn việc làm cho một lượng lớn lao
động từ các địa phương xung quanh, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế chung
của địa phương. Nhờ có sự phát triển nghề thủ công truyền thống mà đời sống
của người dân thôn Giáp Ba ngày càng được cải thiện, nhà cửa xây cất khang
trang, đường làng ngõ xóm được bê tơng hóa cao ráo sạch sẽ, con em có điều
kiện được đến trường học hành đầy đủ...
* Thương nghiệp
Không chỉ đơn thuần phát triển kinh tế nông nghiệp và thủ công nghiệp mà
trong những năm gần đây thị trấn Nam Giang còn đẩy mạnh việc phát triển kinh
tế thương nghiệp, dịch vụ...Thơn Giáp Ba nằm ngay ở vị trí trung tâm của thị
trấn Nam Giang, gần với đường tỉnh lộ nối liền với nhiều huyện và thành phố
của tỉnh Nam Định, bên cạnh đó cịn có tuyến đường liên xã nối thẳng tới quốc
lộ 21 tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao thông đi lại, trao đổi, buôn bán các
loại mặt hàng phục vụ đời sống sinh hoạt và phát triển kinh tế địa phương. Thơn
Giáp Ba cịn nằm gần sông Đào, là một trong hai tuyến đường thủy quan trọng
của tỉnh Nam Định nối liền nhiều huyện trong tỉnh và mở rộng hơn là với các
tỉnh trong khu vực đồng bằng sơng Hồng. Do có điều kiện thuận lợi về mặt giao
thông đi lại bằng cả đường bộ và đường thủy vì vậy mà thị trấn Nam Giang nói
chung và thơn Giáp Ba nói riêng có điều kiện đẩy mạnh sản xuất hàng hóa, phát
triển các mặt hàng thủ công nghiệp vốn là thế mạnh của địa phương. Các mặt
hàng do người dân thôn Giáp Ba, thôn Vân Tràng, thôn Đồng Côi… làm ra được
vận chuyển đi tiêu thụ ở nhiều nơi. Hiện nay kinh tế thương nghiệp ở đây đã có
sự chuyển biến theo hướng mở rộng cả về quy mơ cũng như chất lượng, góp
phần thúc đẩy sự phát triển của kinh tế địa phương, nhờ đó mà đời sống của


                                                                                       16 
 

người dân ngày càng được nâng cao, chất lượng của các dịch vụ xã hội như

trường học, trạm y tế...được cải thiện đáng kể. Bộ mặt kinh tế nông thôn truyền
thống với nơng nghiệp làm chủ đạo dần có sự biến đổi và được thay thế bằng nền
kinh tế sản xuất hàng hóa với quy mơ ngày càng mở rộng.
1.1.4 Đời sống văn hóa - xã hội
1.1.4.1 Đời sống tín ngưỡng, tơn giáo
* Tín ngưỡng
Tín ngưỡng ra đời từ buổi sơ khai của thế giới lồi người, do cịn hạn chế về
trình độ nhận thức mà con người khơng thể giải thích được những hiện tượng
của tự nhiên như mây, mưa, sấm, chớp...từ đó họ gắn cho nó sức mạnh của
những đấng siêu nhiên, vơ hình mà con người khơng thể nắm bắt hay điều khiển
được. Những đấng siêu nhiên này tồn tại trong vụ trụ bao la, chi phối đến mọi
sinh vật trong đó có cả con người. Tín ngưỡng được nảy sinh, tồn tại do lịng
sùng kính và nỗi sợ hãi của con người trước sức mạnh của những thế lực siêu
nhiên trong vũ trụ. Giống như nhiều làng quê khác ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ,
thôn Giáp Ba vẫn lưu giữ được khá nhiều phong tục, tín ngưỡng:
- Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên (tục thờ cúng tổ tiên), đây là sự bày tỏ lòng biết
ơn của con cháu đối với tổ tiên, ông bà, cha mẹ - những người đã khuất. Họ là
những thế hệ đi trước đã có có công sinh thành, dưỡng dục, truyền lại cho con
cháu những vốn kinh nghiệm quý báu về lao động sản xuất, tri thức dân
gian...Trong mỗi gia đình người Việt, dù giàu hay nghèo thì ban thờ tổ tiên bao
giờ cũng được đặt ở vị trí trang trọng nhất, đây là nơi mà mọi thành viên trong
gia đình đều hướng về để bày tỏ lịng thành kính của mình với những người đã
khuất. Cũng giống như bao gia đình người Việt khác, trong mỗi gia đình người
dân thơn Giáp Ba đều có bàn thờ tổ tiên được đặt ở vị trí trang trọng nhất với
quan niệm cho rằng linh hồn của những người đã khuất vẫn luôn tồn tại để phù


                                                                                       17 
 


hộ cho con cháu. Trong những dịp lễ tết, giỗ chạp, ngày sóc vọng...con cháu đều
thắp hương dâng lên tổ tiên ơng bà những món ăn ngon, tinh khiết và đẹp mắt cùng
với nén nhang để thỉnh cầu tổ tiên, ơng bà chứng giám cho lịng thành của mình.
Việc thờ cúng tổ tiên không chỉ giới hạn trong các gia đình mà nó cịn thể
hiện ở mức độ dịng họ. Mỗi dịng họ lại xây dựng một ngơi Từ Đường riêng làm
nơi thờ cúng những cụ tổ khai sáng của dịng họ mình. Thơn Giáp Ba có hơn hai
mươi nóc Từ Đường, đây là địa điểm có sức cấu kết cao khi vào những ngày giỗ
kỵ, lễ tết...con cháu của các dịng họ lại tụ về ngơi Từ Đường của dịng họ mình
để cùng tưởng nhớ tới những người đã có cơng lập nên dịng họ và sinh thành
nên ơng bà cha mẹ mình. Đây cũng chính là dịp để mọi người gặp gỡ, trao đổi
làm tăng tính cấu kết giữa các thành viên trong cùng một dịng họ. Tín ngưỡng
thờ cúng tổ tiên là truyền thống tốt đẹp của dân tộc, nó giáo dục các thế hệ biết
hướng về cội nguồn, ghi nhớ công ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ, của tổ
tiên ơng bà. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đã ăn sâu vào tâm thức của người dân
thơn Giáp Ba nói riêng và của cộng đồng các dân tộc Việt Nam nói chung.
- Tín ngưỡng thờ thành hồng
Tín ngưỡng thờ Thành hồng vốn đã có từ lâu và giữ vai trò quan trọng
trong đời sống tâm linh của người Việt. Đây là vị thần được người dân tơn kính
để bảo vệ, che chở cho cuộc sống người dân trong xóm làng . Gắn liền với tín
ngưỡng thờ Thành hoàng là hội làng, đây là sinh hoạt văn hóa thể hiện tính cấu
kết của cả một cộng đồng cùng hướng về vị thần tối cao được thờ cúng. Vị thần
Thành hồng của thơn Giáp Ba được người dân thờ cúng là Đồn Quận Cơng và
Triệu Quang Phục. Hàng năm người dân thôn Giáp Ba tổ chức lễ hội để tưởng
nhớ tới công đức của thần, tất cả mọi người dân trong thơn đều tỏ lịng thành
kính cầu mong nhận được thần phù hộ, che chở, mong nhận được sự bình an,
mưa thuận gió hịa, mùa màng bội thu.


                                                                                       18 

 

* Tơn giáo
- Đạo nho
Nho giáo đã có mặt ở nước ta ngay từ thời kì Bắc thuộc. Trải qua thời gian,
sự ảnh hưởng của Nho giáo tới các mặt của đời sống văn hóa xã hội ngày càng
sâu sắc đặc biệt là trong thời kì phong kiến, mà đỉnh cao là thời kì Lê sơ với sự
độc tơn của Nho giáo. Văn hóa Nho giáo cũng đã ảnh hưởng sâu rộng vào đời
sống của cộng đồng cư dân thôn Giáp Ba. Nó khơng chỉ biểu hiện ngay trong
nếp sinh hoạt, ứng xử của các thành viên trong cộng đồng, trong gia đình mà nó
cịn được biểu hiện ngay trong tập quán thờ cúng ở đây. Từ xưa, thôn Giáp Ba
cũng đã có phong trào học hành, thi cử Nho giáo phát triển với việc xây dựng
Văn chỉ làm nơi thờ cúng những người trong thôn đã từng đỗ đạt để nêu gương
cho con cháu phấn đấu học hành, thi cử làm rạng danh cho gia đình, dịng họ,
q hương. Tuy nhiên, văn chỉ này đã bị hủy hoại trong thời kì chiến tranh.
- Đạo Phật
Đạo Phật ảnh hưởng sâu đậm trong đời sống văn hóa của người dân thơn
Giáp Ba. Phật giáo đã có mặt ở vùng đất này từ khá sớm và nhanh chóng được
người dân tiếp nhận. Các ngôi chùa đã được xây dựng ở nhiều làng, trở thành
trung tâm tơn giáo, tín ngưỡng có vai trị quan trọng đối với cộng đồng cư dân
địa phương. Nhiều ngôi chùa trong khu vực này được xây dựng từ lâu với quy
mô nhỏ và được trùng tu mở rộng dần qua từng thời kì lịch sử như chùa Thanh
Khê, chùa Ngưu Trì, chùa thơn Nhất...Hiện nay thơn Giáp Ba có ngơi chùa Đại
Bi cổ kính với quy mơ tương đối lớn trở thành trung tâm Phật giáo của cả thôn
và khu vực lân cận với tầm ảnh hưởng vươn rộng tới cả thơn Tư, thơn Vân
Tràng... Chính điều đó đã tạo nên lối sống, lối ứng xử hiền hòa, tế nhị mang đậm
tinh thần Phật giáo trong cộng đồng cư dân địa phương.


                                                                                       19 

 

1.1.4.2 Phong tục tập quán
* Lễ hội truyền thống
Thôn Giáp Ba hiện nay vẫn còn giữ được nhiều phong tục tập quán liên
quan đến cư dân lúa nước cùng với đó là hệ thống các cơng trình văn hóa tơn
giáo tín ngưỡng hiện vẫn cịn được lưu giữ ở mức độ tương đối tốt. Những di
tích này được xây dựng từ khá sớm với quy mô tương đối lớn đã phần nào phản
ánh được tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội của người dân thôn Giáp Ba.
Từ rất lâu đời, các hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian đã được người dân
thơn Giáp Ba tổ chức. Trong đó đáng chú ý là các lễ hội truyền thống gắn liền
với các di tích của địa phương. Cũng giống như nhiều làng khác ở vùng đồng
bằng châu thổ sông Hồng có thờ Thành hồng, khi đến dịp giỗ kỵ của vị Thành
hồng thì người dân lại mở hội để tưởng nhớ tới cơng đức Thành hồng, cầu
mong nhận được sự che chở, bảo vệ của thần, mong cho mưa thuận gió hịa, mùa
màng tốt tươi...Trong lễ hội của thơn Giáp Ba ngoài phần nghi lễ cùng với việc
rước kiệu thần đi thị sát quanh thơn thì người dân cịn tổ chức các cuộc thi, các
trò chơi dân gian như đấu vật, chơi cờ người, đánh đu...Đây cũng là dịp để người
dân trong thơn được nghỉ ngơi, vui chơi giải trí sau một thời gian lao động vất vả.
Đặc biệt trong lễ hội của chùa Đại Bi ngồi thơn Giáp Ba thì cịn có sự tham
gia của thơn Tư và thơn Vân Tràng.Trước khi diễn ra lễ hội thì mỗi thơn đều cử
ra những người đại diện của thôn đứng lên tổ chức lễ hội, chuẩn bị đầy đủ các
loại đồ lễ dâng lên đức Phật và thánh Từ Đạo Hạnh. Các thơn đều tổ chức rước
kiệu từ thơn mình tới trước cửa chùa Đại Bi để dâng lễ vật lên đức Thánh, đức
Phật cầu mong nhận được che chở, bảo vệ, cầu cho mưa thuận gió hịa, mùa
màng bội thu. Lễ hội diễn ra trong ba ngày 20, 21, 22 tháng Giêng âm lịch hàng
năm thu hút đông đảo người dân và du khách thập phương tham gia.


                                                                                       20 

 

1.1.4.3 Các di tích lịch sử văn hóa
Hiện nay thơn Giáp Ba còn lưu giữ được một số các di tích thuộc loại hình
di tích kiến trúc - nghệ thuật gắn liền với tơn giáo, tín ngưỡng ra đời trên cơ sở
nhu cầu của người dân địa phương.
* Đền Giáp Ba
Đền thơn Giáp Ba thờ Triệu Quang Phục. Di tích nằm phía đầu thơn, ngay
sát chùa Đại Bi. Theo như các cụ trong thơn cho biết thì đền được dựng ở vị trí
có địa thế đẹp, phù hợp với quan niệm phong thủy. Nếu như chùa Đại Bi được
dựng trên phần đầu rồng thì khu đất của đền chính là phần cổ rồng. Đền được
dựng quay mặt về hướng Nam với nhiều đơn nguyên kiến trúc liên kết chặt chẽ
với nhau. Phía trước cửa đền là một khoảng khơng gian rộng, thoáng đãng cùng
với một hồ nước lớn được kè xung quanh tạo ra yếu tố tụ thủy cho di tích. Nghi
mơn của đền nằm sát hồ nước vì vậy muốn vào bên trong đền thì phải đi qua các
cổng phụ được bố trí ở hai bên di tích. Đơn ngun kiến trúc chính của di tích
gồm hai tịa nhà 5 gian tường hồi bít đốc nằm song song với nhau. Bên cạnh đơn
ngun kiến trúc này cịn có một đơn ngun kiến trúc khác có bố cục mặt bằng
hình chữ “đinh” kết hợp với hai tòa nhà nằm song song tạo ra một khoảng sân
rộng. Cơng trình kiến trúc hiện nay là sản phẩm của lần trùng tu dưới thời
Nguyễn. Các họa tiết hoa văn trang trí trên di tích khá đơn giản với đề tài chủ
yếu là tứ linh: long, ly, quy, phượng cùng với lá lật, vân mây... Đền thờ đã được
cơng nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh số 1160 ngày 17/9/1997.
Ngồi đền Giáp Ba thì tại thơn cịn có một số miếu thờ nằm dải rác ở các
xóm trong thơn. Phần lớn các miếu thờ này có quy mơ nhỏ, để thờ thần thổ địa
cai quản phần đất của từng xóm.


                                                                                       21 
 


1.2 Lịch sử hình thành di tích
1.2.1 Niên đại xây dựng di tích
Việc xác định niên đại khởi dựng của chùa Đại Bi là một việc hết sức khó
khăn do đến nay khơng có tư liệu nào ghi chép cụ thể về năm xây dựng chùa
cũng như niên đại của các cấu kiện kiến trúc ở các thời gian khác nhau đều chưa
phải là bằng chứng xác đáng để có thể đưa ra kết luận cuối cùng. Bởi vậy, việc
xác định niên đại của di tích phải dựa trên những cứ liệu lịch sử, nguồn thông tin
thu thập được từ cộng đồng cư dân địa phương thơng qua q trình nghiên cứu
điền dã tại di tích và các dấu vết kiến trúc cịn sót lại cho tới ngày nay của di tích.
Sách “Đại Nam nhất thống chí” do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn có
đoạn viết: “năm xã Chân Nguyên (trước là Chân Đàm), Vân Chàng, Kênh Lũng,
Cẩm Nang và Gia Cẩm huyện Nam Chân, cùng thờ thiền sư họ Từ, tên là Lộ, tự
Đạo Hạnh, người xã Yên Lãng huyện Vĩnh Thuận tỉnh Hà Nội, lúc còn trẻ, thích
đi chơi xa, khi đến xã Chân Nguyên, dựng chùa Đại Bi để trụ trì, sau dân tơn
làm tổ sư" 1 . Tuy nhiên “Đại Nam nhất thống chí” được ghi chép dưới thời
Nguyễn do đó những thơng tin được nêu ra ở đây chưa thể khẳng định chính xác
niên đại khởi dựng của di tích chùa Đại Bi.
Trong bản giới thiệu về di tích chùa Đại Bi do Ty Văn hóa Nam Hà thực hiện
ngày 20 tháng 7 năm 1973 cho biết chùa Đại Bi được xây dựng thời Lý Nhân
Tông (1072-1127). Vào thời gian này, Từ Đạo Hạnh cùng mẹ là bà Tăng Thị
Loan đã về lánh nạn tại xã Chân Đàm huyện Tây Chân trấn Sơn Nam để tránh sự
hãm hại của pháp sư Đại Điên, tại đây Từ Đạo Hạnh đã lập lên chùa Đại Bi. Đây
cũng là những thông thông tin được ghi chép theo thánh phả hiện đang lưu giữ
tại chùa. Trong “ Kệ Thánh tổ” của chùa cũng có ghi về việc này như sau:
                                                            
1
 Đại Nam nhất thống chí, Nhà xuất bản Khoa học xã hội -1971, tập III, trang 338 



                                                                                       22 
 

“...Lánh đi về trấn Sơn Nam
Tây Chân huyện đó Chân Đàm xã đây
Gửi thân nương chốn am này
Mẹ con mừng rỡ ở đây trụ trì
Sửa sang phong cảnh chùa Bi
Tịa vàng rực rỡ vườn kỳ thanh u...”
Những thông tin nêu ra trên đây chưa thể đưa đến kết luận chính xác về niên
đại khởi dựng của di tích. Dấu vết niên đại sớm nhất hiện còn lưu giữ cho đến
ngày nay là tấm bia đá “Trùng tu Đại Bi tự huệ điền bi ký” được khắc vào niên
hiệu Vĩnh Trị thứ tư (1679) với nội dung văn bia cho biết rằng chùa Đại Bi là
một danh thắng của huyện Nam Trực thuộc phủ Thiên Trường đã có từ thời Lý.
Chùa đã bị hư hại nhiều, một số tín chủ người địa phương tiến cúng ruộng đất
vào chùa để làm công đức duy trì nhang khói, lấy tiền tu sửa cảnh chùa. Qua đây,
tuy chưa thể xác định niên đại chính xác năm xây dựng di tích nhưng có thể
khẳng định rằng chùa Đại Bi được xây dựng muộn nhất cũng phải từ trước năm
1679 (tức là năm thứ tư niên hiệu Vĩnh Trị nhà Hậu Lê). Mặc dù vậy, việc tiếp
tục nghiên cứu để khẳng định niên đại khởi dựng di tích cũng cần được quan tâm
thơng qua việc xác định lại một cách chắc chắn niên đại của hệ thống chân tảng
chạm hoa sen tại tòa Thượng Điện của chùa, bởi vì thơng thường tảng kê chân
cột là cấu kiện ít được di chuyển từ nơi này sang nơi khác. Do đó, nếu những
chân tảng này có niên đại từ thời Lý thì ta cũng có thể coi đó là một cứ liệu quan
trọng đáng lưu ý để có thể xác định niên đại khởi dựng chùa.


                                                                                       23 
 


1.2.2 Q trình trùng tu di tích
Trong q trình tồn tại của mình, chùa Đại Bi đã trải qua nhiều lần tu sửa.
Dấu vết của những lần tu sửa còn được thể hiện thơng qua những mảng chạm
khắc trang trí trên các cấu kiện gỗ mang phong cách nghệ thuật của nhiều thời kì
khác nhau. Đặc biệt, trong những lần tu sửa lớn các đơn nguyên kiến trúc của
chùa thì người ta đã lập văn bia để ghi lại việc này lưu truyền hậu thế. Bên cạnh
đó, trên một số cấu kiện gỗ cũng để lại các dòng lạc khoản phần nào cho chúng
ta biết về thời gian tu sửa của một đơn nguyên kiến trúc cụ thể. Đây là nguồn tư
liệu thành văn quý báu cho ta biết được về những lần di tích được trùng tu, qua
đó phần nào tái hiện được diện mạo của di tích trong lịch sử.
Tấm bia đá có niên đại sớm nhất ghi lại việc trùng tu một đơn nguyên kiến
trúc cụ thể trong di tích là bia “Trùng tu Đại Bi tự chung các bi” được dựng vào
năm Gia Long thứ thứ 13 triều Nguyễn (tức là năm 1814). Đây là tấm bia ghi lại
việc trùng tu gác chuông chùa Đại Bi do những tín chủ hảo tâm người địa
phương cùng với nhà chùa tiến hành. Ngồi tấm bia đá này thì còn hai tấm bia đá
khác cũng đề cập đến việc trùng tu gác chuông của chùa vào các giai đoạn khác
nhau: Tấm bia đá thứ nhất được dựng vào năm Tự Đức thứ 34 (1881) và tấm bia
thứ hai được dựng vào năm Duy Tân thứ 2 (1908). Đây đều là những văn bia ghi
lại việc tu sửa gác chuông chùa Đại Bi dưới Nguyễn. Từ đây có thể khẳng định
rằng gác chuông phải được dựng từ trước năm 1814, trải qua thời gian cùng với
những lần tu sửa nó mới có diện mạo như hiện nay.
Theo như nội dung tấm bia “Trùng tu Đại Bi tự Tiền Đường bi ký” thì vào
ngày tốt của tháng 2 năm Mậu Tý niên hiệu Tự Đức thứ 19 (1876) tòa Tiền
đường chùa Đại Bi đã được trùng tu nhờ có lịng cơng đức của các tín chủ để xây
dựng chùa xứng đáng là danh lam cổ tự lưu truyền muôn đời.


                                                                                       24 
 


Tòa Thiêu hương của chùa được trùng tu lớn vào năm Kỷ Sửu niên hiệu
Thành Thái năm thứ nhất (1889) theo như nội dung được ghi trên bia “Trùng tu
Đại Bi tự đệ nhị tòa bi ký” được dựng ở hành lang bên trái chùa. Tòa Thượng
điện của chùa cũng được trùng tu vào năm Tự Đức thứ 23 (1870).
Bên cạnh việc khai thác thông tin từ những tấm bia đá thì chúng ta cịn biết
về những lần tu sửa chùa thơng qua các dịng lạc khoản được khắc chìm bằng
chữ Hán tại mặt dưới của nhiều Thượng lương trên các đơn nguyên kiến trúc.
Tại Tam quan, trên hai mặt xà thượng của cơng trình có khắc những dịng chữ
Hán: Mặt ngoài ghi “Thiên tử vạn niên tuế thứ Ất Sửu trọng đông nguyệt cốc
nhật lương thời thụ trụ thượng lương đại cát” tức “ngày lành, giờ tốt, tháng giữa
đông năm Ất Sửu dựng cột, bắc nóc”, mặt trong thượng lương ghi: “Tây lịch
nhất thiên cửu bách nhị thập ngũ nhật” (1925), từ đây có thể đốn định rằng lần
trùng tu lớn gần đây nhất của Tam quan là vào năm 1925 điều này cũng được
phản ánh qua nội dung bia đá “Đại Bi tự trùng tu tam quan bi” với dịng lạc
khoản khắc năm dựng bia là “Hồng Nam Bảo Đại nguyên niên tuế Bính Dần
quý xuân nguyệt cát nhật” tức năm Bính Dần niên hiệu Bảo Đại thứ nhất (1926).
Nhìn chung, các đơn ngun kiến trúc chính của chùa đều được trùng tu lớn
dưới thời Nguyễn, các thành phần kiến trúc hiện nay đều có niên đại Nguyễn
muộn. Cụ thể là tòa Tiền đường với dòng lạc khoản khắc trên Thượng lương
gian giữa ghi “ Hoàng Nam Bảo Đại bát niên tuế Quý Dậu mạnh xuân cốc nhật
trùng tu đại cát”. Qua đây có thể khẳng định rằng tòa Tiền đường của chùa đã
được trùng tu lớn vào thời Nguyễn niên hiệu Bảo Đại thứ 8 (1933).
Trên Thượng lương gian giữa nhà Tổ phía trước có ghi dịng lạc khoản
“Hoàng triều Thành Thái cửu niên Đinh Dậu mạnh thu cát nhật” tức là ngày tốt
tháng đầu mùa thu năm Đinh Dậu niên hiệu Thành Thái thứ 9 (1897). Tuy nhiên
dịng lạc khoản này lại khơng nêu rõ đây là năm xây dựng hay năm trùng tu của


                                                                                       25 
 


nhà Tổ. Nhưng thơng qua dịng lạc khoản có thể biết ít nhất thì nhà Tổ cũng phải
được dựng từ năm 1897.
Năm 1990, nhà chùa cùng với nhiều tín chủ có lịng hảo tâm đã cơng đức tu
sửa lại hai dãy hành lang của chùa. Việc này vẫn được các cụ già trong thơn kể
lại. Cùng với đó là dịng lạc khoản khắc trên thượng lương gian cuối của dãy
hành lang bên trái là “ Canh Ngọ niên trọng hạ nguyệt cát nhật trùng tạo”.
Năm 2001, nhà chùa cùng với Hội các già trong thôn đã đứng lên xây dựng
điện thờ Mẫu nằm phía bên trái tịa Thượng điện của chùa. Đây là cơng trình
được xây mới hồn tồn bằng gạch, vữa...có bố cục mặt bằng hình chữ “Đinh”,
được trang trí khá đơn giản. Cùng thời gian này, nhà chùa cịn tiến hành xây
dựng tường bao quanh phía bên trái nhà Mẫu và xây dựng cổng phụ bên cạnh
Tam quan để lấy lối đi lại cho mọi người khi vào thăm chùa còn Tam quan lớn
chỉ mở cửa vào các dịp lễ hội hàng năm.
1.3 Sự kiện nhân vật liên quan đến di tích
Chùa Đại Bi có bố cục mặt bằng tổng thể theo kiểu “Nội công ngoại quốc”
với gần 60 gian nhà. Bên cạnh thờ Phật thì chùa cịn thờ thiền sư Từ Đạo Hạnh.
Trong cuốn sách “Chùa Thầy - Thiên Phúc Tự”, trang 192, PGS-TS Nguyễn Văn Tiến
đã xếp chùa Đại Bi vào nhóm những chùa có cấu trúc Tiền Phật - Hậu Thánh, và
đưa ra nhận định rằng những ngơi chùa có dạng thức cấu trúc kiểu này chỉ chọn
5 nhân vật lịch sử để tôn làm thánh trong đó có Từ Đạo Hạnh.
Từ Đạo Hạnh là một trong những vị thiền sư nổi tiếng thời Lý được nhiều sử
sách ghi chép. Theo sách “Thiền uyển tập anh”, một tác phẩm được biên soạn
khoảng thế kỉ XII - XIV có ghi chép về tiểu sử và quá trình tu luyện của Từ Đạo
Hạnh ở chùa Thầy thì phép tu luyện của ông là phép tu Mật giáo với bài chú
“Phật đỉnh Tôn thắng Đà la ni”. Nhờ có sự khổ cơng tu luyện mà ơng đã có được


×