Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Học kỳ hình sự module 1 (7đ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.84 KB, 12 trang )

ĐỀ BÀI
A rủ B đi cướp giật tài sản. A điều khiển xe máy, còn B ngồi sau giật túi
xách của người đi đường. Theo cách đó, hai tên A, B đã thực hiện được ba vụ với
tổng số tài sản bị chiếm đoạt có giá trị 40 triệu đồng.
Câu hỏi:
1. Căn cứ vào khoản 3 điều 8 BLHS, hãy phân loại tội phạm đối với tội cướp
giật tài sản.
2. Xác định khách thể và đối tượng tác động của tội phạm trong vụ án.
3. Giả thiết B mới 15 tuổi, A và B có phải là những người đồng phạm
khơng? Giải thích rõ tại sao.
4. Giả thiết A đủ 20 tuổi, còn B đủ 18 tuổi. A thỏa mãn tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự “tái phạm nguy hiểm”. A và B có phải chịu trách nhiệm hình
sự với tình tiết tăng nặng tại điểm c khoản 2 Điều 136 BLHS? Giải thích rõ tại
sao.
5. A, B đều là những người nghiện ma túy, trước khi thực hiện tội cướp giật
tài sản, A và B đều sử dụng ma túy. Tình tiết này có phải là tình tiết làm tăng nặng
trách nhiệm hình sự đối với A và B khơng? Giải thích rõ tại sao.

1


MỤC LỤC
Trang
1. Căn cứ vào khoản 3 Điều 8 BLHS, hãy phân loại tội phạm đối với
tội cướp giật tài sản…………………………….

3

2. Xác định khách thể và đối tượng tác động của tội phạm trong
vụ án…………………………………………….


5

* Khách thể của tội phạm:...................................

5

* Đối tượng tác động của tội phạm:……………..

7

3. Giả thiết B mới 15 tuổi, A và B có phải là những người đồng phạm
khơng? Giải thích rõ tại sao…………………..

7

4. Giả thiết A đủ 20 tuổi, còn B đủ 18 tuổi. A thỏa mãn tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự “ tái phạm nguy hiểm”, A và B có phải cùng chịu trách
nhiệm hình sự với tình tiết tăng nặng tại điểm c khoản 2 Điều 136 BLHS?
Giải thích rõ tại sao?.........................................

9

5. A, B đều là người nghiện ma túy, trước khi thực hiện tội cướp giật tài sản, A
và B đều sử dụng ma túy. Tình tiết này có phải là tình tiết làm tăng nặng trách
nhiệm hình sự đối với A và B khơng? Giải thích rõ tại sao?....

Danh mục tài liệu tham khảo:…………………

2


10

12


BÀI LÀM
1. Căn cứ vào khoản 3 Điều 8 BLHS, hãy phân loại tội phạm đối với tội cướp
giật tài sản.
- Cướp giật tài sản được hiểu là nhanh chóng giật lấy tài sản của người khác
một cách công khai rồi tìm cách tẩu thốt.
- Điều 136 BLHS quy định về tội cướp giật tài sản:
1. Người nào cướp giật tài sản của người khác, thì bị phạt tù từ một năm đến
năm năm.
2. Phạm tội trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ ba năm đến mười
năm:
a) có tổ chức;
b) Có tính chất chun nghiệp;
c) Tái phạm nguy hiểm;
d) Dùng thủ đoạn nguy hiểm;
đ) Hành hung để tẩu thốt;
e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỉ lệ
thương tật từ 11% đến 30%;
g) chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm
triệu đồng;
h) Gây hậu quả nghiêm trọng.

3


3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ bảy năm

đến mười lăm năm:
a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỉ lệ
thương tật từ 31% đến 60%;
b) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm
triệu đồng;
c) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười
hai năm dến hai mươi năm hoặc tù chung thân:
a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỉ lệ
thương tật từ 61% trở lên hoặc làm chết người;
b) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;
c) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm
triệu đồng.
Mặt khác, khoản 3 Điều 8 BLHS quy định: “ Tội phạm ít nghiêm trọng là tội
phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt
đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại
lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy
năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà
mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà

4


mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù
chung thân hoặc tử hình”.
Từ đó, ta có thể phân loại tội phạm đối với tội cướp giật tài sản như sau: Tội
phạm nghiêm trọng là phạm tội thuộc trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều
136 ( với khung hình phạt là từ một năm đến năm năm tù); tội phạm rất nghiêm

trọng là phạm tội thuộc trường hợp được quy định tại khoản 2 Điều 136 (với
khung hình phạt là từ ba năm đến mười năm tù) và phạm tội thuộc trường hợp
được quy đinh tại khoản 3 Điều 136 với khung hình phạt là từ bảy năm đến mười
lăm năm tù); tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là phạm tội thuộc trường hợp được
quy định tại khoản 4 Điều 136 ( với khung hình phạt là từ mười hai đến hai mươi
năm tù hoặc tù chung thân).
2. Xác định khách thể và đối tượng tác động của tội phạm trong vụ án.
* Khách thể của tội phạm:
Khách thể của tội phạm trong vụ án trên là: quan hệ nhân thân và quan hệ tài
sản, nhưng chủ yếu là quan hệ tài sản.
Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội
phạm xâm hại.
Cụ thể hơn, khách thể của tội phạm là hệ thống các quan hệ xã hội của chế
độ xã hội bị tội phạm xâm hại, trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng đến lợi ích và sự
tồn tại của giai cấp thống trị được Nhà nước (đại diện cho giai cấp thống trị) bảo
vệ bằng các quy phạm pháp luật hình sự.
Khoản 1 Điều 8 BLHS đã chỉ rõ khách thể của Luật Hình sự gồm những
quan hệ xã hội sau: độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc,
xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hố, quốc phịng, an ninh, trật
5


tự, an tồn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của
công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Có 3 nhóm khách thể:
a) Khách thể chung của tội phạm: Khách thể chung của tội phạm là tổng hợp
các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ khỏi sự xâm hại của tội phạm. Phạm
vi khách thể chung (đối tượng bảo vệ) của luật hình sự được quy định ở Khoản 1,
Điều 8 BLHS.

b) Khách thể loại của tội phạm: Khách thể loại của tội phạm là một nhóm
quan hệ xã hội cùng tính chất được một nhóm các quy phạm pháp luật hình sự bảo
vệ tránh khỏi sự xâm hại của một nhóm tội phạm.
c) Khách thể trực tiếp của tội phạm: Khách thể trực tiếp của tội phạm là
quan hệ xã hội cụ thể bị một loại phạm cụ thể trực tiếp xâm hại.
Tội phạm có nhiều khách thể trực tiếp nếu bản chất nguy hiểm cho xã hội
của tội phạm chỉ thể hiện đầy đủ trong tổng thể các quan hệ xã hội bị xâm hại.
Đối với tội cướp giật tài sản, khách thể của tội phạm bao gồm cả quan hệ sở hữu
(quan hệ tài sản) và quan hệ nhân thân, hay nói cách khác, tội cướp giật tài sản
cùng một lúc xâm phạm hai khách thể, nhưng chủ yếu là quan hệ sở hữu.
Quan hệ sở hữu là mục đích chính mà tội phạm cướp giật tài sản xâm hại.
Trong vụ án trên, tội phạm A và B đã cướp giật túi xách của người đi đường, đã
xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của chủ sở hữu. Vì vậy, quan hệ sở hữu là
khách thể của tội cướp giật tài sản nói chung và khách thể của tội phạm trong vụ
án trên nói riêng.

6


Mặc dù, quan hệ nhân thân khơng là mục đích của người phạm tội muốn
xâm phạm nhưng khi thực hiện hành vi cướp giật người phạm tội nhận thức được
tính chất nguy hiểm của hành vi và hậu quả nguy hiểm của hành vi đó có thể gây
ra đối với sức khỏe, tính mạng của người bị hại nhưng vẫn thực hiện. Cho nên,
quan hệ nhân thân cũng là khách thể của tội cướp giật tài sản nói chung và khách
thể của tội phạm trong vụ án trên nói riêng.
* Đối tượng tác động của tội phạm:
Đối tượng tác động của tội phạm trong vụ án trên là: túi xách của người đi
đường, hay chính là quan hệ sở hữu.
Đối tượng tác động của tội phạm là bộ phận của khách thể của tội phạm, bị
hành vi phạm tội tác động đến để gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho

những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ.
Trong những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ, có những quan hệ xã
hội bị tội phạm gây thiệt hại qua việc làm biến đổi tình trạng bình thường của đối
tượng vật chất như quan hệ sở hữu (quan hệ tài sản). Tất cả những hành vi làm
biến đổi tình trạng bình thường của tài sản một cách trái pháp luật đều là những
hành vi gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu và khi ấy, quan hệ sở hữu là đối tượng
tác động của hành vi. Trong vụ án trên, tội phạm A và B đã có hành vi cướp giật
túi xách của người đi đường. Vì vậy, đối tượng mà tội phạm tác động gây thiệt hại
là, túi xách của người đi đường, với tổng số tài sản thiệt hại là 40 triệu đồng.
3. Giả thiết B mới 15 tuổi, A và B có phải là những người đồng phạm khơng?
Giải thích rõ tại sao.
* A và B là đồng phạm.

7


Theo tiểu mục 5.3 mục 5 Thông tư số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTCBCA-BTP thì hành vi sử dụng xe máy để cướp giật của A và B thuộc tình tiết định
khung "dùng thủ đoạn nguy hiểm" quy định tại điểm d khoản 2 điều 136 BLHS.
Tiểu mục 5.3: "Dùng thủ đoạn nguy hiểm" quy định tại điểm d khoản 2 Điều
136 BLHS là dùng thủ đoạn để cướp giật tài sản mà nguy hiểm đến tính mạng, sức
khoẻ của người bị hại hoặc của người khác như dùng xe mô tô, xe máy để thực
hiện việc cướp giật tài sản; cướp giật của người đang đi mô tô, xe máy... Cần chú
ý là trong trường hợp dùng thủ đoạn nguy hiểm để cướp giật tài sản mà gây ra hậu
quả nghiêm trọng, thì phải áp dụng cả hai tình tiết định khung hình phạt quy định
tại các điểm d và h khoản 2 Điều 136 BLHS”.
Căn cứ khoản 3 điều 8 BLHS thì tội phạm quy định tại khoản 2 điều 136 là
loại tội phạm rất nghiêm trọng.
Theo khoản 2 điều 12 BLHS: Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16
tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Theo nội dung vụ án thể hiện thì A và B đã cùng cố ý thực hiện hành vi cướp
giật tài sản. B mới 15 tuổi nhưng do đây là tội phạm rất nghiêm trọng nên căn cứ
vào khoản 2 điểu 12 BLHS thì có thể khẳng định rằng B vẫn phải chịu trách
nhiệm hình sự về hành vi của mình.
Từ những phân tích trên, và căn cứ vào khoản 1 điều 20 BLHS : Đồng phạm
là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.
Vậy ta khẳng định A và B là đồng phạm.
4. Giả thiết A đủ 20 tuổi, còn B đủ 18 tuổi. A thỏa mãn tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự “tái phạm nguy hiểm”, A và B có phải cùng chịu trách
8


nhiệm hình sự với tình tiết tăng nặng tại điểm c khoản 2 Điều 136 BLHS?
Giải thích rõ tại sao?
* A và B khơng cùng phải chịu trách nhiệm hình sự với tình tiết tăng nặng
tại điểm c khoản 2 Điều 136.
Trong tình huống trên, A và B đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội
cướp giật tài sản đã thực hiện.
“Tái phạm nguy hiểm” là tình tiết thuộc về nhân thân người phạm tội,
không phụ thuộc vào hành vi phạm tội cụ thể của tội phạm này hay tội phạm khác.
Theo nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự thì người phạm tội chỉ phải chịu
trách nhiệm hình sự về hành vi do chính bản thân họ gây ra. Những tình tiết liên
quan đến nhân thân của người phạm tội khác thì khơng thể quy định đó là tình tiết
định khung hình phạt cho người đồng phạm.
Trong tình huống này, A thỏa mãn tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
“tái phạm nguy hiểm”, nhưng B thì khơng có tình tiết đó, do vậy, khơng thể quy
trách nhiệm hình sự từ A sang cho B chỉ bởi vì hai người là đồng phạm. Trong vụ
đồng phạm, những người tham gia tuy phạm cùng tội nhưng tính chất và mức độ
khác nhau , tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi của mỗi người cũng khác
nhau. Do đó, TNHS của mỗi người phải được xác định là khác nhau. Tức là, B

không thể cùng phải chịu trách nhiệm hình sự về tội cướp giật tài sản có tình tiết
tăng nặng theo điểm c khoản 2 Điều 136 BLHS cùng với A.
Như vậy, A sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự với tình tiết tăng nặng tại điểm
c khoản 2 Điều 136 BLHS, cịn B thì không.

9


5. A, B đều là người nghiện ma túy, trước khi thực hiện tội cướp giật tài
sản, A và B đều sử dụng ma túy. Tình tiết này có phải là tình tiết làm tăng
nặng trách nhiệm hình sự đối với A và B khơng? Giải thích rõ tại sao?
*Tình tiết A và B sử dụng ma túy trước khi thực hiện tội cướp giật tài sản
khơng phải là tình tiết làm tăng nặng trách nhiệm hình sự củaA và B.
Bộ luật hình sự của nước ta được xây dựng dựa trên nguyên tắc nhân đạo, vì
vậy Điều 46 BLHS quy định về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì có
quy định: “ Khi quyết định hình phạt, Tịa Án cịn có thể coi các tình tiết khác là
tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ trong bản án” (khoản 2), và Điều 47 quy
định quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật. Quy định như vậy để có
thể tạo điều kiện cho người phạm tội có cơ hội để có thể cải tạo lại mình, hành
động có ích cho xã hội.
Tuy nhiên, điều này cũng khơng giống với các tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự. Ở điều 48 BLHS có quy định rõ các tình tiết tăng nặng trách nhiệm
hình sự, ngồi ra, trong các điều luật về các tội phạm cụ thể, cũng có quy định các
tình tiết làm tăng nặng trách nhiệm hình sự. Những tình tiết đó được quy định cụ
thể tại các điều luật. Trong những trường hợp có tình tiết làm tăng nặng trách
nhiệm hình sự thì sẽ xem xét các tình tiết tăng nặng được quy định tại điều 48
BLHS và tại các điều khoản cụ thể, Tịa án hoặc các Luật sư khơng thể quy một
tình tiết nào đó là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự để xử phạt nặng hơn cho
người phạm tội. Điều này xuất phát từ nguyên tắc nhân đạo của Bộ Luật Hình sự
Việt Nam nhưng đồng thời cũng thể hiện những dự liệu của nhà làm luật, bởi rất

có thể trong q trình xét xử, những người tham gia xét xử sẽ có tình trạng lạm
quyền, coi một tình tiết bất kì làm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự cho

10


người phạm tội, điều này có hại cho người phạm tội và cũng trái với nguyên tắc
xây dựng Luật của nước ta.
Xem xét tại điều 48 BLHS, có 14 tình tiết được coi là tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự, khơng có tình tiết sử dụng ma túy trước khi phạm tội, tại
khoản 2, khoản 3, khoản 4 Điều 136 BLHS cũng khơng có quy định nào liên quan
đến sử dụng ma túy trước khi phạm tội.
Do đó, tình tiết sử dụng ma túy trước khi phạm tội không bị coi là tình tiết
tăng nặng trách nhiệm hình sự của A và B.

11


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, tập I, chủ
biên: GS.TS Nguyễn Ngọc Hoà, Nxb. CAND, Hà Nội, 2009.
2. Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội, Giáo trình Luật Hình sự (phần chung),
chủ biên: PGS.TS Lê Cảm, Nxb. ĐHQG, Hà Nội, 2005.
[[ơ

3. Tìm hiểu tội phạm trong Bộ luật Hình sự năm 1999, Đinh Văn Quế, Nxb.
TPHCM, 2001.
4. Viện Khoa học pháp lí – Bộ Tư pháp, Bình luận Bộ luật Hình sự Việt Nam năm
1999, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2001.
5. Bộ luật Hình sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1999 (sửa đổi,

bổ sung năm 2009), Nxb. Lao động – Xã hội, Hà Nội, 2009.
Một số website:
www.phapluatvn.vn/
/>
12



×